Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát khi kiểm sát xét xử theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

ĐỖ THỊ LAN ANH

NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN
KIỂM SÁT KHI KIỂM SÁT XÉT XỬ THEO
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT
KHI KIỂM SÁT XÉT XỬ THEO LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Định hƣớng nghiên cứu
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
Học viên: Đỗ Thị Lan Anh
Lớp: Cao học luật hình sự - Khóa 32

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ với đề tài “Nhiệm vụ, quyền
hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát xét xử theo luật tố tụng hình sự
Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn của TS. Lê Huỳnh Tấn Duy. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận
văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học
của luận văn chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Đỗ Thị Lan Anh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS :
KSXX :
TTHS :
VKS
:
VKSND :
XHCN :

Bộ luật tố tụng hình sự
Kiểm sát xét xử
Tố tụng hình sự
Viện kiểm sát
Viện kiểm sát nhân dân
Xã hội chủ nghĩa



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHIỆM VỤ,
QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT KHI KIỂM SÁT XÉT
XỬ
1.1.
Khái niệm, đặc điểm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát khi kiểm sát xét xử vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi
kiểm sát xét xử vụ án hình sự
1.1.2. Đặc điểm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm
sát xét xử vụ án hình sự
1.2.

1
9

9
9
15

Phân loại nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi
kiểm sát xét xử vụ án hình sự
1.2.1. Căn cứ vào đối tượng của nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát khi kiểm sát xét xử vụ án hình sự
1.2.2. Căn cứ vào phạm vi của nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát khi kiểm sát xét xử vụ án hình sự
1.2.3. Căn cứ vào nội dung của nhiệm vụ, quyền hạn của Viện

kiểm sát khi kiểm sát xét xử vụ án hình sự

17

Cơ sở quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
khi kiểm sát xét xử
Vị trí, vai trị và chức năng của Viện kiểm sát trong bộ
máy nhà nước
Nhiệm vụ của luật tố tụng hình sự
Vị trí, vai trị của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ
án hình sự
Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát với Tòa án, cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội, cá nhân trong giai đoạn xét xử vụ án
hình sự

22

Ý nghĩa của việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của

27

1.3.
1.3.1.
1.3.2.
1.3.3.
1.3.4.

1.4.

17

19
20

22
23
24
25


1.4.1.
1.4.2.
1.4.3.
1.4.4.

Viện kiểm sát khi kiểm sát xét xử vụ án hình sự
Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa
Bảo đảm tính khách quan trong xét xử vụ án hình sự
Bảo đảm sự cơng bằng trong xét xử vụ án hình sự
Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự

27
28
29
30

Kết luận chƣơng 1
CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NHIỆM VỤ,
QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT KHI KIỂM SÁT XÉT
XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1.

Lịch sử quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện kiểm sát khi kiểm sát xét xử vụ án hình sự
2.1.1. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi
kiểm sát xét xử vụ án hình sự từ năm 1945 đến trước năm
1988
2.1.2. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi
kiểm sát xét xử vụ án hình sự từ năm 1988 đến trước năm
2003
2.1.3. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi
kiểm sát xét xử vụ án hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003

32
33

Quy định pháp luật hiện hành về nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện kiểm sát khi kiểm sát xét xử vụ án hình sự
2.2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện kiểm sát khi kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự
2.2.2. Quy định của pháp luật hiện hành về nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện kiểm sát khi kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án
hình sự

42

2.3.

50


2.2.

Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát khi kiểm sát xét xử vụ án hình sự
2.3.1. Một số kết quả đạt được trong việc thực hiện nhiệm vụ,

33
33

36

37

44

48

50


quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát xét xử vụ án
hình sự
2.3.2. Những hạn chế trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện kiểm sát khi kiểm sát xét xử vụ án hình sự và
nguyên nhân

58

Kết luận chƣơng 2
CHƢƠNG 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA

PHÁP LUẬT VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN
KIỂM SÁT KHI KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
3.1.
Yêu cầu hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi
kiểm sát xét xử vụ án hình sự
3.2.
Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát xét xử vụ án
hình sự
3.3.
Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát xét xử vụ án
hình sự
Kết luận chƣơng 3

69
70

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

82

70

72

76



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giải quyết vụ án một cách công khai, dân chủ, công bằng, không bỏ lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội, đồng thời đảm bảo công lý được thực thi không
những thuộc về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng mà còn là đòi hỏi cấp thiết của xã hội, nhất là khi chúng ta đang xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Trong hệ thống các cơ quan nhà nước, VKSND
đóng một vai trị rất quan trọng trong việc duy trì trật tự pháp luật, bảo vệ chế độ.
Xác định được tầm quan trọng của hệ thống cơ quan này, thời gian qua, cùng với
việc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã chủ trương đổi mới tổ chức và hoạt
động của hệ thống cơ quan tư pháp trong đó có VKSND.
Theo quy định của Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức VKSND năm 1960.
VKSND khơng chỉ có chức năng thực hành quyền công tố mà thực hiện cả chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trên lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội và
lĩnh vực hoạt động tư pháp, trong đó có hoạt động KSXX. Điều này cho thấy ngay
từ những ngày mới thành lập, việc kiểm sát hoạt động xét xử đã được đánh giá là
một trong những khâu công tác quan trọng của ngành kiểm sát. Xuyên suốt quá
trình hình thành và phát triển của VKSND tới nay, với những quy định của pháp
luật hiện hành và đặc biệt là của BLTTHS năm 2015 đã tạo cơ sở cho VKSND thực
hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình trong hoạt động
KSXX.
Trải qua một thời gian áp dụng, những quy định của BLTTHS năm 2015 đã
cơ bản giúp cho ngành Kiểm sát nhân dân thực hiện được nhiệm vụ và quyền hạn
của mình. Tuy nhiên, thực tiễn TTHS cho thấy hoạt động KSXX còn bộc lộ nhiều
hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của cơng cuộc cải cách tư pháp, cịn để xảy ra
vi phạm nhất là còn để xảy ra oan sai, hoặc bỏ lọt tội phạm,… Nhiều trường hợp

VKS chưa kịp thời phát hiện những sai phạm của Tòa án trước, trong và sau phiên
tòa xét xử; nhiều vụ án Tòa án đưa ra xét xử vi phạm thời hạn xét xử, vi phạm các
thủ tục TTHS, vi phạm việc áp dụng Bộ luật hình sự nhưng khơng kịp thời đưa ra
kiến nghị, kháng nghị đã dẫn đến việc phải hủy án. Bên cạnh đó, số lượng kháng
nghị bản án, quyết định của Tịa án có vi phạm pháp luật nghiêm trọng về thủ tục tố
tụng vẫn chiếm tỉ lệ thấp, chất lượng nhiều bản kháng nghị vẫn còn chưa cao. Tỉ lệ
kháng nghị của VKS so với số vụ án Tòa án xử khác quan điểm còn thấp, vẫn còn


2

tình trạng VKS cấp phúc thẩm phải rút kháng nghị của VKS cấp sơ thẩm. Mặt khác,
một số cán bộ của ngành Kiểm sát vì nhiều lí do khác nhau mà làm sai lệch nhiệm
vụ, quyền hạn mà BLTTHS quy định. Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành ở một số
đơn vị trong cơng tác KSXX cịn chưa chặt chẽ, sát sao. Sự phối hợp giữa các cấp
kiểm sát, các bộ phận trong cơng tác kiểm sát cịn thiếu tính liên kết, chưa thực sự
thường xuyên. Hơn nữa, tại phiên tòa VKS vừa phải thực hiện đồng thời hai chức
năng thực hành quyền công tố và KSXX vụ án hình sự nên chức năng KSXX khá
mờ nhạt. Những hạn chế này do nhiều nguyên nhân, trong đó có sự bất cập của các
quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát hoạt động xét xử
vụ án hình sự, năng lực, kinh nghiệm và những điều kiện bảo đảm cho việc thực
hiện kiểm sát hoạt động xét xử của VKS. Vì vậy, đã làm giảm sút vai trò VKS trong
hoạt động tố tụng, ảnh hưởng đến hiệu quả đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.
Trước yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN, yêu cầu của cải cách tư pháp, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra
đối với việc cải cách, nâng cao vị trí, vai trị của VKS, trong đó cần phải chú trọng
đến nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi KSXX theo luật TTHS. Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI đã chỉ ra nhiệm vụ trọng tâm của công tác cải cách tư pháp là "đẩy
mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống
tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con

người"; đồng thời khẳng định: “VKS được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức tòa
án, bảo đảm tốt hơn các điều kiện để VKSND thực hiện hiệu quả chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; tăng cường trách nhiệm
công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”1.
Trách nhiệm kiểm sát hoạt động tư pháp là một trách nhiệm lớn lao của
ngành kiểm sát và một trong những nhiệm vụ đó sẽ được thể hiện rõ nét qua công
tác thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát hoạt động xét xử vụ án
hình sự bởi vì đây ln được coi là một trong những hoạt động trọng tâm của ngành
kiểm sát… Vậy làm thế nào để ngành kiểm sát có thể thực hiện tốt nhiệm vụ của
mình? Những khó khăn và hạn chế gì đang tồn tại trong cơng tác thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát hoạt động xét xử vụ án hình sự và giải pháp để
ngành Kiểm sát thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm sát hoạt động xét xử vụ án hình sự với
nền tảng là BLTTHS năm 2015? Đây là những câu hỏi mang tính thực tiễn cao
1

Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.


3

đang được ngành Kiểm sát nhân dân hết sức quan tâm trong công cuộc cải cách tư
pháp của nước ta hiện nay. Vì những lý do trên tơi quyết định chọn đề tài “Nhiệm
vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát xét xử theo luật tố tụng hình sự Việt
Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi KSXX vụ án hình sự là một quy định khá
quan trọng của BLTTHS nên đã có những nhà khoa học, người làm công tác thực
tiễn quan tâm nghiên cứu ở những phạm vi, khía cạnh và mức độ khác nhau. Qua
khảo sát, tác giả nhận thấy đã có một số cơng trình khoa học nghiên cứu và từng đề

cập về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi KSXX vụ án hình sự. Cụ thể như sau:
Về giáo trình, sách chuyên khảo:
Trường Đại học Luật Hà Nội, (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân; Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh, (2019), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Hồng Đức;
Trần Văn Biên - Đinh Thế Hưng (chủ biên), (2015), Bình luận khoa học Bộ luật Tố
tụng hình sự, Nhà xuất bản Hồng Đức; TS. Lê Tiến Châu, (2009), Luật tố tụng hình
sự Việt Nam, Nhà xuất bản Trẻ; PGS.TS. Nguyễn Thái Phúc, (chủ biên), Viện kiểm
sát hay Viện công tố; TS. Lê Hữu Thể (chủ biên), (2008), Thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nhà xuất bản Tư pháp;
TS. Lê Hữu Thể - TS. Đỗ Văn Đương – Ths. Nguyễn Thị Thủy (đồng chủ biên),
(2013), Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của việc đổi mới thủ tục tố tụng
hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia; TS. Võ
Thị Kim Oanh, (2011), Xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh; Ngơ Văn Đọn, (2004), Nâng cao
chất lượng kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố với vấn đề thông
khâu và chuyên khâu trong các cơng tác kiểm sát hình sự, Đề tài khoa học cấp bộ;
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, (2015), Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về công tác của Viện kiểm sát nhân dân 55 năm tổ chức và hoạt động, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia; Viện kiểm sát nhân dân tối cao, (2012), Viện kiểm sát nhân dân
trong tiến trình cải cách tư pháp, Lưu hành nội bộ;…
Các giáo trình và sách chuyên khảo nêu trên đề cập đến nhiệm vụ, quyền hạn
của VKS khi KSXX vụ án hình sự với những khía cạnh tiếp cận khác nhau, đa số đã
chỉ ra được những nhiệm vụ, quyền hạn cơ bản của VKS khi KSXX vụ án hình sự,
tuy nhiên, quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi KSXX vụ án hình sự chỉ


4

được thể hiện với dung lượng rất ít trong phạm vi nghiên cứu của các tác giả.

Về các bài viết khoa học đăng trên tạp chí chuyên ngành Luật:
Sau khi có các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, đặc biệt từ năm
2006 đến nay, đã có một số bài viết, đề tài nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của
VKSND như: Hoàng Nghĩa Mai, (2011), Một số nội dung cần nghiên cứu để triển
khai thực hiện Kết luận 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị và Pháp lệnh
sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
năm 2002, Tạp chí Kiểm sát số 13; Nguyễn Thị Thủy Khiêm, (2011), Viện kiểm sát
nhân dân đổi mới toàn diện và đồng bộ để triển khai thực hiện tốt các quy định của
pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự và tố tụng
hành chính, Tạp chí Kiểm sát số 13; Lê Hữu Thể, (2008), Một số vấn đề về tổ chức
bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tiến trình cải cách tư pháp,
Tạp chí Kiểm sát số 04; Lê Cảm, (2005), Bàn về tổ chức quyền tư pháp –nội dung
cơ bản của chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Tạp chí Kiểm sát; Tập thể
tác giả, (2008), Chuyên đề về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo yêu cầu
cải cách tư pháp, Tạp chí Kiểm sát số 14-16;…
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu nội dung của các bài viết cho thấy, việc
nghiên cứu về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi KSXX vụ án hình sự cịn chưa
mang tính hệ thống và chưa toàn diện. Những nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở các
cơng trình nghiên cứu chung, phân tích làm rõ một vài khía cạnh về quyền kiểm sát
hay tổ chức, hoạt động của VKS mà chưa nghiên cứu cụ thể về nhiệm vụ, quyền
hạn của VKS khi KSXX vụ án hình sự; bên cạnh đó một số cơng trình khoa học là
các bài viết tạp chí mới chỉ nghiên cứu một khía cạnh cụ thể như là tổ chức bộ máy,
chức năng và hoạt động của VKSND trong tiến trình cải cách tư pháp,… mà chưa
nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi
KSXX vụ án hình sự. Đây là vấn đề tồn tại cần được tiếp tục nghiên cứu nhất là
trong bối cảnh chúng ta đang thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, làm rõ vấn đề
này cả mặt lý luận cũng như thực tiễn tạo cơ sở cho việc hoàn thiện các quy định
của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi KSXX vụ án hình sự đáp
ứng yêu cầu của cải cách tư pháp, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả xét xử
của Tòa án, góp phần đấu tranh phịng, chống tội phạm, khơng bỏ lọt tội phạm,

không làm oan người vô tội cũng như bảo vệ pháp chế XHCN.
Một số bài viết trên các báo điện tử:
Huỳnh Thế Anh, (25/9/2013), Vấn đề tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên


5

tịa hình sự, Báo điện tử Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang; TS. Nguyễn Văn
Quảng, Bàn về chức năng kiểm sát hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện
kiểm sát nhân dân, Báo điện tử Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phịng,…
Ngồi ra, cịn có các bài viết của nhiều tác giả đã được đăng trên các báo và tạp chí
chuyên ngành, các báo cáo tổng kết công tác, các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ, các
chuyên đề của VKSND tối cao qua các năm, các đề tài khoa học cấp Nhà nước, cấp
Bộ, … Các cơng trình nghiên cứu, bài viết trước đây hầu như ít đi sâu vào tìm hiểu
về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi KSXX vụ án hình sự.
Về luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp:
Trần Mạnh Đông, (2009), Tăng thẩm quyền cho Kiểm sát viên trong quá
trình tiến hành tố tụng hình sự - Một yêu cầu tất yếu của tiến trình cải cách tư pháp
ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội; Trần
Văn Nam, (2004), Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn
xét xử của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ luật
học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Phan Thị Thúy Lan, (2007), Tổ
chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, Luận văn Thạc sĩ luật học, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Hoàng Thế Anh, (2006), Cơ sở lý luận và thực
tiễn đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở
Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học, Hà Nội; Nguyễn Hữu Khoa, (2010), Chức
năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Luận văn
Thạc sĩ luật học; Mai Văn Thùy, (2011), Chức năng của Viện kiểm sát trong giai
đoạn xét xử sơ vụ án hình sự, Luận văn Thạc sĩ luật học;…
Các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu, làm rõ

địa vị pháp lý của VKS nói chung hoặc ở một góc độ nhất định như đi sâu phân tích
thế nào là KSXX vụ án hình sự nhưng chưa có cơng trình nào nghiên cứu cụ thể,
tồn diện về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi KSXX vụ án hình sự, chưa đánh giá
một cách có hệ thống những điểm cịn hạn chế trong cơng tác KSXX vụ án hình sự,
chưa phân tích ngun nhân và đưa ra giải pháp khắc phục của những hạn chế đó.
Nhìn chung, đến nay vẫn chưa có một cơng trình nghiên cứu chuyên sâu nhất về
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi KSXX vụ án hình sự.
Các cơng trình nghiên cứu khoa học đã công bố trên đa phần là lý luận và hệ
thống về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi KSXX vụ án hình sự. Bên cạnh đó,
phần nào có đề cập đến nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi KSXX vụ án hình sự
nhưng vẫn chưa có sự nghiên cứu chuyên sâu, riêng biệt. Do đó, luận văn này phần


6

nào nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống, chuyên sâu về nhiệm vụ, quyền
hạn của VKS khi KSXX vụ án hình sự cả về phương diện lý luận, quy định của
pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn được thực hiện với mục đích chính là tìm ra những giải pháp hữu
hiệu nhằm hoàn thiện pháp luật TTHS về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực
hiện chức năng KSXX vụ án hình sự và nâng cao hiệu quả thực hiện.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đã đề ra, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ nghiên
cứu cụ thể sau:
Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi
KSXX vụ án hình sự;
Thứ hai, phân tích và đánh giá quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền
hạn của VKS khi KSXX vụ án hình sự;

Thứ ba, phân tích và đánh giá kết quả đạt được trong thực tiễn thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi KSXX vụ án hình sự; xác định những tồn tại,
hạn chế và làm rõ nguyên nhân;
Thứ tư, đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện quy định của pháp
luật TTHS về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi KSXX vụ án hình sự và nâng cao
hiệu quả thực hiện.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, quy định của
pháp luật TTHS Việt Nam và thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi
KSXX vụ án hình sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu những quy định cụ thể của
BLTTHS năm 2015 (Điều 267) và các văn bản hướng dẫn thi hành về nhiệm vụ,
quyền hạn của VKS khi KSXX sơ thẩm và xét xử phúc thẩm vụ án hình sự. Bên
cạnh đó, luận văn cịn so sánh với một số quy định của BLTTHS 2003. Luận văn
không nghiên cứu nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong các giai đoạn tố tụng khác; không nghiên cứu pháp luật nước ngồi.
- Về khơng gian và thời gian: Luận văn khảo sát thực tiễn thực hiện nhiệm


7

vụ, quyền hạn của VKS khi KSXX vụ án hình sự trên phạm vi cả nước trong giai
đoạn từ năm 2016 đến năm 2020.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Để thực hiện nhiệm vụ đặt ra luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng kết hợp cùng chủ nghĩa duy vật lịch sử,
lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp đặc thù
của khoa học pháp lý hình sự nói chung và khoa học luật TTHS nói riêng đó là:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết luật học (doctrinal legal research): được
sử dụng để phân tích và đánh giá nội dung các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn
của VKS khi KSXX vụ án hình sự trong các văn bản pháp luật như Hiến pháp năm
2013; BLTTHS năm 2015; Luật tổ chức VKSND năm 2014;…
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử (historical research): được sử dụng để
phân tích một cách có hệ thống quá trình hình thành và phát triển các quy định
trong luật TTHS Việt Nam liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi KSXX
vụ án hình sự.
- Phương pháp so sánh (comparative research): được sử dụng để so sánh quy
định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi KSXX sơ thẩm vụ án hình sự giữa các
BLTTHS.
- Phương pháp nghiên cứu tình huống (case study research): được sử dụng để
phân tích, đánh giá các vụ việc, vụ án hình sự để minh chứng cho những hạn chế
trong thực tiễn KSXX. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu trong Chương 2 của
luận văn.
6. Ý nghĩa của luận văn
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận và thực tiễn, luận văn góp
phần làm sáng tỏ thêm quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi
kiểm sát hoạt động xét xử vụ án hình sự theo luật TTHS Việt Nam. Từ đó, tác giả
đề xuất những phương hướng cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật và các giải pháp
bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi KSXX vụ án hình sự theo
luật TTHS Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh đó, luận văn là một nguồn tài liệu tham khảo phục vụ cho hoạt
động nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn Luật TTHS Việt Nam tại các cơ sở đào


8


tạo luật.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
khi kiểm sát xét xử
Chương 2. Quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
khi kiểm sát xét xử vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng
Chương 3. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện kiểm sát khi kiểm sát xét xử vụ án hình sự và nâng cao hiệu quả thực hiện.


9

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN
CỦA VIỆN KIỂM SÁT KHI KIỂM SÁT XÉT XỬ
1.1. Khái niệm, đặc điểm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi
kiểm sát xét xử vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát xét
xử vụ án hình sự
Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tất cả các
quyền lực thuộc về nhân dân và nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua
Quốc hội. Tuy nhiên, Quốc hội không thể nắm giữ và thực hiện tất cả các quyền đó
mà có sự phân công, phân nhiệm và tổ chức phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền đó. VKS là một trong bốn hệ thống cơ quan nhà
nước, thuộc hệ thống các cơ quan tư pháp và là một thiết chế đặc thù trong tổ chức

bộ máy nhà nước. Theo quy định của Hiến pháp Việt Nam, VKS là một hệ thống cơ
quan nhà nước độc lập trong cơ cấu tổ chức bộ máy của các cơ quan nhà nước.
Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và Điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2014
quy định chức năng của VKS: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp”2. Như vậy có thể thấy dù ở những mức độ, phạm vi
khác nhau, song VKS luôn thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp và
thực hành quyền cơng tố. Hai chức năng này vừa có tính độc lập tương đối, vừa liên
hệ chặt chẽ, tác động qua lại, bổ sung cho nhau; xâm nhập, đan xen lẫn nhau, khơng
tách rời nhau đã tạo nên tính thống nhất trong chức năng của VKS.
Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong TTHS để thực
hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự3. Trong khi đó, kiểm sát hoạt động tư
pháp là hoạt động của VKSND để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết
định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ
khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong
2
3

Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013; khoản 1 Điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
Khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.


10

suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ
việc dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành
án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp
khác theo quy định của pháp luật4.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt thuật ngữ “nhiệm vụ” được hiểu là “công việc

phải làm, gánh vác”5 hay “công việc phải làm trong một khoảng thời gian nhất
định”6. “Nhiệm vụ” là một khái niệm rộng trong đời sống xã hội. Mỗi cá nhân, tổ
chức có nhiệm vụ đối với cá nhân, tổ chức hoặc có nhiệm vụ (nhiệm vụ có thể ghi
nhận bằng văn bản hoặc bằng lời nói) trong một cơng việc nhất định với một đơn vị
theo sự phân công. Tuy nhiên theo từ điển luật học thì nhiệm vụ của chủ thể phải do
pháp luật quy định một cách rõ ràng và ban hành thành văn, có giá trị pháp lý bắt
buộc thực hiện đối với từng chủ thể theo từng lĩnh vực. Theo cách hiểu này thì
“nhiệm vụ” nói chung là cơng việc mang tính chất bắt buộc đối với chủ thể phải
thực hiện. Nhiệm vụ của một chủ thể phải xuất phát từ tư cách chủ thể trong quan
hệ xã hội mà chủ thể đó tham gia và được pháp luật quy định. Cùng một chủ thể
nhưng quan hệ xã hội khác nhau thì quy định pháp luật xác định nhiệm vụ khác
nhau.
Do đó, có thể hiểu nhiệm vụ của VKSND là những hoạt động cụ thể của
VKSND trong một thời gian nhất định nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
ngành Kiểm sát để cùng thực hiện nhiệm vụ của bộ máy nhà nước trên cơ sở quy
định của Hiến pháp và pháp luật. Trong lĩnh vực TTHS, VKSND với tư cách là cơ
quan tiến hành tố tụng thì VKS có nhiệm vụ: “thực hành quyền cơng tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc tội, phát hiện vi
phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân
phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm
minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét cử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, khơng
làm oan người vơ tội”7.
Cịn về khái niệm “quyền hạn” được hiểu là “quyền theo cương vị, chức vụ
cho phép”8. Theo nghĩa thơng thường thì quyền hạn được hiểu là do chủ thể tự cho
4

Khoản 1, điều 4 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa thơng tin, Tr.1384.
6

Hồng Phê (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Tr.1034.
7
Điều 20 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
8
Hồng Phê (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Tr.1256.
5


11

mình một quyền hạn nhất định và phù hợp với hồn cảnh của mỗi chủ thể. Quyền
hạn có thể tự đặt ra hay quyền hạn do pháp luật quy định và quyền hạn mang tính
quyền lực Nhà nước hay quyền hạn chỉ mang tính răn đe, giáo dục đối với từng chủ
thể riêng lẻ. Dước góc độ pháp lý quyền hạn của một cơ quan, tổ chức, cá nhân
được “xác định theo phạm vi, lĩnh vực hoạt động, cấp bậc – chức vụ, vị trí cơng tác
và trong phạm vi không gian, thời gian nhất định theo quy định của pháp luật”9.
Như vậy quyền hạn thường gắn với một cương vị, tư cách cụ thể và trong khoa học
pháp lý “quyền hạn” sẽ gắn liền với cơ quan, tổ chức trong bộ máy Nhà nước hoặc
người có thẩm quyền của cơ quan tổ chức đó. Quyền hạn của cơ quan tổ chức là
quyền quyết định giải quyết công việc trong phạm vi thẩm quyền của cơ quan, tổ
chức. Còn quyền hạn của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức là quyền
quyết định giải quyết công việc trong phạm vi thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó.
Nhiệm vụ, quyền hạn là hai khái niệm khác nhau, nhưng giữa chúng lại có
mối quan hệ biện chứng với nhau. Từ nhiệm vụ cụ thể pháp luật sẽ quy định cho
các chủ thể có những quyền hạn gì và ngược lại từ quyền hạn sẽ khắc họa rõ nét
nhiệm vụ của chủ thể. Để thực hiện tốt nhiệm vụ của VKS trong TTHS thì pháp luật
TTHS phải giao cho VKS những quyền hạn nhất định để thực hiện được nhiệm vụ
đó như: quy định VKS là cơ quan tiến hành tố tụng, được quyền tiếp nhận tin báo tố
giác tội phạm, kiến nghị khởi tố; quyền khởi tố vụ án hình sự, thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động điều tra, truy tố, xét xử,…

Từ những phân tích trên, ta rút ra khái niệm về nhiệm vụ, quyền hạn của
VKS trong TTHS đó là: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát là những công việc
cụ thể do pháp luật quy định đối với Viện kiểm sát để cùng thực hiện nhiệm vụ của
Bộ máy nhà nước, có quyền quyết định thực hiện các hoạt động theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự nhằm giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
Sau khi đã đưa ra khái niệm trên, bước tiếp theo là tìm hiểu khái niệm nhiệm
vụ, quyền hạn của VKS khi thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
giới hạn trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Theo từ điển Luật học thì “Xét xử là
hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán
xét về tính chất, mức độ pháp lý của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một
phán quyết tương ứng với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ

9

Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb Tư pháp.


12

việc”10. Như vậy xét xử sự việc gì đó là xem xét, đánh giá tất cả những chứng cứ,
tình tiết có liên quan và kết luận sự việc đó, sau đó phán quyết về cách giải quyết sự
việc đó.
Xét xử vụ án hình sự là giai đoạn trung tâm và quan trọng nhất của hoạt động
TTHS, mà trong đó cấp Tịa án có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp
luật TTHS tiến hành: áp dụng các biện pháp chuẩn bị cho việc xét vụ án hình sự;
đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm để xem xét về thực chất vụ án, đồng thời
trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai và dân chủ của hai bên (buộc tội và bào
chữa) phán xét về vấn đề tính chất tội phạm (hay khơng) của hành vi, có tội (hay
khơng) của bị cáo (hoặc xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm - nếu bản án hay quyết
định sơ thẩm đã được tuyên và chưa có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng cáo,

kháng nghị hoặc kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án hay quyết định đã
có hiệu lực pháp luật theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm - nếu bản án hay
quyết định đó bị kháng nghị) và cuối cùng, tuyên bản án (quyết định) của Tịa án có
hiệu lực pháp luật nhằm giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự một cách cơng minh
và đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục.
Bằng việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm (nếu bản án hay quyết định chưa có
hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị) thơng qua q trình điều tra trực tiếp
tại phiên tòa, trên cơ sở kết quả tranh tụng cơng khai và dân chủ của các bên, Tịa
án với tính chất là cơ quan trọng tài kiểm tra lại và đánh giá một cách toàn diện,
khách quan và đầy đủ các chứng cứ, các tình tiết của vụ án hình sự để giải quyết về
bản chất nó - phán xét về vấn đề tính chất tội phạm (hay khơng) của hành vi, có tội
(hay khơng) của bị cáo hoặc bằng việc kiểm tra tính hợp pháp và của bản án theo
trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm (nếu bản án hay quyết định đã có hiệu lực
pháp luật bị kháng nghị), nhằm đạt mục đích trong tồn bộ các giai đoạn TTHS là
tuyên một bản án (quyết định) có hiệu lực pháp luật một cách cơng minh và đúng
pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục tránh bỏ lọt tội phạm và kết án oan
người vô tội.
Theo Từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên thì có thể hiểu “kiểm”
là “xem lại, xem xét, kiểm học, kiểm kê, kiểm soát, kiểm tra”11. Theo giáo trình cơng
tác kiểm sát của Học viện cán bộ kiểm sát quốc gia Trung Quốc thì “Kiểm sát vừa
10

Bộ Tư pháp – Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển bách khoa; Nxb Tư pháp, Hà
Nội, Tr.869.
11
Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa thơng tin.


13


chỉ việc xem xét kiểm nghiệm, vừa chỉ việc tố giác chặn đứng”12. “Kiểm sát” là
“kiểm tra, giám sát”13 và đối tượng của kiểm sát ở đây được hiểu là công tác điều
tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự theo trình tự tố tụng do pháp luật quy định,
việc tổ chức thực hiện các bản án, quyết định của Tịa đã có hiệu lực pháp luật.
V.I. Lê-nin là người đầu tiên có quan điểm về tổ chức cơ quan kiểm tra, giám
sát, quan điểm đó được thể hiện trong tác phẩm bàn về “Song trùng, trực thuộc và
pháp chế”. V.I. Lê-nin xuất phát từ một vấn đề có tính quy luật là: Trong q trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải thiết lập một nền pháp chế thống nhất, điều mà
V.I. Lê-nin gọi “pháp chế chỉ có một” với ba yêu cầu phải có sự thống nhất về pháp
chế trong tồn nước cộng hịa; phải có luật duy nhất trong tồn nước cộng hịa và
phải có sự áp dụng thực hiện và tuân theo pháp luật một cách thống nhất. Để bảo
đảm sự thắng lợi của cách mạng trong quá trình xây dựng XHCN cần phải thiết lập
một nền pháp chế thống nhất, trật tự kỷ cương phép nước phải nghiêm minh. Vậy,
muốn có pháp chế thống nhất không thể không thành lập cơ quan VKS.
Vận dụng tư tưởng của V.I. Lê-nin vào thực tiễn xây dựng, tổ chức bộ máy
Nhà nước ta. Đảng và Nhà nước đã nhận định rằng, để đảm bảo cho pháp luật do
Nhà nước ban hành được thực hiện một cách nghiêm minh và thống nhất thì việc tổ
chức một cơ quan có chức năng kiểm tra và giám sát hoạt động áp dụng pháp luật
của các cơ quan nhà nước và cơng dân là một địi hỏi mang tính khách quan nên đã
quyết định thành lập cơ quan VKSND.
Thuật ngữ “kiểm sát các hoạt động tư pháp” được xuất hiện trong các văn
kiện của Đảng như Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết số 08 ngày
02/1/2002 của Bộ Chính trị và đặc biệt được quy định tại Điều 137 Hiến pháp năm
1992 (sửa đổi), Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức VKSND năm 2002.
Tuy nhiên, các nhà lập pháp nước ta chưa đưa ra một định nghĩa pháp lý chung nhất
của khái niệm “kiểm sát các hoạt động tư pháp”, dẫn đến nhiều quan điểm nhận
thức khác nhau về khái niệm này. Tuy nhiên, các quan điểm đều không phủ nhận
kiểm sát hoạt động tư pháp luôn bao gồm việc kiểm sát các hoạt động TTHS bao
gồm các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự và thi hành án.
Cần phải khẳng định, kiểm sát các hoạt động tư pháp là chức năng hiến định


12

Long Tống Trí (2002), Giáo trình cơng tác kiểm sát, Học viện cán bộ kiểm sát quốc gia Trung Quốc, Nxb
Bắc Kinh, Trung Quốc, Tr.173-174.
13
Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa thơng tin.


14

của VKS. Kiểm sát các hoạt động tư pháp là một dạng giám sát Nhà nước về tư
pháp, đây là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước. Quan điểm này đã được thể
chế hóa trong các bản hiến pháp từ Hiến pháp năm 1959 đến Hiến pháp 2013.
Hiến pháp năm 2013 trong đó có sự điều chỉnh chức năng của cơ quan VKS
với quy định “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động
tư pháp”. Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động xét xử
vụ án hình sự nói riêng là một vấn đề được quan tâm nghiên cứu, tranh luận trong
suốt quá trình lập hiến và lập pháp, cũng như trong quá trình đổi mới cải cách tổ
chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp nước ta trong thời gian qua. Với quy định
tại các bản Hiến pháp và Điều 1 Luật tổ chức VKSND năm 2014 thì kiểm sát các
hoạt động tư pháp được coi là chức năng cơ bản xuyên suốt toàn bộ hoạt động của
hệ thống cơ quan VKS, đồng thời thể hiện bản chất trong hoạt động của VKSND
nước ta.
Trước hết ta có thể hiểu: “Kiểm sát các hoạt động tư pháp hình sự là chức
năng hiến định của Viện kiểm sát, có nội dung là giám sát mọi hoạt động của các
cơ quan tư pháp trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự,
nhằm đảm bảo cho pháp luật tố tụng được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và
thống nhất”.
Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS trong hoạt động xét xử

của Tòa án nhằm bảo đảm cho việc xét xử được đúng người, đúng tội, đúng quy
định của pháp luật, không để xảy ra tình trạng xét xử oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
Mọi quyết định hoặc hành vi vi phạm của Tịa án và người có thẩm quyền trong xét
xử phải được VKS phát hiện, kiến nghị hoặc kháng nghị yêu cầu chấm dứt, khắc
phục để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức, cá nhân, bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân. Nếu phát hiện q trình
xét xử có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hoặc xảy ra oan, sai bỏ lọt tội phạm,
VKS sẽ thực hiện việc kháng nghị đối với bản án, quyết định của Tịa án. Khi có
kháng nghị của VKS, bản án, quyết định của Tòa án sẽ được xét xử lại hoặc xét lại
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Có thể đưa ra khái niệm KSXX vụ án hình sự như sau: “Kiểm sát xét xử vụ
án hình sự là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp nhiệm vụ, quyền hạn được pháp
luật quy định để kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án, Hội đồng xét xử và
người tham gia tố tụng nhằm bảo đảm việc xét xử của Tòa án được nghiêm minh,
kịp thời, đúng pháp luật, khơng để xảy ra tình trạng oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm,


15

qua đó bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức, cá nhân”.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về nhiệm vụ, quyền hạn của
VKS khi KSXX vụ án hình sự đó là: “Những hoạt động cụ thể của Viện kiểm sát
nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát bằng những quyền năng
trong khuôn khổ pháp luật tố tụng hình sự nhằm kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của Tòa án, Hội đồng xét xử và người tham gia tố tụng nhằm bảo đảm việc xét xử
của Tòa án được nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật, khơng để xảy ra tình trạng
oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm, qua đó bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”.
1.1.2. Đặc điểm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát xét

xử vụ án hình sự
Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát hoạt động xét xử vụ án hình sự
theo luật TTHS có những đặc thù riêng khác với nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi
kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, thi hành án và cũng đồng thời khác với
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát các vụ án dân sự, hành chính, kinh tế.
Đặc trưng này một mặt phản ánh bản chất của hoạt động xét xử vụ án hình sự, đồng
thời là căn cứ để phân biệt với hoạt động kiểm sát ở những lĩnh vực khác.
Thứ nhất, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi KSXX vụ án hình sự do
BLTTHS quy định. VKS khơng được thực hiện những hoạt động ngồi nhiệm vụ,
quyền hạn mà BLTTHS quy định. Đây chính là một nội dung của nguyên tắc pháp
chế. Nguyên tắc này đòi hỏi mọi hoạt động của VKS phải được luật điều chỉnh chặt
chẽ, cụ thể và các quy định của pháp luật phải được tuân thủ một các nghiêm minh,
thống nhất. Trong trường hợp vi phạm pháp luật, VKS có trách nhiệm phải áp dụng
biện pháp để khắc phục vi phạm đó.
Thứ hai, về chủ thể của hoạt động KSXX vụ án hình sự: Theo quy định của
pháp luật hiện hành: “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố,
kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Như
vậy, trước hết cần khẳng định “kiểm sát” là một loại quyền lực của Nhà nước, do
VKS thực hiện với đối tượng kiểm tra, giám sát là việc chấp hành pháp luật của
Nhà nước nói chung và của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong hoạt động xét xử vụ án
hình sự nói riêng. Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS được thực hiện thông qua hoạt
động của kiểm sát viên và Viện trưởng VKS. Như vậy, VKS là cơ quan duy nhất có


16

thẩm quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án, Hội đồng xét xử, Thẩm
phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên và những người tham gia tố tụng tại
phiên Tòa, bảo đảm cho việc xét xử của Tòa án được nghiêm minh, đúng quy định

của pháp luật, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân.
Thứ ba, về phạm vi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi KSXX vụ
án hình sự: Theo Điều 27 BLTTHS năm 2015, Tòa án thực hiện chế độ xét xử: xét
xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Ngồi ra cịn có thủ tục xét lại bản án và quyết
định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm và thủ tục xem
xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Theo quy định
tại Điều 4 Quy chế công tác thực hành quyền công tố, KSXX vụ án hình sự - Ban
hành kèm theo quyết định số 505/QĐ – VKSTC ngày 18/12/2017 của Viện trưởng
VKSND tối cao thì việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi KSXX bắt
đầu từ khi VKS chuyển bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn
cùng hồ sơ vụ án đến Tòa án để xét xử và kết thúc khi bản án, quyết định của Tòa
án có hiệu lực pháp luật, khơng bị kháng cáo, kháng nghị hoặc không bị yêu cầu,
kiến nghị đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao. Như vậy, tùy theo từng vụ án mà việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
VKS khi KSXX vụ án hình sự có thể kéo dài ở tất cả các giai đoạn hoặc kết thúc ở
từng giai đoạn khác nhau. Có những vụ án chỉ giải quyết ở thủ tục xét xử sơ thẩm
mà khơng có kháng cáo, kháng nghị thì việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
VKS khi KSXX vụ án hình sự sẽ chấm dứt từ thời điểm hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị mà khơng có kháng cáo, kháng nghị. Ngược lại, đối với các vụ án mà
sau khi xét xử sơ thẩm có kháng cáo hoặc nếu phát hiện bản án, quyết định của Tịa
án có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc phát hiện tình tiết mới của của vụ án thì
có thể bị kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm theo quy
định của BLTTHS năm 2015. Trong trường hợp này, phạm vi việc thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn của VKS khi KSXX vụ án hình sự chấm dứt khi có bản án, quyết
định phúc thẩm hoặc quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm.
Thứ tư, đối tượng của nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi KSXX vụ án hình
sự chính là việc tn theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án, của những
người tham gia tố tụng; bản án, quyết định, văn bản tố tụng khác của Tòa án.
Việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử được thể hiện trên những

khía cạnh sau đây:


17

+ Thành phần và tư cách pháp lý của những người tiến hành tố tụng trong
Hội đồng xét xử;
+ Việc tuân theo các quy định về thủ tục tố tụng trong quá trình xét xử như
thời hạn đưa vụ án ra xét xử, tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, triệu tập
người tham gia xét xử; việc tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án, thủ tục bắt đầu phiên
tòa…;
+ Việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tranh tụng tại phiên tòa; việc nghị
án, tuyên án của Hội đồng xét xử;
+ Tư cách pháp lý của người tham gia tố tụng;
+ Việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng;
+ Việc tuân theo các quy định trật tự phiên tịa;
+ Tính có căn cứ và hợp pháp trong các bản án, quyết định của Tịa án.
Như vậy có thể thấy đối tượng của nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi KSXX
vụ án hình sự là việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án, của
những người tham gia tố tụng; bản án, quyết định, văn bản tố tụng khác của Tịa án
và vai trị của VKS chính là căn cứ vào nhiệm vụ, quyền hạn của mình để đảm bảo
mọi quyết định, yêu cầu, quyền và nghĩa vụ của tất cả các đối tượng tham gia tố
tụng thực hiện theo quy định của pháp luật.
Thứ năm, về hình thức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát
hoạt động xét xử vụ án hình sự. VKS kiểm sát việc tn theo pháp luật thơng qua
hai cách đó là kiểm sát gián tiếp và kiểm sát trực tiếp.
Kiểm sát gián tiếp là kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án như quyết định
đưa vụ án ra xét xử, quyết định phân cơng thẩm phán chủ tọa phiên tịa, quyết định
tạm giam bị cáo để xét xử… Kiểm sát việc ban hành các văn bản tố tụng đó xem có
đúng về trình tự, thẩm quyền, nội dung, chủ thể ban hành các quyết định, bản án

hình sự thơng qua đó VKS có thể thực hiện quyền kiến nghị, kháng nghị các bản án,
quyết định của Tòa án.
Kiểm sát trực tiếp là tại phiên tịa, Kiểm sát viên có quyền kiểm sát thành
phần của Hội đồng xét xử, tư cách tham gia tố tụng của những người tham gia tố
tụng, giới hạn về phạm vi xét xử của Tòa án. Nếu như những người tham gia tố tụng
có ý kiến về việc thay đổi người tiến hành tố tụng thì Hội đồng xét xử phải hỏi ý
kiến của VKS trước khi hội ý để đưa ra quyết định, tại phiên tịa nếu Kiểm sát viên
phát hiện sai sót của Hội đồng xét xử thì có quyền kiến nghị trực tiếp với Hội đồng
xét xử để khắc phục các vi phạm đó một cách kịp thời nhằm đảm bảo cho Hội đồng


18

xét xử làm việc thực sự khách quan, xét xử đúng người, đúng tội, đúng các quy định
của pháp luật.
1.2. Phân loại nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát xét
xử vụ án hình sự
1.2.1. Căn cứ vào đối tượng của nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
khi kiểm sát xét xử vụ án hình sự
Theo tiêu chí này thì nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi KSXX vụ án hình sự
có thể phân loại như sau:
Thứ nhất, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong các hoạt động của Tịa án. VKS có nhiệm vụ, quyền hạn kiến nghị, yêu
cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tố tụng theo quy định của
BLTTHS năm 2015; VKS có quyền kiến nghị Tịa án khắc phục vi phạm trong hoạt
động tố tụng; Một số hoạt động cụ thể của VKS khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của mình kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động giải quyết, xét xử của
Tòa án, của Hội đồng xét xử từ khi thụ lý vụ án đến khi kết thúc hoạt động xét xử
vụ án hình sự: Kiểm sát việc giao, gửi quyết định của Tòa án; Kiểm sát thành phần
của Hội đồng xét xử, giới hạn của việc xét xử; Kiểm sát thủ tục bắt đầu phiên tòa

của Hội đồng xét xử; Kiểm sát thủ tục xét hỏi tại phiên tòa; Kiểm sát việc tuyên án;
Kiểm sát việc giao gửi bản án, quyết định của Tòa án.
Thứ hai, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của những người tham gia tố tụng (bị cáo, người bào chữa, bị hại, đương sự và
những người đại diện hợp pháp của họ, người làm chứng, người giám định, người
phiên dịch,…). VKS có nhiệm vụ, quyền hạn khi KSXX vụ án hình sự thơng qua
việc yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người
tham gia tố tụng vi phạm pháp luật. Qua đó bảo đảm việc người tham gia tố tụng
phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo quy định của BLTTHS năm 2015 (Chương
IV) và khơng có vi phạm pháp luật khác để phiên tịa được diễn ra đúng quy định
của pháp luật về TTHS. Tùy thuộc vào hành vi của người tham gia tố tụng mà VKS
có thể u cầu Tịa án hoặc cơ quan Cơng an bảo vệ phiên tịa xử lý theo quy định
của pháp luật. Một số hoạt động cụ thể của VKS khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của mình kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng: Kiểm
sát sự có mặt của những người tham gia tố tụng...
Thứ ba, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của bản án, quyết định, văn bản tố tụng khác của Tòa án, Hội đồng xét xử. VKS yêu


×