Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Tài liệu Luận văn " MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN-AFTA " docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 133 trang )







TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG









KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP




ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU SẢN
XUẤT NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG QUÁ
TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO
ASEAN-AFTA





Sinh viên thực hiện: Cao Nam Hải
Lớp : Nga k38 E
Giáo viên hướng dẫn: Cô Vũ Thị Hiền





HÀ NỘI 12/2003


Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38


LỜI MỞ ĐẦU


Tính cấp thiết của đề tài:
Việt Nam trở thành viên chính thức của ASEAN từ ngày 28 tháng 7 năm
1995, và đã tham gia các chương trình hợp tác về kinh tế với các nước trong khối.
Trong những chương trình đó có việc tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA) với cam kết thực hiện đầy đủ việc cắt giảm thuế quan theo chương trình
CEPT/AFTA. Cam kết này đã mang tới cho Việt Nam cả cơ hội cũng như những
thách thức trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực ASEAN.
Trong nông nghiệp nói riêng, khi Việt Nam cam kết thực hiện các quy định
về nông nghiệp đã được ký kết của Hiệp hội, ngành nông nghiệp nước ta phải thực
hiện cạnh tranh theo quy chế mậu dịch tự do của ASEAN, CEPT/AFTA. Nói cách
khác, nông nghiệp Việt Nam đang đứng trước những thách thức mới: làm thế nào

để vừa mở cửa ra thị trường khu vực, vừa củng cố được thị trường trong nước;
khai thác tối đa thời cơ mới của hội nhập kinh tế khu vực, đồng thời có giải pháp
hạn chế và khắc phục những tác động tiêu cực của quá trình ấy. Điều này chỉ có
thể đạt được khi chúng ta tạo được những mặt hàng nông sản phù hợp với điều
kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của đất nước, với năng suất cao, chất lượng tốt, giá
bán hợp lý, có khả năng cạnh tranh cao so với các sản phẩm cùng loại của các
nước ASEAN khác. Giải pháp tối ưu hiện nay cho nền nông nghiệp nước ta là
phải có có những thay đổi trong việc lựa chọn cơ cấu sản xuất cho phù hợp với
nhu cầu của thị trường, đồng thời phát huy được tối đa lợi thế so sánh của nền
nông nghiệp nước nhà.
Đối với Việt Nam, đây là một nhiệm vụ khó vì: một mặt, xuất phát điểm
của nền nông nghiệp nước ta còn thấp, nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ trọng đáng
Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

kể trong GDP, và nhất là có ảnh hưởng lớn đến đại bộ phận dân cư. Mặt khác, khả
năng cạnh tranh và tận dụng, phát huy được những cơ hội do AFTA đem lại đòi
hỏi phải có những hiểu biết sâu sắc về phân tích ngành hàng, đa dạng hoá sản xuất
theo yêu cầu của thị trường, xúc tiến thương mại và giành cơ hội thâm nhập, mở
rộng thị trường. Do vậy, việc lựa chọn những bước đi phù hợp để điều chỉnh một
cách có cơ sở khoa học cơ cấu sản xuất nông nghiệp của đất nước là rất cần thiết
nhằm đảm bảo cho quá trình hội nhập vào AFTA thành công. Nắm bắt nhu cầu
thực tế bức xúc đó, Khoá luận: “Một số giải pháp điều chỉnh cơ cấu sản xuất
nông nghiệp của Việt Nam trong quá trình hội nhập khu vực mậu dịch tự do
ASEAN-AFTA” đã được lựa chọn nhằm đóng góp một phần vào việc đáp ứng nhu
cầu thực tiễn đang đặt ra hiện nay.

Mục đích nghiên cứu của Khoá luận là:
- Làm rõ khuôn khổ pháp lý và sự cần thiết phải điều chỉnh cơ cấu sản xuất

đối với các mặt hàng nông, lâm, thủy sản Việt Nam trong quá trình hội nhập
AFTA/ASEAN.
- Đánh giá cơ cấu sản xuất nông nghiệp Việt Nam hiện nay, trong đó tập
trung vào nghiên cứu sự tham gia vào quá trình hội nhập của một số mặt hàng
nông sản xuất khẩu chính như: gạo, chè, cao su, cà phê
- Đề xuất một số giải pháp về tổ chức và chính sách liên quan tới điều chỉnh
cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp Việt Nam trong những năm tới nhằm đảm bảo
cho việc hội nhập AFTA thành công.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu một số văn bản pháp luật của một số nước ASEAN liên quan
đến quá trình hội nhập vào AFTA của mặt hàng nông sản.
Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

- Đánh giá khả năng cạnh tranh của một số sản phẩm nông sản xuất khẩu
của Việt Nam.
- Nghiên cứu trên phạm vi cả nước và các vùng lãnh thổ.

Phương pháp nghiên cứu:
Khoá luận sử dụng phương pháp thống kê so sánh, dựa trên phân tích các số
liệu, phân tích thông tin và các tư liệu hiện có và phương pháp chuyên gia.

Bố cục Khoá luận: gồm 3 Chương:
Chương I: trình bày khái quát những đặc điểm và yêu cầu của khu vực mậu
dịch tự do ASEAN/AFTA, những cam kết của Việt Nam tham gia khu vực này, sự
cần thiết phải điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp của Việt Nam, đồng thời
trình bày kinh nghiệm của một số nước ASEAN về thực hiện điều chỉnh cơ cấu
sản xuất nông nghiệp khi tham gia AFTA, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm

cho Việt Nam.

Chương II: nêu khái quát tình hình phát triển nông nghiệp Việt Nam, phân
tích, đánh giá khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường xuất khẩu của một số
mặt hàng nông sản chính của Việt Nam thời gian qua (theo nhóm sản phẩm), đồng
thời phân tích cơ sở khoa học của việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp
Việt Nam trong quá trình hội nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN/AFTA, cũng
như phân tích thực trạng cơ cấu sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu hàng nông sản
của Việt Nam hơn một thập kỷ qua từ đó rút ra những nhận xét cần thiết về quá
trình điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp nước ta thời gian vừa qua.

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

Chương III: đề xuất một số kiến nghị về quan điểm, định hướng và giải
pháp chính sách nhằm tiếp tục hoàn thiện việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông
nghiệp nước ta trong những năm tới, góp phần giúp cho nền nông nghiệp Việt
Nam vững vàng hội nhập ASEAN/AFTA.
Đây là một vấn đề mới, lại đề cập tới một nội dung rộng gồm nhiều mặt
hàng, diễn biến thị trường rất mau lẹ, phức tạp và khó lường trong khi khả năng
điều tra thu thập số liệu còn gặp nhiều hạn chế trong khuôn khổ của một Khoá
luận tốt nghiệp, nên đề tài chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Do vậy, em rất mong
nhận được các ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn, để tiếp tục hoàn thiện vấn
đề nghiên cứu trong Khóa luận này.

Qua Khoá luận tốt nghiệp này, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và
chỉ bảo tận tình của cô giáo Vũ Thị Hiền - Giảng viên khoa Kinh tế ngoại thương
cùng tất cả các thày, cô giáo trường Đại học Ngoại thương Hà Nội đã trang bị cho
em những kiến thức quý báu giúp em hoàn thành Khoá luận tốt nghiệp này.


Hà Nội, ngày 10 tháng 12 năm 2003
Sinh viên thực hiện
Cao Nam Hải



Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38


MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI HÀNG NÔNG SẢN THEO
QUY ĐỊNH CỦA AFTA VÀ VẤN ĐỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU SẢN XUẤT NÔNG
NGHIỆP CỦA VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC MẬU
DỊCH TỰ DO ASEAN/AFTA
I. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và những quy định của AFTA về
thương mại các mặt hàng nông sản 1
1. Sự ra đời của ASEAN và
AFTA 1
2. Một số quy định chung của khu vực mậu dịch tự do ASEAN và
AFTA 2
3. Cam kết tham gia AFTA trong lĩnh vực nông nghiệp của Việt
Nam 5
II. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp và sự cần thiết phải điều chỉnh cơ cấu sản xuất

nông nghiệp của Việt Nam trong điều kiện hội nhập AFTA 8
1. Khái niệm cơ cấu kinh tế và điều chỉnh cơ cấu kinh
tế 8
2. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp và sự cần thiết điều phải chỉnh cơ cấu sản xuất
nông nghiệp ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập AFTA 9
3. Các nhân tố tác động đến điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp Việt
Nam 11
II. Kinh nghiệm điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp trong quá trình hội
nhập AFTA của một số nước Đông Nam
Á 13


Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

1. Điểm tương đồng giữa Việt Nam và các nước được phân
tích 13
2. Kinh nghiệm điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp của các nước Đông Nam
Á trong quá trình hội nhập AFTA 15
3. Một số vấn đề rút ra từ kinh nghiệm điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp của
một số nước Đông Nam Á 27

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
VÀ CƠ CẤU HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI
ĐOẠN VỪA QUA
I. Khái quát chung về ngành nông nghiệp Việt Nam trong giai đoạn vừa
qua 30
II. Thực trạng năng lực của hàng nông sản Việt Nam trong cạnh tranh với các
sản phẩm cùng loại của các nước ASEAN khác khi CEPT/AFTA hoàn

thành 32
1. Khả năng thâm nhập thị trường Việt Nam của các mặt hàng nông sản được sản
xuất tại các nước khác trong khối ASEAN 32
2. Khả năng thâm nhập thị trường các nước trong khối ASEAN của mặt hàng nông
sản Việt Nam 36
3. Đánh giá tổng hợp khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng nông sản chính của
Việt Nam trên thị trường
ASEAN 45
III. Thực trạng điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp Việt Nam trong giai
đoạn vừa qua 47
1. Thực trạng điều chỉnh cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp (theo nghĩa
rộng) 47
2. Thực trạng điều chỉnh cơ cấu xuất khẩu các mặt hàng nông sản 54
3. Một số chính sách liên quan đến điều chỉnh cơ cấu sản xuất và mở rộng xuất
khẩu mặt hàng nông sản ở Việt Nam trong thời gian
qua 55


Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

4. Một số nhận xét về việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam
giai đoạn vừa qua 62





CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP

TỤC HOÀN CHỈNH ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU SẢN XUẤT ĐỂ NÔNG NGHIỆP VIỆT
NAM VỮNG VÀNG HỘI NHẬP AFTA
I. Quan điểm và mục tiêu điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp 67
II. Định hướng điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp nước ta trong thời gian
tới cho phù hợp với quá trình hội nhập vào khu vực mậu dịch tự do
ASEAN/AFTA 72
1. Định hướng chung về công tác điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp nước ta
trong thời gian tới 72
2. Định hướng điều chỉnh cơ cấu sản xuất đối với từng nhóm sản phẩm nông sản
cụ thể trong thời gian
tới 73
3. Định hướng điều chỉnh cơ cấu sản xuất theo
vùng 77
III. Kiến nghị một số giải pháp, chính sách nhằm tiếp tục hoàn chỉnh điều chỉnh
cơ cấu sản xuất để ngành nông nghiệp Việt nam vững vàng hội nhập
AFTA 78
1. Thực hiện phù hợp một số chính sách nhằm đẩy nhanh quá trình điều chỉnh cơ
cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng hội
nhập 79
1.1. Chính sách đất đai 79
1.2. Chính sách thuế.
80


Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

1.3. Chính sách đầu tư, tín dụng 81
2. Tuyên truyền và phổ biến rộng rãi các cam kết và lịch trình thực hiện

CEPT/AFTA không chỉ trong đội ngũ cán bộ công chức, doanh nghiệp mà còn
tới tận người nông dân 82
3. Chuyển đổi cơ cấu sản xuất phải trên cơ sở quy hoạch hợp lý và đúng đắn 83
4. Tập trung sản xuất những mặt hàng Việt Nam có lợi thế so
sánh 84
5. Chuyển đổi cơ cấu sản xuất gắn liền với tổ chức thị trường và tổ chức lại sản
xuất 85
6. Chú trọng phát triển công nghiệp chế biến nông sản 86

7. Xây dựng mối liên kết "4 nhà" (nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và
Nhà nước) trong điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông
nghiệp 87
8. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình chuyển đổi cơ cấu
sản xuất nông nghiệp…………………………… … 91
9. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông
nghiệp đất
nước 95
10. Đẩy mạnh công tác đào tạo, tăng cường hệ thống khuyến nông, thú y, bảo vệ
thực vật ngang với trình độ trong khu vực tạo, điều kiện để thực hịên việc điều
chỉnh và hội nhập của nông nghiệp…… ………… 99

KẾT LUẬN

PHỤ LỤC 1
PHỤ LỤC 2
PHỤ LỤC 3
PHỤ LỤC 4
PHỤ LỤC 5



Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

PHU LỤC 6
PHU LỤC 7
PHU LỤC 8


Kho¸ luËn tèt nghiÖp 1
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI HÀNG NÔNG SẢN THEO
QUY ĐỊNH CỦA AFTA VÀ VẤN ĐỀ ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU SẢN
XUẤT NÔNG NGHIỆP CỦA VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI
NHẬP KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN/AFTA

I. KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN (AFTA) VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH
CỦA AFTA VỀ THƯƠNG MẠI CÁC MẶT HÀNG NÔNG SẢN
1. Sự ra đời của ASEAN và AFTA
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) là một tổ chức hợp tác
khu vực được thành lập ngày 08/08/1967 theo Tuyên bố Băng Cốc với năm
nước thành viên sáng lập gồm: Inđônêxia, Malaysia, Xingapo, Philippin và
Thái Lan. Năm 1984, ASEAN kết nạp thêm Brunei, sau đó kết nạp thêm 4
thành viên mới là Việt Nam (28/07/1995), Lào, Myanma (23/07/1997),
Campuchia (30/04/1999). Đến nay, tổng số thành viên ASEAN là 10 nước khu
vực Đông Nam Á.
Ngay sau khi thành lập, các nước ASEAN đã đưa ra nhiều kế hoạch hợp
tác kinh tế như: Thoả thuận thương mại ưu đãi, các dự án công nghiệp ASEAN;

kế hoạch hỗ trợ công nghiệp ASEAN và kế hoạch hỗ trợ sản xuất công nghiệp
cùng nhãn mác; liên doanh công nghiệp ASEAN. Tuy nhiên, kết quả thực hiện
các mục tiêu của kế hoạch hợp tác kinh tế này đã không được như mong đợi.
Trong khi đó, vào đầu những năm 90, chiến tranh lạnh kết thúc, Liên Xô và
các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, môi trường chính trị, kinh tế quốc
tế và khu vực đã có những thay đổi lớn. Trên thế giới xuất hiện các khối thương
mại khép kín như: EU, NAFTA làm cho vị thế của ASEAN trên trường quốc
tế bị hạ thấp, hàng hoá của ASEAN vấp phải trở ngại khi thâm nhập vào các thị
trường trên. Mặt khác, nếu vào những năm cuối của thập kỷ 80, ASEAN là địa
bàn đầu tư hấp dẫn nhất ở Châu Á, thì đến đầu những năm 90, với chính sách

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 2
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
mở cửa và ưu đãi rộng rãi dành cho các nhà đầu tư nước ngoài, cùng lợi thế so
sánh về tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực của nhiều nước đang phát
triển khác, ASEAN đã dần dần trở thành một thị trường đầu tư kém hấp dẫn.
Trước những yêu cầu, thách thức mới, tại Hội nghị Bộ trưởng kinh tế
ASEAN lần thứ 23 (tháng 10/1992), các nước ASEAN đã đi đến quyết định
thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) nhằm mục tiêu:
- Tăng cường trao đổi buôn bán trong nội bộ khối bằng việc loại bỏ
hàng rào thuế quan trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi thuế
quan;
- Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc đưa ra một
khối thị trường thống nhất;
- Giúp ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay
đổi, đặc biệt là việc phát triển các thoả thuận thương mại khu vực trên thế giới.
Như vậy, mục tiêu cơ bản của AFTA là tăng cường lợi thế cạnh tranh
trong khu vực thông qua việc thiết lập một thị trường thông thoáng, xoá bỏ
hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa các nước thành viên, tăng hiệu quả và
tính cạnh tranh lâu dài, đồng thời đem lại cho người tiêu dùng trong khu vực sự

lựa chọn rộng rãi đối với những sản phẩm, dịch vụ chất lượng cao và giá cả
ngày một thấp hơn.

2. Một số quy định chung của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-AFTA
Để đạt các mục tiêu nêu trên, nhất là mục tiêu tự do thương mại trong
khối, các nước đã tiến hành ký kết Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực
chung (CEPT). Đây là một thoả thuận nội bộ giữa các nước thành viên về lịch
trình cắt giảm thuế quan thương mại xuống còn tối đa là 5%, đồng thời trong
vòng từ 10 năm, từ 1993 đến 2003 phải loại bỏ tất cả các hạn chế khối lượng và
các hàng rào phi thuế quan để sau đó luồng hàng hoá được trao đổi tự do, thông
thoáng hơn giữa các nước thành viên. Trong Hiệp định CEPT các quy định của
AFTA đã được trình bày rất cụ thể, bao gồm:

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 3
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

2.1. Về thuế quan
Để thực hiện cắt giảm thuế quan có hiệu quả nhất, Hiệp định yêu cầu
mỗi nước phải phân loại tất cả hàng hoá của mình vào một danh mục định sẵn.
Việc hình thành các danh mục này là nhằm để giúp các nước có sự chuẩn bị
trước khi hội nhập vào AFTA một cách có lợi nhất. Đây đồng thời cũng là lịch
trình cam kết của các nước trong việc cắt giảm thuế quan và xoá bỏ các hàng
rào bảo hộ. Xuất phát từ định hướng đó, CEPT đã đưa ra lộ trình cắt giảm thuế
quan theo 4 danh mục hàng hoá:
 Danh mục cắt giảm ngay (Inclusion List-IL)
IL bao gồm những mặt hàng sẽ phải cắt giảm thuế quan ngay lập tức,
đồng thời xoá bỏ hạn chế về số lượng và các hàng rào phi thuế quan khác. Mức
thuế cho những sản phẩm này giảm tới mức tối đa 20% vào năm 1998 và còn
0-5% vào năm 2001. Những nước thành viên mới sẽ được hưởng ân hạn thực
hiện nghĩa vụ cắt giảm này, cụ thể: Việt Nam đến năm 2006, Lào và Myanma

đến 2008, Campuchia đến năm 2010. (Đến năm 2000 đã có 82,7% số dòng thuế
của ASEAN được đưa vào danh mục này).
 Danh mục Loại trừ tạm thời (Temporary Exclusion List-TEL)
TEL bao gồm những mặt hàng chưa đưa vào giảm thuế quan ngay do các
nước thành viên ASEAN phải dành thêm thời gian để điều chỉnh sản xuất trong
nước cho thích nghi với môi trường cạnh tranh quốc tế đang gia tăng (có nghĩa
là kéo dài thêm việc bảo hộ trong một thời gian ngắn). Sau 3 năm kể từ khi
tham gia chương trình CEPT (bắt đầu từ 01/01/1996), các nước ASEAN phải
bắt đầu chuyển dần các mặt hàng từ TEL sang IL. Quá trình chuyển từ TEL
sang IL được phép kéo dài trong 5 năm và mỗi năm phải chuyển được 20% số
mặt hàng (đến năm 2000 còn 15,04% số dòng thuế của ASEAN trong danh
mục này).
 Danh mục Loại trừ hoàn toàn (General Exceptions List-GEL)

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 4
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
GEL bao gồm những mặt hàng không có nghĩa vụ phải giảm thuế quan.
Các nước ASEAN có quyền đưa ra danh mục các mặt hàng này trên cơ sở
nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, bảo vệ sức khoẻ của con người,
động vật, thực vật; bảo tồn các giá trị văn hoá, lịch sử, khảo cổ (Đến năm
2000 trong danh mục này còn 909 dòng thuế quan chiếm 1,61% tổng số dòng
thuế của ASEAN).
 Danh mục Nhạy cảm (Sentitive List-SL)
SL bao gồm những mặt hàng nông sản chưa chế biến mà việc cắt giảm
thuế quan đối với những mặt hàng này có thể gây tác động lớn đến sản xuất và
đời sống trong nước.
Các mặt hàng trong SL được dành một khung thời gian dài hơn trong
việc cắt giảm thuế xuống 0-5%. Việc xoá bỏ hạn chế số lượng và hàng rào phi
thuế quan khác được kéo dài đến năm 2010. Đối với những nước thành viên
mới, thời gian ân hạn được kéo dài hơn, cụ thể: Việt Nam đến năm 2013, Lào

và Myanma đến 2015, Campuchia đến 2017 (đến năm 2000 còn 0,58% số dòng
thuế của ASEAN trong danh mục này). Điều này chứng tỏ phần lớn các mặt
hàng nông sản chưa chế biến đã được các nước ASEAN đưa ngay vào Danh
mục Giảm thuế (IL) hoặc Danh mục Loại trừ tạm thời (TEL), chỉ một số ít mặt
hàng nông sản chưa chế biến có tầm quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân
được các nước ASEAN đưa vào Danh mục Nhạy cảm (SL).
Mức thuế suất thực hiện CEPT/AFTA chỉ được duy trì tối đa trong 3
năm liên tiếp, sau đó sẽ được cắt giảm để đạt mục tiêu giảm thuế 0-5% vào
năm 2006. Mỗi bước giảm thuế không thấp hơn 5%.

2.2. Cơ chế trao đổi nhượng bộ của CEPT
Theo quy định này, một sản phẩm muốn được hưởng nhượng bộ về thuế
quan khi xuất khẩu trong khối thì cần phải thoả mãn đồng thời 3 điều kiện sau:
- Phải thuộc Danh mục cắt giảm thuế của cả nước xuất khẩu và nước
nhập khẩu; phải có mức thuế quan (nhập khẩu) bằng hoặc thấp hơn 20%.

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 5
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
- Phải có chương trình cắt giảm thuế được Hội đồng AFTA thông qua.
- Phải là một sản phẩm của khối ASEAN, tức là phải thoả mãn yêu cầu
hàm lượng xuất xứ từ các nước thành viên ASEAN (hàm lượng nội địa) ít nhất
là 40%.
CÔNG THỨC: 40% HÀM LƯỢNG ASEAN = (A+B)/GIÁ FOB X 100%  60%
Trong đó: A: là giá trị nguyên vật liệu, bộ phận, các sản phẩm là đầu vào
nhập khẩu từ các nước không phải là thành viên ASEAN (theo giá CIF tại thời
điểm nhập khẩu).
B: là giá trị nguyên vật liệu, bộ phận, các sản phẩm là đầu vào
không xác định được xuất xứ (theo giá xác định ban đầu trước khi đưa vào chế
biến trên lãnh thổ của nước xuất khẩu là thành viên của ASEAN).


2.3. Loại bỏ các hạn chế về số lượng (QRs) và các hàng rào phi thuế
quan khác
Các hạn chế về số lượng sẽ phải loại bỏ ngay khi sản phẩm đưa vào cắt
giảm và được hưởng các ưu đãi của CEPT, hàng rào phi thuế quan khác sẽ
được xoá bỏ dần trong vòng 5 năm khi sản phẩm được hưởng ưu đãi.

2.4. Tiến hành hợp tác trong lĩnh vực hải quan
Xây dựng một Danh mục thuế quan chung thống nhất trong khối
ASEAN, thống nhất hệ thống tính giá hải quan theo Hiệp định Trị giá hải quan
của GATT-WTO, xây dựng hệ thống luồng hải quan xanh và thống nhất thủ tục
hải quan để sản phẩm lưu thông thông suốt.

2.5. Cung cấp các thông tin về cơ chế thương mại theo yêu cầu của các
nước (hay yêu cầu về minh bạch chính sách).

3. Cam kết của Việt Nam tham gia AFTA trong lĩnh vực nông nghiệp
3.1. Những cam kết chung

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 6
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Với mục tiêu nhanh chóng hội nhập thành công vào AFTA, trong thời
gian qua, Việt Nam đã tiến hành những bước đi tích cực trong việc thực hiện
các Quy định của Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực
chung (CEPT). Tháng 12/1995 tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN ở Băngcốc
(Thái Lan), Việt Nam đã đệ trình Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL) gồm 165
mặt hàng, Danh mục loại trừ tạm thời (TEL): 1189 mặt hàng, Danh mục nhạy
cảm (SL): 26 mặt hàng, Danh mục cắt giảm ngay (IL): 1633 mặt hàng.
Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện những cam kết đối với AFTA, đồng
thời tăng dần thực hiện danh mục IL. Năm 1996, Việt Nam đã xếp 857 mặt
hàng vào danh mục này, đến năm 1997 là 640 mặt hàng và đến năm 1998 là

1716 mặt hàng với mức thuế suất bình quân 6,1% (so với mức thuế suất nhập
khẩu bình quân của mặt hàng không thuộc CEPT là 7,2%). Năm 1999 Việt
Nam đã đưa vào danh mục IL thực hiện CEPT là 3582 mặt hàng (chiếm 41,3%
tổng số mặt hàng đánh thuế của Việt Nam).
Trong danh mục IL, bắt đầu từ 01/01/2001 mức thuế suất của những mặt
hàng chịu thuế suất trên 20% sẽ được giảm xuống 20% và sẽ đạt 0-5% từ
01/01/2006. Mức thuế suất của những mặt hàng chịu thuế suất dưới 20% sẽ
được giảm xuống còn 0-5% từ năm 2003.
Trong danh mục TEL có hầu hết các mặt hàng hiện đang được sản xuất
tại Việt Nam. Những mặt hàng này sẽ được chuyển vào danh mục IL trong 5
thời điểm cách đều nhau từ 1999-2003 với thuế suất giảm xuống còn 0-5% vào
2006.
Các mặt hàng thuộc danh mục SL sẽ được giảm thuế suất xuống còn 0-
5% vào năm 2013.
Các mặt hàng thuộc danh mục GEL do Việt Nam đệ trình tại Hội nghị
thượng đỉnh ASEAN năm 1995 là nhiều nhất so với các nước ASEAN khác
(165 sản phẩm, chiếm 5,5% tổng số các dòng thuế, trong khi đó các nước khác
chỉ có khoảng 3- 3,3% số dòng thuế thuộc danh mục này). Những mặt hàng này
chiếm tới 41% số lượng hàng nhập khẩu của Việt Nam từ ASEAN (năm 1996),

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 7
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
trong đó nhiều mặt hàng được bảo hộ với mục đích tăng thu Ngân sách thông
qua thuế nhập khẩu (như nhiên liệu, thu phát truyền thanh, truyền hình, xe dưới
16 chỗ, hàng tiêu dùng đã qua sử dụng ). Điều này có nghĩa là Việt Nam đang
bảo hộ cho khoảng 41% mậu dịch với ASEAN khỏi sự điều chỉnh của AFTA.

3.2. Cam kết trong lĩnh vực nông nghiệp
Bảng 1: Lịch trình giảm thuế theo CEPT/AFTA của Việt Nam đối với các
sản phẩm nông, lâm nghiệp chính

Ngành hàng 1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

Gạo
20% 20% 20% 20% 15% 10% 5%
Cà phê:
Sơ chế
Thành phẩm

15%
35%

10%
25%

10%
20%


10%
15%

5%
15%


10%


10%


5%
Chè:
Sơ chế
Thành phẩm

15%
40%

15%
30%

10%
20%

10%
15%


5%
15%


10%


10%


5%
Cao su
3% 3% 3% 3% 3% 3% 3%
Rau quả:
Rau, củ
Quả

20%
20%

15%
20%

15%
20%

10%
15%


5%
15%


15%


10%


5%
Hạt điều
20% 15% 15% 15% 10% 10% 10% 5%
Cây có dầu
10% 10% 10% 10% 10% 5%
Đường
35% 40%
Gỗ
5% 5% 5% 5% 5% 5% 5% 5%
Thịt lợn
15% 15% 15% 15% 15% 10% 10% 5%
Nguồn: Nghị định 78/2003CP(ngày 01/07/2003) - Công báo(Ngày 22/07/2003)
Tính đến 31/12/2000, tổng số các mặt hàng nông sản có trong danh mục
Biểu thuế ưu đãi hiện hành của Việt Nam là 840 dòng thuế, trong đó: có 51

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 8
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
dòng thuế thuộc Danh mục SL, 17 dòng thuộc Danh mục GEL, 569 dòng thuế
đã đưa vào thực hiện cắt giảm IL và 203 dòng thuế thuộc Danh mục TEL.
Như vậy, có thể thấy phần lớn các mặt hàng nông sản của ta đã được đưa

vào thực hiện cắt giảm. Đó chủ yếu là những mặt hàng mà ta có thế mạnh xuất
khẩu như: thuỷ hải sản tươi sống, cà phê, chè, hạt tiêu, hạt điều, rau quả tươi,
Những mặt hàng hiện chưa được đưa vào Danh mục cắt giảm ngay, chủ yếu là
nông sản chế biến mà ta chưa có khả năng cạnh tranh. Việc đưa những mặt
hàng này vào Danh mục TEL để chuyển vào cắt giảm ở những năm cuối (2001-
2003) và Danh mục SL (2004-2006) là nhằm mục đích giúp các ngành sản xuất
trong nước có thời gian để chuẩn bị, nâng cấp đầu tư sản xuất và cạnh tranh với
hàng hoá ASEAN nhập khẩu khi thị trường được mở cửa hoàn toàn vào năm
2006.

II. CƠ CẤU SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐIỀU
CHỈNH CƠ CẤU SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG
ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP AFTA
1. Khái niệm cơ cấu kinh tế và điều chỉnh cơ cấu kinh tế
1.1.Cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế là một khái niệm thường được các nhà kinh tế sử dụng
và được hiểu là một tổng thể hệ thống kinh tế gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt
chẽ với nhau, có quan hệ tương tác với nhau trong một không gian, thời gian
nhất định, trong điều kiện kinh tế, xã hội nhất định và được thể hiện cả ở mặt
định tính lẫn định lượng, cả về số lượng và chất lượng.
Khi nghiên cứu về cơ cấu kinh tế và thực hiện các giải pháp nhằm điều
chỉnh cơ cấu kinh tế, người ta thường xét tới cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và cơ
cấu thành phần kinh tế. Ba bộ phận cơ bản hợp thành của cơ cấu kinh tế này có
quan hệ chặt chẽ với nhau. Cơ cấu ngành và cơ cấu thành phần chỉ có thể
chuyển dịch đúng đắn trên phạm vi không gian lãnh thổ cả nước. Đồng thời,

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 9
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
việc phân bố sản xuất theo không gian lãnh thổ một cách hợp lý có ý nghĩa
quan trọng thúc đẩy phát triển các ngành và thành phần kinh tế trên lãnh thổ.


1.2. Điều chỉnh cơ cấu kinh tế
Trong quá trình phát triển, cơ cấu kinh tế luôn thay đổi tuỳ theo từng
thời kỳ do tính không cố định của các yếu tố hợp thành. Đó là sự thay đổi về số
lượng của các ngành hoặc sự thay đổi về quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các
vùng do tốc độ tăng trưởng không đều của các yếu tố cấu thành trong cơ cấu
kinh tế. Cơ cấu kinh tế thay đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù
hợp với môi trường phát triển tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế này không chỉ đơn thuần là chuyển dịch về vị trí mà còn là
sự thay đổi về lượng và chất của cơ cấu kinh tế. Nội dung của chuyển dịch cơ
cấu kinh tế là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu để hình thành một cơ cấu tiên tiến, hoàn
thiện, phù hợp hơn với những thay đổi của điều kiện kinh tế, xã hội đất nước
(tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng của ngành nông
nghiệp trong GDP cả nước…). Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá
trình liên tục và về thực chất đó là sự điều chỉnh cơ cấu thể hiện ở cả ba nội
dung là cơ cấu ngành (nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ), cơ cấu thành phần
và cơ cấu vùng lãnh thổ.

2. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp và sự cần thiết phải điều chỉnh cơ cấu
sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập AFTA
2.1. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp
Khu vực nông nghiệp và nông thôn đóng vai trò quan trọng trong sự
nghiệp phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt đối với các nước đang phát triển do
nông nghiệp có đóng góp lớn vào giá trị GDP của toàn bộ nền kinh tế, vào
nguồn thu ngoại tệ của đất nước và vào giải quyết việc làm cho lực lượng lao
động xã hội.

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 10
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Vì vậy, việc xây dựng một cơ cấu kinh tế nông nghiệp phù hợp với đặc

điểm, điều kiện kinh tế xã hội của đất nước trong bối cảnh mở cửa và hội nhập
vào AFTA không những là mục tiêu mà còn là yêu cầu bức bách đối với một
nước đang phát triển như Việt Nam.
Sản xuất nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm cả nông nghiệp, lâm
nghiệp và ngư nghiệp. Vì vậy, cơ cấu sản xuất nông nghiệp bao gồm cả cơ cấu
sản xuất theo ngành (nông - lâm - ngư nghiệp) và nội bộ ngành (trồng trọt và
chăn nuôi đối với ngành nông nghiệp, nuôi trồng và khai thác đối với ngành
lâm, ngư nghiệp); cơ cấu vùng chuyên môn hoá theo lãnh thổ ở khu vực nông
thôn. Trong quá trình vận động và phát triển, cơ cấu sản xuất nông nghiệp luôn
được điều chỉnh cho phù hợp với các yêu cầu mới của điều kiện kinh tế xã hội,
khoa học, kỹ thuật, công nghệ và môi trường đất nước.

2.2. Sự cần thiết phải điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp của Việt
Nam trong quá trình hội nhập vào AFTA
Trong nền kinh tế thị trường, người sản xuất nông nghiệp luôn phải
hướng ra thị trường, phải xuất phát từ quan hệ cung - cầu hàng hoá trên thị
trường để định hướng chiến lược và chính sách sản xuất kinh doanh của mình.
Sự hình thành và biến đổi nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của người sản xuất
nông nghiệp để thích ứng với các điều kiện mới của thị trường dẫn tới từng
bước hình thành và chuyển dịch cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp của đất
nước. Như vậy, việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp trong quá trình
Việt Nam mở cửa hội nhập AFTA là một tất yếu khách quan.
Nền nông nghiệp nước ta trong giai đoạn vừa qua tuy đã có nhiều biến
chuyển tích cực theo hướng sản xuất hàng hoá, tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp
Việt Nam vẫn mang nặng tính tự phát, chưa theo quy hoạch và định hướng
thống nhất. Chính thực tế này đã tạo những nghịch lý đáng buồn: khi được mùa
thì giá nông sản xuống thấp, ngược lại khi mất mùa thì giá nông sản lên cao,
gây thiệt hại lớn cho bà con nông dân. Mặt khác, khi giá một loại nông sản trên

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 11

Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
thị trường xuất khẩu lên cao, các hộ nông dân ồ ạt chặt các cây trồng truyền
thống, trồng các loại cây mới một cách tự phát, thiếu quy hoạch, thiếu phương
phương pháp khoa học. Thực tế này dẫn tới chất lượng sản phẩm làm ra không
đạt yêu cầu, giá xuất khẩu giảm mạnh hoặc không có người mua, người nông
dân không biết làm gì với sản phẩm mình làm ra. Hệ quả tất yếu là người nông
dân một lần nữa lại chặt bỏ loại cây mới trồng, gây nên những thiệt hại lớn về
kinh tế, tạo ra bất ổn về chính trị, xã hội. Hơn thế nữa, sau khi Việt Nam cam
kết thực hiện quy định của AFTA về tự do thương mại hàng nông sản, hàng
hoá nông phẩm của nước ta lại phải đối mặt với những thách thức mới. Các
nước ASEAN do có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, khí hậu gần giống với Việt
Nam với các loại nông phẩm xuất khẩu gần giống Việt Nam, nên khi
CEPT/AFTA hoàn thành vào năm 2010 sẽ trở thành các đối thủ cạnh tranh thực
sự của nông sản Việt Nam. Để có khả năng cạnh tranh, nền nông nghiệp nước
ta phải tập trung sản xuất một số loại sản phẩm chủ lực, độc đáo, phù hợp với
điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội đất nước với chất lượng tốt, giá thành hợp lý
đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Điều này chỉ có
thể có được khi nền nông nghiệp được điều chỉnh một cách hợp lý phù hợp với
quá trình tự do hoá kinh tế theo xu hướng hội nhập. Chính vì vậy, việc điều
chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam là một tất yếu khách quan trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mà AFTA là bước đi đầu tiên.
Vấn đề này cũng đã được khẳng định trong Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc IX “chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất
hàng hoá lớn, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh
của hàng nông sản trên thị trường”, và trong Nghị quyết 09/2000/NQ - CP ngày
15/06/2000 của Chính phủ về một số chủ trương, chính sách chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp: “Việc lựa chọn cơ cấu, quy mô
và chủng loại sản phẩm các ngành hàng sản xuất nông nghiệp phải khai thác lợi
thế của cả nước và từng vùng, bám sát nhu cầu trong nước và thế giới, phải có
khả năng tiêu thụ được hàng hoá, có hiệu quả cao về kinh tế, xã hội, sinh thái.”


Kho¸ luËn tèt nghiÖp 12
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38

3. Các nhân tố tác động đến điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp của
Việt Nam
Trong nền kinh tế thị trường mở theo hướng hội nhập AFTA hiện nay,
cơ cấu sản xuất nông nghiệp Việt Nam được hình thành dưới tác động của hàng
loạt các nhân tố chủ quan và khách quan, trong đó trước hết phải kể đến là:
- Sự phát triển của các loại thị trường trong nước và quốc tế, nhất là thị
trường hàng nông sản có tác động trực tiếp đến hình thành và chuyển dịch cơ
cấu sản xuất nông nghiệp, do thị trường là yếu tố hướng dẫn và điều tiết các
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và của người nông dân.
- Các nguồn lực được phân bổ và sử dụng vào sản xuất nông nghiệp, việc
phát huy lợi thế so sánh của đất nước là cơ sở để hình thành và chuyển dịch cơ
cấu sản xuất nông nghiệp một cách có hiệu quả và bền vững nhất. Dựa trên cơ
sở xác định lợi thế so sánh và các nguồn lực được phân bổ vào sản xuất để xác
định và chuyển hướng mạnh mẽ sang phát triển các ngành có lợi thế và điều
kiện phát triển, tạo đà cho hội nhập và tham gia vào quá trình phân công lao
động quốc tế.
- Sự phát triển và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất.
Tiến bộ khoa học công nghệ cùng với các lợi thế so sánh khác trong điều kiện
mở cửa và hội nhập có thể cho phép sản xuất ra sản phẩm chất lượng cao, giá
thành hạ có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường. Từ đó dẫn đến kết quả là làm
chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng xuất khẩu. Tuy nhiên, ở nước ta, vai
trò của khoa học công nghệ trong chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp còn
phụ thuộc vào các yếu tố như chính sách khoa học công nghệ của nhà nước,
thực trạng trang bị công nghệ của các ngành và khả năng đầu tư để đổi mới kỹ
thuật công nghệ.
- Môi trường thể chế là yếu tố cơ sở cho quá trình xác định và điều chỉnh

cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu sản xuất nông nghiệp nói riêng. Đường lối
đối ngoại rộng mở, rõ ràng, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế mà

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 13
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
nước ta đang thực hiện rõ ràng có tác động quan trọng tới chuyển dịch cơ cấu
sản xuất. Nhà nước xây dựng và quyết định chiến lược, kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội cụ thể của đất nước
mà về thực chất, đó là các định hướng phát triển, định hướng phân bổ nguồn
lực và đầu tư theo ngành, vùng và lãnh thổ. Nhà nước thông qua hệ thống chính
sách, luật pháp để khuyến khích hay hạn chế đối với các hoạt động sản xuất
kinh doanh theo định hướng được xác định. Như vậy, sự đồng bộ và tính ổn
định của môi trường thể chế có ý nghĩa quan trọng trong chuyển đổi cơ cấu
ngành, cơ cấu thành phần kinh tế và cơ cấu lãnh thổ.

IV. KINH NGHIỆM ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO
ASEAN (AFTA) CỦA MỘT SỐ NƯỚC ĐÔNG NAM Á
1. Điểm tương đồng giữa Việt Nam và các nước được phân tích
Trong số 10 nước thành viên ASEAN, có 4 nước nông nghiệp phát triển
khá là Thái Lan, Malaysia, Inđônêxia và Philippin. Do vậy, đề tài này sẽ tập
trung khái quát những kinh nghiệm của họ trong việc điều chỉnh cơ cấu sản
xuất nông nghiệp trong quá trình hội nhập AFTA để tham khảo cho trường hợp
Việt Nam, bởi mấy lý do sau:
- Thứ nhất, nền nông nghiệp những nước này vẫn còn đóng vai trò quan
trọng trong nền kinh tế đất nước và 5 nước (bao gồm cả Việt Nam) cùng đang
chiếm thị phần khá lớn trên thị trường nông sản thế giới (chiếm tới 45% tổng
lượng gạo xuất khẩu của thế giới, 80% lượng cao su xuất khẩu, chiếm thị phần
lớn trong trong xuất khẩu cà phê và dầu ăn )
- Thứ hai, cả 5 nước ASEAN này đều có những điều kiện tự nhiên giống

nhau, nên những mặt hàng mà các nước này là khách hàng của Việt Nam thì ít,
những mặt hàng mà các nước đó là đối thủ cạnh tranh trong xuất khẩu với nước
ta (gạo, cà phê, cao su, thuỷ sản, hạt tiêu…) thì nhiều.

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 14
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Tuy nhiên nếu căn cứ vào tỷ trọng của nông nghiệp, thì vai trò của nông
nghiệp trong nền kinh tế của mỗi nước có khác nhau, cụ thể:
Trong số các nước kể trên, nông nghiệp Việt Nam có vai trò quan trọng
hơn cả đối với nền kinh tế đất nước bởi tỷ lệ lao động nông nghiệp và cơ cấu
GDP nông nghiệp cao nhất. Tiếp sau Việt Nam là Thái Lan và cuối cùng là
Malaysia. Malaysia đạt trình độ công nghiệp hoá cao nhất, thể hiện ở chỉ tiêu
GDP/người lớn nhất, còn các chỉ tiêu về tỷ lệ lao động, cơ cấu nông nghiệp
trong GDP thì thấp nhất.
Bảng 2: Vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế 4 nước ASEAN và
Việt Nam (năm 2001)
Nước GDP/ngư
ời
(USD)
%Lao động
nông nghiệp

%GDP
nông nghiệp

%tăng GDP
nông nghiệp

Malaysia
3.678,8 18,4 8 1.9

Thái Lan
1874 48,8 10 3.6
Philippin
927,6 37,4 15 1.9
Inđônêxia
680,2 45,3 16 2.8
Việt Nam
427,8 76,8 23,6 4.2
Nguồn: Tư liệu kinh tế các nước thành viên ASEAN, NXB Thống k
ê,
HN 2002, tr. 12, 62
Trong khi đó, tại Việt Nam mức độ đóng góp của nông nghiệp vào GDP,
tỷ lệ lao động nông nghiệp trong lực lượng lao động xã hội vẫn rất lớn. Tại Việt
Nam và Thái Lan còn tương ứng 69% và 50% lực lượng lao động tìm kiếm
việc làm trong lĩnh vực nông nghiệp (ở Malaysia, chỉ có 16% lực lượng lao
động được thu hút vào sản xuất nông nghiệp). Ngành nông nghiệp của 2 nước
Philippin và Inđônêxia cũng là khu vực giải quyết việc làm cho trên 40% lực
lượng lao động xã hội.

Bảng 3: Sản lượng một số sản phẩm nông nghiệp chủ lực của 4 nước
ASEAN và Việt Nam năm 2001 (Đơn vị:1000tấn)

Kho¸ luËn tèt nghiÖp 15
Cao Nam H¶i - Líp Nga - K38
Inđônêxia

Malaysia Philippin Thái Lan Việt Nam
Lúa 50.096 2.215 12.954,9 25.200 31.970,2
Mía 23.500 1.600 28.237,9 49.070 14.325,4
Ngô 9.090 67 4.525 4.673 2.122,9

Cao su 1.650 700 73 2.380 300,7
Cà phê 376,8 12,5 129,8 90 843,9
Nguồn: Tư liệu thống kê KT – XH các nước thnàh viên ASEAN, NXB Thống
kê, HN 2002, tr. 294, 312, 352, 339, 401.
Do điều kiện tự nhiên, thời tiết khí hậu tương đối giống nhau nên một số
mặt hàng nông sản có ý nghĩa quan trọng trong nông nghiệp nước này cũng là
sản phẩm chủ yếu của nước kia. Chẳng hạn, gạo không chỉ là mặt hàng quan
trọng trong nông nghiệp Việt Nam mà còn đối với Thái Lan, Inđônêxia; dầu cọ
đối với Inđônêsia và Thái Lan .v.v.

2. Kinh nghiệm điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp của các nước
ASEAN trong quá trình hội nhập AFTA
2.1. Tập trung sản xuất những nông phẩm có lợi thế cạnh tranh
Trong thương mại quốc tế, các nước đều cố gắng phát huy lợi thế so sánh
của mình để sản xuất những mặt hàng nông sản có chất lượng cao, giá thành
thấp, đủ sức cạnh tranh trên trị trường quốc tế. Sản xuất nông nghiệp của các
nước ASEAN trong điều kiện mở cửa và hội nhập AFTA cũng được điều chỉnh
theo quy luật đó.
+ Thái Lan: chuyển đổi sản xuất nông nghiệp theo hướng đa dạng hoá
sản phẩm để giảm bớt rủi ro về thị trường xuất khẩu và ổn định tiêu dùng trong
nước. Chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp của Thái Lan đã phản ánh rõ nét
định hướng phát triển thương mại đa dạng hoá sản phẩm, phát huy lợi thế so
sánh. So với năm 1990, cơ cấu sản phẩm nông nghiệp Thái Lan hiện nay đã có
sự thay đổi đáng kể: số lượng các sản phẩm chăn nuôi, cao su, cây ăn quả tăng
nhanh đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị trường trong và ngoài nước,

×