Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Biện pháp tạm giữ theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

VÕ HÀ ANH THƯ

BIỆN PHÁP TẠM GIỮ
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

BIỆN PHÁP TẠM GIỮ
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Hình Sự và Tố Tụng Hình Sự
Định hướng nghiên cứu
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Quang Phúc
Học viên: Võ Hà Anh Thư
Lớp: Cao học Luật, Khóa 27

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021



LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tơi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Phạm Quang Phúc. Các nội
dung và kết quả nghiên cứu được là trung thực và tuân thủ các quy định về trích
dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam
đoan này.
Tác giả luận văn

Võ Hà Anh Thư


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮC

BLTTHS
BPNC
BPNCTG
CQĐT
ĐTV
KSV
TTHS
VKS

: Bộ luật Tố tụng hình sự
: Biện pháp ngăn chặn
: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ
: Cơ quan điều tra
: Điều tra viên
: Kiểm sát viên
: Tố tụng Hình sự

: Viện kiểm sát


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIỮ THEO
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ....................................................... 7
1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của việc quy định biện pháp tạm giữ......... 7
1.1.1. Khái niệm biện pháp tạm giữ..................................................................... 7
1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của việc quy định biện pháp tạm giữ .........................10
1.2. Khái quát về quá trình lập pháp tố tụng hình sự Việt Nam và pháp luật
một số nước trên thế giới về biện pháp tạm giữ ...............................................13
1.2.1. Quá trình lập pháp tố tụng hình sự ở Việt Nam về biện pháp tạm giữ ...13
1.2.2. Pháp luật về biện pháp tạm giữ trong tố tụng hình sự của một số quốc
gia trên thế giới..................................................................................................18
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ............................................................................................... 25
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN
HÀNH VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIỮ VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN
PHÁP TẠM GIỮ ............................................................................................................. 26
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp tạm giữ
...............................................................................................................................26
2.1.1. Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giữ .........................................................26
2.1.2. Đối tượng, thẩm quyền quyết định...........................................................27
2.1.3. Thủ tục, thời hạn áp dụng biện pháp tạm giữ..........................................31
2.2. Thực trạng áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sư Việt Nam về
biện pháp tạm giữ ................................................................................................36
2.2.1. Kết quả áp dụng biện pháp tạm giữ trong thời gian qua ........................36
2.2.2. Về căn cứ, thời hạn áp dụng biện pháp tạm giữ ......................................38
2.2.3. Về thẩm quyền, thủ tục áp dụng biện pháp tạm giữ ................................47
2.2.4. Thay đổi, hủy bỏ và trả tự do cho người bị tạm giữ ................................51

2.3. Hạn chế và nguyên nhân ..............................................................................55
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................................... 58


CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH
SỰ VÀ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG BIỆN
PHÁP TẠM GIỮ ............................................................................................................. 59
3.1. Những định hướng hồn thiện pháp luật Tố tụng hình sự trong thời gian
tới...........................................................................................................................59
3.1.1. Cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn đấu tranh xử lý tội phạm ............................59
3.1.2. Bảo vệ quyền con người trước hết và trên hết, trong đó có quyền của
người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ ................................................61
3.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về biện pháp tạm giữ và
giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng ................................................................63
3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về biện pháp tạm giữ .......63
3.2.2. Giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng biện pháp tạm giữ ...................68
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ............................................................................................... 71
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp tạm giữ nói riêng là một chế
định quan trọng trong pháp luật tố tụng hình sự. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
đúng có sức ảnh hưởng lớn của quá trình tố tụng hình sự, góp phần đấu tranh
phịng, chống tội phạm.
Qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về

các biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp ngăn chặn tạm giữ nói riêng, tại
Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015, biện pháp tạm giữ đã được hoàn
thiện rất nhiều trong kết cấu của mình như về căn cứ áp dụng, đối tượng bị áp
dụng, thẩm quyền ban hành, thời hạn và trình tự thủ tục ban hành đảm bảo làm sao
đầy đủ và hoàn chỉnh nhất để là cơ sở áp dụng trên thực tiễn được hồn thiện,
tránh thực tế có hành vi nhưng trong quy định pháp luật tố tụng hình sự lại khơng
có quy định, ngun tắc để điều chỉnh. Tuy nhiên không phải cứ sửa đổi, cứ bổ
sung là quy định sẽ đầy đủ hồn tồn vì theo quy luật vận động chung của toàn xã
hội và cùng với sự vận động phát triển không ngừng của nền kinh tế xã hội hiện
nay thì khơng có gì gọi là đủ. Cụ thể về căn cứ áp dụng đến BLTTHS năm 2015
(tức trải qua 03 lần sửa đổi) thì căn cứ áp dụng biện pháp tạm giữ vẫn còn chung
chung, chưa có điều khoản quy định một căn cứ cụ thể, dành riêng cho tạm giữ, do
đó những vi phạm từ q tình áp dụng có thể kể đến như: tạm giữ người khơng có
căn cứ theo quy định của BLTTHS, áp dụng biện pháp tạm giữ không đúng thẩm
quyền, khơng tn thủ quy định về trình tự và thủ tục và cịn xảy ra tình trạng q
hạn tạm giữ theo quy định của pháp luật. Thậm chí cơ quan điều tra (CQĐT) còn
lạm dụng việc áp dụng biện pháp tạm giữ như một giải pháp để tạo thuận lợi cho
hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ. Từ những phân tích trên cho thấy, quy định
về biện pháp tạm giữ còn tồn tại những bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp, yêu cầu bảo vệ công lý. Từ yếu tố về quy định pháp luật và yếu tố nhận thức
thực tiễn có thể thấy việc quy định chưa đầy đủ, cách hiểu chưa thống nhất, chưa
có sự tuyên truyền, phổ biến về biện pháp tạm giữ sẽ dẫn đến những hạn chế của
quá trình áp dụng pháp luật từ đó làm giảm hiệu quả áp dụng, ảnh hưởng đến hiệu
quả của hoạt động tố tụng, đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Trước
tình hình đó, tác giả nhận thấy việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định
của pháp luật cũng như đánh giá, bình luận những tình huống từ thực tiễn liên


2
quan đến biện pháp tạm giữ nhằm chỉ ra những khó khăn, vướng mắc và bất cập

và đưa ra các kiến nghị để hoàn thiện biện pháp này khi áp dụng vào thực tiễn là
việc làm cần thiết.
Vì vậy, tác giả quyết định chọn đề tài: “Biện pháp tạm giữ theo luật tố tụng
hình sự Việt Nam” để làm đề tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đối với đề tài về biện pháp ngăn chặn tạm giữ qua khảo sát tác giả nhận thấy
đã có một số tác giả nghiên cứu, tuy nhiên việc nghiên cứu riêng rẽ đối với biện
pháp tạm giữ thì chỉ tập có số ít tác giả đã nghiên cứu mà đa phần các tác giả nghiên
cứu về các biện pháp ngăn chặn và trong đó sẽ lồng ghép biện pháp tạm giữ cùng
những biện pháp khác hoặc một số đề tài chọn cách so sánh giữa tạm giữ và một
biện pháp khác nhằm làm nổi bật vai trị, vị trí của một biện pháp khác tùy vào mục
đích của từng đề tài, từng tác giả. Cụ thể ở các đề tài như:
- Luận văn Thạc sỹ luật học “Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giam
trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam”, năm 2004 của tác giả Lê Đông Phong;
“Các biện pháp ngăn chặn và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp
ngăn chặn tại Thành phố Hồ Chí Minh”, năm 2003 của tác giả Lê Ngọc Tiến;
“Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn
tỉnh Vĩnh Phúc”, năm 2018 của tác giả Khổng Minh Qn. Nhìn chung, các cơng
trình nghiên cứu về những vấn đề cơ bản của biện pháp ngăn chặn nói chung và
trong đó lồng ghép giới thiệu về biện pháp tạm giữ. Những cơng trình này đã đề
cập từ những quy định chung nhất như về khái niệm biện pháp ngăn chặn đến
những căn cứ áp dụng, đối tượng áp dụng, thời hạn và thẩm quyền áp dụng của
biện pháp tạm giữ tuy nhiên mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu khái quát về mặt
lý luận, chưa có đánh giá tổng quan và cũng nêu được những khó khăn, vướng
mắc trong thực tiễn.
- Luận văn Thạc sỹ luật học “Biện pháp tạm giữ đối với người dưới 18 tuổi
theo luật tố tụng hình sự Việt Nam”, năm 2020 của tác giả Nguyễn Minh Tuấn
nghiên cứu về mặt lý luận cũng như có lồng ghép đánh giá thực tiễn áp dụng quy
định của pháp luật về biện pháp tạm giữ. Trong đó, cơng trình đã đề cập đến căn cứ,
thẩm quyền và thời hạn tạm giữ những chỉ tập trung trong giới hạn đối với chủ thể

áp dụng là người dưới 18 tuổi.
- Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật “Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn
trong pháp luật tố tụng hình sự” năm 2009 của Trần Thanh Bình nghiên cứu về mặt


3
lý luận, chỉ ra những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn của quy định pháp luật tố
tụng hình sự về căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn cụ thể trong đó có vấn đề về
căn cứ áp dụng biện pháp tạm giữ.
- Bài viết về “Hoàn thiện quy định về tạm giữ trong Bộ luật tố tụng hình
sự Việt Nam” của tác giả Hoàng Văn Hạnh trên Tạp chí Luật học (số 7) năm
2008; bài viết “Phân biệt tạm giữ người theo thủ tục tố tụng hình sự và tạm giữ
người theo thủ tục hành chính” của tác giả Mai Bộ trên Tạp chí Kiểm sát (số 01)
năm 2006.
- Bài viết “Các biện pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự Cộng hịa liên bang Đức” của tác giả Hoàng Thị Quỳnh Chi trên Cổng thông tin
điện tử của Viện khoa học kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Bài viết “Báo
cáo tham khảo pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới” do Viện
kiểm sát nhân dân tối cao ban hành vào tháng 4, năm 2015; bài viết “Thời hạn trong
pháp luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới” của tác giả Hoàng Anh Tuyên
trên Tạp chí Khoa học kiểm sát (số 3) năm 2014. Các bài viết đã cơ bản giới thiệu
được những quy định liên quan đến biện pháp ngăn chặn nói chung của một số quốc
gia. Tuy nhiên, đối với biện pháp tạm giữ (BPTG) chỉ giới thiệu khơng giới thiệu
tồn diện mà chỉ tập trung vào những vấn đề liên quan đến bảo vệ quyền của người
bị áp dụng biện pháp ngăn chặn.
- Tài liệu hội thảo về “Biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự” của
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh ban hành (Tháng 10) năm 2020; Tài
liệu tập huấn “Một số kinh nghiệm và giải pháp nâng cao chất lượng kiểm sát tạm
giữ, tạm giam và thi hành án hình sự” của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao 2 ban
hành năm 2018. Đây là những tài liệu liên quan đến biện pháp tạm giữ. Tuy nhiên,

các tài liệu chỉ mới dừng lại ở gốc độ phân tích những quy định, bình luận một số
điểm hạn chế trong quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, đồng thời cũng đưa ra
những kiến nghị, giải pháp khắc phục, nhưng nhìn chung vẫn chưa đánh giá một
cách tồn diện và đầy đủ.
Tóm lại, trên tinh thần tiếp thu kết quả nghiên cứu của các công trình khoa
học, bài viết, tài liệu hội thảo, tác giả sẽ kế thừa và phát triển, mở rộng với mong
muốn nghiên cứu, đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện hơn về biện pháp tạm giữ
nói riêng dưới gốc nhìn từ lý luận đến thực tiễn, từ đó đưa ra những kiến nghị hoàn
thiện và giải pháp nhằm khắc phục những thiếu sót để đáp ứng mục đích đấu tranh
phịng, chống tội phạm.


4
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu để làm rõ những vấn đề lý luận, quy định của pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp tạm giữ, khảo sát đánh giá thực trạng áp
dụng biện pháp này, từ đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp để hoàn thiện pháp luật về
biện pháp tạm giữ, đồng thời nâng cao hiệu quả áp dụng, góp phần đấu tranh phòng,
chống tội phạm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích đã nêu ở trên thì tác giả đề ra một số nhiệm vụ
cụ thể như:
- Nghiên cứu, phân tích làm sáng tỏ những vấn đề mang tính lý luận như khái
niệm, đặc điểm, ý nghĩa của biện pháp tạm giữ.
- Bình luận, đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về
biện pháp tạm giữ như: Căn cứ áp dụng, đối tượng bị áp dụng, thẩm quyền, thời hạn
và thủ tục áp dụng.
- Khảo sát đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về biện
pháp tạm giữ nhằm chỉ ra những tồn tại, vướng mắc, hạn chế và nguyên nhân trong

thực tiễn áp dụng.
- Kiến nghị bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện các quy định của pháp luật về biện
pháp tạm giữ đồng thời đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng trên thực
tiễn thi hành.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận, quy định của pháp
luật tố tụng hình sự và thực tiễn áp dụng biện pháp tạm giữ trong Tố tụng hình sự.
Tuy nhiên, đề tài hạn chế ở giới hạn nghiên cứu biện pháp tạm giữ dành cho người
dưới 18 tuổi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài tập trung nghiên cứu biện pháp tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam, bên cạnh đó có nghiên cứu, tham khảo pháp luật tố tụng hình sự của
một số nước như: Cộng hịa Liêng bang Nga, Cộng hòa Đức và Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa ở một số nội dung như căn cứ áp dụng, thẩm quyền và thời hạn áp dụng.
- Về không gian, thời gian: Tiến hành khảo sát đánh giá thực trạng áp dụng
các quy định của biện pháp tạm giữ trên phạm vi cả nước, tuy nhiên do điều kiện


5
công tác nên tập trung nghiên cứu tại Thành phố Hồ Chí Minh thời gian từ năm
2016 đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây
dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, về cải cách tư pháp trong giai đoạn
hiện nay.
Trong quá trình nghiên cứu tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cụ thể như: Khảo sát, phân tích, tổng hợp, thống kê và nghiên cứu những vụ án điển
hình trong đó:

- Phướng pháp phân tích, tổng hợp dùng để phân tích, đánh giá các quy định
của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp tạm giữ. Ở kết thúc mỗi chương đều sử
dụng phương pháp tổng hợp để tóm tắt nội dung từng chương và kết luận chung.
- Phương pháp nghiên cứu điển hình vụ án cụ thể để nhận xét, đánh giá thực
tiễn áp dụng biện pháp tạm giữ trên thực tế.
6. Ý nghĩa khoa học của đề tài
-Về mặt lý luận: Tạo cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng,
chống tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, nâng cao niềm tin
của nhân dân với Đảng và Nhà nước và đặc biệt là với các cơ quan tư pháp.
- Về mặt thực tiễn: Từ việc phân tích các quy định của pháp luật đồng thời
chỉ ra và đánh giá được những hạn chế, vướng mắc, khó khăn trong q trình áp
dụng các quy định đó giúp nhà làm luật có cái nhìn khách quan, tồn diện và có
những hướng khắc phục để từ đó quay trở lại điều chỉnh các quy định trên thực tiễn
được đầy đủ, chính xác hơn.
- Về mặt lập pháp: Trên cơ sở chỉ ra những hạn chế, thiếu sót, khó khăn trong
thực tiễn áp dụng để nhằm thúc đẩy các cơ quan xây dựng pháp luật nhanh chóng
hồn thiện hơn nữa quy định pháp luật tố tụng hình sự nói chung và quy định về
biện pháp tạm giữ nói riêng.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục đề tài tham khảo thì luận văn được
kết cấu như sau:
Chương 1. Nhận thức chung về biện pháp tạm giữ theo pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam.


6
Chương 2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về biện pháp
tạm giữ và thực trạng áp dụng biện pháp tạm giữ.
Chương 3. Định hướng hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự và kiến nghị,
giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tạm giữ.



7
CHƯƠNG 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIỮ
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của việc quy định biện pháp tạm giữ
1.1.1. Khái niệm biện pháp tạm giữ
Biện pháp tạm giữ là một biện pháp ngăn chặn (BPNC) được quy định từ rất
lâu trong pháp luật TTHS của nước ta như ở Điều 68 của BLTTHS 1988, Điều 86
của BLTTHS 2003 và Điều 117 của BLTTHS năm 2015. Tuy nhiên, đến nay vẫn
chưa có một khái niệm chung thống nhất về biện pháp tạm giữ, dẫn đến có nhiều
cách hiểu chưa thống nhất. Vì biện pháp tạm giữ là một trong những biện pháp ngăn
chặn nên có thể hiểu biện pháp tạm giữ ở những gốc độ như:
Theo Giáo trình Luật TTHS của Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh đưa ra khái niệm BPNC thì: “BPNC là những biện pháp cưỡng chế do pháp
luật tố tụng hình sự quy định và được áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc người
chưa bị khởi tố hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã
hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, hoặc có những hành động gây khó khăn
cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự”1. Khái niệm này đã chỉ ra
được đối tượng có thể bị áp dụng và mục đích của việc áp dụng BPNC, tuy nhiên
khơng nêu ra những chủ thể có thẩm quyền áp dụng BPNC.
Giáo trình Luật TTHS của Trường đại học Luật Hà Nội đưa ra khái niệm
BPNC như sau: “BPNC là biện pháp cưỡng chế trong TTHS được áp dụng đối với
bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc đối với người chưa bị khởi tố (trong trường
hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang) nhằm ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội
của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi cản
trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án”2. Khái niệm này đã trình bày
được những đối tượng có thể bị áp dụng, mục đích và căn cứ của việc áp dụng
BPNC nhưng lại chưa nêu được những chủ thể có thẩm quyền áp dụng BPNC.

Quan điểm của tác giả Nguyễn Đức Mai cho rằng: “BPNC là những biện
pháp tố tụng do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị buộc tội
(bao gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) khi có căn cứ do Bộ luật
này quy định, nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn bị can, bị cáo gây khó
1
2

Trường Đại học Luật TPHCM (2013), Giáo trình Luật TTHS, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, tr. 259
Trường đại học Quốc Gia Hà Nội (2014), Giáo trình Luật TTHS Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc Gia, Hà Nội.


8
khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hoặc ngăn ngừa họ tiếp tục
phạm tội”3.
Quan điểm của tác giả Phạm Mạnh Hùng cho rằng: “BPNC là biện pháp do
cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng đối với người bị nghi là
thực hiện tội phạm, bị can, bị cáo nhằm ngăn chặn việc người đó bỏ trốn, tiêu hủy
chứng cứ, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc sẽ tiếp
tục phạm tội”4.
Qua các quan điểm khoa học nêu trên tác giả đưa ra một nhận xét rằng nhìn
chung các tác giả đã nêu ra được các yếu tố cần có của một biện pháp ngăn chặn
như về chủ thể áp dụng, đối tượng áp dụng, mục đích và ý nghĩa của việc áp dụng
BPNC. Vây nên, tổng hòa của các quan điểm trên khái niệm về BPNC được hiểu
như sau:
BPNC là một trong những biện pháp cưỡng chế được quy định trong luật
TTHS, do cơ quan có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị truy nã,
người bị kết án hoặc người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm
tội quả tang) nhằm kịp thời ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ,
ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội mới, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây cản
trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.

Xét trên phương diện pháp lý (từ BLTTHS năm 1988 đến khi BLTTHS năm
2015 có hiệu lực) thì cho đến hiện nay pháp luật tố tụng hình sự nước ta vẫn chưa
có một khái niệm chính thức về biện pháp tạm giữ. Nghiên cứu các cơng trình khoa
học cho thấy có nhiều tác giả đưa ra các quan điểm khác nhau về khái niệm tạm giữ
trong pháp luật tố tụng hình sự, một số quan điểm tiêu biểu như:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Tạm giữ là một biện pháp ngăn chặn được quy
định trong BLTTHS do cơ quan và người có thẩm quyền áp dụng nhằm kịp thời ngăn
chặn người phạm tội khơng gây khó khăn cho cơng tác điều tra, truy tố, xét xử, không
tiếp tục thực hiện tội mới và khi cần thiết còn đảm bảo cho việc thi hành án”5.
Quan điểm thứ hai cho rằng: “Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự người có thẩm quyền của cơ quan điều tra và các cơ quan khác do pháp
luật quy định áp dụng, tạm thời hạn chế tự do thân thể trong thời hạn ngắn đối với
người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú,
Nguyễn Đức Mai (2019), Bình luận khoa học Bộ luật TTHS, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 169.
Phạm Mạnh Hùng (2019), Bình luận khoa học Bộ luật TTHS năm 2015,Nxb. Lao động, Hà Nội, tr. 221
5
Võ Bình Vương (2019), Kiểm sát việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam từ thực tiễn Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sỹ, Học viện khoa học xã hội, tr.8.
3
4


9
đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã nhằm ngăn chặn tội phạm,
ngăn chặn hành vi cản trở hoạt động điều tra của người bị tạm giữ, bảo đảm cho
Cơ quan điều tra có thời gian tiến hành các hoạt động điều tra ban đầu để trên
cơ sở đó ra các quyết định tố tụng như khởi tố bị can, tạm giam, áp dụng các biện
pháp ngăn chặn khác hoặc trả tự do cho họ”6.
Theo bài viết đăng trên trang của Tòa án nhân dân tối cao nhận định: Tạm giữ là
một trong những biện pháp ngăn chặn trong TTHS và là một biện pháp cưỡng chế

nghiêm khắc do những người có thẩm quyền quyết định, khi được áp dụng sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân, hạn chế tự do thân thể trong một
thời hạn nhất định đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả
tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã7.
Căn cứ vào các quan điểm về khái niệm tạm giữ trên có thể thấy mỗi cách
tiếp cận đều phản ánh đúng bản chất, đặc điểm và ý nghĩa của biện pháp tạm giữ
trong pháp luật tố tụng hình sự. Quan điểm thứ nhất đã nêu được đầy đủ thẩm
quyền áp dụng và mục đích của biện pháp tạm giữ, tuy nhiên còn thiếu đối tượng áp
dụng của biện pháp tạm giữ. Quan điểm thứ hai đã nêu được đầy đủ hơn về tính
chất pháp lý, thẩm quyền áp dụng, đối tương bị áp dụng và mục đích của biện pháp
tạm giữ trong tố tụng hình sự. Quan điểm thứ hai cũng đã nêu thêm về thời gian áp
dụng biện pháp tạm giữ “trong thời hạn ngắn”, tuy nhiên đây là nhận định chưa
hồn tồn chính xác. Theo quy định tại BLTTHS hiện hành thì thời hạn tạm giữ là
khơng q ba ngày kể từ ngày cơ quan có thẩm quyền nhận người hoặc ra quyết
định tạm giữ trong trường hợp người phạm tội tự thú, đầu thú. Trường hợp cần thiết
cơ quan có thẩm quyền gia hạn hai lần nhưng mỗi lần gia hạn không quá ba ngày.
Như vậy, để đảm bảo tính chính xác và ngơn ngữ pháp lý trong khái niệm biện pháp
tạm giữ không nên dùng cụm từ “trong thời hạn ngắn”. Song qua quá trình tìm hiểu
các quy định pháp luật liên quan đến biện pháp tạm giữ và một số quan điểm trong
cơng trình nghiên cứu khóa học cho thấy quan điểm thứ hai nêu trên đã đưa ra một
khái niệm khá đầy đủ, chi tiết, thể hiện được vị trí, vai trị, thẩm quyền áp dụng, đối
tượng áp dụng của biện pháp tạm giữ trong pháp luật tố tụng hình sự.
Lưu Xuân Lợi (2017), Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực
tiễn thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội, tr.10.
7
Tòa án nhân dân tối cao “Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng về biện pháp ngăn
chặn tạm giữ”, />1909&article_details=1&item_id=18316812#:~:text=T%E1%BA%A1m%20gi%E1%BB%AF%20l%C3%A
0%20m%E1%BB%99t%20trong,b%E1%BB%8B%20b%E1%BA%AFt%20trong%20tr%C6%B0%E1%BB
%9Dng%20h%E1%BB%A3p, truy cập ngày 17/8/2020.
6



10
Theo đó, Giáo trình Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam của Trường Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh nhận định: Tạm giữ là một biện pháp ngăn chặn trong
tố tụng hình sự do những người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm
tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã8.
Kế thừa những quan điểm trên cũng với các quy định pháp luật tố tụng hình
sự hiện hành, tác giả đưa ra khái niệm về biện pháp tạm giữ như sau: “Tạm giữ là
biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan hoặc người có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật TTHS áp dụng, tạm thời hạn chế tự do thân thể trong
thời hạn luật định đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt
trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với
người bị bắt theo quyết định truy nã nhằm ngăn chặn hành vi phạm tội, bảo đảm
cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đúng quy định của pháp luật.
1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của việc quy định biện pháp tạm giữ
*Mục đích
Tiếp tục thực hiện mục đích của biện pháp bắt người, đó là tiếp tục ngăn chặn
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị
truy nã, người phạm tội tự thú, đầu thú không để họ tiếp tục, tạo điều kiện phạm tội.
Tạo điều kiện thời gian và điều kiện khác cho cơ quan điều tra, cơ quan tiến
hành một số hoạt động điều tra làm rõ hành vi phạm tội hoặc vô tội.
Bảo đảm thực hiện đúng đắn một số nguyên tắc cơ bản trong TTHS, như:
ngun tắc suy đốn vơ tội (Điều 13), nguyên tắc xác định sự thật vụ án (Điều 15),
nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều tra (Điều 19).
Tạm giữ là một trong những biện pháp ngăn chặn được quy định cụ thể tại
chương VII BLTTHS 2015. Theo đó, Điều 109 BLTTHS quy định mục đích của biện
pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là “để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có
căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử

hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án”. Biện pháp tạm giữ được áp
dụng đối với bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người trong trường hợp
phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú để ngăn chặn hành vi phạm tội, hành
vi trốn tránh pháp luật, cản trở hoạt động điều tra của người bị tạm giữ, tạo điều kiện
cho cơ quan có thẩm quyển có đủ thời gian để xác định tính chất, mức độ của hành vi;
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất
bản Hồng Đức, tr.295.
8


11
nhân thân của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, từ đó có cơ sở để quyết
định khởi tố hoặc khơng khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can hoặc các quyết định pháp
lý cần thiết khác như: tạm giam, áp dụng hoặc trả tự do cho người bị tạm giữ.
* Ý nghĩa
Với mục đích là để ngăn chặn tội phạm, đảm bảo quá trình điều tra, xét xử thi
hành án trong tố tụng hình sự, biện pháp tạm giữ có ý nghĩa to lớn trong cơng cuộc
đấu tranh, phịng chống tội phạm, đảm bảo quyền con người, quyền cơng dân và trật
tự an tồn xã hội.
Thứ nhất, biện pháp tạm giữ thể hiện quyền lực Nhà nước trong cơng cuộc
đấu tranh, phịng chống tội phạm
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 có quy định:
“Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội
bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”9. Nhà nước
đại diện cho nhân dân, thực hiện quyền quản lý trên cơ sở Nhân dân làm chủ, tất cả là
của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Trong khi đó, các hành vi phạm tội ảnh
hưởng đến sự ổn định và phát triển của Nhà nước, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, xã
hội, quốc phịng an ninh và trật tự an tồn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự con người và các lĩnh vực khác. Chính

vì vậy, đấu tranh phịng chống tội phạm là một trong những nhiệm vụ quan trọng
giúp thúc đẩy phát triển nền kinh tế quốc gia và ổn định trật tự xã hội. Cơng cuộc đấu
tranh này địi hỏi phải có sự tham gia của cả các cơ quan chức năng và tồn thể xã
hội. Trong đó, Nhà nước trao quyền quyết định cho các cơ quan tiến hành tố tụng mà
nồng cốt là cơ quan điều tra. Điều 18, BLTTHS năm 2015 xác định: “Khi phát hiện
hành vi có dấu hiệu tội phạm, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm khởi tố vụ án, áp dụng các biện pháp
do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội, pháp nhân
phạm tội. Không được khởi tố vụ án ngồi những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ
luật này quy định”. Trong quá trình giải quyết, điều tra các hành vi phạm tội, các cơ
quan chức năng có thẩm quyền được quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói
chung và biện pháp tạm giữ nói riêng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Thứ hai, việc quy định biện pháp tạm giữ trong tố tụng hình sự có tác dụng
trực tiếp đến q trình điều tra cũng như giải quyết vụ án hình sự.
9

Điều 8 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Quốc Hội.


12
Tạm giữ có ý nghĩa là biện pháp đảm bảo cho quá trình giải quyết vụ án, đặc
biệt là hoạt động điều tra ban đầu. Thông qua việc áp dụng biện pháp tạm giữ, các
cơ quan chức năng có điều kiện, thời gian để thu thập thông tin, xác định các tình
tiết phạm tội để làm căn cứ cho việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can hoặc trả tự do cho
người bị bắt giữ trong trường hợp không có yếu tố tội phạm. Tạm giữ giúp q trình
xác định tội phạm diễn ra nhanh chóng, chính xác và làm tiền đề cho hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử của cơ quan có thẩm quyền.
Thứ ba, việc quy định biện pháp tạm giữ thể hiện nguyên tắc tôn trọng và bảo
vệ quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp và pháp luật.
Trong các quyền của con người thì có quyền được sống, được bảo vệ về tính

mạng, sức khỏe danh dự, nhân phẩm đóng vai trị vơ cùng quan trọng. Điều 20 Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 có quy định: “Mọi
người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ,
danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ
hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân
phẩm”. Đồng thời, Nhà nước chỉ được can thiệp vào các quyền con người, quyền
công dân theo đúng quy định của pháp luật bởi Khoản 2 Điều 20 của Hiến pháp đã
xác định: “Khơng ai bị bắt nếu khơng có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết
định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả
tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định”.
Khi áp dụng biện pháp tạm giữ, các cơ quan chức năng phải tuân theo đúng
quy định của pháp luật để đảm không xâm phạm trái phép quyền con người, quyền
cơng dân. BLTTHS 2015 cũng có nhiều quy định cụ thể hóa để đảm bảo quyền con
người, quyền cơng dân như: Nghiêm cấm tra tấn, bức cung, dùng nhục hình hay bất
kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, tính mạng, sức khỏe của con người
(Điều 9, Điều 10 BLTTHS năm 2015); Bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, tài sản của công dân, cá nhân, theo đó mọi người (cả người bị tạm giữ) có
quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản.
Mọi hành vi xâm phạm trái pháp luật tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài
sản của cá nhân đều bị xử lý theo pháp luật (Điều 11 BLTTHS năm 2015); Nếu xét
thấy việc tạm giữ khơng có căn cứ hoặc khơng cần thiết thì Viện kiểm sát (VKS) ra
quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do
ngay cho người bị tạm giữ (Khoản 4, Điều 117).


13
Việc quy định và áp dụng biện pháp tạm giữ một mặt thể hiện quyền quản
lý của Nhà nước đối với những hành vi phạm tội theo quy định của pháp luật.
Mặc khác lại là một phương tiện hữu hiệu bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích xã
hội, quyền và lợi ích hợp pháp của các cơng dân.

1.2. Khái quát về quá trình lập pháp tố tụng hình sự Việt Nam và pháp
luật một số nước trên thế giới về biện pháp tạm giữ
1.2.1. Quá trình lập pháp tố tụng hình sự ở Việt Nam về biện pháp tạm giữ
* Giai đoạn từ sau cách mạng tháng tám năm 1945 đến năm 1988
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành cơng đã lật đổ hồn tồn bộ máy nhà
nước phong kiến và dẫn đến sự ra đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Đây là cột mốc lịch sử quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển Nhà nước
pháp quyền Việt Nam XHCN. Cùng với đó, ngày 09/11/1946 Hiến pháp nước Việt
Nam được ban hành. Đây chính là khởi đầu cho q trình lập pháp về biện pháp tạm
giữ trong lịch sử hình thành và phát triển pháp luật tố tụng ở nước ta. Điều 11 Hiến
pháp năm 1946 quy định: “Tư pháp chưa quyết định, thì khơng bắt bớ và giam cầm
người cơng dân”. Cụ thể hóa tư tưởng chỉ đạo của Hiến pháp năm 1946, Sắc lệnh
13/SL ngày 24/01/1946 ra đời trong đó có một số nội dung quy định liên quan về biện
pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp tạm giữ nói riêng, cụ thể như:
- Tại Điều thứ 4 Sắc lệnh 13/SL ngày 24/01/1946 quy định: “Ban tư pháp
xã không có quyền tịch thu tài sản của ai. Cũng khơng có quyền bắt bớ, giam giữ ai
trừ khi có trát nã của một thẩm phán, hay khi thấy người phạm tội quả tang”.
- Điều thứ 5 của Sắc lệnh quy định về thời gian tạm giữ là “Khi bắt người
trong hai trường hợp kể trên, ban Tư pháp phải lập biên bản hỏi cung, và giải bị can
lên ngay Toà án trên, trong hạn 24 giờ là cùng”.
Mặc dù không quy định cụ thể về biện pháp tạm giữ trong pháp luật tố tụng
hình sự nhưng đã có một số quy định về căn cứ áp dụng khi bắt, giam giữ người
trong hai trường hợp là trát nã của thẩm phán hay phạm tội quả tang. Thời gian bắt,
giữ người cũng được Sắc lệnh quy định là không quá 24 giờ10.
Ngày 31/12/1959, Quốc hội ban hành Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ
cộng hịa năm 1959. Theo đó, Hiến pháp năm 1959 quy định: “Quyền bất khả
xâm phạm về thân thể của công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hịa được bảo
đảm. Khơng ai có thể bị bắt nếu khơng có sự quyết định của Tịa án nhân dân hoặc
sự phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân”.
10


Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hịa, Sắc lệnh 13/SL ngày 24/01/1946, Điều thứ 5.


14
Tại miền Nam nước ta, ngày 15/03/1976 Hội đồng Chánh phủ cách mạng
lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc luật số 02/SL-76. Theo
đó, Sắc luật cũng có một số quy định liên quan đến việc bắt giữ, giam và khám
người và nhà ở của công dân như sau: “Việc bắt, giam, khám người, khám nhà ở,
khám đồ vật phải có lệnh viết của cơ quan có thẩm quyền, trừ trường hợp phạm
tội quả tang và trường hợp khẩn cấp quy định ở các điều 2 và 3 dưới đây; Viện
kiểm sát nhân dân là cơ quan có quyền ra lệnh bắt, giam, khám người, khám nhà
ở, đồ vật trong những vụ án hình sự; Tịa án nhân dân có quyền ra lệnh bắt, giam
người phạm tội trong những vụ án hình sự đang thụ lý; Trưởng, phó cơ quan An
ninh từ cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trở lên có quyền ra lệnh bắt
giam, khám người, khám nhà ở, khám đồ vật của người phạm tội; lệnh đó phải
được sự phê chuẩn trước của Viện kiểm sát nhân dân nếu là vụ án hình sự, hoặc
Ủy ban cách mạng cùng cấp, nếu là trường hợp tập trung cải tạo”11.
Cùng với đó, Điều 69 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1980 tiếp tục quy định: “Cơng dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể.
Khơng ai có thể bị bắt, nếu khơng có quyết định của Tồ án nhân dân, quyết định
hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân”.
Căn cứ theo quy định trên có thể thấy, Sắc luật số 02/SL-76 ngày 15/03/1976
và Hiến pháp năm 1980 đã cho thấy một bước tiến mới trong quy định pháp luật về
quyền con người, các quy định liên quan đến bắt, giữ, tạm giam và khám xét người,
nhà ở, đồ vật. Trong đó đã mở rộng thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn
và cưỡng chế trong tố tụng hình sự. Ngồi Tịa án và VKSND thì Ủy ban nhân dân
cách mạng, TAND và cơ quan An ninh từ cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh trở lên đối với việc bắt, giam, khám người, khám nhà ở, khám đồ vật.
Nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự giai đoạn từ Cách mạng tháng tám năm

1945 đến năm 1988 cho thấy chưa có quy định cụ thể về biện pháp ngăn chặn nói
chung và biện pháp tạm giữ trong giải quyết vụ án hình sự nói chung. Các quy định
liên quan đến bắt giữ, tạm giam được quy định rải rác tại một số văn bản luật nhưng
còn rất sơ sài về căn cứ áp dụng, đối tượng, thẩm quyền cũng như thời hạn áp dụng.
* Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 2003
Bước vào công cuộc khôi phục nền kinh tế đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã
có nhiều định hướng đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xóa bỏ cơ chế tập trung quan
Hội đồng chánh phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền nam Việt Nam, Sắc luật số 02/SL-76 ngày
15/5/1976 quy định về việc bắt, giam, khám người, khám nhà ở, khám đồ vật, Điều 1.
11


15
liêu bao cấp, xây dựng cơ chế xã hội chủ nghĩa theo ngun tắc tập trung dân chủ.
Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải đổi mới cơ chế chính trị, hệ thống lập pháp trong
đó thắt chặt các hành vi phạm tội nhằm mục đích tăng cường an ninh, ổn định trật tự
xã hội và phát triển nền kinh tế quốc gia. Hiện nay, các quy định pháp luật về tố tụng
hình sự trong đó liên quan đến các thủ tục về điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án ở
nước ta còn rất sơ sài và nằm rải rác tại nhiều văn bản luật khác nhau. Cần thiết phải
xây dựng một văn bản chung để điều chỉnh đồng bộ các quan hệ liên quan đến pháp
luật tố tụng hình sự. Qua nhiều kỳ họp và lấy ý kiến xây dựng, ngày 28/6/1988, Quốc
hội nước Cộng hịa XHCN Việt Nam, khóa VIII đã thơng qua BLTTHS có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/01/1989. Theo đó, BLTTHS năm 1988 đã có quy định cụ thể
riêng một chương, với 14 điều luật từ Điều 61 đến Điều 77 để điều chỉnh những nội
dung cơ bản của hệ thống các BPNC, trong đó có biện pháp tạm giữ. BLTTHS 1988
bộ luật đầu tiên có quy định cụ thể về biện pháp tạm giữ. Cùng với đó là nhiều điểm
mới, ưu việt so với các quy định trước đây về biện pháp tạm giữ trong pháp luật tố
tụng hình sự.
So với các quy định trước đây về biện pháp tạm giữ, BLTTHS 1988 là một
bước tiến mới trong việc quy định cụ thể và riêng biệt thành một điều luật về biện

pháp này. Bộ luật đã quy định cụ thể căn cứ, đối tượng áp dụng, thẩm quyền và thời
hạn áp dụng cụ thể đối với trường hợp áp dụng biện pháp tạm giữ. Trước đây các
văn bản luật chỉ có những quy định chung về việc bắt giữ, giam và khám xét người,
nhà ở, đồ vật. Tuy nhiên, quá trình thi hành BLTTHS 1988 cũng bộc lộ nhiều điểm
vướng mắc, bấp cập như:
Về đối tượng áp dụng biện pháp tạm giữ, BLTTHS 1988 chỉ quy định áp
dụng đối với hai trường hợp là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp và người bị
bắt trong trường hợp phạm tội quả không để cập đến tạm giữ đối với người bị bắt
trong trường hợp truy nã. Điều này gây khó khăn cho các cơ quan chức năng khi
tạm giữ các đối tượng bị bắt theo lệnh truy nã. Khắc phục vướng mắc trên, Thông
tư liên ngành số 03/TTLN ngày 7/1/1995 ra đời quy định bổ sung quy định áp dụng
biện pháp tạm giữ đối với các đối tượng bị bắt theo lệnh truy nã để đảm bảo công
tác đấu tranh, phòng chống tội phạm được thi hành tốt hơn.
Về thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giữ: Theo quy định tại điều 63
BLTTHS năm 1988 thì người có thẩm quyền ra lệnh tạm giữ là Thủ trưởng, Phó thủ
trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh và cấp quân khu trở lên, Trưởng Cơng an, Phó
trưởng Cơng an cấp huyện. Tuy nhiên thì thẩm quyền bắt khẩn cấp lại thêm cả người


16
chỉ huy máy bay, tàu biển khi máy bay, tàu biển đã rời sân bay, bến cảng; chỉ huy đơn
vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở
hải đảo, biên giới. Như vậy, trong trường hợp bắt người khẩn cấp đối với người chỉ
huy máy bay, tàu biển máy bay, bến cảnh chỉ huy đơn vị độc lập cấp trung đoàn và
tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo, biên giới luật nhưng BLTTHS
không quy định cho các đối tượng này được quyền áp dụng biện pháp tạm giữ dẫn
đến việc bắt xong lại khơng biết ai có quyền ra lệnh tạm giữ. Để khắc phục hạn chế
này, ngày 30/6/1990 Quốc hội đã sửa đổi BLTTHS năm 1988, trong đó có sửa đổi
Điều 68. Theo đó, những người có thẩm quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại
Khoản 2 Điều 63 BLTTHS cũng có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giữ.

* Giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2015
Ngày 26/11/2003, Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
X đã ban hành BLTTHS 2003 thay thế BLTTHS 1988. Theo đó, BLTTHS 2003
cũng có những quy định cụ thể, chi tiết về biện pháp ngăn chặn nói chung và biện
pháp tạm giữ trong pháp luật tố tụng hình sự nói chung.
Về đối tượng và thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giữ được quy định tại
Điều 86 BLTTHS 2003:
“1. Tạm giữ có thể được áp dụng đối với những người bị bắt trong trường
hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người
bị bắt theo quyết định truy nã.
Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 81 của
Bộ luật này, Chỉ huy trưởng vùng Cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ.”
Về thời hạn áp dụng biện pháp tạm giữ, Điều 87 BLTTHS 2003 quy định:
“Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi Cơ quan điều tra nhận người
bị bắt. Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm
giữ, nhưng không quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm
giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá ba ngày”
Kế thừa và phát huy những điểm mạnh của BLTTHS 1988, BLTTHS 2003
có nhiều quy định mới, gỡ bỏ những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng biện pháp
tạm giữ. Theo đó, BLTTHS 2003 bổ sung đối tượng áp dụng biện pháp tạm giữ là
người phạm tội tự thú, đầu thú. Về thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giữ cũng bổ
sung thêm đối tượng là Chỉ huy trưởng vùng Cảnh sát biển có quyền ra quyết định
tạm giữ. Đồng thời, BLTTHS 2003 quy định cụ thể về thời gian tạm giữ được trừ
vào thời hạn tạm giam, theo đó cứ một ngày tạm giữ sẽ được tính bằng một ngày


17
tạm giam. Tuy nhiên sau nhiều năm thi hành, BLTTHS 2003 cũng bộc lộ một số
hạn chế, vướng mắc trong đó có một số quy định liên quan đến biện pháp tạm giữ
trong tố tụng hình sự. Cụ thể như sau:

Về đối tượng tạm giữ là người phạm tội tự thú, đầu thú: Khoản 1 Điều 86
BLTTHS năm 2003 quy định: "Tạm giữ có thể được áp dụng đối với những người
bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu
thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã”. Việc quy định người phạm
tội tự thú, đầu thú khi áp dụng biện pháp tạm giữ cần quy định rõ ràng, trường hợp
nào cần thiết phải tạm giữ, còn trường hợp nào khơng cần thiết. Bởi vì, trong thực tế
những trường hợp người phạm tội tự thú, đầu thú luôn ở một mức độ khác nhau, có
những trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng do lỗi vô ý khi phạm tội, người phạm
tội có nhân thân tốt... thì khơng cần thiết phải ra quyết định tạm giữ đối với họ12.
Vướng mắc về thẩm quyền ra quyết định tạm giữ: BLTTHS năm 2003 đã bổ
sung thêm thẩm quyền ra quyết định tạm giữ cho Lực lượng Cảnh sát biển (khoản 2
Điều 86). Tuy nhiên, Điều 81 BLTTHS 2003 năm không quy định thẩm quyền ra
lệnh bắt khẩn cấp cho lực lượng này. Như vậy, việc không được bắt người trong
trường hợp khẩn cấp nhưng lại được ra quyết định tạm giữ là phù hợp với điều kiện
bắt quả tang và tạm giữ.
* Giai đoạn từ năm 2015 đến nay
Để gỡ bỏ những vướng mắc, hạn chế của BLTTHS 2003, ngày 27/11/2015
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành BLTTHS 2015. Theo
đó, BLTTHS 2015 quy định khá cụ thể, rõ ràng về đối tượng, thẩm quyền, thời hạn
và thủ tục áp dụng biện pháp tạm giữ. Thể hiện cụ thể tại Điều 117, Điều 118
BLTTHS năm 2015.
So sánh với quy định theo BLTTHS 2003 cho thấy BLTTHS 2015 có một số
điểm mới nhất định về biện pháp tạm giữ. Cụ thể một số điểm mới như sau:
Thứ nhất, thay thế biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp thành biện
pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Theo đó, căn cứ để áp dụng biện pháp
tạm giữ cũng đổi từ “người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp” tại điều 86 BLTTHS
2003 sang cụm từ “người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp” tại điều 117 BLTTHS
2015. Quy định này là hoàn toàn phù hợp với tinh thần Hiến pháp năm 2013, theo
đó Khoản 2, Điều 20 Hiến pháp 2013 quy định: “Không ai bị bắt nếu khơng có
12


Nguyễn Song Thiết (2019), Biện pháp tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh
Quảng Ninh, Luận văn thạc sỹ, Học viện khoa học xã hội, tr.64.


18
quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường
hợp phạm tội quả tang”.
Thứ hai, BLTTHS 2015 quy định về thời gian phải ra quyết định tạm giữ,
lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp hoặc trả tự do khi xét thấy khơng
có căn cứ giữ người là 12 tiếng thay vì 24 tiếng như BLTTHS 2003. Đồng thời
theo BLTTHS 2015, sau khi giữ người trong trường hợp bắt khẩn cấp, bắt người
hoặc nhận người bị giữ, bị bắt, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 12 giờ phải
ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt.
Thứ ba, về chủ thể có thẩm quyền áp dụng: BLTTHS 2015 đã mở rộng phạm
vi những người có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Ngoài những
chủ thể được quy định tại khoản 2 điều 81 BLTTHS 2003, thì tại điểm b, khoản 2
điều 110 BLTTHS 2015 quy định bổ sung các chủ thể như sau: Đồn trưởng Đồn biên
phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên
phòng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ
đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên
phịng, Đồn trưởng Đồn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên
phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và pháp
luật lực lượng Cảnh sát biển, Đồn trưởng Đồn đặc nhiệm phịng, chống tội phạm
ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng.
Qua phân tích trên có thể thấy BLTTHS 2015 đã có nhiều quy định về biện
pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp tạm giữ nói riêng mở rộng theo hướng nhân
văn, ưu việt đảm bảo quyền tự do của con người. Đồng thời, BLTTHS cũng quy định
chi tiết, cụ thể hơn về các đối tượng áp dụng, căn cứ áp dụng và mở rộng thẩm quyền

cho các cơ quan chức năng áp dụng biện pháp này đảm bảo q trình giải quyết vụ án
hình sự và cơng tác đấu tranh phòng chống tội phạm ở nước ta hiện nay.
1.2.2. Pháp luật về biện pháp tạm giữ trong tố tụng hình sự của một số quốc
gia trên thế giới
* Pháp luật về biện pháp tạm giữ trong tố tụng hình sự của Liên bang Nga
Pháp luật tố tụng hình sự của Liên bang Nga (BLTTHS Nga) ghi nhận việc
tạm giữ người người bị tình nghi thực hiện tội phạm với tên gọi là tạm giữ người
bị tình nghi và được quy định tại Chương IV bao gồm: Tạm giữ người bị tình
nghi (Mục 12); Những biện pháp ngăn chặn (Mục 12); Những biện pháp cưỡng
chế tố tụng khác (Mục 14). Theo đó, vị trí của tạm giữ người tình nghi được quy


19
định nằm ở mục riêng, tách biệt so với những biện pháp ngăn chặn và những
biện pháp cưỡng chế khác điều đó thể hiện vai trị, tầm quan trọng của biện pháp
này trong hệ thống các biện pháp có khả năng xâm phạm đến quyền của con
người. Ở BLTTHS Nga quy định tạm giữ người bị tình nghi ở các nội dung như:
căn cứ áp dụng, thẩm quyền quyết định, đối tượng áp dụng, trình tự thủ tục và
thời hạn tiến hành.
Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giữ thì theo BLTTHS Nga ghi nhận đây
là người bị tình nghi13.
Người bị tình nghi14 là người đối với họ đã khởi tố vụ án hình sự theo những
căn cứ và theo thủ tục quy định tại mục 20 của Bộ luật này; Bị bắt giữ theo quy định
tại Điều 91 và 92 của Bộ luật này15; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn trước khi khởi
tố bị can theo quy định tại Điều 100 của Bộ luật này16.
Hiến pháp của Cộng hòa Liên bang Nga ghi nhận và coi trọng quyền tự do
của cơng dân, coi đó là quyền cơ bản của con người và chỉ hạn chế trong những
chừng mực nhất định khi lợi ích chung của cộng đồng bị xâm hại. Do đó những quy
định của BLTTHS Nga quy định về những biện pháp hạn chế quyền tự do như giam
giữ hoặc quản thúc tại gia, bảo lãnh hoặc những biện pháp khác trong đó có tạm giữ

thì những quy định trong BLTTHS phải phù hợp với Điều 9 Cơng ước quốc tế về
quyền dân sự và chính trị, Điều 5 của Công ước bảo vệ quyền con người và các
quyền tự do cơ bản17 và Hiến pháp Liên bang Nga18.
Căn cứ để một người tình nghi bị áp dụng biện pháp tạm giữ có hai trường
hợp: Thứ nhất, Khi người bị tình nghi thực hiện tội phạm mà có thể bị xử phạt tù
thì cần có những căn cứ như: người đó bị phát hiện trong lúc đang thực hiện tội
phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm; Khi người bị hại hoặc người trực tiếp
chứng kiến chỉ rõ người đó là người đã thực hiện tội phạm; Khi trên mặt, quần áo,
Tạm giữ người bị tình nghi: biện pháp cưỡng chế do Cơ quan điều tra ban đầu, Điều tra viên, dự thẩm viên
hoặc Kiểm sát viên áp dụng trong thời hạn không quá 48 giờ kể từ thời điểm người bị tình nghi thực hiện tội
phạm thực tế bị tạm giữ.
14
Điều 46 BLTTHS Liên bang Nga, được Đuma quốc gia thông qua ngày 22/11/2001 và được quốc hội phê
chuẩn ngày 05/12/2001, cập nhật đến ngày 01/10/2006.
15
Điều 91: Căn cứ tạm giữ người bị tình nghi, Điều 92: Thủ tục tạm giữ người bị tình nghi.
Nghị quyểt của Hội nghị tồn thể Tịa án tối cao Liên bang Nga ngày 19/12/2013 (được sửa đổi bổ sung ngày
11 tháng 6 năm 2020) “Về thực hành áp dụng pháp luật của Tòa án về các biện pháp ngăn chặn dưới hình
thức giam giữ, quản thúc tại gia, tại ngoại và cấm thi hành một số hành vi.
17
Nghị quyểt của Hội nghị tồn thể Tịa án tối cao Liên bang Nga ngày 19/12/2013 (được sửa đổi bổ sung
ngày 11 tháng 6 năm 2020) “Về thực hành áp dụng pháp luật của Tòa án về các biện pháp ngăn chặn dưới
hình thức giam giữ, quản thúc tại gia, tại ngoại và cấm thi hành một số hành vi. sultant.
ru/document/cons_doc_LAW_156184/, truy cập ngày 07/8/2020.
18
Điều 22 Hiến pháp Liên bang Nga.
13



×