Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Quan hệ hợp tác Giáo dục giữa Nhật Bản và Việt Nam trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.21 KB, 37 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA LỊCH SỬ
NGÀNH QUỐC TẾ HỌC

ĐỀ TÀI
QUAN HỆ HỢP TÁC GIÁO DỤC GIỮA NHẬT BẢN VÀ
VIỆT NAM TRONG HAI THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI

Học phần: GIÁO DỤC NHẬT BẢN
Lớp sinh viên: Lớp ca chiều thứ 5 B316 Q5
Giảng viên phụ trách: TS. Trịnh Tiến Thuận

TP. Hồ Chí Minh, ngày 11 tháng 9 năm 2020

1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA LỊCH SỬ
NGÀNH QUỐC TẾ HỌC

ĐỀ TÀI
QUAN HỆ HỢP TÁC GIÁO DỤC GIỮA NHẬT BẢN VÀ
VIỆT NAM TRONG HAI THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI

Học phần: GIÁO DỤC NHẬT BẢN
Lớp sinh viên: Lớp ca chiều thứ 5 B316 Q5
Giảng viên phụ trách: TS. Trịnh Tiến Thuận


TP. Hồ Chí Minh, ngày 11 tháng 9 năm 2020
2


DANH SÁCH SINH VIÊN THỰC HIỆN:
STT

Họ và tên

Đánh giá

1

Phạm Tấn Hậu

Tốt

2

Đào Thị Kim Linh

Tốt

3

Trịnh Trung Tính

Tốt

Thơng tin trưởng nhóm:

Họ tên: Trịnh Trung Tính

Lớp: Quốc tế học A K43

Ngành: Quốc tế học

MỤC LỤC

3


Dẫn nhập
Kể từ khi Việt Nam và Nhật Bản thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức (ngày 21 tháng 9
năm 1973) thì hợp tác giữa Việt Nam và Nhật Bản đã phát triển rất sâu rộng trên nhiều
lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, xã hội,… Tuy nhiên giáo dục vẫn là lĩnh vực đặc biệt được chú
trọng, khuyến khích phát triển. Nhất là trong bối cảnh hiện nay, các nước ASEAN, trong
đó có Việt Nam, đang trở thành mối quan tâm hàng đầu đối với các nước lớn như Nhật
Bản và giáo dục luôn là lĩnh vực hấp dẫn hàng đầu trong quan hệ đối ngoại của nhóm
nước ASEAN với Nhật Bản. Khi nghiên cứu quan hệ giáo dục giữa Việt Nam và Nhật
Bản, các tác giả thường tích hợp trong mối quan hệ văn hóa hoặc trong bức tranh tổng thể
về quan hệ hai nước, chưa có nhiều bài viết chuyên sâu trong lĩnh vực giáo dục. Vì vậy
nghiên cứu trọng tâm quan hệ giáo dục Việt - Nhật giúp chúng ta có cái nhìn cụ thể hơn
về một khía cạnh hấp dẫn trong quan hệ Việt Nam và Nhật Bản. Từ đây có thể tổng kết
nên những thành tựu đạt được trong mối quan hệ này suốt giai đoạn nghiên cứu để thấy
được cả Việt Nam và Nhật Bản đã không ngừng nỗ lực đưa quan hệ giáo dục hai nước lên
những tầm cao mới.

4



CHƯƠNG 1.
KHÁI QUÁT QUAN HỆ HỢP TÁC GIÁO DỤC NHẬT BẢN – VIỆT NAM
TRONG 2 THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI
1.1.

Khái quát quan hệ ngoại giao Nhật Bản – Việt Nam và việc hợp tác trên lĩnh
vực giáo dục giữa Nhật Bản và Việt Nam
 Khái quát quan hệ ngoại giao Nhật Bản – Việt Nam

Việt Nam và Nhật Bản chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày 21/9/1973 – sau
khi Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lặp lại hịa bình ở Việt Nam được ký kết,
Mỹ phải rút toàn bộ quân đội ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Đến nay mối quan hệ này đã
được 47 năm hình thành và phát triển.
Sau năm 1975, hai bên trao đổi Đại sứ quán; ký thoả thuận về việc Chính phủ Nhật Bản
bồi thường chiến tranh với danh nghĩa viện trợ khơng hồn lại của Chính phủ Nhật Bản
đối với Việt Nam 13,5 tỷ Yên (khoảng 49 triệu USD) 1. Giai đoạn 1979 - 1990, do vấn đề
Campuchia, Nhật Bản đông kết các khoản viện trợ đã thỏa thuận, lấy vấn đề rút quân Việt
Nam khỏi Campuchia làm điều kiện mở lại viện trợ; phối hợp với Mỹ và Phương Tây
ngăn cản các tổ chức tài chính quốc tế (IMF, WB, ADB…) cung cấp tài chính cho Việt
Nam2. Quan hệ chính trị rất hạn chế.
Năm 1992, Nhật Bản quyết định mở lại viện trợ cho Việt Nam. Từ đó đến nay, các mối
quan hệ kinh tế, chính trị, giao lưu văn hoá,… được mở rộng; sự hiểu biết và tin cậy giữa
hai nước từng bước được tăng lên.
Kể từ năm 2000 đến nay, quan hệ Việt Nam - Nhật Bản đã phát triển mạnh mẽ hơn bao
giờ hết với việc lãnh đạo cấp cao hai nước đã nhất trí xây dựng quan hệ đối tác chiến
1 Dương Phú Hiệp - Ngơ Xn Bình - Trần Anh Phương (chủ biên): “25 năm quan hệ Việt Nam - Nhật Bản 1973 –
1998”, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999.

2 Dương Phú Hiệp - Ngơ Xn Bình - Trần Anh Phương (chủ biên): “25 năm quan hệ Việt Nam - Nhật Bản 1973 –
1998”, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999.


5


lược Việt Nam – Nhật Bản vì hịa bình và thịnh vượng ở châu Á. Cũng trong thời gian
này, Nhật Bản đã có những điều chỉnh chính sách quan trọng đối với Việt Nam, đặc biệt
là trong các lĩnh vực hợp tác kinh tế như thương mại, FDI, ODA. Những điều chỉnh quan
trọng trong chính sách thương mại của Nhật Bản với Việt Nam được thể hiện rất đậm nét
trong Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA); trong khi những điều
chỉnh quan trọng trong lĩnh vực đầu tư được thể hiện đậm nét trong Sáng kiến chung Việt
– Nhật về cải thiện môi trường đầu tư ở Việt Nam; và theo đó các chính sách viện trợ
song phương (ODA) của Nhật Bản dành cho Việt Nam cũng có những điều chỉnh phù
hợp nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho sự phát triển của thương mại và đầu tư
giữa hai nước.
Khuôn khổ quan hệ giữa hai nước không ngừng được nâng cấp với nội dung hợp tác ngày
càng sâu rộng. Lãnh đạo cấp cao hai nước duy trì thường xuyên các chuyến thăm và tiếp
xúc tại các diễn đàn quốc tế và khu vực. Nhật Bản ủng hộ đường lối đổi mới, mở cửa của
Việt Nam; hỗ trợ Việt Nam hội nhập vào khu vực và thế giới (APEC, WTO, ASEM, ARF,
vận động OECD giúp Việt Nam về kỹ thuật,...).

 Dưới đây là một số cột mốc đáng nhớ của quan hệ ngoại giao Việt Nam – Nhật

Bản:
Khuôn khổ quan hệ giữa hai nước không ngừng được nâng cấp với nội dung hợp tác ngày
càng sâu rộng3.
(1) Ngày 21/9/1973, Việt Nam và Nhật Bản chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao.
(2) Từ quan hệ “Đối tác tin cậy, ổn định lâu dài” (4/2002) lên Đối tác bền vững

(7/2004).
(3) Tháng 11/2006, nhân chuyến thăm Nhật Bản của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng,


hai bên ký Tuyên bố chung về “Hướng tới đối tác chiến lược vì hịa bình và phồn
vinh ở Châu Á”.
3 Bộ Ngoại giao Việt Nam, (2014), “Tài liệu cơ bản về quan hệ Việt Nam – Nhật Bản”, đăng tháng 03/2014.
cập ngày 11/9/2020,
lúc 21: 48]

6


(4) Năm 2007, hai bên ra Tuyên bố chung về việc “Làm sâu sắc hơn quan hệ Việt

Nam và Nhật Bản” và “Chương trình hợp tác hướng tới quan hệ đối tác chiến
lược” (nhân chuyến thăm chính thức Nhật Bản của Chủ tịch nước Nguyễn Minh
Triết tháng 11/2007).
(5) Năm 2009, Tuyên bố chung về “Quan hệ đối tác chiến lược vì hồ bình và phồn
vinh ở Châu Á”, nhất trí đưa quan hệ hai nước lên tầm đối tác chiến lược (nhân
chuyến thăm Nhật Bản của Tổng Bí thư Nơng Đức Mạnh tháng 4/2009). Nhật Bản
là nước đầu tiên trong các nước G-7 thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với ta
(nước tiếp theo là Anh năm 2010, Đức năm 2011).
(6) Năm 2010, “Tuyên bố chung Việt Nam - Nhật Bản về phát triển toàn diện quan hệ
đối tác chiến lược vì hịa bình và phồn vinh ở Châu Á” (nhân chuyến thăm Việt
Nam của Thủ tướng Nhật Bản Naoto Kan tháng 10/2010).
(7) Năm 2011, “Tuyên bố chung triển khai hành động trong khn khổ đối tác chiến
lược vì hịa bình và phồn vinh ở Châu Á giữa Việt Nam và Nhật Bản” (nhân
chuyến thăm Nhật Bản của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tháng 10/2011).
(8) Năm 2013, lần đầu tiên hai nước tổ chức Năm hữu nghị nhân kỷ niệm 40 năm
ngày thiết lập quan hệ ngoại giao.
(9) Năm 2014, “Tuyên bố chung về việc thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược sâu


rộng vì hịa bình và phồn vinh ở Châu Á” (nhân chuyến thăm Nhật Bản cấp Nhà
nước của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang).
 Việc hợp tác trên lĩnh vực giáo dục giữa Nhật Bản và Việt Nam

Nhận thấy nhu cầu mong muốn tìm hiểu lẫn nhau, học tập và trao đổi kinh nghiệm lẫn
nhau nên 2 bên đã hợp tác trên lĩnh vực giáo dục từ rất sớm. Việt Nam ln xem Nhật
Bản là hình mẫu về giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực bởi Nhật Bản đã có hơn 100 năm
cải cách hệ thống giáo dục vào đào tạo con người, lấy con người làm vốn liếng xây dựng
nước. Chính vì vậy, trong quan hệ ngoại giao với Nhật Bản, ngoài các lĩnh vực như kinh
tế - thương mại, chính trị - an ninh, văn hóa thì Việt Nam rất chú trọng mối quan hệ hợp
tác về giáo dục với Nhật Bản. Nhất là trong bối cảnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước như hiện nay thì việc hợp tác giáo dục và đào tạo để cho ra nguồn nhân lực chất
lượng cao là ngày càng cấp thiết hơn bao giờ hết.
7


Quan hệ hợp tác về giáo dục giữa hai nước đã phát triển dưới nhiều hình thức: Hợp tác
giữa hai Chính phủ, giữa các trường học, giữa các tổ chức, giữa các cá nhân. Những năm
gần đây, Nhật Bản là một trong những nước viện trợ khơng hồn lại lớn nhất cho ngành
giáo dục của Việt Nam.
Sự hình thành quan hệ hợp tác giáo dục giữa Nhật Bản và Việt Nam trong
hai thập niên đầu thế kỷ XXI
1.2.1. Bối cảnh trong nước của hai quốc gia
 Bối cảnh trong nước của Nhật Bản
1.2.

Bước vào thế kỷ 21, với những diễn biến phức tạp của cuộc chiến tranh chống khủng bố
và tình hình căng thẳng vũ khí hạt nhân của Bắc Triều Tiên, tranh chấp chủ quyền biển
đảo, Nhật Bản đã định hình lại chính sách đối ngoại của mình. Nhật Bản tiếp tục chính
sách ủng hộ mạnh mẽ Mỹ và tăng cường khả năng tự vệ của mình. Trong giai đoạn này,

Nhật Bản bước vào thời điểm bước ngoặt điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng
tăng cường tính độc lập, chủ động và tích cực hơn nhằm vươn lên thành cường quốc
chính trị tương xứng với sức mạnh kinh tế, phát huy vai trò và ảnh hưởng trên thế giới và
ở Châu Á - Thái Bình Dương. Theo đó, chính sách đối ngoại được triển khai theo các
hướng chính là4:
“+ Giải quyết các vấn đề toàn cầu
+ Tăng cường và coi trọng quan hệ với các nước láng giềng
+ Tăng cường ngoại giao kinh tế
+ Củng cố quan hệ liên minh Mỹ - Nhật”
Với mục tiêu quốc tế hóa nền giáo dục nước nhà, lan truyền các giá trị văn hóa, phát triển
quyền lực mềm để tăng khả năng ảnh hưởng, vị thế của đất nước; thích ứng trước bối
cảnh của tồn cầu hóa và cách mạng cơng nghiệp 4.0, Nhật Bản đã chú trọng triển khai

4 Ngô Xuân Bình - Trần Quang Minh (chủ biên): “Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản quá khứ, hiện tại, tương lai”, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005.

8


ngoại giao hơp tác về văn hóa – giáo dục rộng khắp trên thế giới, nhất là các nước Đông
Nam Á, trong đó có Việt Nam.
 Bối cảnh trong nước của Việt Nam
(1) Sự phát triển của Việt Nam trong hơn 30 năm của thời kỳ đổi mới, hội nhập sâu

rộng vào nền kinh tế thế giới đã giúp Việt Nam mở cửa, vươn mình ra biển lớn,
-

đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ.
Đổi mới kinh tế và chính trị từ năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế, nhanh
chóng đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở

thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. Từ 2002 đến 2018, GDP đầu người tăng
2,7 lần, đạt trên 2.700 USD năm 2019, với hơn 45 triệu người thoát nghèo. Tỉ lệ
nghèo giảm mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới 6% (3,2 USD/ngày theo sức mua
ngang giá)5. Năm 2019, kinh tế Việt Nam tiếp tục cho thấy nền tảng mạnh mẽ và
khả năng chống chịu cao, nhờ nhu cầu trong nước và sản xuất định hướng xuất
khẩu vẫn ở mức cao. Số liệu sơ bộ cho thấy GDP thực tăng khoảng 7% trong năm
2019, gần với tỉ lệ tăng trưởng năm 2018 và Việt Nam là một trong những quốc
gia có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong khu vực 6. Chính những điều này đã giúp
Nhật Bản xác định Việt Nam là một thị trường mục tiêu tiềm năng, đáng để đầu tư
sâu rộng vào các lĩnh vực kinh tế, xã hội, trong đó có giáo dục (Một lĩnh vực đã và
đang sinh lời rất nhiều cho các nhà đầu tư trên khắp thế giới chứ không chỉ riêng

Nhật Bản).
(2) Ấn tượng và cảm quan về đất nước và con người Nhật Bản trong mắt người Việt
Nam trong hơn hai thập niên đầu thế kỷ XXI là khá tốt: Đó là một đất nước hiện
đại, giàu có, mức thu nhập cao; con người Nhật kiên cường, bền bỉ; các giá trị văn
hóa Nhật đáng để học tập và thưởng thức,.... Chính những nhu cầu muốn tìm hiểu
về Nhật Bản của người dân Việt Nam cũng như mong muốn được học tập, sinh
5

/>
6

/>
9


sống và làm việc ở Nhật đã thúc đẩy Bộ Ngoại giao giữa hai nước tăng cường các
chương trình trao đổi, giao lưu về văn hóa – giáo dục.
(3) Giáo dục phổ thông ở Việt Nam tương đối tốt 7. Việt Nam đạt kết quả ấn tượng

trong Chương trình Đánh giá Học sinh Quốc tế (PISA) năm 2012 và 2015, theo đó
thành tích của học sinh Việt Nam vượt xa nhiều quốc gia OECD. Với mong muốn
được giao lưu, chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, Chính phủ Nhật đã thúc
đẩy mối quan hệ hợp tác giữa hai nước ngày càng sâu rộng, chặt chẽ hơn.
(4) Đô thị hóa, tăng trưởng kinh tế và dân số mạnh mẽ đang đặt ra những thách thức
ngày càng lớn về quản lý chất thải và xử lý ô nhiễm. Lượng rác thải của Việt Nam
dự báo tăng gấp đơi trong vịng chưa đầy 15 năm tới. Việt Nam cũng là một trong
mười quốc gia trên thế giới bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi ơ nhiễm khơng khí. Ơ
nhiễm nguồn nước đang gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với năng suất của
các ngành quan trọng và với sức khỏe của người dân. Chính nhu cầu mong muốn
đào tạo được nguồn nhân lực khoa học – kỹ thuật chất lượng cao, tái thiết kinh tế
đất nước đã thôi thúc Việt Nam muốn trao đổi, hợp tác trong lĩnh vực giáo dục và
đào tạo nguồn nhân lực với Nhật Bản, học hỏi kiến thức và kinh nghiệm của họ.
Có thể nói, những nhân tố nêu trên chính là thế và lực, nhu cầu và thực trạng khiến Việt
Nam mong muốn hợp tác trong lĩnh vực giáo dục với Nhật Bản.
1.2.2. Bối cảnh quốc tế

Giáo dục đóng vai trị vơ cùng quan trọng đối với sự đi lên của mỗi quốc gia bởi sứ mệnh
cao cả của giáo dục là đào tạo nhân tài tiếp nối sự nghiệp phát triển đất nước. Trong
những thập kỉ gần đây, sự phát triển và thay đổi của các xu hướng thế giới đặc biệt là xu
hướng coi trọng kinh tế, thương mại, cạnh tranh về khoa học công nghệ đã và đang ảnh
hưởng đáng kể đến nền giáo dục của tất cả các quốc gia trên thế giới. Vấn đề đổi mới
giáo dục được các quốc gia quan tâm hơn bao giờ hết. Các nhà khoa học, các nhà nghiên
cứu một mặt ngày càng quan tâm để giảm thiểu những hạn chế trong các cách tiếp cận
giáo dục truyền thống, bó hẹp trong mối quan hệ của mỗi quốc gia, mặt khác, cũng kêu
7 />
10


gọi thiết lập quan hệ hợp tác giáo dục với nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia có nền

khoa học, công nghệ tiên tiến8.
Mỗi quốc gia muốn nâng cao phát triển nền khoa học công nghệ của nước mình địi hỏi
phải tiếp cận nền khoa học tiến bộ từ những quốc gia khác, theo đó hoạt động hợp tác
giáo dục sẽ càng được đẩy mạnh. Thực chất cạnh tranh khoa học công nghệ là nhằm đổi
mới tư duy tiếp cận với nền tri thức hàng đầu góp phần phát triển đất nước. Qua đó có thể
thấy cạnh tranh giữa các quốc gia về khoa học công nghệ, thực chất là cạnh tranh về giáo
dục, để tạo ra nguồn nhân lực có trình độ cao, có khả năng thích ứng trong môi trường
khoa học, kỹ thuật phát triển và góp phần nâng cao nền khoa học, kỹ thuật nước nhà 9.
Mặt khác, trong thời đại công nghệ 4.0 hiện nay với những thành tựu vượt trội của khoa
học kỹ thuật đã đưa thông tin truyền đi nhanh và xa hơn, các quốc gia khơng cịn độc lập
về thơng tin nữa. Do vậy cơng dân của họ có cơ hội tiếp cận nhanh chóng nguồn tri thức
vơ tận từ thế giới Internet, những chương trình giáo dục từ các nước phát triển đến gần
với họ hơn bao giờ hết. Sở hữu một nền khoa học công nghệ mạnh giúp các quốc gia
thuận lợi hơn trong việc quảng bá chương trình giáo dục, thu hút nhân tài trong bối cảnh
cạnh tranh trên thế giới đang ngày càng khốc liệt. Trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế
và tồn cầu hóa, các quốc gia không ngừng giao lưu kinh tế, văn hóa, giáo dục.
Dưới ảnh hưởng của sự trao đổi nguồn nhân lực xuyên quốc gia một cách thường xuyên,
giáo dục càng trở thành một vấn đề quan trọng. Toàn cầu hóa giúp tạo ra một kỷ nguyên
hội nhập giữa các dân tộc, thúc đẩy quan hệ giữa các công dân từ các quốc gia trên mọi
lĩnh vực văn hóa - giáo dục, kinh tế - thương mại. Bên cạnh đó, tồn cầu hóa cịn thúc
đẩy các chương trình hợp tác xuyên quốc gia, trong giáo dục, đó có thể là chương trình
trao đổi sinh viên, trại hè quốc tế, chương trình giảng dạy đào tạo từ xa,…Trước tác động
mạnh mẽ của tồn cầu hóa, thế giới xuất hiện một nhóm những cơng dân tồn cầu.
8
/>Viet_Nam_hien_nayall.html
9 Lê Thị Viên Anh, (2018), “Hợp tác giáo dục Việt Nam – Nhật Bản từ năm 2000 đến năm 2018”, Luận văn thạc sĩ
Quốc tế học, Đại học KHXH&NV – ĐHQG Hà Nội.

11



Việc các quốc gia từ những nước phát triển hàng đầu, những nước đang phát triển đều có
thành viên trong các tổ chức trên là minh chứng cho vai trò của giáo dục và tầm quan
trọng của việc hợp tác giáo dục xuyên quốc gia.
Tất cả những đặc điểm trên nhằm khẳng định một điều: Giáo dục đang có xu hướng mở
rộng, coi trọng hợp tác, liên kết, coi trọng cải cách theo hướng tồn cầu hóa du nhập kiến
thức từ bên ngồi để hịa nhập vào giai đoạn hội nhập của thế giới và khu vực nhưng
không bỏ qua việc bảo tồn văn hóa và nền tảng tri thức giáo dục truyền thống ở mỗi quốc
gia. Để làm được những điều này hợp tác và trao đổi giáo dục xun quốc gia hay cịn
được gọi là “quốc tế hóa nền giáo dục” là xu hướng chung mà tất cả các quốc gia ưu tiên
trong chính sách của nước mình. Trong bối cảnh thế giới hiện nay, rất nhiều quốc gia
đang nỗ lực “quốc tế hóa” nền giáo dục. Đối với những nước đang phát triển, một mặt
“quốc tế hóa giáo dục” góp phần nâng cao chất lượng, trải nghiệm học tập tồn cầu cho
người học, thúc đẩy q trình hội nhập trong khu vực và trên thế giới10.



Từ bối cảnh trong nước của hai quốc gia và bối cảnh quốc tế nêu trên đã

thúc đẩy Việt Nam và Nhật Bản đẩy mạnh trong lĩnh vực hợp tác về giáo dục. Bối
cảnh này là cơ sở, là nhân tố tất yếu dẫn đến việc Việt Nam và Nhật Bản bắt tay
nhau. Cả 2 nước đều mong muốn đẩy mạnh hợp tác về giáo dục, lấy đó là tiền đề
để phát triển kinh tế, truyền bá văn hóa, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau và giao
1.3.

lưu văn hóa Việt – Nhật.
Việc thúc đẩy hợp tác giáo dục giữa hai nước trong 2 thập niên đầu thế kỷ
XXI: Thực trạng hợp tác giáo dục giữa 2 nước

Việt Nam và Nhật Bản là hai quốc gia có mối quan hệ lịch sử lâu đời và có rất nhiều điểm

chung về văn hóa. Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế Việt
Nam, quan hệ hợp tác song phương Việt Nam - Nhật Bản đã đạt được những thành tựu
rực rỡ trên nhiều phương diện. Chính phủ hai nước cũng đã chính thức tuyên bố hai bên
là đối tác chiến lược của nhau.
10 Lê Thị Viên Anh, (2018), “Hợp tác giáo dục Việt Nam – Nhật Bản từ năm 2000 đến năm 2018”, Luận văn thạc sĩ
Quốc tế học, Đại học KHXH&NV – ĐHQG Hà Nội.

12


Trong lĩnh vực giáo dục, số lượng học sinh, sinh viên Việt Nam sang học tập và nghiên
cứu tại Nhật Bản ngày càng tăng, số lượng học sinh, sinh viên Nhật Bản sang Việt Nam
giao lưu cũng đang tăng lên đáng kể. Giới nghiên cứu cũng ghi nhận ngày càng có nhiều
những cơng trình nghiên cứu hợp tác giữa hai quốc gia. Chính phủ hai nước đã và đang
xúc tiến những chương trình hợp tác sâu rộng về giáo dục. Chính những điều này có thể
nói là nhân tố khách quan tất yếu dẫn đến mối quan hệ hợp tác về giáo dục bền chặt giữa
Việt Nam và Nhật Bản.
Tiểu kết
Trong những năm qua, cùng với việc thắt chặt mối quan hệ giữa hai nước, hợp tác trong
lĩnh vực giáo dục giữa Việt Nam và Nhật Bản đang ngày càng phát triển. Sở dĩ có được
những thành quả đáng tự hào như trên, ngoài lý do khách quan là sự phát triển tốt đẹp của
mối quan hệ hai nước tạo mơi trường thuận lợi cho việc hợp tác, cịn có một số nguyên
nhân chủ quan, xuất phát từ nhu cầu, thực lực và khả năng đáp ứng của hai nước. Về phía
Việt Nam, trong điều kiện chúng ta đang tiến hành cơng cuộc đổi mới, cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước như hiện nay, việc cải cách giáo dục là một địi hỏi cấp bách. Trong
khi đó, Nhật Bản là cường quốc kinh tế thứ hai trên Thế giới, Nhật Bản cũng có hơn 100
năm kinh nghiệm cải cách giáo dục.

CHƯƠNG 2.
QUAN HỆ HỢP TÁC GIÁO DỤC NHẬT BẢN – VIỆT NAM TRONG

HAI THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI
2.1. Mục tiêu hợp tác giáo dục giữa Nhật Bản và Việt Nam trong hai thập niên
đầu thế kỷ XXI
 Thứ nhất, về phía Nhật Bản thì Nhật Bản muốn quốc tế hóa nền giáo dục của

mình11. Nhật Bản ln xem trọng giáo dục và coi nó là chìa khóa để Nhật Bản gia
tăng quyền lực mềm của mình, lan tỏa sức ảnh hưởng của quốc gia, phổ biến nó
11 Đại học quốc gia Hà Nội, (2010), “VKCO – Cầu nối hợp tác giáo dục Việt – Nhật”.

13


rộng rãi trên thế giới thông qua công cụ ngoại giao về văn hóa. “Quốc tế hóa nền
giáo dục, tăng cương sức mạnh mềm của quốc gia” có thể nói là một trong những
mục tiêu chiến lược trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản. Trong hai thập niên
đầu của thế kỷ XXI thì Chính phủ Nhật Bản đã thực hiện nhiều chương trình hành
động để hiện thực hóa mục tiêu này.
 Thứ hai là mục tiêu kết nối phát triển nguồn nhân lực12.
Trong chuyến thăm Nhật Bản của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng vào năm 2014, hai bên
nhất trí hợp tác chặt chẽ để triển khai hiệu quả Chương trình chiến lược về hợp tác giáo
dục 201413. Trong đó:
-

Trên cơ sở kinh nghiệm về phát triển tồn diện nguồn nhân lực trong các ngành
nghề, Nhật Bản cam kết hỗ trợ nâng cấp một số trường đại học và trường dạy nghề
chất lượng cao đạt tiêu chuẩn quốc tế, tích cực hỗ trợ Việt Nam xây dựng trường

-

Đại học Việt-Nhật.

Nhật Bản khẳng định hỗ trợ Việt Nam phát triển các tiêu chuẩn nghề nghiệp và hệ

-

thống kiểm tra kỹ năng tồn quốc.
Hai bên nhất trí hợp tác về việc tiếp nhận điều dưỡng viên, hộ lý, thực tập sinh kỹ

-

thuật của Việt Nam.
Hai bên chia sẻ ý định hợp tác để cải thiện Chương trình Đào tạo Thực tập Kỹ
thuật nhằm thúc đẩy hơn nữa phát triển nguồn nhân lực theo Chương trình này.

2.2. Nội dung quan hệ hợp tác giáo dục giữa Nhật Bản và Việt Nam trong hai thập
niên đầu thế kỷ XXI
Quan hệ hợp tác về giáo dục và đào tạo giữa hai nước đã phát triển dưới nhiều hình thức:
Hợp tác giữa hai Chính phủ, giữa các trường học, giữa các tổ chức, giữa các cá nhân.
/>[truy cập ngày 15/9/2020, lúc 15: 51]
12 Đào Thu Vân, (2017), “Khảo sát xu hướng nghiên cứu về giáo dục Việt Nam ở Nhật Bản từ năm 2000 đến nay
(năm 2017)”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 34, Số 1 (2018) 38-46.
13 Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản, (2014), “Tuyên bố về tầm nhìn chung quan hệ Việt Nam – Nhật Bản”.

/>%C3%ACn-chung-quan-h%E1%BB%87-vi%E1%BB%87t-nam-nh%E1%BA%ADt-b%E1%BA%A3n
[truy cập ngày 14/9/2020, lúc 22:00]
14


Và việc hợp tác giữa hai Chính phủ, hai Nhà nước Việt – Nhật chính là tiền đề, là nền
mống để xây dựng mối quan hệ hợp tác giáo dục giữa hai bên ở các cấp thấp hơn. Vì vậy,
trong phần nội dung này, chúng tôi chỉ đề cập đến cấp độ quan hệ và mức độ hợp tác cao

nhất là giữa hai Chính phủ hai nước Việt – Nhật.
2.2.1. Nâng tầm quan hệ song phương; thực thi nhiều chương trình hành động
nhằm hiện thực hóa mục tiêu “quốc tế hóa” nền giáo dục Nhật Bản
Ngày 18/3/2014, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Thủ tướng Shinzo Abe ký “Tuyên
bố chung Việt Nam – Nhật Bản.”
Sau đó Bộ trưởng Phạm Vũ Luận và Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa
học và Công nghệ Nhật Bản, Hakubun Shimomura đã ký kết “Chương trình hợp tác
chiến lược về giáo dục và đào tạo” giữa hai nước, nâng quan hệ song phương lên tầm
cao mới với nhiều cam kết quan trọng14. Đó là:
-

Phía Nhật Bản sẽ tích cực hỗ trợ Việt Nam đào tạo nguồn nhân lực, thúc đẩy giảng
dạy tiếng Nhật tại Việt Nam cũng như xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề của Việt

-

Nam.
Hai bên quyết định tiếp tục thúc đẩy giao lưu giữa các trường đại học, sinh viên,
các nhà nghiên cứu nhằm thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau giữa thế hệ trẻ của hai nước

-

và góp phần vào sự phát triển của mối quan hệ song phương.
Phía Việt Nam đánh giá cao việc phía Nhật Bản cân nhắc tích cực nâng cấp
trường Đại học Cần Thơ và một số trường Đại học được lựa chọn khác thành các
trường Đại học xuất sắc, hỗ trợ xây dựng hệ thống chứng chỉ nghề nghiệp quốc gia

-

và hợp tác phát triển một số trường dạy nghề của Việt Nam đạt tiêu chuẩn quốc tế.

Hai bên khẳng định Chính phủ hai nước tiếp tục hợp tác trong Dự án Đại học Việt
- Nhật do các tổ chức hữu quan của hai nước đang tích cực chuẩn bị.

2.2.2. Hợp tác chiến lược về phát triển nguồn nhân lực
Việc hai Bộ Giáo dục ký kết Chương trình hợp tác chiến lược về giáo dục đã khẳng định
quyết tâm về hợp tác phát triển nguồn nhân lực giữa Việt Nam và Nhật Bản.
14 HATTOCO, (2019), “Hợp tác giáo dục Việt Nam – Nhật Bản: Tập trung phát triển nguồn nhân lực”.
[truy cập ngày 14/9/2020, lúc 22: 20]

15


Chương trình hợp tác định hướng chiến lược về giáo dục Việt Nam – Nhật Bản khẳng
định: “Phía Nhật Bản tiếp tục hỗ trợ Việt Nam đào tạo nguồn nhân lực ở các trình độ
khoa học, kỹ sư và nhân lực quản lý về nhiều lĩnh vực”; “Phía Việt Nam khuyến khích
các doanh nghiệp Nhật Bản tham gia q trình đào tạo nhân lực ở trình độ đại học tại
các trường đại học của Việt Nam để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp Nhật Bản tại
Việt

Nam”15,...

Đồng thời, phía Nhật Bản duy trì và tiếp tục hỗ trợ giúp Việt Nam đào tạo nguồn nhân
lực thông qua các chương trình Học bổng Chính phủ Nhật Bản (MEXT, các khóa đào tạo
tiếng Nhật, các chương trình giao lưu,...), đào tạo nguồn nhân lực ở các trình độ khoa
học, kỹ sư và nhân lực quản lý về nhiều lĩnh vực như năng lượng ngun tử vì mục đích
hịa bình.
Phía Việt Nam duy trì và tiếp tục cấp học bổng để cử sinh viên Việt Nam sang Nhật Bản
học tập thông qua các chương trình học bổng ngân sách nhà nước của Chính phủ Việt
Nam và các địa phương.
Hai bên cam kết tích cực thúc đẩy các dự án hợp tác trong đào tạo nguồn nhân lực chất

lượng cao ở Việt Nam như: Trường Đại học Việt - Nhật, Trường Đại học Cần Thơ.
Việt Nam cũng đánh giá cao sự hợp tác của Nhật Bản trong dự án JENESYS 2015 (Mạng
lưới trao đổi sinh viên và thanh niên Nhật Bản - Đông Á) được triển khai theo sáng kiến
của Thủ tướng Shinzo Abe.
2.3. Quá trình triển khai hợp tác giáo dục giữa Nhật Bản và Việt Nam trong 2 thập
niên đầu thế kỷ XXI
2.3.1. Giai đoạn 2000 – 2012
Đây là giai đoạn Nhật Bản trải qua nhiều đời thủ tướng, với nhiệm kỳ của mỗi đời rất
ngắn, thường chỉ 1 đến 2 năm. Cho nên, nghiên cứu về quá trình triển khai hợp tác giáo
dục giữa Việt Nam và Nhật Bản trong giai đoạn này chỉ điểm qua những nét chính,
những sự kiện chính có ảnh hưởng đến quan hệ hợp tác giáo dục giữa hai bên.
15 HATTOCO, (2014), “Hợp tác giáo dục Việt Nam – Nhật Bản: Tập trung phát triển nguồn nhân lực”.
[truy cập ngày 14/9/2020, lúc 22: 20]

16


=> Nhìn chung, trong giai đoạn này, quan hệ hợp tác giáo dục giữa Việt Nam và Nhật
Bản có nhiều tiến triển thuận lợi, đáp ứng được nhu cầu và mong muốn giữa các bên.
I-

[Thực thi nhiều chương trình hành động nhằm hiện thực hóa mục tiêu “quốc
tế hóa” nền giáo dục Nhật Bản cũng như tăng cường giao lưu, hỗ trợ giúp đỡ

cũng như trao đổi học tập, học hỏi kinh nghiệm giữa 2 nước.]
(1) Hợp tác trong lĩnh vực giáo dục tiểu học:
- Chính phủ Nhật Bản đã rất chú trọng đến việc giúp đỡ Việt Nam xây dựng và nâng
cao cơ sở vật chất cho các trường tiểu học vì trong giai đoạn này vẫn cịn tồn tại
nhiều trường học kém chất lượng với cơ sở vật chất tồi tàn, quá cũ nát, thiết bị dạy
học thiếu thốn, phịng học khơng đủ dẫn đến phải sử dụng tới 2 - 3 ca/ngày,…

không đảm bảo môi trường giảng dạy cần thiết tối thiểu. Từ năm 1995 - 2013,
Nhật Bản đã giúp Việt Nam xây dựng tổng cộng 299 trường tiểu học tại 17 tỉnh,
vùng bị thiệt hại do thiên tai và 8 tỉnh miền núi phía Bắc bằng nguồn vốn viện trợ
khơng hồn lại. Các dự án thiết thực được thực hiện như: Dự án nâng cao cơ sở
vật chất cho các trường tiểu học vùng núi phía Bắc lần thứ hai (kỳ 3) năm 2005
với tổng kinh phí là 511 triệu yên (tương đương khoảng 5 triệu USD), xây mới
140 phòng học tại 17 trường thuộc tỉnh Tuyên Quang và Phú Thọ; Dự án nâng cao
cơ sở vật chất cho các trường tiểu học vùng núi phía Bắc lần thứ hai (kỳ 2) năm
2004, tổng kinh phí 344 triệu yên ( 3,4 triệu USD), xây mới 106 phịng học tại 14
-

trường thuộc tỉnh Thái Ngun16,…
Ngồi việc giúp xây dựng trường sở, Nhật Bản còn hỗ trợ Việt Nam trong việc xóa
mù chữ, nâng cao chất lượng quản lý giáo dục trong các dự án lớn như: Xúc tiến
giáo dục xóa mù chữ cho người lớn vì sự phát triển cộng đồng bền vững tại các
tỉnh vùng núi phía Bắc, nghiên cứu những hỗ trợ nhằm phát triển giáo dục tiểu
học ở Việt Nam, tăng cường đào tạo giáo viên theo cụm và quản lý trường học

trong lĩnh vực giáo dục tiểu học,…
(2) Hợp tác trong lĩnh vực giáo dục trung học:
16 Ngô Hương Lan, (2013), “Hợp tác giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực giữa Việt Nam và Nhật Bản”, Viện nghiên
cứu Đông Bắc Á.

[truy cập ngày 15/9/2020, lúc 20: 49]
17


-

Về phía Nhật Bản, hiện nay Chính phủ Nhật Bản đang tổ chức và phát triển các

chương trình trao đổi học sinh trung học từ các nước ASEAN, trong đó có Việt
Nam. Chương trình được thực hiện với sự tài trợ của Nhật Bản, nhằm mục đích
nâng cao hiểu biết của thanh, thiếu niên các nước về văn hóa, phong tục tập quán,
đất nước con người Nhật Bản. Năm 2008, 330 học sinh trung học Việt Nam đã
được mời sang Nhật Bản cùng với học sinh các nước ASEAN. Chương trình dự
định sẽ kéo dài 5 năm với tổng số 6000 học sinh các nước sẽ được mời sang Nhật

-

Bản.
Về phía Việt Nam, Bộ GD&ĐT đã chủ chương đưa tiếng Nhật vào giảng dạy thử
nghiệm ở cấp trung học cơ sở. Với sự giúp đỡ của Đại sứ quán Nhật Bản tại Hà
Nội, “Chương trình thí điểm dạy và học tiếng Nhật trong trường phổ thông” đã
được tiến hành từ năm 2003, nhân dịp kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại
giao giữa hai nước. Chương trình được tiến hành với sự cộng tác của nhiều chuyên
gia Việt Nam, Nhật Bản trong ngành giáo dục và giảng dạy tiếng Nhật. Sách giáo
khoa tiếng Nhật dành riêng cho học sinh trung học Việt Nam cũng đang được
chuyên gia hai nước biên soạn, tập 1 đã được phát hành và đưa vào sử dụng từ
năm 2007. Sau 5 năm thực hiện, đến năm 2013, đã có tổng cộng 11 trường trung
học cơ sở (THCS) và 1 trường trung học phổ thông (THPT) đưa tiếng Nhật vào
giảng dạy17. Trong tương lai gần, tiếng Nhật sẽ được giảng dạy đại trà với tư cách

-

là một trong những ngoại ngữ cơ bản sử dụng ở Việt Nam.
Ngồi ra, nhằm mục đích phổ biến kiến thức về Nhật Bản học cho học sinh THCS
và THPT, Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản thuộc Viện nghiên cứu Đông Bắc Á đã
tổ chức nhiều cuộc hội thảo về vấn đề này. Từ năm 2003 đến năm 2006, được sự
tài trợ của Quỹ Giao lưu quốc tế Nhật Bản, Trung tâm đã tiến hành 3 cuộc hội thảo
lớn với nhan đề “Tìm hiểu đất nước, con người Nhật Bản dành cho giáo viên trung

học Việt Nam” tại 3 miền Bắc, Trung, Nam với sự tham gia của 150 giáo viên đến

17 Ngô Hương Lan, (2013), “Hợp tác giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực giữa Việt Nam và Nhật Bản”, Viện nghiên
cứu Đông Bắc Á.

[truy cập ngày 15/9/2020, lúc 20: 49]
18


từ 150 trường THCS và THPT khác nhau trên toàn quốc 18. Chương trình được
đánh giá cao về chất lượng và hiệu quả khoa học.
(3) Hợp tác trong lĩnh vực giáo dục đại học và cao học:
- Hợp tác trong lĩnh vực giáo dục đại học giữa hai nước đang diễn ra hết sức tốt đẹp.
Hàng năm, Chính phủ Nhật Bản dành khoảng 100 suất học bổng cho sinh viên
Việt Nam sang Nhật Bản du học. Tính đến năm 2007, có khoảng 4000 lưu học
sinh Việt Nam đang du học tại Nhật Bản theo các loại học bổng của chính phủ hai
-

nước và bằng kinh phí tự túc.
Trong chuyến thăm Nhật Bản của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo Nguyễn Thiện Nhân (3/2008), hai bên đã ký Bản ghi nhớ về việc Nhật Bản
giúp Việt Nam đào tạo 1000 tiến sỹ cho Việt Nam đến năm 2020 19 và tiếp tục tăng
học bổng cho Việt Nam trong 3 năm tiếp theo. Số cán bộ được đào tạo trình độ cao
này sẽ được bổ sung vào đội ngũ giảng viên của các trường đại học Việt Nam.
Trên cơ sở đề nghị của ta về hợp tác phát triển trường đại học chất lượng cao tại
Việt Nam, phía Nhật Bản đã quyết định chọn 4 trường để hỗ trợ nâng cấp là Đại
học Cần Thơ, Đại học Đà Nẵng, Đại học quốc gia Hà Nội, Đại học Nông nghiệp
Hà Nội; trước mắt sẽ bắt đầu thực hiện từ Đại học Cần Thơ. Hiện có khoảng 4.000

-


lưu học sinh Việt Nam tại Nhật Bản.
Việt Nam cũng đã mời nhiều giáo sư, chuyên gia Nhật Bản sang giảng dạy, tiếp
nhận các học giả Nhật Bản sang tìm hiểu về văn hố, lịch sử Việt Nam. Với sự trợ
giúp của chính phủ Nhật Bản, Việt Nam đã hoàn thành giai đoạn thí điểm dạy
tiếng Nhật tại một số trường phổ thơng cơ sở tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh 2003 - 2013. Nhằm tiếp tục triển khai giai đoạn II của Dự án hợp tác này, hai
bên sẽ sớm thành lập nhóm chuyên gia nghiên cứu việc mở rộng giảng dạy tiếng

-

Nhật tới cấp tiểu học và mở rộng sang các địa phương khác tại Việt Nam.
Chính phủ Nhật Bản đã chọn ra 13 trường đại học chủ chốt làm đại diện cho Bộ
Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học & Công nghệ Nhật Bản tại các nước trên

18 Ngô Hương Lan, (2013), “Hợp tác giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực giữa Việt Nam và Nhật Bản”, Viện nghiên
cứu Đông Bắc Á.

[truy cập ngày 15/9/2020, lúc 20: 49]
19 />19


thế giới, và Đại học Kyoto đã được chọn làm đại diện tại Việt Nam. Tại Hội nghị
Hiệu trưởng các trường đại học Việt Nam - Nhật Bản lần thứ nhất được tổ chức
năm 2009, hai bên đã thống nhất chọn ĐHQGHN làm đối tác mở Văn phòng hợp
tác. Ngày 17/9/2010, Văn phòng hợp tác ĐHQGHN- Đại học Kyoto (VKCO) đã
chính thức khai trương, bắt đầu đảm đương vai trị đại diện cho các trường đại học
Nhật Bản và là cầu nối trong giáo dục giữa Việt Nam với Nhật Bản. VKCO là 1
-


trong 8 Văn phòng hợp tác trên tồn thế giới của Chính phủ Nhật Bản.
Bên cạnh đó, Chính phủ Nhật Bản cũng dành một khoản viện trợ khơng hồn lại
cho việc nâng cao trang thiết bị dạy học và nghiên cứu cho các trường đại học và
các cơ quan nghiên cứu Việt Nam. Tiêu biểu có các dự án như 20: Dự án mua sắm
trang thiết bị dạy học cho trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội (nay là Đại học Hà
Nội), Dự án nâng cao cơ sở vật chất cho trường Đại học Ngoại thương, Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn (KHXH & NV) - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh (TP. HCM), Đại học Cần Thơ, Đại học Nông nghiệp I. Năm 2008, hai
bên đã ký kết viện trợ 67.000 USD cho trường Đại học Sư phạm TP. HCM nhằm
trang bị phịng nghe nhìn đa phương tiện phục vụ cho khóa học tiếng Nhật hệ
chính quy đầu tiên. Ngồi ra, cịn có các dự án viện trợ cho các viện nghiên cứu
như: Hỗ trợ cho Bảo tàng dân tộc học Việt Nam trên 64.000USD trong “Dự án
ghi âm ghi hình di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc thiểu số Việt Nam”, Hỗ trợ

-

cho Viện Hán Nôm trong việc bảo tồn thư tịch cổ,…
Ngồi ra, chương trình trao đổi sinh viên giữa các trường đại học hai nước cũng
được xúc tiến mạnh mẽ. Ví dụ, chỉ tính riêng số sinh viên Nhật Bản đến học tập tại
trường Đại học KHXH & NV - Đại học Quốc gia Hà Nội từ năm 1990 - 2003 đã
có khoảng 1.000 lượt người21. Giữa các viện nghiên cứu và trường đại học lớn của
hai nước đã có quan hệ hợp tác, trao đổi sinh viên, nghiên cứu sinh như Viện
Nghiên cứu Đông Bắc Á với trường Đại học Tokyo, Đại học Waseda, Đại học

20 Viện trợ ODA của Nhật Bản cho Việt Nam:
http:// www.mofa.go.jp/mofaj/gaiko/oda/data/gaiyou/odaproject/asia/vietnam/index_01.html [truy cập ngày

15/9/2020, lúc 21:12]
21 Ngơ Xn Bình - Trần Quang Minh (chủ biên): “Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản quá khứ, hiện tại, tương lai”,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005.


20


Kinh tế và Luật Osaka,… trường Đại học KHXH & NV Hà Nội với Đại học
Tokyo, Đại học Osaka, Đại học Kansai, Đại học Waseda,… Trường Đại học
KHXH & NV TP.HCM với Đại học Tokyo, Đại học Osaka, Đại học Thương mại
Nagoya,…

II- Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

- Thông qua nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA), đào tạo nguồn nhân lực và
xây dựng thể chế là một trong 5 lĩnh vực chủ yếu mà chính phủ Nhật Bản chủ trương hỗ
trợ cho Việt Nam. Ngoài hỗ trợ về cơ sở vật chất cho giáo dục, giao lưu học sinh, sinh
viên và các nguồn học bổng của Chính phủ như đã kể trên, Nhật Bản còn giúp các cơ
quan Việt Nam đào tạo cán bộ, nâng cao chất lượng quản lý,… Một số dự án hợp tác
được thực hiện với hình thức “hợp tác kỹ thuật” nằm trong nguồn viện trợ ODA 22 như:
Dự án bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo nhằm hiện đại hóa hành chính ngành thuế quan, được
thực hiện từ năm 2004 đến 2007; Dự án nâng cao chất lượng dịch vụ bảo hiểm y tế tỉnh
Hịa Bình từ năm 2004 đến năm 2009; Dự án nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên tại
chức từ năm 2004 đến 2007; Dự án cải cách chế độ quản lý cảng biển từ năm 2005 đến
2008,…
- Từ tháng 5/2013 thông qua các dự án hỗ trợ kỹ thuật Nhật Bản hỗ trợ Đại học Công
nghiệp Hà Nội đào tạo giáo viên dạy nghề, qua đó, hỗ trợ nâng cấp 6 trường đào tạo nghề
tại 5 tỉnh, thành phố (Hà Nội-2 trường, Hải Phịng, Vĩnh Phúc, Thanh Hóa, Bà Rịa-Vũng
Tàu). Năm 2013, Hội doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam và Bộ Lao động, Thương binh
và Xã hội đã ký Thỏa thuận hợp tác đào tạo nhân lực theo chuẩn nghề nghiệp của Nhật
Bản. Nhật Bản cũng đang giúp ta thực hiện dự án Trung tâm đào tạo logistics khu vực Mê
Công23.
22 Trần Văn Nhung, “Hợp tác giáo dục Việt Nam - Nhật Bản”, Tạp chí Hữu nghị số 49, Liên Hiệp các tổ chức hữu

nghị Việt Nam, Hà Nội, 9-2008.
23 Khoa Thư, (2020), “Mối quan hệ thân tình Việt – Nhật khi ông Shinzo Abe làm thủ tướng”, Báo Tuổi trẻ.
[truy cập
ngày 14/9/2020, lúc 22: 31]

21


- Trong những năm qua, Nhật Bản đã hỗ trợ ngành giáo dục Việt Nam thông nhiều dự án
hợp tác kỹ thuật, nâng cao năng lực đào tạo như các dự án của Trường Đại học Tây Bắc,
Đại học Đà Nẵng, Đại học Huế, Đại học Bách Khoa Hà Nội, Học viện Nông nghiệp Việt
Nam24,... Những dự án này đã, đang góp phần đáng kể vào việc cải thiện chất lượng giáo
dục đại học của Việt Nam giúp Việt Nam đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ
công cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong tiến trình đổi mới căn bản và
tồn diện giáo dục và đào tạo, Việt Nam rất cần sự hỗ trợ, giúp đỡ của các nước có nền
giáo dục tiên tiến, trong đó đặc biệt là Nhật Bản.
- Một kênh hợp tác khác là đào tạo nguồn nhân lực thông qua nguồn đầu tư trực tiếp FDI
của Nhật Bản vào Việt Nam. Với số lượng các công ty Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam
tăng hàng năm, nguồn nhân lực phục vụ trong các khu công nghiệp, chế xuất của Nhật
Bản cũng khơng ngừng tăng lên. Tính đến tháng 7/2008, tổng số vốn đầu tư đăng ký của
Nhật Bản đã lên đến 16,7 tỷ USD, giữ vị trí thứ 2/82 trong các nước và vùng lãnh thổ có
vốn đầu tư tại Việt Nam. Số lao động phục vụ cho các công ty, xí nghiệp có vốn đầu tư
của Nhật Bản vào khoảng gần 100 nghìn lao động trực tiếp và hàng trăm nghìn lao động
gián tiếp. Đây chính là cơ sở để đào tạo tay nghề, nâng cao trình độ kỹ thuật và trình độ
quản lý cho nguồn nhân lực Việt Nam. Trên thực tế, các công ty Nhật Bản cũng bỏ ra chi
phí rất lớn cho cơng tác đào tạo, và tỉ lệ lao động được đào tạo lại ở các công ty Nhật Bản
cao hơn nhiều so với các cơng ty, xí nghiệp trong nước.
2.3.2. Giai đoạn 2012 – nay.
Chính xác là từ ngày 26/12/ 2012 cho đến ngày 16/9/2020 – tức là ngày ông Shinzo Abe
tuyên thệ nhậm chức cho đến hết nhiệm kỳ của mình, Nội Các Nhật Bản tiến hành cải tổ

và bầu ra tân thủ tướng mới đương nhiệm kể từ ngày 16/9/2020 trở đi là ơng Suga
Yoshihide25, thuộc Đảng dân chủ Tự do. Vì vậy, trong giai đoạn này có thể nói một cách
24 Khoa Thư, (2020), “Mối quan hệ thân tình Việt – Nhật khi ông Shinzo Abe làm thủ tướng”, Báo Tuổi trẻ.
[truy cập
ngày 14/9/2020, lúc 22: 31]
25 Vi.wikipediadia. org, “Danh sách các đời thủ tướng Nhật Bản”. />%C3%A1ch_Th%E1%BB%A7_t%C6%B0%E1%BB%9Bng_Nh%E1%BA%ADt_B%E1%BA%A3n [truy cập
ngày 15/9/2020, lúc 16:17]

22


khái quát về hợp tác giáo dục giữa Việt Nam và Nhật Bản là: “Quan hệ hợp tác giáo dục
giữa Việt Nam và Nhật Bản dưới thời thủ tướng Shinzo Abe”.
Tiếp tục tăng cường việc trao đổi, hợp tác phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
giữa hai nước. Tăng cường giao lưu, hiểu biết lẫn nhau về văn hóa - giáo dục.
-

Hai nước đang triển khai các chương trình đào tạo con người, chương trình thanh
niên ASEAN (100 người/năm) và trao đổi các đồn văn hóa, những người người
tình nguyện, chuyên gia. Hàng năm Chính phủ Nhật viện trợ cho Việt Nam từ 1
đến 2 dự án viện trợ văn hố khơng hồn lại như thiết bị học ngoại ngữ, thiết bị

-

bảo quản tư liệu Viện Hán-Nôm, Bảo tàng Lịch sử, xưởng phim hoạt hình.
Chính phủ Nhật Bản nhận khoảng trên 100 học sinh sinh viên Việt Nam sang
Nhật Bản đào tạo hàng năm. Ngồi ra cịn có nhiều học sinh du học tự túc. Tổng

-


số lưu học sinh Việt Nam ở Nhật hiện nay khoảng hơn 1000 người26.
Chính phủ hai nước đã và đang xúc tiến những chương trình hợp tác sâu rộng về
giáo dục, về phía Việt Nam phải kể đến đề án giảng dạy tiếng Nhật tại trường
THCS và THPT bắt đầu năm 2003 góp phần đưa tiếng Nhật trở thành 1 trong 5

-

ngoại ngữ chính thức được giảng dạy trong hệ thống giáo dục quốc dân27.
Tổ chức nhiều hội thảo lớn về tăng cường phát triển về hợp tác Việt – Nhật trong
giáo dục và đào tạo. Chương trình trao đổi sinh viên giữa các trường đại học hai

-

nước cũng được xúc tiến mạnh mẽ hiện nay.
Hiện nay, trong lĩnh vực giao lưu, trao đổi học thuật, hai nước cũng thường xuyên
cử chuyên gia hợp tác trong các dự án nghiên cứu chung. Bằng nguồn tài trợ của
Chính phủ, của các cơ quan đào tạo, nghiên cứu và tổ chức cá nhân, nhiều nhà
nghiên cứu và giáo sư các trường đại học Nhật Bản đã được mời sang Việt Nam

-

thỉnh giảng và ngược lại.
Số người nghiên cứu Nhật Bản học tại Việt Nam và Việt Nam học tại Nhật Bản
cũng không ngừng tăng lên. Tuy chưa có số liệu thống kê cụ thể nhưng ước tính số

26 Vi.wikipedia.org, “Quan hệ Việt Nam – Nhật Bản”.

/>%E2%80%93_Vi%E1%BB%87t_Nam#V%E1%BB%81_v%C4%83n_h%C3%B3a_gi%C3%A1o_d
%E1%BB%A5c [truy cập ngày 15/9/2020, lúc 18: 25]
27 Đại học quốc gia Hà Nội, (2010), “VKCO – Cầu nối hợp tác giáo dục Việt – Nhật”.


/>[truy cập ngày 15/9/2020, lúc 15: 51]
23


lượng người nghiên cứu Nhật Bản ở Việt Nam hiện nay đã lên tới vài trăm người
với hàng chục cơ sở đào tạo và nghiên cứu. Ở Nhật Bản cũng có khoảng 100 nhà
nghiên cứu Việt Nam học. Đến nay, hàng trăm cơng trình nghiên cứu khoa học có
giá trị đã được xuất bản thành sách, góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau
giữa nhân dân hai nước.
2.4. Những thành tựu và kết quả đạt được
2.4.1. Những thành tựu
Hiện nay Nhật Bản là nước viện trợ khơng hồn lại lớn nhất cho ngành giáo dục, đào tạo
Việt Nam. Các chương trình học bổng có giá trị dành cho học sinh, sinh viên đi du học
nói chung và du học tại Nhật Bản nói riêng như học bổng thuộc Đề án 322 hoặc học bổng
thuộc Đề án 911 đã và đang thể hiện nỗ lực hợp tác của chính phủ Việt Nam. Về phía
Nhật Bản, chính phủ Nhật Bản nói chung và Bộ Giáo dục và Khoa học Nhật Bản nói
riêng cũng thể hiện sự quan tâm rất lớn đến sự hợp tác này. Ngoài rất nhiều suất học bổng
cho học sinh, sinh viên Việt Nam, chính phủ Nhật Bản đã và đang rất tích cực xúc tiến
hợp tác với Việt Nam thơng qua những chương trình mang tính tồn cầu như chương
trình JET, Jenesys, G30. Việc phối hợp với Việt Nam tổ chức định kỳ Hội nghị Hiệu
trưởng các trường đại học của hai quốc gia cũng là một điểm nhấn trong quan hệ hợp tác
về giáo dục giữa hai nước.
Hàng loạt mơ hình đào tạo liên kết được triển khai đã mang lại cơ hội học tập, nghiên
cứu cho cả sinh viên hai nước28. Từ tháng 9/2016, 5 trường tiểu học tại Việt Nam đã triển
khai thí điểm chương trình giảng dạy tiếng Nhật cho học sinh lớp 3. Trước đó, từ năm
2013, trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN cùng Trung tâm giao lưu văn hóa Nhật Bản
tại Việt Nam và các đơn vị tham gia thí điểm đã tổ chức tuyển giáo viên, tập huấn sư
phạm cũng như biên soạn chương trình học.


28 Tiến Vũ, (2017), “Quan hệ hợp tác giáo dục Việt Nam – Nhật Bản đạt được nhiều thành tựu nổi bậc”. Báo VTV
online.
[truy cập ngày 15/9/2020, lúc 18: 40]

24


Cũng trong năm 2016, trường Đại học Việt Nhật, trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội đã
bắt đầu tuyển sinh và đào tạo bậc thạc sỹ cho hơn 70 sinh viên 29. Ra đời vào tháng
7/2014 theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, trường Đại học Việt Nhật đã trở thành
biểu tượng cho hợp tác giáo dục giữa hai quốc gia.
Về giảng dạy Tiếng Nhật: Theo số liệu thống kê năm 2018, số lượng người học tiếng
Nhật tại Việt Nam lên tới gần 175.000 người, đứng thứ 6 trên thế giới 30. So với kết quả
điều tra lần trước vào năm 2015, tốc độ tăng số người học tiếng Nhật của Việt Nam đứng
đầu thế giới. Ngoài những hình thức phổ biến như tự học, học tại trung tâm tiếng Nhật,
trường cao đẳng/đại học thì hiện nay số lượng người Việt Nam sang Nhật dưới dạng du
học sinh, thực tập sinh kỹ năng cũng đang có xu hướng tăng.Năm 2018, tại Việt Nam có
818 đơn vị đào tạo tiếng Nhật (đứng thứ 7 trên thế giới), số giáo viên là 7.030 (đứng thứ
3

trên

thế

giới).

Theo số liệu điều tra về sinh viên nước ngoài đang theo học tại Nhật Bản do tổ chức hỗ
trợ sinh viên Nhật Bản (JASSO) đã cơng bố, tính đến thời điểm ngày 1/5/2018 tổng số du
học sinh người Việt tại Nhật lên tới con số 72.354 người31.
Ngoài ra, trong năm 2019 số người Việt Nam ở Nhật Bản với tư cách “thực tập sinh kỹ

năng” đang tăng mạnh, hiện có khoảng 190.000 người. Theo ơng Masahiro Oji, tại các
nước Đông Nam Á, giáo dục tiếng Nhật đang rất được xem trọng và Việt Nam là một
trong những mục tiêu mà “Quỹ Giao lưu quốc tế” hướng đến. Số liệu thống kê năm
2015, Việt Nam có khoảng 65.000 người học tiếng Nhật, tuy nhiên đến nay, con số này
đã tăng thêm 37,8%, kỳ thi năng lực tiếng Nhật gần đây nhất Việt Nam có tới 85.000
người tham gia, đứng thứ 4 trên thế giới, sau Trung Quốc, Hàn Quốc và Đài Loan (Trung
Quốc). Để đáp ứng nhu cầu học tiếng Nhật đang tăng nhanh, Quỹ hiện có chương trình

29 Tiến Vũ, (2017), “Quan hệ hợp tác giáo dục Việt Nam – Nhật Bản đạt được nhiều thành tựu nổi bậc”. Báo VTV
online.
[truy cập ngày 15/9/2020, lúc 18: 40]
30 Nguồn: Trang 29, “Quan hệ Việt Nam-Nhật Bản 40 năm nhìn lại và định hướng tương lai”.
31 Nguồn: Trang 29, “Quan hệ Việt Nam-Nhật Bản 40 năm nhìn lại và định hướng tương lai”.

25


×