Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Kê biên tài sản theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.8 MB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN ĐÌNH HỒNG

KÊ BIÊN TÀI SẢN
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

KÊ BIÊN TÀI SẢN
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự
Định hƣớng nghiên cứu
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học
Học viên
Lớp

: Ts. Lê Huỳnh Tấn Duy
: Nguyễn Đình Hồng


: Cao học Luật, Khóa 31

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan Luận văn Thạc sĩ luật học với đề tài: “Kê biên tài sản theo luật
tố tụng hình sự Việt Nam”, là cơng trình nghiên cứu do chính tơi thực hiện dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Lê Huỳnh Tấn Duy. Luận văn có sử dụng, trích dẫn
một số ý kiến, quan điểm khoa học của một số tác giả. Các thông tin này đều được
trích dẫn nguồn cụ thể và chính xác. Các số liệu, thông tin được sử dụng trong Luận
văn là khách quan và trung thực. Tơi hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan
của mình.
Ngƣời cam đoan

Nguyễn Đình Hồng


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Từ viết đầy đủ

BLDS

Bộ luật Dân sự

BLHS


Bộ luật Hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng Hình sự

CQĐT

Cơ quan Điều tra

KBTS

Kê biên tài sản

TAND

Tòa án nhân dân

VKS

Viện kiểm sát

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP KÊ BIÊN TÀI

SẢN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ........................................................................6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích và ý nghĩa của biện pháp kê biên tài sản
trong tố tụng hình sự .............................................................................................6
1.1.1. Khái niệm biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự .......................6
1.1.2. Đặc điểm của biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự ..................8
1.1.3. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự
............................................................................................................................10
1.2. Cơ sở quy định biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự .............11
1.2.1. Cơ sở lý luận.............................................................................................11
1.2.2. Cơ sở thực tiễn .........................................................................................13
1.3. Nguyên tắc áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự .14
1.3.1. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa......................................14
1.3.2. Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân ...............................................................................................16
1.3.3. Nguyên tắc pháp luật bảo hộ quyền tài sản của cá nhân, pháp nhân......17
1.4. Phân biệt biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự với biện pháp
kê biên tài sản trong các ngành luật khác .........................................................18
Kết luận Chƣơng 1 ..................................................................................................24
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ BIỆN
PHÁP KÊ BIÊN TÀI SẢN .....................................................................................25
2.1. Sơ lƣợc lịch sử các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp
kê biên tài sản .......................................................................................................25
2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về biện pháp kê biên
tài sản ....................................................................................................................27


2.2.1. Thẩm quyền áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự ....27
2.2.2. Đối tượng bị kê biên tài sản trong tố tụng hình sự ..................................29
2.2.3. Tài sản bị kê biên và phạm vi kê biên tài sản trong tố tụng hình sự ........32
2.2.4. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự

............................................................................................................................34
2.2.5. Các trường hợp hủy bỏ biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự
............................................................................................................................39
Kết luận Chƣơng 2 ..................................................................................................41
CHƢƠNG 3. THỰC TIỄN VÀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KÊ BIÊN TÀI SẢN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN ................................................................43
3.1. Khái quát tình hình áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình
sự............................................................................................................................43
3.2. Những hạn chế, vƣớng mắc khi áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong
tố tụng hình sự......................................................................................................46
3.2.1. Về thẩm quyền kê biên tài sản trong tố tụng hình sự ...............................46
3.2.3. Về đối tượng bị kê biên tài sản trong tố tụng hình sự ..............................48
3.2.3. Về phạm vi kê biên tài sản trong tố tụng hình sự .....................................51
3.2.4. Về quản lý tài sản kê biên trong tố tụng hình sự ......................................54
3.2.5. Về thủ tục kê biên tài sản trong tố tụng hình sự .......................................57
3.2.6. Về hủy bỏ biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự ......................58
3.3. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về kê biên tài sản trong tố tụng
hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng ...............................................................60
3.3.1. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về kê biên tài sản trong tố tụng
hình sự ................................................................................................................60
3.3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong tố
tụng hình sự ........................................................................................................62
Kết luận Chƣơng 3 ..................................................................................................66


KẾT LUẬN ..............................................................................................................67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................1
PHỤ LỤC



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, để bảo đảm cho các hoạt động
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, trong phạm vi thẩm quyền của
mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể áp dụng biện pháp
cưỡng chế. Kê biên tài sản (KBTS) là một trong những biện pháp cưỡng chế của
tố tụng hình sự nhằm bảo đảm cho việc thi hành án về phạt tiền, tịch thu tài sản,
hoặc bồi thường thiệt hại được thuận lợi. Việc kê biên tài sản có thể được tiến
hành trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Áp dụng biện pháp cưỡng chế kê
biên tài sản để kê khai, ghi lại từng loại tài sản, giao cho chủ tài sản hoặc thân
nhân bảo quản; nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, phá hủy tài sản, đảm bảo cho việc
xét xử, thi hành bản án và các quyết định của cơ quan nhà nước được thuận lợi,
đúng pháp luật.
Trong thời gian vừa qua, việc KBTS để đảm bảo thi hành án đóng vai trị là
biện pháp cưỡng chế đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng biện pháp này
trên thực tế đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật; đảm bảo tính hiệu quả của
các quyết định tố tụng. Có thể nói các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kê
biên tài sản nhằm hạn chế việc bị can, bị cáo và người thân của họ có hành vi tẩu
tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ đối với nhà nước, gây khó khăn cho cơng tác thi
hành án sau này. Đồng thời nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân
với mục đích cuối cùng là bảo đảm hiệu lực thi hành trên thực tế các bản án quyết
định của Tòa án. Tuy nhiên quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp
này vẫn còn hạn chế như: thẩm quyền, thời hạn, thủ tục, trình tự ban hành, giám
sát cũng như quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền áp dụng.
Do đó, việc nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật cũng như
thực tiễn áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản nhằm chỉ ra những bất cập
và đưa ra kiến nghị hoàn thiện đối với biện pháp cưỡng chế này là việc làm hết

sức cần thiết. Chính vì lý do đó, tác giả quyết định lựa chọn đề tài: “Kê biên tài
sản theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thơng qua q trình tìm hiểu, tác giả nhận thấy liên quan trực tiếp đến biện
pháp kê biên tài sản đã có một số cơng trình nghiên cứu sau đây:


2

- Thứ nhất, Biện pháp ngăn chặn, khám xét và kê biên tài sản trong Bộ luật tố
tụng hình sự của ThS. Nguyễn Mai Bộ do NXB Tư pháp, xuất bản năm 2004. Đây
là cuốn sách chuyên khảo viết về các biện pháp ngăn chặn, khám xét và kê biên tài
sản. Biện pháp kê biên tài sản được tác giả phân tích và đánh giá qua góc độ pháp
luật: đối tượng kê biên, tài sản kê biên, thẩm quyền kê biên và xử lý tài sản kê biên
theo BLTTHS. Ấn phẩm này đã có những đánh giá pháp lý chuyên sâu về biện pháp
kê biên tài sản trong bộ luật tố tụng hình sự tuy nhiên lại chưa hề có sự đánh giá,
phân tích trên cơ sở thực tiễn. Mặt khác, biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản trong
BLTTHS năm 2015 đã có nhiều quy định khác so với BLTTHS năm 2003 vì vậy
cần những đánh giá, phân tích phù hợp hơn ở thời điểm hiện tại dựa trên những
đánh giá, phân tích sau q trình áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng
hình sự trên thực tiễn.
- Thứ hai, sách chuyên khảo Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Võ
Thị Kim Oanh (chủ biên), Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, 2019,
Nxb Hồng Đức. Đây là giáo trình phục vụ việc giảng dạy, học tập của giáo viên và
sinh viên tại các cơ sở đào tạo luật, vì vậy cơng trình nghiên cứu bình luận chuyên
sâu về các quy định của BLTTHS năm 2015, trong đó có các quy định về biện pháp
kê biên tài sản trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, nội dung của tác phẩm chỉ dừng lại
các điều luật trong BLTTHS năm 2015 chứ chưa phân tích, đánh giá, bình luận một
cách tồn diện các quy định về biện pháp kê biên tài sản trong lịch sử pháp lý về
biện pháp kê biên tài sản, các nghị định có liên quan cũng như thực tiễn áp dụng

biện pháp cưỡng chế này. Trên tinh thần tiếp thu các kết quả nghiên cứu trong tác
phẩm này, tác giả sẽ tiếp tục phát triển, mở rộng, phân tích, đánh giá một cách đầy
đủ, chi tiết hơn các quy định của pháp luật có liên quan về biện pháp kê biên tài sản
trong tố tụng hình sự.
- Thứ ba, bài viết “Một số vấn đề về kê biên tài sản trong vụ án hình sự” của
tác giả Hồng Văn Mạnh và Hứa Thị Mai Hương đăng trên tạo chí Kiểm sát, số
11/2020. Đây là một bài viết liên quan trực tiếp đến nội dung của đề tài. Tuy nhiên,
bài viết chỉ mới đi sâu phân tích bất cập trong các quy định pháp luật về các loại tài
sản không được kê biên, thẩm quyền áp dụng biện pháp kê biên tài sản chứ chưa
đánh giá một cách toàn diện toàn bộ quá trình thực hiện biện pháp cưỡng chế kê
biên tài sản trong tố tụng hình sự. Luận văn sẽ kế thừa kết quả nghiên cứu trong bài
viết này và tiếp tục mở rộng, phát triển để nghiên cứu một cách chuyên sâu, toàn
diện về biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản trong tố tụng hình sự.


3

- Thứ tư, Kê biên tài sản trong tố tụng hình sự, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Trần Nguyệt Thu, năm
2018. Đây là cơng trình trực tiếp nghiên cứu về kê biên tài sản trong tố tụng hình
sự. Tác giả Trần Nguyệt Thu đã có những phân tích, đánh giá đi sâu vào quy định
của pháp luật cũng như thực tiễn thực hiện biện pháp này. Tuy nhiên, luận văn còn
chưa đi sâu nghiên cứu về: các loại tài sản được kê biên, tài sản không được kê
biên, về thẩm quyền thi hành lệnh kê biên, về vấn đề bảo quản tài sản kê biên, về
vấn đề quyền của người bảo quản tài sản… Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu
của tác phẩm trên, tác giả sẽ nghiên cứu, bổ sung và kiến nghị để hoàn thiện biện
pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự.
Các cơng trình nghiên cứu khoa học trên đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận
liên quan đến các biện pháp cưỡng chế nói chung, biện pháp kê biên tài sản nói
riêng nhưng chưa có đề tài nào nghiên cứu dưới góc độ lý luận và thực tiễn chuyên

sâu về biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự. Vì vậy, dựa trên cơ sở những
kiến thức của các cơng trình khoa học nêu trên, việc nghiên cứu chuyên sâu về áp
dụng biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự là cần thiết, khơng trùng lặp
với các cơng trình đã cơng bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu chính của luận văn là những hạn chế trong quy định của
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp kê biên tài sản và thực tiễn áp
dụng; từ đó đưa ra những đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao
hiệu quả áp dụng.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu đã xác định ở trên, luận văn cần thực hiện
những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Phân tích, làm rõ một số vấn đề mang tính chất lý luận về biện pháp kê biên
tài sản trong tố tụng hình sự;
- Làm rõ những vấn đề pháp lý về biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng
hình sự;
- Đánh giá thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về biện pháp kê biên tài sản
trong tố tụng hình sự, chỉ ra những vấn đề còn tồn tại và xác định nguyên nhân.


4

- Đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về biện pháp kê
biên tài sản trong tố tụng hình sự và bảo đảm thực hiện.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, quy định của
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình
sự với đặc điểm là một trong các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự và thực

tiễn áp dụng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn chỉ phân tích và đánh giá những quy định của pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam, tập trung vào BLTTHS năm 2015, về biện pháp kê
biên tài sản xoay quanh các vấn đề như: Thẩm quyền, đối tượng, thủ tục áp dụng và
hủy bỏ việc áp dụng. Luận văn không nghiên cứu pháp luật nước ngồi.
Về khơng gian và thời gian: Luận văn khảo sát thực tiễn áp dụng biện pháp
kê biên tài sản trên phạm vi cả nước giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp sau: phương pháp phân
tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, phỏng vấn chuyên gia và phương pháp nghiên cứu
án điển hình.
Thứ nhất, phương pháp phân tích và tổng hợp là hai phương pháp chủ đạo,
được sử dụng để phân tích các vấn đề lý luận cũng như quy định của pháp luật liên
quan đến biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự. Ngồi ra, tác giả sử dụng
phương pháp tổng hợp để tóm tắt nội dung của mỗi chương và đưa ra kết luận
chung cho toàn luận văn.
Thứ hai, phương pháp so sánh: được sử dụng để đánh giá các quy định pháp
luật về biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự qua các thời kỳ.
Thứ ba, phương pháp thống kê được sử dụng để tập hợp các quy định pháp
luật có liên quan cũng như các số liệu, báo cáo, vụ việc từ thực tiễn áp dụng biện
pháp kê biên tài sản làm cơ sở dữ liệu để phân tích, đánh giá một cách tồn diện
các vấn đề pháp lý và thực tiễn về kê biên tài sản trong tố tụng hình sự.
Thứ tư, phương pháp phỏng vấn chuyên gia: được sử dụng để thu thập ý
kiến đánh giá của các chuyên gia, đặc biệt là các chủ thể có thẩm quyền áp dụng


5

biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản để đánh giá công tác áp dụng pháp luật trong

thực tiễn.
Thứ năm, phương pháp nghiên cứu án điển hình: Được sử dụng để đánh giá
thực tiễn áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong Chương 3 của luận văn.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về biện pháp kê biên tài sản
trong tố tụng hình sự có ý nghĩa hết sức quan trọng và cần thiết trong bối cảnh hiện
nay. Do đó, nội dung của luận văn đáp ứng được điều kiện về tính mới cũng như có
khả năng ứng dụng cao. Những kiến nghị của luận văn hy vọng sẽ đem lại kết quả
thiết thực cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật, góp phần bảo đảm cho hiệu
quả khi áp dụng kê biên tài sản trong tố tụng hình sự.
Luận văn cịn là tài liệu tham khảo cho sinh viên và những ai quan tâm đến
vấn đề này. Mặt khác, với chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là tăng cường
nguyên tắc pháp quyền trong quản lý nhà nước và cải cách hoạt động tư pháp hình
sự thì luận văn sẽ là tài liệu bổ ích cho những người làm cơng việc thực tiễn như lực
lượng công an, Viện kiểm sát, Tòa án, Cơ quan thi hành án.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn được chia thành ba chương:
Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận về biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng
hình sự
Chƣơng 2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp kê biên tài sản
Chƣơng 3. Thực tiễn và áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình
sự, giải pháp hồn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện.


6

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP KÊ BIÊN TÀI SẢN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích và ý nghĩa của biện pháp kê biên tài
sản trong tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự
Trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, để bảo đảm hoạt động khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, trong phạm vi thẩm quyền của mình, cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế: áp giải,
dẫn giải, kê biên tài sản (KBTS), phong tỏa tài khoản1. Trong đó, biện pháp KBTS
đóng vai trị quan trọng trong việc ngăn ngừa bị can, bị cáo gây khó khăn cho hoạt
động thi hành án hình sự.
Nghiên cứu quy định của pháp luật có thể thấy vấn đề KBTS đã được quy
định khá phổ biến trong các lĩnh vực khác nhau. Trong lĩnh vực tố tụng dân sự,
khoản 6 Điều 114 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định “KBTS đang tranh
chấp” là một biện pháp khẩn cấp tạm thời để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách
của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, thu thập chứng cứ, bảo quản
chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại khơng thể khắc phục
được, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án. Trong lĩnh vực thi
hành án dân sự, khoản 3 Điều 71 Luật Thi hành án Dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ
sung năm 2014 quy định “KBTS của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do
người thứ ba giữ” là một biện pháp để cưỡng chế thi hành án. Trong lĩnh vực xử
phạt vi phạm hành chính, KBTS được quy định là một biện pháp cưỡng chế hành
chính để bảo đảm thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính khi cá nhân, tổ
chức vi phạm không tự nguyện chấp hành quyết định xử phạt với tên gọi “KBTS
có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá”2.
Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 128 Bộ luật Tố tụng Hình sự
năm 2015 (BLTTHS năm 2015) lại quy định KBTS là một biện pháp cưỡng chế
được áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật Hình sự (BLHS) quy định
hình phạt tiền hoặc có thể bị tịch thu tài sản hoặc để bảo đảm bồi thường thiệt
1
2


Điều 126 BLTTHS năm 2015.
Điều 86 Luật XLVPHC năm 2012.


7

hại hoặc được áp dụng với pháp nhân bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội
mà BLHS quy định hình phạt tiền hoặc để bảo đảm bồi thường thiệt hại.
Mặc dù KBTS đã được nhiều ngành luật, trong đó có luật tố tụng hình sự quy
định khá rõ ràng, tuy nhiên nghiên cứu một cách kỹ lưỡng thì khơng thấy có một
quy định nào giải thích thuật ngữ “KBTS” là gì. Thiếu sót này đã gây ra nhiều khó
khăn trong việc giải thích và vận dụng các quy định pháp luật có liên quan trong
thực tiễn.
Ở góc độ ngôn ngữ, theo định nghĩa của Giáo sư Nguyễn Lân trong Từ điển
Từ và ngữ Việt Nam thì “kê biên” (kê: tính tốn, biên: chép theo thứ tự) là việc
ghi lại mọi thứ theo thứ tự3. Theo cách giải thích này, thuật ngữ kê biên chỉ mới
được xem xét ở góc độ ghi ghép, kê khai tài sản một cách thông thường chứ chưa
nêu ra được đặc trưng, bản chất của hoạt động kê biên dưới góc độ pháp lý. Theo
Từ điển Tiếng Việt phổ thông của Viện ngôn ngữ học, “kê biên” là kê ra danh
mục tài sản có liên quan đến hành vi tội phạm để chờ xử lý theo pháp luật. Từ
điển giải thích thuật ngữ Luật học của Đại học Luật Hà Nội thì giải thích “kê
biên” là việc ghi lại từng tài sản, cấm việc tẩu tán, phá hủy để đảm bảo cho việc
xét xử và thi hành án4. Cách giải thích trong các thuật ngữ này bên cạnh thể hiện
hình thức của việc kê biên đã đề cập đến tính chất pháp lý của hoạt động này. Tuy
nhiên, các thuật ngữ này chỉ đề cập thuật ngữ “kê biên” dưới góc độ pháp luật
hình sự mà chưa bao quát được các lĩnh vực pháp luật khác như thi hành án dân
sự, xử lý vi phạm hành chính.
Về mặt thuật ngữ, Từ điển Tiếng việt phổ thông định nghĩa “tài sản” là của
cải vật chất hoặc tinh thần có giá trị đối với chủ sở hữu5. Theo Đại từ điển tiếng
Việt, “tài sản” là của cải vật chất dùng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng6.

Theo giải thích của Từ điển Bách khoa toàn thư, “KBTS” là một trong những biện
pháp cưỡng chế của Nhà nước đối với tài sản của người vi phạm pháp luật7. So với
các giải thích nêu trên, cách giải thích này có tính bao qt nhất bởi khơng chỉ thể
hiện về mặt hình thức mà cịn thể hiện tính chất pháp lý cũng như sự bao quát các
lĩnh vực pháp luật của hoạt động KBTS.
Nguyễn Lân (2000), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr.913.
Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, Nxb. Cơng an nhân dân, tr.199.
5
Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển Tiếng Việt phổ thông, Nxb phương Đông, tr.811.
6
Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa – Thông tin, tr.1483.
7
Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (2002), Từ điển bách khoa toàn thư Việt
Nam - Tập 2, Nxb Từ điển bách khoa, tr. 467.
3
4


8

Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm KBTS trong luật tố tụng
hình sự như sau:“KBTS trong tố tụng hình sự một trong những biện pháp cưỡng chế
tố tụng hình sự đối với tài sản của bị can, bị cáo phạm những tội mà BLHS quy định
hình phạt tiền hoặc có thể bị tịch thu tài sản hoặc để bảo đảm b i thường thiệt hại
thông qua việc các cơ quan có thẩm quyền thực hiện kê khai, ghi lại từng loại tài
sản, giao cho chủ tài sản hoặc thân nhân bảo quản, nghiêm cấm việc tẩu tán, phá
hủy nhằm bảo đảm cho việc xét xử, thi hành án và việc thực hiện các nghĩa vụ pháp
lý nhất định”. KBTS của bị can, bị cáo là việc tạm thời cấm giao dịch, chuyển đổi,
định đoạt hoặc dịch chuyển tài sản của họ. Đây là biện pháp cưỡng chế áp dụng đối
với cá nhân bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội mà BLHS quy định hình phạt

tiền, bị tịch thu tài sản hoặc để đảm bảo bồi thường thiệt hại. Khi KBTS, chỉ kê biên
phần tài sản tương ứng với mức có thể bị phạt tiền, bị tịch thu tài sản hoặc phải bồi
thường thiệt hại. Điều này có nghĩa các cơ quan có thẩm quyền sẽ kê biên đủ để
phục vụ cho hoạt động thi hành án sau này dựa trên phán quyết của Tịa án về hình
phạt tiền, tịch thu tài sản hoặc bồi thường thiệt hại để hạn chế tình trạng lạm dụng
kê biên, tùy tiện khi kê biên ảnh hưởng đến quyền lợi của bị can, bị cáo và những
người có liên quan đến tài sản bị kê biên.
1.1.2. Đặc điểm của biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự
Từ khái niệm về biện pháp KBTS đã được trình bày ở trên, có thể đưa ra các
đặc điểm của biện pháp này như sau:
Thứ nhất, KBTS là một biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự. Cưỡng
chế trong tố tụng hình sự là tổng thể các biện pháp do luật tố tụng hình sự quy định,
được cơ quan, người được trao quyền áp dụng theo thủ tục tố tụng hình sự, có nội
dung hạn chế quyền tài sản của bị can, bị cáo buộc các chủ thể đó phải thực hiện
các nghĩa vụ pháp lý nhằm mục đích phịng ngừa, ngăn chặn hoặc xử lý những hành
vi vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự an toàn xã hội8. KBTS là một trong những
biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự được quy định tại Điều 128 BLTTHS
năm 2015. Biện pháp này được các chủ thể có thẩm quyền áp dụng để cưỡng chế
đối với tài sản của bị can, bị cáo để buộc họ phải thi hành án hình sự.
Thứ hai, đối tượng bị áp dụng biện pháp KBTS là bị can, bị cáo phạm các
tội mà BLHS quy định hình phạt tiền hoặc có thể bị tịch thu tài sản hoặc để bảo
Hồng Thị Minh Sơn (2009) (chủ biên), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Cơng an nhân dân,
Hà Nội.
8


9

đảm bồi thường thiệt hại; pháp nhân bị khởi tố, truy tố xét xử về tội mà BLHS quy
định hình phạt tiền, bồi thường thiệt hại. Các bị can, bị cáo phạm tội mà BLHS

khơng quy định hình phạt tiền hoặc không bị tịch thu tài sản hoặc không buộc phải
bồi thường thiệt hại thì khơng phải đối tượng áp dụng của biện pháp này. Bị đơn
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại cũng không thuộc đối tượng áp dụng của biện pháp này.
Thứ ba, biện pháp KBTS được áp dụng với tài sản của bị can, bị cáo phạm
tội mà BLHS quy định hình phạt tiền hoặc tịch thu tài sản, bồi thường thiệt hại.
Hay hiểu cách khác, để việc thi hành án được thuận lợi, biện pháp KBTS áp dụng
đối với đối tượng là tài sản của người phải thi hành án. Tài sản đó có thể đang do
người phải thi hành án hoặc do người khác chiếm giữ. KBTS được áp dụng nhằm
thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật và đảm bảo sự bền vững trong các quan
hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ. Khi Tịa án ra bản án có hiệu lực thi hành, các tài
sản đã kê biên trước đó có thể được dùng làm tài sản để thi hành án.
Thứ tư, tài sản bị kê biên phải có giá trị tương đương với mức có thể bị phạt
tiền, bị tịch thu hoặc phải bồi thường thiệt hại.
Để hạn chế tình trạng các chủ thể có thẩm quyền kê biên một cách tùy tiện
các tài sản của chủ thể vi phạm gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp đối
với tài sản của họ thì khoản 3 Điều 128 BLTTHS năm 2015 quy định các chủ thể
có thẩm quyền chỉ được KBTS của bị can, bị cáo tương ứng với số tiền đã ghi
trong bản án. Đây là quy định hợp lý thể hiện sự tương xứng giữa tính chất của
biện pháp cưỡng chế với nghĩa vụ mà chủ thể vi phạm phải thực hiện bởi lẽ mục
đích của việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự là để bảo
đảm bản án hình sự được thi hành chứ không phải gây ra các thiệt hại cho bị can,
bị cáo. Tuy nhiên, việc xác định tài sản nào có giá trị tương ứng với số tiền phạt
là điều khơng hề đơn giản, thậm chí gây ra khơng ít khó khăn cho q trình tổ
chức áp dụng biện pháp cưỡng chế này, những bất cập về nội dung này sẽ được
tác giả phân tích cụ thể trong nội dung của Chương 2.
Thứ năm, chủ thể có thẩm quyền kê biên tài sản được quy định trong
BLTTHS năm 2015.
KBTS là một hoạt động thực thi quyền lực nhà nước, khi áp dụng các biện
pháp này, chủ thể có thẩm quyền nhân danh quyền lực của Nhà nước để ban hành

các quyết định đơn phương buộc chủ thể vi phạm phải chấp hành. Với bản chất là
hoạt động thực thi quyền lực của Nhà nước nên việc áp dụng biện pháp cưỡng chế


10

này phải do các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật thực hiện. Theo
đó, thẩm quyền áp dụng biện pháp KBTS được quy định tại khoản 2 Điều 128 Bộ
luật BLTTHS năm 2015: Thẩm phán chủ tọa phiên tịa và những người có thẩm
quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này (người sau đây có quyền ra
lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam): Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng
CQĐT các cấp, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS nhân dân và Viện trưởng, Phó
Viện trưởng VKS quân sự các cấp, Chánh án, Phó Chánh án Tịa án nhân dân và
Chánh án, Phó Chánh án Tịa án qn sự các cấp; Hội đồng xét xử.
Thứ sáu, biện pháp KBTS trong tố tụng hình sự được áp dụng theo trình tự,
thủ tục chặt chẽ quy định bởi pháp luật tố tụng hình sự.
Biện pháp KBTS được áp dụng theo thủ tục tố tụng hình sự bởi các lý do sau:
(i) các quy định về biện pháp biện pháp KBTS được quy định một cách rõ ràng,
chặt chẽ trong BLTTHS; (ii) chủ thể áp dụng nhân danh quyền lực nhà nước để
thực hiện biện pháp cưỡng chế nhằm giúp cho việc thi hành các bản án, phán quyết
có hiệu lực của Tịa án. Đây là đặc điểm quan trọng nhằm phân biệt biện pháp
KBTS trong tố tụng hình sự với biện pháp KBTS trong tố tụng dân sự và biện pháp
KBTS có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá trong thủ tục hành chính.
1.1.3. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự
Một là, biện pháp KBTS được áp dụng để đảm bảo thi hành án hình sự. KBTS
nhằm đảm bảo việc thi hành án, thu hồi tài sản đối với người phạm các tội phạm có
quy định hình phạt tiền, tịch thu tài sản hoặc phải bồi thường thiệt hại. Biện pháp
KBTS nhằm đảm bảo các bị can, bị cáo trong q trình tố tụng khơng thể cấu giấu,
tẩu tán hoặc hủy hoại tài sản. Thực tiễn từ trước tới nay cho thấy, nhiều trường hợp
bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật nhưng khơng được thi hành hoặc nếu có được

thi hành thì việc thi hành đó cũng khơng triệt để, thậm chí để bảo đảm cho việc thi
hành bản án hình sự, nhiều trường hợp đã bị hoặc phải tạm giữ tang vật, phương tiện
có giá trị tương đối lớn nhưng bị can, bị cáo phải có địa chỉ rõ ràng được cơ quan có
thẩm quyền thông báo nhiều lần đề nghị thi hành án song họ cũng khơng thi hành án
hình sự. Tình hình đó dẫn đến làm giảm hiệu quả, hiệu lực của việc thi hành án hình
sự của Nhà nước, tạo tâm lý coi thường pháp luật. Do đó, biện pháp KBTS được áp
dụng như là một giải pháp để đảm bảo thi hành một cách hiệu quả các bản án hình sự
trên thực tế.


11

Hai là, áp dụng biện pháp KBTS để cưỡng chế thi hành án hình sự là biểu
hiện sự thượng tơn của pháp luật, đặc biệt trong quá trình Nhà nước ta đang trong
quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền. Khi bản án hình sự được thi hành trong
thực tiễn sẽ đảm bảo công bằng trong việc áp dụng các chế tài hình sự, đồng thời
ngăn ngừa tội phạm tiếp theo xảy ra9. Việc bảo đảm thi hành bản án hình sự cũng là
phương tiện đảm bảo cho việc thực hiện quyền lực nhà nước, hướng đến bảo vệ lợi
ích hợp pháp của Nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ
quan, tổ chức.
Ba là, KBTS cịn có ý nghĩa trong việc nâng cao ý thức chấp hành pháp luật
của người dân. Khi áp dụng biện pháp cưỡng chế KBTS, các bị can, bị cáo, người
quản lý tài sản sẽ nghiêm chỉnh chấp hành, ngăn chặn được hành vi cất giấu, tẩu tán
hoặc hủy hoại tài sản. Cũng đồng thời tạo cho người dân có ý thức tự nguyện chấp
hành, thi hành Bản án, Quyết định của Tòa án sau này. Việc tự nguyện thực hiện
nghĩa vụ của những người trên khi các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp
KBTS sẽ tác động tích cực đến ý thức của đại bộ phận người dân, giảm được các
thiệt hại về tài sản cho nhà nước, cho nhân dân, giảm các chi phí và thời gian trong
quá trình tiến hành tố tụng.
1.2. Cơ sở quy định biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự

1.2.1. Cơ sở lý luận
Thứ nhất, KBTS là một trong những biện pháp cưỡng chế của tố tụng hình sự
nhằm bảo đảm cho việc thi hành án về phạt tiền, tịch thu tài sản, hoặc bồi thường
thiệt hại được thuận lợi. Việc KBTS có thể được tiến hành trong giai đoạn điều tra,
truy tố, xét xử. Áp dụng biện pháp cưỡng chế KBTS để kê khai, ghi lại từng loại tài
sản, giao cho chủ tài sản hoặc thân nhân bảo quản; nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, phá
hủy tài sản, đảm bảo cho việc xét xử, thi hành bản án và các quyết định của cơ quan
nhà nước được thuận lợi, đúng pháp luật. Hoạt động KBTS có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc giữ gìn kỷ cương phép nước, bảo đảm pháp chế và trật tự pháp luật xã hội
chủ nghĩa, đảm bảo cho quyền lực tư pháp và các lợi ích được thực thi trên thực tế
Điều 106 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Bản án, quyết định của Tồ án nhân
dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ
chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Chính vì vậy, cần xây dựng
Lê Văn Cảm (2009), Hệ thống tư pháp hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội.
9


12

và hoàn thiện biện pháp KBTS để đảm bảo cho việc xét xử, thi hành bản án và quyết
định của các cơ quan nhà nước và thơng qua đó bảo vệ quyền và lợi ích của bên thứ
ba thiệt hại.
Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện biện pháp cưỡng chế KBTS nhằm bảo vệ tốt
hơn quyền con người và quyền công dân. Khoản 2 Điều 32 Hiến pháp năm 2013
quy định: “Quyền sở hữu tư nhân…được pháp luật bảo hộ”. Biện pháp KBTS trong
tố tụng hình sự với tư cách là một biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự có thể
gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của con người, của cơng dân, vì
vậy cần phải có quy định chặt chẽ về việc áp dụng, thực hiện và giám sát, kiểm tra
đối với hoạt động KBTS. Tiếp đến, khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định:

Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong
trường hợp cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội,
đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Quy định mang tính nguyên tắc này là cơ
sở để BLTTHS năm 2015 ghi nhận chế định biện pháp KBTS trong tố tụng hình sự.
Khi thực hiện biện pháp KBTS, các cơ quan tiến hành tố tụng cần thực hiện
mối quan hệ phối hợp và chế ước, kiểm soát lẫn nhau. Điều này phù hợp với quy
định tại khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013: “Quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”10. Bên cạnh đó là quyền kiểm sát các
hoạt động tư pháp thuộc về cơ quan VKS, điều này đảm bảo cho hoạt động tố tụng
hình sự được thực hiện có đúng theo quy định của pháp luật, đảm bảo tính hiệu lực,
hiệu quả.
Trong q trình giải quyết vụ án hình sự, khi Tịa án ra bản án có hiệu lực thi
hành, các tài sản đã kê biên trước đó có thể được dùng làm tài sản để thi hành án.
Biện pháp KBTS nhằm đảm bảo các bị can, bị cáo trong q trình tố tụng khơng thể
cất giấu, tẩu tán hoặc hủy hoại tài sản. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế KBTS
nhằm đảm bảo các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng có hiệu lực trên thực tế
và phải được các cá nhân, tổ chức tôn trọng, nghiêm chỉnh chấp hành. Thông qua
kết quả KBTS, công tác xét xử được củng cố, Bản án, Quyết định được đảm bảo thi
hành trong thực tế, đồng thời thông qua việc áp dụng các biện pháp thi hành án, nếu
có sai sót trong Bản án, Quyết định được thi hành, VKS và cơ quan Thi hành án sẽ
có những kiến nghị thích hợp, giúp cho Bản án, Quyết định của Tịa án chính xác
10

Hiến pháp năm 2013.


13

hơn; Hội đồng xét xử có thể rút ra được những bài học kinh nghiệm trong việc áp

dụng pháp luật, nhằm nâng cao chất lượng của Bản án, Quyết định. Quá trình tố
tụng là một quá trình diễn ra phức tạp, kéo dài, tiêu tốn nhiều nguồn lực nên cần
phải đảm bảo mang lại hiệu quả cao cho xã hội. Việc có áp dụng biện pháp KBTS
sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng giải quyết vụ án hình sự và thực hiện các
biện pháp thi hành án, thu hồi tài sản.
Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện biện pháp KBTS trong tố tụng hình sự trong
tình hình hiện nay là rất cần thiết, nhằm tháo gỡ những khó khăn, bất cập bảo đảm
phục vụ có hiệu quả cơng tác xét xử và thi hành án.
Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 02/01/2002 về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49 NQ/TW,
ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Các Nghị quyết này đã
thể hiện một tư tưởng hoàn toàn mới, trong đó định hướng xây dựng một hệ thống tố
tụng hình sự coi trọng việc đảm bảo quyền con người, quyền công dân, nâng cao hiệu
quả của việc xét xử và thi hành án hình sự. Thể chế hóa các quan điểm của Đảng và
Nhà nước, biện pháp KBTS được sửa đổi, bổ sung qua các BLTTHS năm 1988, 2003,
2015 đã góp phần hồn thiện quy định pháp luật.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Việc ghi nhận biện pháp cưỡng chế KBTS với tư cách là biện pháp cưỡng
chế trong BLTTHS năm 2015 là một yêu cầu, đòi hỏi khách quan của thực tiễn.
Nếu khơng có biện pháp KBTS thì việc thi hành án về phạt tiền, tịch thu tài sản,
hoặc bồi thường thiệt hại sẽ gặp nhiều khó khăn khi trong quá trình xét xử, thi
hành án, bị can, bị cáo cố ý tẩu tán tài sản nhằm không phải thực hiện các nghĩa
vụ tài chính.
Hiện nay biện pháp KBTS đã được pháp luật tố tụng hình sự quy định khá
rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng biện pháp này trên thực tế đảm
bảo tính nghiêm minh và hiệu quả của các quyết định tố tụng. Có thể nói các quy
định của pháp luật tố tụng hình sự về KBTS nhằm hạn chế việc bị can, bị cáo và
người thân của họ có hành vi tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ đối với nhà nước,
gây khó khăn cho cơng tác thi hành án sau này. Đồng thời nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật của người dân với mục đích cuối cùng là bảo đảm hiệu lực thi hành

trên thực tế các bản án quyết định của Tòa án. Mặc dù vậy, khi áp dụng các quy


14

định về KBTS trong tố tụng hình sự vào thực tế đã gặp khơng ít khó khăn, vướng
mắc, do nhiều nguyên nhân khác nhau như:
Pháp luật tố tụng hình sự quy định chưa rõ ràng về tài sản kê biên “tương
ứng” với mức phạt tiền, tịch thu và bồi thường thiệt hại gây khó khăn trong việc xác
định phần tài sản kê biên; Việc KBTS trong khối tài sản sở hữu chung giữa bị can,
bị cáo với những người khác hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể. Nếu áp
dụng, sẽ xâm phạm đến quyền tài sản của người khác, dẫn đến khiếu nại gây khó
khăn khi thực hiện KBTS… Cơ quan tiến hành tố tụng ngại khó, ngại khổ khi xác
minh tài sản của bị can, bị cáo nên không áp dụng biện pháp KBTS. Bên cạnh đó,
áp dụng biện pháp KBTS phải tiến hành nhiều trình tự, thủ tục giám định thiệt hại
theo quy định pháp luật rất mất thời gian, nhiều chi phí ảnh hưởng đến thời hạn tiến
hành tố tụng nên thực tế CQĐT chưa chú trọng xác minh và áp dụng các biện pháp
KBTS trong quá trình điều tra, giải quyết vụ án. Chính vì vậy, những hạn chế, thiếu
xót trên của pháp luật đã làm cho việc áp dụng biện pháp KBTS trong tố tụng hình
sự hiện nay cịn nhiều khó khăn.
1.3. Nguyên tắc áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự
Thuật ngữ “ngun tắc” có nguồn gốc từ tiếng Latin: Principium (nguyên lý)
và có nghĩa là tư tưởng đầu tiên, tư tưởng chỉ đạo trong khoa học, hiện tượng hoặc
q trình. Ngun lý đó cũng được áp dụng để nghiên cứu pháp luật nói chung và
các chế định của nó nói riêng. Việc áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng
hình sự cần phải tuân thủ triệt để các nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa
- Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người
- Nguyên tắc pháp luật bảo hộ quyền tài sản của cá nhân, pháp nhân
Đây là những nguyên tắc chủ đạo và xuyên suốt cần được tuân thủ triệt để và

chặt chẽ để hiệu quả cao nhất khi áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng
hình sự.
1.3.1. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc quan trọng và cơ
bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nói đến pháp chế là
nói đến sự triệt để tuân thủ pháp luật của Nhà nước, các tổ chức xã hội và công


15

dân. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa được quy định tại Khoản 1 Điều 8
Hiến pháp năm 2013 và cụ thể hóa tại Điều 7 BLTTHS năm 2015, quy định
nguyên tắc kê biên tài sản trong tố tụng hình sự: “Tuân thủ Hiến pháp và pháp
luật; bảo đảm quyền con người, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân”.
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa được coi là nguyên tắc cơ bản, xuyên
suốt toàn bộ các hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật. Tư tưởng cơ bản bao
trùm của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là khi thực hiện biện pháp KBTS
cần phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật hình sự.
Trong quá trình thực hiện biện pháp KBTS thì pháp luật cần được tn thủ
chặt chẽ, đó là: Hiến pháp, Luật Hình sự, Luật Tố tụng hình sự, Luật Thi hành án
hình sự… Tuân thủ pháp luật là điều kiện cơ bản và quan trọng nhất để bảo đảm
việc áp dụng một cách đúng đắn, chính xác và thống nhất các quy định pháp luật.
Trên cơ sở quy định về biện pháp KBTS, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn
cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn để thực hiện hoạt động quản lý nhà nước,
không cho phép các cơ quan này thực hiện quản lý nhà nước một cách chủ quan, tùy
tiện mà phải dựa vào pháp luật, làm đúng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành
nguyên tắc pháp chế. Việc thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật là
điều kiện cần thiết và quan trọng để bảo đảm sự tôn trọng các quyền tự do và dân
chủ của công dân.

Để nguyên tắc pháp chế được thực hiện và vận hành trong thực tế cần đòi hỏi
các điều kiện sau:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật cần hoàn chỉnh và đồng bộ. Pháp luật có hệ
thống và đồng bộ thì việc tn thủ pháp luật mới có ý nghĩa và mới đem lại hiệu
quả cao cho công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích của
công dân. Sự lạc hậu, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đặc biệt về biện
pháp KBTS sẽ tạo điều kiện và kẽ hở cho tiêu cực, cho hành vi vi phạm pháp luật
xuất hiện, dẫn đến không thể thực thi nguyên tắc pháp chế một cách nghiêm chỉnh.
Thứ hai, cần tăng cường kiểm tra, giám sát để việc thực hiện biện pháp
KBTS đúng luật và thống nhất. Nếu khơng có sự kiểm tra, giám sát thường xun
thì việc thực hiện các quy định về KBTS trong tố tụng hình sự dễ rơi vào tình trạng
tùy tiện, khơng nhất quán, là cơ sở của những tiêu cực và hành vi vi phạm pháp luật,


16

vi phạm quyền con người. Chính vì vậy, sự kiểm tra, giám sát thường xuyên là cơ
sở để việc thực hiện biện pháp KBTS trong tố tụng hình sự đúng luật và thống nhất
trên thực tế.
Thứ ba, thực hiện quyền khiếu nại và tố cáo của công dân đối với hoạt động
của các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng giúp cho quyền lợi của
những chủ thể phải KBTS được bảo đảm. Hoạt động thực thi biện pháp KBTS đã
hạn chế quyền con người của những chủ thể bị KBTS vì thế những quyền cơ bản
của con người, của công dân dễ bị xâm hại. Bảo đảm quyền được khiếu nại, tố cáo
của những chủ thể này trong việc thực hiện biện pháp KBTS giúp họ bảo vệ tốt hơn
chính quyền lợi của bản thân mình.
Thứ tư, trong quá trình thực hiện biện pháp KBTS các cơ quan tiến hành tố
tụng cần tuân thủ đúng quy định về trình tự, thủ tục tiến hành tố tụng để hạn chế
việc xâm phạm và ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các chủ thể có liên quan.
Như vậy, hoạt động KBTS phải đảm bảo nguyên tắc pháp chế, đây là quan

điểm cần được quán triệt sâu sắc trong quá trình tổ chức và hoạt động tố tụng hình
sự nói chung, thi hành biện pháp KBTS trong tố tụng hình sự nói riêng. Mọi vi
phạm pháp luật khi thực hiện KBTS từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, các tổ chức,
cá nhân có liên quan đến KBTS phải bị xử lý kịp thời.
1.3.2. Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân
Nguyên tắc tôn trọng và bảo đảm quyền công dân được quy định tại Điều 8
Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền năm 1948 với nội dung “Mọi người đều có
quyền được bảo vệ bằng các Tịa án quốc gia có thẩm quyền với phương tiện pháp
lý có hiệu lực chống lại những hành vi vi phạm các quyền căn bản đã được hiến
pháp và pháp luật công nhận” và được thừa nhận trong Hiến pháp năm 2013 đã trở
thành một nguyên tắc xuyên suốt của tư tưởng Nhà nước pháp quyền về việc công
nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền công dân. Điều 8 BLTTHS năm 2015,
quy định nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân:
“Khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người,
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự
cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những


17

biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc khơng cịn cần thiết”. Để thực
hiện ngun tắc này trên thực tế thì các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần triệt
để tơn trọng và khơng được hạn chế hoặc xâm hại một cách trái pháp luật các quyền
cơ bản của công dân đã được Hiến pháp và pháp luật bảo hộ.
Theo quy định của BLTTHS năm 2015, biện pháp KBTS chỉ áp dụng với bị
can, bị cáo phạm tội mà BLHS quy định hình phạt tiền, tịch thu tài sản hoặc bồi
thường thiệt hại, áp dụng với pháp nhân mà BLHS quy định phạt tiền hoặc bồi
thường thiệt hại. Tuy nhiên, biện pháp cưỡng chế KBTS khơng bắt buộc chủ thể có

thẩm quyền phải áp dụng với mọi bị can, bị cáo phạm tội như trên cũng không bắt
buộc mọi pháp nhân mà BLHS quy định phạt tiền hoặc bồi thường thiệt hại. Hay hiểu
bằng cách khác, biện pháp cưỡng chế KBTS mang tính lựa chọn, chỉ áp dụng trong
những trường hợp cần thiết, dựa trên những căn cứ luật định. Tính lựa chọn ở đây
được hiểu là khi tiến hành các hoạt động tố tụng nhằm giải quyết vụ án hình sự cụ
thể, những người có thẩm quyền phải xem xét cẩn thận về việc có nên áp dụng hay
khơng áp dụng biện pháp KBTS. Ngoài ra, đối với biện pháp KBTS đã được áp dụng,
cơ quan tiến hành tố tụng còn phải thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần
thiết của biện pháp KBTS trong vụ án đó để kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi khi xét
thấy có vi phạm pháp luật hoặc khơng cịn cần thiết nữa.
KBTS của bị can, bị cáo là việc tạm thời cấm giao dịch, chuyển đổi, định
đoạt hoặc dịch chuyển tài sản của họ. Khi KBTS, chỉ kê biên phần tài sản tương ứng
với mức có thể bị phạt tiền, bị tịch thu tài sản hoặc phải bồi thường thiệt hại, có
nghĩa là mức đủ để phục vụ cho hoạt động thi hành án sau này dựa trên phán quyết
của Tịa án về hình phạt tiền, tịch thu tài sản hoặc bồi thường thiệt hại, điều này sẽ
tránh được tình trạng lạm dụng kê biên, tùy tiện khi kê biên ảnh hưởng đến quyền
lợi của bị can, bị cáo và những người có liên quan đến tài sản bị kê biên.
1.3.3. Nguyên tắc pháp luật bảo hộ quyền tài sản của cá nhân, pháp nhân
Bảo vệ quyền sở hữu là một nhiệm vụ quan trọng của mỗi Nhà nước. Quyền
sở hữu được Nhà nước bảo vệ bằng Hiến pháp, pháp luật hình sự, pháp luật hành
chính, pháp luật dân sự... mà mục tiêu là nhằm bảo đảm cho chủ sở hữu thực hiện
quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình. Khoản 2
Điều 32 Hiến pháp năm 2013 và Điều 11 BLTTHS năm 2015 quy định: “Quyền sở
hữu tư nhân … được pháp luật bảo hộ”. Theo quy định của pháp luật dân sự, quyền
sở hữu của cá nhân, pháp nhân và chủ thể khác được pháp luật công nhận và bảo vệ.


18

Khơng ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái pháp luật quyền sở hữu đối với tài sản

của mình. Chủ sở hữu có quyền tự bảo vệ, ngăn cản bất kỳ người nào có hành vi
xâm phạm quyền sở hữu của mình, truy tìm, địi lại tài sản bị người khác chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt khơng có căn cứ pháp luật. Trong trường hợp thật cần thiết
vì lý do quốc phịng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng
dụng có bồi thường tài sản của cá nhân, pháp nhân hoặc của chủ thể khác theo quy
định của pháp luật11. Như vậy, quyền sở hữu của cá nhân chỉ có thể bị hạn chế bởi
pháp luật.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, khi Tịa án ra bản án có hiệu
lực thi hành, các tài sản đã kê biên trước đó có thể được dùng làm tài sản để thi
hành án. Biện pháp KBTS nhằm đảm bảo các bị can, bị cáo trong q trình tố
tụng khơng thể cất giấu, tẩu tán hoặc hủy hoại tài sản. Việc áp dụng biện pháp
cưỡng chế KBTS nhằm đảm bảo các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng
có hiệu lực trên thực tế và phải được các cá nhân, tổ chức tôn trọng, nghiêm
chỉnh chấp hành.
Với tính chất đặc thù của biện pháp KBTS trong tố tụng hình sự là hoạt động
liên quan đến nhiều cá nhân, tổ chức khác nhau trong xã hội và thường liên quan
đến quyền sở hữu tài sản của cơng dân, vì vậy, biện pháp cưỡng chế này dễ dẫn đến
xâm phạm quyền con người, quyền công dân, do đó cần phải có cơ chế giám sát,
kiểm tra đối với hoạt động KBTS. Khi thực hiện biện pháp KBTS, các cơ quan tiến
hành tố tụng cần thực hiện mối quan hệ phối hợp và chế ước, kiểm soát lẫn nhau.
Điều này phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013: “Quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”12. Bên
cạnh đó là quyền kiểm sát các hoạt động tư pháp thuộc về cơ quan VKS, điều này
đảm bảo cho hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện có đúng theo quy định của
pháp luật, đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả.
1.4. Phân biệt biện pháp kê biên tài sản trong tố tụng hình sự với biện
pháp kê biên tài sản trong các ngành luật khác
Xét về mặt hình thức, giữa biện pháp KBTS trong tố tụng hình sự, tố tụng
dân sự và biện pháp KBTS có giá trị tương ứng để bán đấu giá để xử phạt vi phạm

11
12

Khoản 3 Điều 32 Hiến pháp năm 2013.
Hiến pháp năm 2013.


×