Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tài liệu Nhiệm vụ của thương hiệu là cần xây dựng niềm tin ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.41 KB, 7 trang )

Nhiệm vụ của thương
hiệu là cần xây dựng
niềm tin
Các thương hiệu đang trong quá
trình cạnh tranh gay gắt với nhau để giành lấy sự chú ý của người tiêu dùng,
đặc biệt là sự tin tưởng của họ.Thế nhưng chính thương hiệu và kiến trúc
thương hiệu lại nên từ bỏ cuộc cạnh tranh này. Lòng tin của khách hàng
không phải là phần thưởng cho kẻ chiến thắng, mà đó là kết quả của một quá
trình xây dựng lời hứa thương hiệu với các bên liên quan, đồng thời là sự
thích ứng của nhãn hiệu đối với thị trường.
“Ngày nay, thương hiệu là một phần không thể thiếu trong thị trường”, phát
biểu này trong bài báo của Vincent Grimaldi’s 2003 gây cho tôi nhiều suy
nghĩ, cả đồng ý lẫn không đồng ý. Tôi cho rằng, phát biểu này sẽ là điểm
gây tranh cãi nhiều nhất trong lịch sử.
Sự phát triển lâu dài của toàn cầu hoá là một minh chứng cho sự tồn tại mối
quan hệ giữa khách hàng với một diện mạo thương hiệu đã được qua quá
trình trải nghiệm và kiểm chứng tâm lý.
Các thương hiệu đang trong quá trình cạnh tranh gay gắt với nhau để giành
lấy sự chú ý của người tiêu dùng, đặc biệt là sự tin tưởng của họ. Còn tôi thì
cho rằng chính thương hiệu và kiến trúc thương hiệu nên từ bỏ cuộc cạnh
tranh này.
Lòng tin của khách hàng không phải là phần thưởng cho kẻ chiến thắng, mà
đó là kết quả của một quá trình xây dựng lời hứa thương hiệu với các bên
liên quan, đồng thời là sự thích ứng của nhãn hiệu đối với thị trường.
Xây dựng niềm tin của khách hàng
Ngày nay, khách hàng dễ bị tấn công dồn dập bởi một lượng thông tin khổng
lồ trước/ngay khi/sau khi mua hàng. Thông điệp thương hiệu cũng nằm
trong mớ thông tin đó, và xin lưu ý rằng, cho dù khách hàng có nhận ra được
thông điệp thì, đó cũng là nguồn thông tin ít được họ tin tưởng nhất.
Một cuộc nghiên cứu của Hội thảo Thương Mại Thế Giới (WEF) thực hiện
vào tháng 12 năm 2005 cho thấy, niềm tin của khách hàng dành cho các


công ty toàn cầu đang sụt giảm nghiêm trọng.
Cho dù vẫn có những cố gắng cải thiện sau vụ Enron, nhưng lòng tin hiện
nay được xem như là một tài sản quý giá cần được gìn giữ để tránh khỏi sự
suy sụp. Một cuộc nghiên cứu tương tự cũng cho thấy rằng các nguồn thông
tin từ các đối thủ nhỏ có độ tin cậy cao hơn là các công ty lớn.
Trong 4 năm liền, độ tin cậy của các tổ chức phi chính phủ (NGOs)
được đánh giá là cao nhất.
Vậy lòng tin là gì mà lại được đánh giá cao như vậy? Đối với doanh nghiệp,
nó đại diện cho sức mạnh cạnh tranh, hầu như không thể bắt chước, rất dễ
đánh mất và còn rất khó khăn khi muốn gây dựng lại.
Vậy cuộc nghiên cứu của WEF có ý nghĩa gì đối với kiến trúc thương hiệu?
Điều đầu tiên và cũng là chua chát nhất, đó là kiến trúc thương hiệu vẫn
chưa đi đến chỗ khó khăn nhất: Khách hàng dường như không dễ bị “dẫn
dụ” bằng thông điệp của nhà sản xuất.
Thứ hai, nếu kinh doanh là quá trình học hỏi từ những doanh nghiệp “được
tin tưởng nhiều hơn” thì các doanh nghiệp cần phải có nhiều mục tiêu xã hội
hơn trong suốt quá trình hoạt động của họ. Tôi không nói về một khái niệm
thiển cận trong “tiếp thị nhân-quả”, tôi đang nói về trách nhiệm và sự cần
thiết phải thay đổi của các doanh nghiệp.
Trách nhiệm của doanh nghiệp
Chắc cũng không cần phải lưu ý độc giả rằng, các bên liên quan (khách
hàng, cổ đông, nhân viên ) tin tưởng vào công ty thông qua những cố gắng
xây dựng của công ty dành cho cộng đồng mà họ nhìn thấy được. Khái niệm
này không quá xa lạ đối với Aristotle từ thời cổ đại.
Thực vậy, ngày nay các doanh nghiệp cũng đã nhận thức được mối quan hệ
này và họ bắt đầu thay đổi hình ảnh thương hiệu của họ sao cho phù hợp với
mong đợi của khách hàng. Cho dù vậy, tôi cho rằng một doanh nghiệp muốn
xây dựng một niềm tin tương đối thì cần phải đặt mình vào tình huống họ
phải sữa chữa lỗi lầm như thế nào nếu họ không thực hiện đúng lời hứa.
Khi nói về viễn cảnh của thương hiệu, để ước đoán trách nhiệm của doanh

nghiệp một cách tốt nhất thì không cần một tầm nhìn quá rộng ra ngoài
đường phố! Bạn tin tưởng vào ai để giao một việc quan trọng?
Có phải là một người đeo kính mát, mũ trùm đầu, nghe iPod, hay một người
có cái đầu rỗng tuếch? Tôi biết cần phải chọn một người như thế nào: đó là
một người có các giác quan nhạy cảm nhất.
Tóm lại, đó phải là một thương hiệu không chỉ phản chiếu khách hàng, mà
tốt nhất nó cần phải trong suốt và dễ lĩnh hội, nhằm làm điểm tựa tốt nhất
khi bắt đầu cuộc chơi xây dựng lòng tin.
Trong suốt là như thế nào?
“Xoay” là một từ để mô tả nhận thức của người tiêu dùng thế kỷ 21. Họ là
những người trải nghiệm thương hiệu chuyên nghiệp, luôn tìm kiếm những
điểm ít liên quan trong mớ thông tin mà họ nhận được, và thông tin đó là
hiện thân của thương hiệu.
Tìm ra điểm khác biệt giữa hai bức tranh tương tự nhau là cách mà các bên
liên quan đánh giá độ tin cậy và khả năng tín nhiệm dành cho các doanh
nghiệp.
Kinh doanh dựa vào thương hiệu, tức là dựa vào “trọng số hình ảnh”, ngày
nay đang gặp nhiều khó khăn, ngay cả khi họ đã làm đúng hoặc họ là một tổ
chức phi chính phủ.
Có thể lấy ví dụ một tổ chức phi chính phủ lớn, như Greenpeace (Hoà bình
xanh) chẳng hạn. Khi họ quyết định làm kinh doanh, họ dễ thành công khi
lấy ý kiến đánh giá của người tiêu dùng. Vì sao ư? Bởi vì họ đáng tin cậy
hơn là một doanh nghiệp – như kết luận của WEF đưa ra ở trên.
Nhưng dù sao, bằng cách tiếp cận trong suốt, các doanh nghiệp trung hoà
những điều tiếng của họ so với các tổ chức phi chính phủ. Nhưng để tránh
những hoài nghi như thế, sự trong suốt này cần phải được nhìn thấy như là
vật thế thân cho những mâu thuẫn.
Thế nào là dễ lĩnh hội?
Các doanh nghiệp đa quốc gia ngày càng được đánh giá là khá kiêu ngạo,
không phải vì cá tính hay hình ảnh thương hiệu, mà chỉ đơn giản là quy mô

của họ. Khá nhiều doanh nghiệp đã phải gánh định kiến này trên vai và cố
gắng giảm bớt chúng bằng nhiều chiến dịch quảng cáo. Dầu nhớt BP là một
ví dụ như thế.
Tôi muốn nhấn mạnh rằng, thành kiến về sự kiêu ngạo không hề được thêm
thắt vào hình ảnh thương hiệu, mà người ta chỉ nhận thấy điều này ngay
trong những hành động rất ư không-kiêu-ngạo, chẳng hạn như lấy tai nghe
xuống để bắt đầu lắng nghe.
Đây là một chiến lược đã được Chevron - đối thủ của BP sử dụng, hiện vẫn
còn trên debate about global energy. Thời gian cứ trôi, cho dù Chevron đã
đạt được một bước tiến vượt bậc về sự lĩnh hội, nhưng sự xét đoán vẫn còn
đó.
Liệu họ sẽ xét đoán sự việc dựa trên những gì họ nghe thấy và quyết
định một sự thay đổi nào đó? Nếu không, giá trị thương hiệu của
Chevron sẽ bị tổn hại nặng nề.
Giorgio Armani, Gap, Converse, và American Express lại cho chúng ta
những ví dụ khác. Từ khi có những vấn đề xã hội đối với bệnh dịch AIDS,
họ đã hợp tác với Bono và Bobby Shriver (hai cá nhân có uy tín nhất trong
những người có liên quan) để tung ra sản phẩm mới Product Red.
Với tư cách là thành viên, các doanh nghiệp này quảng cáo bán lẻ sản phẩm
với logo Product Red, thể hiện rằng họ đã góp phần chống lại dịch AIDS ở
Châu Phi.
Tôi không nghĩ rằng sẽ có ai đó phản đối sáng kiến này và cho rằng đó
không phải là một cơ hội cho các đơn vị thành viên (có lẽ tôi nên dùng một
cụm từ khác để mô tả điều này: Cơ hội Hợp tác Xã hội), nhưng dù sao, tôi
cũng muốn chỉ ra một rủi ro khá lớn.
Một cách bất thành văn, các thành viên mong muốn làm tăng lòng tin đối với
các bên liên quan khi hợp tác với nhau trong hoạt động này. Thế rồi ai cũng
mong đợi mình sẽ là thủ lĩnh gánh vác trách nhiệm trong tương lai sắp tới.
Kết luận
Lòng tin là một lợi thế cạnh tranh trong thế kỉ 21 và kiến trúc thương hiệu

nắm vai trò chính. Chúng cần đảm bảo rằng, thương hiệu phải thể hiện sự
trong suốt và có trách nhiệm với quan điểm của các bên liên quan. Về bản
thân các thương hiệu, chúng cần phải tham gia một cách tự nhiên vào bản
chất hành vi chủ yếu.
Cuối cùng thì, chỉ có doanh nghiệp không muốn kinh doanh mới sợ sự trong
sạch và cần nhớ rằng làm kinh doanh không có nghĩa rằng chúng ta phục vụ
cho mục đích thành công.

×