Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên mua bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

TRẦN NHÃ DUYÊN

PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ
LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA BÊN MUA BẢO
HIỂM TRONG BẢO HIỂM NHÂN THỌ

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH TẾ

TP HỒ CHÍ MINH – 10/2021



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi; các số
liệu nêu trong luận văn là trung thực; những kết luận của luận văn chưa từng
được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Tơi xin cam đoan: các thơng tin trích dẫn trong luận văn đã được trích dẫn rõ
nguồn gốc. Tơi xin chịu trách nhiệm đối với luận văn của mình.
Tác giả luận văn

TRẦN NHÃ DUYÊN


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI
ÍCH HỢP PHÁP CỦA BÊN MUA BẢO HIỂM TRONG BẢO
HIỂM NHÂN THỌ ..................................................................................................6


1.1.

Khái quát chung về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ .........................................6

1.1.1.

Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ......................6

1.1.2.

Phân loại hợp đồng bảo hiểm nhân thọ................................................11

1.1.3.

Một số nội dung cơ bản của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ ..................13

1.2.

Khái quát chung về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên
mua bảo hiểm nhân thọ ...............................................................................29

1.2.1. Khái quát quyền và lợi ích hợp pháp của bên mua bảo hiểm
nhân thọ ..............................................................................................................29
1.2.2. Nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên mua
bảo hiểm nhân thọ ..............................................................................................30
1.2.3. Các hình thức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên
mua bảo hiểm nhân thọ ......................................................................................32
CHƢƠNG II: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN
VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA BÊN MUA BẢO HIỂM NHÂN
THỌ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN .................................................................36

2.1. Quy định của pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin trong hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ và kiến nghị hoàn thiện ..................................................36
2.1.1.

Xác định hành vi vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin .......................38

2.1.2.

Hậu quả của việc vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin.......................46

2.2. Quy định của pháp luật về việc thay đổi chủ thể hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ và kiến nghị hoàn thiện ..................................................................48


2.2.1.

Thay đổi bên mua bảo hiểm ..................................................................48

2.2.2.

Thay đổi bên bán bảo hiểm (doanh nghiệp bảo hiểm) .........................52

2.3. Quy định của pháp luật về thay đổi mức phí bảo hiểm, về nghĩa
vụ đóng phí bảo hiểm và kiến nghị hồn thiện ......................................................55
2.3.1. Thay đổi mức phí bảo hiểm trong trường hợp thay đổi rủi ro
được bảo hiểm ....................................................................................................55
2.3.2.

Nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm của bên mua bảo hiểm............................58


2.4. Quy định của pháp luật về các trường hợp không trả tiền bảo
hiểm và kiến nghị hoàn thiện .................................................................................67
KẾT LUẬN ..............................................................................................................72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC 1: Án lệ số 22/2018/AL đƣợc Hội đồng Thẩm phán Tịa án nhân dân
tối cao thơng qua ngày 17/10/2018 và đƣợc công bố theo Quyết định số
269/QĐ-CA ngày 06/11/2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về “không
vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin tình trạng bệnh lý trong hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ”.
PHỤ LỤC 2: Án lệ số 23/2018/AL đƣợc Hội đồng Thẩm phán Tịa án nhân dân
tối cao thơng qua ngày 17 tháng 10 năm 2018 và đƣợc công bố theo Quyết định
số 269/QĐ-CA ngày 06 tháng 11 năm 2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao về “hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ khi bên mua bảo hiểm khơng
đóng phí bảo hiểm do lỗi của doanh nghiệp bảo hiểm”.


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT

TỪ/CỤM TỪ ĐƢỢC VIẾT TẮT

Luật KDBH

Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000,
được sửa đổi, bổ sung năm 2010

HĐBHNT

Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ


DNBH

Doanh nghiệp bảo hiểm

BMBH

Bên mua bảo hiểm


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thị trường tài chính hiện nay, bên cạnh một số kênh đầu tư như chứng
khoán, tiền gửi ngân hàng, bất động sản thì kênh đầu tư bảo hiểm đang dần trở
thành kênh đầu tư hấp dẫn, được nhiều người lựa chọn. Hoạt động bảo hiểm nói
chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng đang phát triển mạnh mẽ và ngày càng phổ
biến, thị trường bảo hiểm hội nhập với nhiều doanh nghiệp bảo hiểm trong và ngoài
nước, sản phẩm bảo hiểm ngày càng đa dạng, số lượng người tham gia bảo hiểm
không ngừng tăng lên. Trong bảo hiểm nhân thọ, mục đích của người mua bảo hiểm
là muốn đảm bảo quyền lợi tài chính cho chính mình hoặc cho người thân khi có
những sự kiện tác động đến chính bản thân người được bảo hiểm, mục đích này là
hồn tồn phù hợp với mục đích chính mà hoạt động bảo hiểm hướng tới là lấy sự
đóng góp của số đơng để bù đắp cho thiệt hại của số ít, là sự chia sẻ của số đông
cho những chủ thể không may gặp rủi ro. Về mặt nguyên tắc, quan hệ bảo hiểm nói
chung và quan hệ bảo hiểm nhân thọ nói riêng là quan hệ dân sự, các bên trong
quan hệ bảo hiểm có tư cách pháp lý độc lập và có quyền thực hiện các giao dịch
với nhau theo các nguyên tắc của thị trường. Tuy nhiên, trong thực tế, doanh nghiệp
bảo hiểm thường lợi dụng vị thế là người am hiểu chuyên môn, người ban hành các
điều khoản mẫu để đưa ra những thỏa thuận không công bằng hay những ràng buộc

bất lợi đối với bên mua bảo hiểm. Các hành vi này có thể gây thiệt hại trực tiếp đến
lợi ích của bên mua bảo hiểm, các bên liên quan khác như người được bảo hiểm,
người thụ hưởng, ảnh hưởng lớn đến niềm tin của công chúng đối với hoạt động
kinh doanh bảo hiểm và làm cho mục đích chính của hoạt động bảo hiểm khơng thể
đạt được. Bên cạnh đó, một số vấn đề thực tế khác cũng ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích của bên mua bảo hiểm nhân thọ có thể kể đến như: bên mua bảo hiểm khơng
được giải thích đúng và đầy đủ về doanh nghiệp bảo hiểm, sản phẩm bảo hiểm; bên
mua bảo hiểm với sự hạn chế về năng lực chuyên môn không nắm được tất cả các
quyền, các cách thức bảo vệ quyền mà pháp luật đã ghi nhận để bảo vệ tốt nhất
quyền, lợi ích của mình. Như vậy, pháp luật cần thiết được sử dụng để cải thiện vị
thế của bên mua bảo hiểm, nhất là bên mua bảo hiểm nhân thọ. Hơn nữa, quyền và
lợi ích hợp pháp của bên mua bảo hiểm nếu không được bảo vệ tốt thơng qua các
quy định có hiệu quả điều chỉnh cao của pháp luật có thể tìm ẩn nhiều nguy cơ cho
môi trường hoạt động kinh doanh bảo hiểm và tính lành mạnh của nền kinh tế.


2

Mặc dù Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, được sửa đổi, bổ sung năm
2010, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010, Bộ Luật dân sự 2015 đã có các
quy định nhằm bảo vệ một cách có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của bên mua
bảo hiểm nhân thọ, các quy định hiện hành của nước ta vẫn thể hiện một số bất cập
hoặc thiếu sự rõ ràng. Một số ví dụ như sự lúng túng trong việc xác định hành vi vi
phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm, sự bất hợp lý trong quy
định về hậu quả của việc cung cấp thơng tin khơng đầy đủ, khơng chính xác, quy
định về điều kiện chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm hay quy định về thay đổi phí
bảo hiểm, nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm đúng thời hạn, đúng phương thức của bên
mua bảo hiểm.
Qua tìm hiểu về tình hình nghiên cứu, tác giả nhận thấy ở nước ta hiện nay
chưa có cơng trình nào nghiên cứu chun sâu, có hệ thống và đầy đủ về cơ sở lý

luận và thực tiễn (từ góc độ pháp lý) của vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của BMBH trong bảo hiểm nhân thọ. Điều đó gây khó khăn cho các chủ thể, đặc
biệt là BMBH khi tìm hiểu và nắm vững pháp luật để bảo vệ quyền lợi cho chính
mình.
Từ những phân tích trên, tác giả nhận thấy đề tài: “Pháp luật về bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của bên mua bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ” đáp ứng được
yêu cầu về tính thời sự và tính cần thiết.
Ngồi ra, tác giả mong muốn tìm hiểu, nghiên cứu một cách tổng thể quy định
pháp luật hiện hành về vấn đề trên để trang bị thêm kiến thức cho bản thân, mang
lại giá trị ứng dụng cho các chủ thể liên quan cũng như đưa ra một số giải pháp
nhằm góp phần hồn thiện chế định này. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn
để tài “Pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên mua bảo hiểm
trong bảo hiểm nhân thọ” để làm luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong phạm vi tìm hiểu, nghiên cứu tác giả nhận thấy tình hình nghiên cứu
liên quan đến đề tài như sau:
Nhóm sách tham khảo, chuyên khảo
Trần Vũ Hải (2006), Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ - những vấn đề lý luận và
thực tiễn, Nxb. Tư pháp, cuốn sách đã xây dựng được một hệ thống cơ sở lý luận về
pháp luật kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, dựa trên các cơ sở đó để đánh giá về thực
trạng áp dụng các quy định pháp luật hiện hành và đưa ra được những giải pháp
hoàn thiện về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ. Mặc dù tác giả Trần Vũ Hải nghiên


3

cứu dựa trên những quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 trước khi
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2010 và Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật sở hữu trí tuệ năm
2019 ra đời nhưng kết quả nghiên cứu của cuốn sách này là cơ sở lý luận quan trọng

để tác giả thực hiện đề tài này.
Nguyễn Thị Thủy (2017), Pháp luật hợp đồng bảo hiểm con người, Nxb.
Hồng Đức, cuốn sách này đi sâu phân tích pháp luật thực định về hợp đồng bảo
hiểm con người, trong đó có đánh giá một số chế định cụ thể trong hợp đồng bảo
hiểm con người như nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm, căn cứ trả
tiền bảo hiểm, ... và đưa ra kiến nghị hoàn thiện. Cuốn sách này có đối tượng nghiên
cứu rộng hơn đề tài nghiên cứu của tác giả. Vì thế cuốn sách này khơng tập trung
nhiều vào việc phân tích chế định về quyền và lợi ích hợp pháp của bên mua bảo
hiểm trong bảo hiểm nhân thọ.
Nhóm các luận án, luật văn:
Phan Nguyễn Triều Nhân (2009), Một số vấn đề pháp lí về bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của bên mua bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật
học, Đại học Luật TP.HCM. Luận văn này tập trung vào việc nghiên cứu quyền và
lợi ích hợp pháp của bên mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Mặc dù,
luận văn chỉ nghiên cứu một số chế định về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bên mua bảo hiểm nhân thọ trong pháp luật kinh doanh bảo hiểm, trong bộ điều
khoản hợp đồng, chưa nghiên cứu trong pháp luật về quản lý thị trường bảo hiểm
cũng như các quy định về giải quyết tranh chấp trong hoạt động kinh doanh bảo
hiểm và cơng trình khơng cịn đáp ứng được tính thời sự nhưng kết quả nghiên cứu
của luận văn là một nguồn tham khảo vơ cùng quy báu cho tác giả trong q trình
tổng hợp, phân tích và hồn thiện chương 1 của luận văn này.
Nhóm các bài viết trên các báo, tạp chí:
Phí Thị Quỳnh Nga (2007), “Bất cập trong quy định về chuyển nhượng hợp
đồng bảo hiểm”, Nghiên cứu lập pháp, Số chủ đề hiến kế lập pháp số 21(94), trang
44-45;62. Bài viết khẳng định sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật vấn đề
chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm, bài viết cũng phân tích những bất cập và đề
xuất một số biện pháp bảo vệ bên mua bảo hiểm khi chuyển nhượng hợp đồng bằng
công cụ pháp luật nên gợi mở cho tác giả một số định hướng về lý luận khi triển
khai đề tài.



4

Nguyễn Thị Thủy (2019), “Một số bất cập của pháp luật kinh doanh bảo hiểm
về việc thay đổi chủ thể hợp đồng bảo hiểm nhân thọ”, Hoàn thiện pháp luật về hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ, Tài liệu hội thảo, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh,
trang 43-55. Bài viết bình luận một số hạn chế trong các quy định về thay đổi chủ
thể hợp đồng bảo hiểm nhân thọ gồm thay đổi bán bảo hiểm, bên mua bảo hiểm,
người thụ hưởng và đề xuất một số kiến nghị nhằm hồn thiện các quy định này.
Nhìn chung, các cơng trình đã được nghiên cứu hoặc nghiên cứu khái quát về
bảo hiểm, pháp luật bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm (rộng hơn đối tượng nghiên cứu
của đề tài) hoặc nếu nghiên cứu chuyên sâu về quyền và lợi ích của bên mua bảo
hiểm nhân thọ thì chỉ dừng lại ở khía cạnh lý luận (hẹp hơn đối tượng nghiên cứu
của đề tài). Mặc dù ít nhiều đề cập đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bên mua bảo hiểm nhân thọ nhưng chưa có sự chuyên sâu, chưa tập hợp và phân
tích các quy định về bảo vệ quyền và lợi ích của bên mua bảo hiểm nhân thọ trên cả
phương diện lý luận và thực tiễn, chưa có sự nghiên cứu, so sánh với các quy định
được coi là đã phát triển ở mức độ được thực tiễn kiểm nghiệm của một số nước
trên thế giới với các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, làm cơ sở đề xuất
những kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm nhân thọ của
Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu này hướng đến các mục tiêu sau đây:
Thứ nhất, làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến bên mua bảo hiểm trong
bảo hiểm nhân thọ, quyền và lợi ích hợp pháp của bên mua bảo hiểm nhân thọ cần
được bảo vệ bằng pháp luật, các cách thức để bảo vệ bên mua bảo hiểm nhân thọ
khi có tranh chấp xảy ra.
Thứ hai, đánh giá được thực trạng điều chỉnh vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của bên mua bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam.
Thứ ba, đề xuất được các giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam điều chỉnh

vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên mua bảo hiểm trong bảo hiểm
nhân thọ.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Để xác định trọng tâm nghiên cứu, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các quy
phạm pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên mua bảo hiểm nhân thọ
trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng bảo hiểm và giải quyết khi có tranh


5

chấp xảy ra mà không nghiên cứu các quy phạm có mục đích tương tự trong pháp
luật về tổ chức và hoạt động của DNBH; các quy định về điều kiện và nguyên tắc
hoạt động của đại lý bảo hiểm; hay pháp luật về quản lý Nhà nước đối với hoạt
động kinh doanh bảo hiểm như quy trình phê duyệt quy tắc, điều khoản, sản phẩm
và biểu phí bảo hiểm,…
Để đạt được mục đích nghiên cứu, đề tài phải làm rõ một số nội dung liên
quan đến: hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, bên mua bảo hiểm nhân thọ, các quyền và
lợi ích hợp pháp của bên mua bảo hiểm nhân thọ cần được bảo vệ, phân tích và
đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng
tại Việt Nam, từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hồn thiện các quy định có liên
quan của pháp luật Việt Nam.
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả sẽ sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu hiện đang được sử
dụng phổ biến trong khoa học xã hội được liệt kê dưới đây để thực hiện đề tài. Tuy
nhiên, trong từng chương, mục, phụ thuộc vào đối tượng và nội dung nghiên cứu,
mức độ sử dụng phương pháp nghiên cứu có khác nhau.
Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp. Đây là phương pháp được
sử dụng phổ biến và tập trung nhiều nhất trong việc trình bày các vấn đề lý luận
chung về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và cơ sở pháp lý điều chỉnh vấn đề bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của bên mua bảo hiểm nhân thọ.
Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn được sử dụng trong việc nghiên
cứu thực tiễn áp dụng các quy định có liên quan trong việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của bên mua bảo hiểm nhân thọ nhằm đưa ra các giải pháp để hoàn thiện
pháp luật và cơ chế áp dụng pháp luật điều chỉnh vấn đề này. Tác giả sẽ nổ lực
nghiên cứu các tình huống thực tiễn cụ thể để có thể xây dựng các kiến nghị có khả
năng thực thi, nhằm góp phần hồn thiện các quy định pháp luật có liên quan đến
vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp so sánh luật được sử dụng trong việc nghiên cứu một số quy
định liên quan của một số quốc gia sau đó đối chiếu với các quy định hiện hành của
pháp luật Việt Nam để có những luận cứ khoa học, làm cơ sở cho các kiến nghị
hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến chế định bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của bên mua bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ.
5. Bố cục tổng quát của luận văn
Luận văn được trình bày thành hai chương:


6

Chương 1: Khái quát chung về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên mua
bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ.
Chương 2: Quy định của pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bên mua bảo hiểm nhân thọ và kiến nghị hoàn thiện.
CHƢƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA
BÊN MUA BẢO HIỂM TRONG BẢO HIỂM NHÂN THỌ
1.1. Khái quát chung về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Bảo hiểm nhân thọ là một loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được
bảo hiểm sống hoặc chết trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận giữa bên bảo

hiểm và bên mua bảo hiểm (BMBH)1. Nghiệp vụ kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
được thực hiện thông qua cơ chế hợp đồng giữa doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) và
BMBH.
Theo khoản 1 Điều 12 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, được sửa đổi, bổ
sung năm 2010 (gọi tắt là Luật KDBH): “Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa
bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng
phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng
hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Hợp đồng
bảo hiểm được phân thành ba loại gồm hợp đồng bảo hiểm con người, hợp đồng
bảo hiểm tài sản và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự2. Hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ (HĐBHNT) thuộc loại hợp đồng bảo hiểm con người bởi đối tượng được
bảo hiểm của HĐBHNT là tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe và sự an tồn của con
người3. Pháp luật Việt Nam thực định chưa có một định nghĩa, khái niệm nào về
HĐBHNT hay hợp đồng bảo hiểm con người, để đưa ra khái niệm về HĐBHNT,
cần xem xét những đặc trưng cơ bản của loại hợp đồng này. Cụ thể:

Lê Thị Ngân Hà (2019), “Quy định pháp luật về quan hệ giữa bên mua bảo hiểm, người được bảo
hiểm và người thụ hưởng trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ”, Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
1

bảo hiểm nhân thọ, Tài liệu hội thảo, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, trang 31.
2
Khoản 2 Điều 12 Luật KDBH.
3
Trần Linh Huân (2019), “Bất cập về nội dung, hình thức hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và một số
kiến nghị hoàn thiện”, Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, Tài liệu hội thảo,
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, trang 84-85.


7


Thứ nhất, đối tượng của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là tuổi thọ và tính mạng
của con người.
Theo quy định của Luật KDBH, đối tượng của hợp đồng bảo hiểm con người
là tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe và tai nạn con người4. Trong đó, đối tượng bảo
hiểm của HĐBHNT là tuổi thọ và tính mạng của người được bảo hiểm. Đây là đặc
điểm quan trọng và có ý nghĩa chi phối các đặc điểm khác. Tuổi thọ của con người
được thể hiện ra từ khi sinh ra cho đến khi chết của người đó. Tuổi bảo hiểm là tuổi
của người được bảo hiểm vào ngày có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm tính theo lần
sinh nhật vừa qua gần nhất. Căn cứ vào độ tuổi của người được bảo hiểm, DNBH sẽ
xác định xem người đó có thuộc nhóm tuổi tham gia bảo hiểm hay khơng cũng như
tính tốn mức phí bảo hiểm. Về lý thuyết, mức độ rủi ro sẽ khác nhau nếu người
được bảo hiểm có độ tuổi khác nhau, điều này được thể hiện trong Bảng tỷ lệ tử
vong COS 1980 ban hành kèm theo Thơng tư số 125/2012/TT-BTC ngày
30/07/2012 của Bộ Tài Chính. Độ tuổi có tỷ lệ tử vong cao thì mức phí đóng bảo
hiểm cũng cao hơn so độ tuổi có tỷ lệ tử vong thấp. Tùy vào từng loại hình bảo
hiểm cũng như quyền lợi bảo hiểm cho người được bảo hiểm, khi thiết kế hợp đồng
bảo hiểm, DNBH sẽ tính tốn và quy định độ tuổi tối thiếu và tối đa của người được
bảo hiểm. Chính vì vậy trong HĐBHNT, nghĩa vụ khai báo đúng tuổi của người
được bảo hiểm là rất quan trọng. Nếu DNBH phát hiện tuổi của người được bảo
hiểm đã kê khai trong hồ sơ bảo hiểm khơng đúng với tuổi thực tế, DNBH có quyền
xác minh lại đúng tuổi của người được bảo hiểm và tính lại mức phí bảo hiểm.
Do độ tuổi của người được bảo hiểm là yếu tố chi phối đến quyền và nghĩa vụ
của các bên nên Điều 34 Luật KDBH đã quy định khá chi tiết về quyền của DNBH
và nghĩa vụ thơng báo chính xác tuổi của người được bảo hiểm vào thời điểm giao
kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm. Nếu BMBH thông báo sai tuổi của người được
bảo hiểm thì tùy từng trường hợp, DNBH có thể lựa chọn:
- Trong trường hợp tuổi đúng của người được bảo hiểm khơng thuộc nhóm
tuổi có thể được bảo hiểm thì DNBH có quyền huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm và hồn
trả số phí bảo hiểm đã đóng cho BMBH sau khi đã trừ các chi phí hợp lý có liên

quan. Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực từ hai năm trở lên thì
DNBH phải trả cho BMBH giá trị hoàn lại của hợp đồng bảo hiểm.

4

Khoản 1 Điều 31 Luật KDBH.


8

- Trong trường hợp BMBH thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm làm
giảm số phí bảo hiểm phải đóng, nhưng tuổi đúng của người được bảo hiểm vẫn
thuộc nhóm tuổi có thể được bảo hiểm thì DNBH có quyền: u cầu BMBH đóng
phí bảo hiểm bổ sung tương ứng với số tiền bảo hiểm đã thoả thuận trong hợp đồng
hoặc giảm số tiền bảo hiểm đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm tương ứng với
số phí bảo hiểm đã đóng.
- Trong trường hợp BMBH thơng báo sai tuổi của người được bảo hiểm dẫn
đến tăng số phí bảo hiểm phải đóng, nhưng tuổi đúng của người được bảo hiểm vẫn
thuộc nhóm tuổi có thể được bảo hiểm thì DNBH phải hồn trả cho BMBH số phí
bảo hiểm vượt trội đã đóng hoặc tăng số tiền bảo hiểm đã thoả thuận trong hợp
đồng bảo hiểm tương ứng với số phí bảo hiểm đã đóng.
Ngồi ra, tuổi thọ của con người còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như sức
khỏe, bệnh tật, nếp sinh hoạt, gen di truyền, … Do vậy để đảm bảo quyền lợi của
các bên thì HĐBHNT thường được quy định rất chi tiết, mà nguyên nhân chủ yếu là
do tính phức tạp của đối tượng bảo hiểm tạo ra.
Như vậy, có thể nói, tuổi thọ, tính mạng của người được bảo hiểm là đối tượng
của HĐBHNT, là yếu tố làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ
của DNBH và BMBH trong HĐBHNT.
Thứ hai, trong HĐBHNT, sự kiện bảo hiểm có thể gắn liền với yếu tố rủi ro
và/hoặc sự tích lũy.

Sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật
quy định mà khi sự kiện đó xảy ra thì DNBH phải trả tiền bảo hiểm cho người được
thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm. Trong bảo hiểm trách nhiệm
dân sự và bảo hiểm tài sản, mục đích mà BMBH hướng tới là bảo vệ quyền lợi tài
chính đối với đối tượng bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Đối tượng của hai
loại hình bảo hiểm này là trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người được bảo hiểm
và lợi ích tài chính của người mua bảo hiểm đối với tài sản bảo hiểm. Vì đối tượng
bảo hiểm đều là những yếu tố tính tốn được về mặt giá trị nên bảo hiểm trách
nhiệm dân sự và bảo hiểm tài sản là bảo hiểm thiệt hại đơn thuần. Đối với các loại
hình bảo hiểm này, DNBH chỉ phải trả tiền bảo hiểm khi có các sự kiện bảo hiểm
xảy ra. Để được nhận tiền bảo hiểm, người được bảo hiểm phải chứng minh có thiệt
hại xảy ra và họ phải gánh chịu những thiệt hại này.
Trong HĐBHNT, đối tượng bảo hiểm là tuổi thọ, tính mạng con người, là
những yếu tố tự nhiên thuộc về bản thân mỗi con người mà DNBH không thể nào


9

định giá được. Chính vì vậy, mục đích mà BMBH hướng đến khơng chỉ là lợi ích về
mặt tài chính mà cịn là những quyền lợi có được từ sự tồn tại của một con người
thông qua việc đầu tư, tích lũy một khoản tài chính cho mình hoặc cho những người
thân. Xuất phát từ đặc thù này mà pháp luật cho phép DNBH thiết kế sản phẩm bảo
hiểm nhân thọ kết hợp cả hai yếu tố rủi ro và tích lũy. Cụ thể, Điều 3 Luật KDBH
quy định bảo hiểm nhân thọ có nhiều loại hình như bảo hiểm sinh kỳ, bảo hiểm tử
kỳ, bảo hiểm hỗn hợp, bảo hiểm trọn đời, bảo hiểm trả tiền định kỳ,…Trong đó, đối
với loại hình bảo hiểm sinh kỳ, bảo hiểm hỗn hợp và bảo hiểm trả tiền định kỳ,
DNBH phải trả tiền bảo hiểm cả trong trường hợp xảy ra rủi ro dẫn đến chết người
đối với người được bảo hiểm và trường hợp hết thời hạn bảo hiểm, dù không có sự
kiện bảo hiểm xảy ra nhưng BMBH đã tích lũy đủ số tiền bảo hiểm thơng qua việc
đóng phí bảo hiểm.

Ví dụ: sản phẩm bảo hiểm nhân thọ An Bình Thịnh Vượng của Tổng Cơng ty
Bảo Việt Nhân Thọ đảm bảo quyền lợi bảo hiểm khi người được bảo hiểm tử vong
trong thời hạn hợp đồng với số tiền bằng 100%, 200%, thậm chí 400% số tiền bảo
hiểm tùy từng trường hợp. Tính tích lũy của sản phẩm bảo hiểm này được thể hiện ở
việc khi hợp đồng đáo hạn, Bảo Việt sẽ chi trả một khoản tiền bằng 100% hoặc
200% số tiền bảo hiểm. Đây là một sản phẩm vừa mang tính tích lũy vừa mang tính
bảo hiểm rủi ro5.
Như vậy, trong HĐBHNT, ngoài sự kiện bảo hiểm làm phát sinh trách nhiệm
trả tiền bảo hiểm của DNBH là người được bảo hiểm gặp rủi ro, trách nhiệm trả tiền
bảo hiểm của DNBH còn phát sinh trong một số trường hợp khác như HĐBHNT
hết thời hạn hay việc DNBH trả giá trị hoàn lại đối với các hợp đồng bảo hiểm có
tính tích lũy.
Thứ ba, HĐBHNT là loại hợp đồng dài hạn.
HĐBHNT thường có thời hạn rất dài, có thể là năm năm, mười năm, hai mươi
năm hoặc có thể kéo dài trọn đời. Tính dài hạn của HĐBHNT xuất phát từ đặc thù
của hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ là tìm kiếm lợi nhuận thơng qua việc
đầu tư tài chính bằng quỹ bảo hiểm nhàn rỗi. HĐBHNT có thời hạn rất dài nên phí
bảo hiểm nhàn rỗi cũng có thời hạn dài, DNBH thường sử dụng khoản phí này để
Điều khoản bảo hiểm hỗn hợp bệnh lý nghiêm trọng (BV-NA32) - An Bình Thịnh Vượng của
Tổng Công ty Bảo Việt Nhân Thọ được phê chuẩn theo Cơng văn 14409/BTC-QLBH ngày
12/10/2016 của Bộ Tài chính.
5


10

đầu tư trung hạn và dài hạn. Nếu BMBH đơn phương chấm dứt hợp đồng bảo hiểm
trước thời hạn nhiều sẽ xảy ra tình trạng DNBH mất khả năng chi trả. Do đó, pháp
luật đã đưa ra một số quy định bất lợi cho BMBH trong trường hợp BMBH đơn
phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn như quy định tại khoản 2 Điều 35 Luật

KDBH: “Trong trường hợp phí bảo hiểm được đóng nhiều lần và bên mua bảo
hiểm đã đóng một hoặc một số lần phí bảo hiểm nhưng khơng thể đóng được các
khoản phí bảo hiểm tiếp theo thì sau thời hạn 60 ngày, kể từ ngày gia hạn đóng phí,
doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng, bên mua
bảo hiểm khơng có quyền địi lại khoản phí bảo hiểm đã đóng nếu thời gian đã đóng
phí bảo hiểm dưới hai năm, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.”
Mặt khác, thời hạn hợp đồng bảo hiểm dài nên BMBH thường khơng đóng phí
một lần mà đóng làm nhiều lần, điều này sẽ giúp BMBH có khả năng nộp phí bảo
hiểm, đáp ứng được mục đích tiết kiệm của BMBH.
Thứ tư, HĐBHNT có tính tiết kiệm đối với bên mua bảo hiểm.
Tính tiết kiệm của HĐBHNT thể hiện ở chỗ việc tham gia bảo hiểm nhân thọ
cũng giống như việc gởi tiết kiệm, BMBH dùng từng khoản tiền nhỏ để đóng phí
bảo hiểm, khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, người thụ hưởng có thể có được một khoản
tiền lớn hơn. Hơn nữa, tính tiết kiệm của HĐBHNT mang tính kỷ luật và kế hoạch
cao hơn một số loại hình tiết kiệm khác. Việc nộp phí bảo hiểm là bắt buộc theo
thỏa thuận, đồng thời không thể tùy tiện lấy lại các khoản phí đã nộp nên tiết kiệm
cho BMBH những khoản chi tiêu khơng thực sự cần thiết.
Chính vì HĐBHNT có tính dài hạn và tính tiết kiệm nên để đảm bảo quyền lợi
cho các bên, HĐBHNT có các điều khoản đặc trưng như việc cho vay của DNBH,
các quyền lợi của BMBH để duy trì hợp đồng, việc chuyển nhượng hợp đồng bảo
hiểm, …
Thứ năm, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thuộc dạng hợp đồng mẫu.
Đặc điểm này được thể hiện ở chỗ DNBH là bên đưa ra các điều khoản mẫu
do Bộ Tài Chính ban hành hoặc phê duyệt để khách hàng xem xét trả lời chấp nhận
trong một khoảng thời gian hợp lý, nếu khách hàng đồng ý tham gia bảo hiểm thì
đồng nghĩa với việc chấp nhận toàn bộ nội dung hợp đồng theo điều khoản mẫu mà
DNBH đã đưa ra. Do đó, về nguyên tắc người được bảo hiểm không được đàm
phán, thỏa thuận về việc sửa đổi, bổ sung điều khoản của DNBH. Lý do nhà nước
trao quyền cho DNBH được soạn thảo hợp đồng mẫu là vì trong quan hệ bảo hiểm,
DNBH nắm rõ được các yếu tố liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên, biết rõ



11

những đặc trưng cơ bản của hoạt động kinh doanh bảo hiểm để trên cơ sở đó hình
thành nên các điều khoản của hợp đồng6. Để đảm bảo DNBH có đủ khả năng soạn
thảo hợp đồng mẫu, Luật KDBH đã đưa ra một số điều kiện bắt buộc về trình độ
chuyên môn như khoản 4 Điều 63 Luật KDBH quy định một trong những điều kiện
để cấp giấy phép thành lập và hoạt động đối với DNBH là người quản trị, người
điều hành có năng lực quản lý, chun mơn, nghiệp vụ về bảo hiểm. Tuy nhiên, để
đảm bảo tính minh bạch, hạn chế các DNBH lợi dụng để chèn ép người mua bảo
hiểm nhằm mục đích trục lợi, điểm a khoản 2 Điều 17 Luật KDBH quy định DNBH
có nghĩa vụ giải thích cho BMBH về các điều kiện, điều khoản bảo hiểm, quyền và
nghĩa vụ của BMBH, hơn nữa, việc giải thích này phải rõ ràng, chính xác, không
được đưa ra những thông tin làm cho BMBH nhầm lẫn dẫn đến việc giao kết hợp
đồng ngoài mong muốn. Mục đích cuối cùng mà nhà nước hướng đến khi trao
quyền cho DNBH soạn thảo hợp đồng mẫu là nhằm tạo lập một thị trường bảo hiểm
vững mạnh, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm đạt hiệu quả và cũng là
cách thức để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ bảo hiểm.
Từ bản chất của một loại hợp đồng bảo hiểm và từ những đặc trưng riêng có
của HĐBHNT, có thể hiểu “Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là sự thỏa thuận giữa bên
mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm về việc doanh nghiệp bảo hiểm cam kết
bảo hiểm cho tuổi thọ của người được bảo hiểm, mà theo đó, bên mua bảo hiểm
phải đóng phí bảo hiểm, và tương ứng, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trả tiền bảo hiểm
cho người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng nếu người được bảo hiểm sống
hoặc chết trong thời hạn thỏa thuận”7.
1.1.2. Phân loại hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Thông thường trong HĐBHNT, đối tượng bảo hiểm là tuổi thọ và tính mạng
của người được bảo hiểm, ngoài đối tượng là tuổi thọ thì sức khỏe và tai nạn của
người được bảo hiểm cũng trở thành đối tượng bảo hiểm nếu như BMBH có tham

gia các sản phẩm bảo hiểm bổ trợ này. DNBH căn cứ vào các yếu tố này để thiết kế
nên các loại hình bảo hiểm như bảo hiểm sinh kỳ, bảo hiểm tử kỳ, bảo hiểm hỗn
hợp, bảo hiểm trọn đời, bảo hiểm trả tiền định kỳ, bảo hiểm liên kết đầu tư, …

6

Nguyễn Thị Thủy (2017), Pháp luật hợp đồng bảo hiểm con người, Nxb Hồng Đức, trang 44.

Trần Vũ Hải (2006), Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Tư
pháp, trang 18.
7


12

Căn cứ vào tính chất của sự kiện bảo hiểm, HĐBHNT có thể phân chia thành:
hợp đồng bảo hiểm sinh kỳ, hợp đồng bảo hiểm tử kỳ và hợp đồng bảo hiểm hỗn
hợp.
Căn cứ vào thời hạn thực hiện hợp đồng, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thể
phân chia thành hợp đồng bảo hiểm có thời hạn và hợp đồng bảo hiểm khơng có
thời hạn.
Hợp đồng bảo hiểm sinh kỳ, đối tượng bảo hiểm là tuổi thọ của người được
bảo hiểm. Sự kiện bảo hiểm là người được bảo hiểm phải còn sống đến thời điểm
thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu hết thời hạn bảo hiểm mà người được bảo hiểm vẫn
cịn sống thì DNBH có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm hoặc
người thụ hưởng được chỉ định trong hợp đồng. Nếu người được bảo hiểm chết
trong thời hạn thực hiện hợp đồng, DNBH khơng phải trả tiền bảo hiểm. Mục đích
hướng đến của loại hình bảo hiểm này là bảo hiểm cho sự sống của người được bảo
hiểm, trong suốt thời gian bảo hiểm, người được bảo hiểm phải có ý thức bảo vệ
tính mạng của mình để người thụ hưởng có thể nhận được khoản tiền bảo hiểm theo

thỏa thuận.
Hợp đồng bảo hiểm tử kỳ, đối tượng bảo hiểm là tính mạng của người được
bảo hiểm. Sự kiện bảo hiểm là người được bảo hiểm chết trong thời hạn bảo hiểm vì
những lý do không thuộc các trường hợp loại trừ bảo hiểm theo quy định của pháp
luật và bộ quy tắc, điều khoản bảo hiểm. Nếu người được bảo hiểm chết trong thời
hạn bảo hiểm, DNBH có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng.
Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp, đây là loại hình bảo hiểm kết hợp cả hai loại
nghiệp vụ bảo hiểm là bảo hiểm sinh kỳ và bảo hiểm tử kỳ8. Đây là loại hợp đồng
bảo hiểm thể hiện rõ nét nhất sự kết hợp giữa yếu tố rủi ro và tính tích lũy của bảo
hiểm nhân thọ. Cụ thể, trong thời gian bảo hiểm, nếu người được bảo hiểm chết do
rủi ro được bảo hiểm, DNBH phải trả tiền bảo hiểm kể từ thời điểm sự kiện này xảy
ra, mặc dù BMBH chỉ mới đóng được một phần phí bảo hiểm. Trường hợp thời gian
bảo hiểm đã hết, người được bảo hiểm vẫn còn sống, DNBH cũng phải trả số tiền
bảo hiểm theo cam kết vì BMBH đã tích lũy được số tiền bảo hiểm qua việc đóng
phí bảo hiểm.

8

Khoản 15 Điều 3 Luật KDBH.


13

Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ xác định thời hạn là loại HĐBHNT mà các
bên thỏa thuận trước thời hạn của hợp đồng. Trong thời hạn đó hoặc khi kết thúc
thời hạn, DNBH phải có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm nếu xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ không xác định thời hạn là loại HĐBHNT
mà trách nhiệm bảo hiểm của DNBH chỉ kết thúc khi người được bảo hiểm chết
hoặc người thụ hưởng đã nhận hết quyền lợi bảo hiểm. Các nghiệp vụ bảo hiểm áp
dụng hợp đồng dạng này là bảo hiểm trọn đời và bảo hiểm trả tiền định kỳ.

Hợp đồng bảo hiểm trọn đời, đối tượng bảo hiểm là mạng sống của người
được bảo hiểm. Đối với loại HĐBHNT này, sự kiện bảo hiểm là người được bảo
hiểm chết vào bất kì thời điểm nào trong cuộc đời của người đó. Như vậy, trong hợp
đồng bảo hiểm trọn đời, thời hạn bảo hiểm, thời gian đóng bảo hiểm của BMBH là
khơng xác định, nó phụ thuộc vào tuổi thọ của người được bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm trả tiền định kỳ, đối tượng bảo hiểm là sự sống của
người được bảo hiểm đến thời gian thỏa thuận trong hợp đồng. Là loại hợp đồng
bảo hiểm mà DNBH có trách nhiệm trả tiền định kỳ cho người thụ hưởng nếu người
được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định như thỏa thuận. Việc trả tiền định
kỳ này chỉ kết thúc khi người được bảo hiểm chết hoặc người thụ hưởng đã nhận
hết quyền lợi bảo hiểm. Đây là nghiệp vụ bảo hiểm có một số nội dung tương tự
như chế độ hưu trí trong bảo hiểm xã hội.
1.1.3. Một số nội dung cơ bản của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
1.1.3.1. Chủ thể của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Từ định nghĩa về HĐBHNT, chủ thể của HĐBHNT bao gồm hai nhóm: nhóm
chủ thể bắt buộc (bên bảo hiểm và BMBH) và nhóm chủ thể có liên quan trong
HĐBHNT (người được bảo hiểm và người thụ hưởng). Ngồi ra cịn có một số chủ
thể tham gia trong quá trình xác lập và thực hiện hợp đồng bảo hiểm như đại lý bảo
hiểm, môi giới bảo hiểm.
(i)

Bên mua bảo hiểm
Bên mua bảo hiểm nhân thọ là một trong những chủ thể tham gia ký kết hợp
đồng, làm phát sinh quan hệ hợp đồng bảo hiểm. BMBH là tổ chức, cá nhân giao
kết hợp đồng bảo hiểm với DNBH với mục đích đảm bảo quyền lợi tài chính cho
chính mình hoặc cho người thân khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra và đóng phí bảo
hiểm. BMBH có thể đồng thời là người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng.
Để hợp đồng không bị vơ hiệu, BMBH phải đảm bảo có đầy đủ năng lực chủ
thể khi tham gia ký kết hợp đồng, cụ thể: nếu BMBH là cá nhân thì phải có năng lực



14

hành vi dân sự đầy đủ - là người từ đủ mười tám tuổi trở lên, khơng bị tịa án tuyên
bố mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, được phép tham gia vào tất cả giao
dịch dân sự9; nếu BMBH là tổ chức thì phải có năng lực hành vi dân sự theo quy
định của Bộ luật dân sự. Hơn nữa, để tránh tình trạng trục lợi bảo hiểm và bảo vệ
được quyền về thân thể, tính mạng cho người được bảo hiểm, muốn trở thành
BMBH trong HĐBHNT, BMBH phải có quyền lợi được bảo hiểm - là quyền sở
hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản; quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng,
cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm (Khoản 9 Điều 13 Luật KDBH) và chỉ
được mua bảo hiểm cho những người sau:
- Bản thân bên mua bảo hiểm;
- Vợ, chồng, con, cha mẹ của bên mua bảo hiểm;
- Anh chị em ruột; người có quan hệ ni dưỡng, cấp dưỡng;
- Người khác, nếu bên mua bảo hiểm có quyền lợi được bảo hiểm.10
Nếu bản thân người được bảo hiểm mua bảo hiểm cho chính mình hoặc cho vợ hoặc
chồng thì khơng cần phải chứng minh bất kỳ lợi ích nào ngồi mối quan hệ giữa họ
còn nếu người mua bảo hiểm mua bảo hiểm cho các chủ thể khác thì phải chứng
minh sự tồn tại quyền lợi có thể được bảo hiểm giữa người mua bảo hiểm đối với
tính mạng của người được bảo hiểm, nếu không hợp đồng bảo hiểm sẽ bị vơ hiệu.
Có thể thấy, khoản 9, Điều 13 Luật KDBH chỉ liệt kê các loại quyền lợi được
bảo hiểm mà không đưa ra một định nghĩa chung, cũng như không liệt kê đầy đủ
các loại quyền lợi được bảo hiểm, cụ thể đối với các quyền lợi được bảo hiểm của
loại hình bảo hiểm nhân thọ, ngồi các loại quyền lợi bảo hiểm được liệt kê cịn có
các quyền lợi tài chính khác. Chẳng hạn, lợi ích tài chính trong mối quan hệ giữa
người cho vay và người đi vay, mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và người
lao động, mối quan hệ kinh doanh giữa các đối tác kinh doanh, mối quan hệ giữa
các tổ chức với cá nhân khác nếu giữa họ có sự lệ thuộc về mặt tài chính…Điều này
đã được ghi nhận trong quy tắc và điều khoản bảo hiểm của nhiều sản phẩm bảo

hiểm và quy định của pháp luật khác như pháp luật về thuế11. Tuy nhiên, đặt trong
9

Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết, Hồ Thị Bích Hằng (2007), Luật Dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học

Quốc gia TP.HCM, trang 44.
10
Khoản 2 Điều 31 Luật KDBH.
11
Khoản 3 Điều 3 Thông tư số 25/2018/TT-BTC của Bộ Tài chính ban hành ngày 16/03/2018 quy
định: “2.11. Phần chi vượt mức 03 triệu đồng/tháng/người để: Trích nộp … bảo hiểm nhân thọ cho
người lao động” là khoản chi không được vào khấu trừ thuế thu nhập doanh nghiệp.... Khoản chi


15

tương quan với quy định của Luật KDBH, nội dung này lại chưa phù hợp. Điều đó
cho thấy, chính vì sự chưa hợp lý, thiếu chính xác trong quy định về quyền lợi được
bảo hiểm của Luật KDBH nên dẫn đến trường hợp quy định này chưa phản ảnh
đúng thực tế đời sống xã hội12. Vì vậy, tác giả cho rằng, cần sửa đổi quy định của
khoản 9 Điều 3 và Điều 31 Luật KDBH theo hướng mở rộng nội hàm của phần
quyền lợi được bảo hiểm: quyền lợi được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân
thọ là những lợi ích có được từ người được bảo hiểm, bao gồm lợi ích về vật chất
và lợi ích về tinh thần. Khác với quyền lợi được bảo hiểm trong các hợp đồng bảo
hiểm trách nhiệm dân sự và tài sản chỉ là những lợi ích vật chất, quyền lợi được bảo
hiểm trong HĐBHNT cịn bao gồm cả lợi ích về tinh thần. Sở dĩ có sự khác nhau
như vậy là vì đối tượng bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ là vô giá, sự sống hoặc
cái chết của một người có ảnh hưởng nhất định đến tinh thần của người khác.
Quyền lợi được bảo hiểm trong HĐBHNT phải đáp ứng các điều kiện sau:
Thứ nhất, quyền lợi có thể được bảo hiểm phải gắn liền với người mua bảo

hiểm từ khi giao kết hợp đồng cho đến khi kết thúc hợp đồng, nếu trong thời gian
thực hiện hợp đồng bảo hiểm, BMBH khơng cịn quyền lợi có thể được bảo hiểm
nữa thì hợp đồng bảo hiểm chấm dứt13. Ví dụ như bác ruột chỉ được mua bảo hiểm
cho cháu nếu người bác đó đang có nghĩa vụ trực tiếp ni dưỡng cháu, … Những
quyền lợi chưa phát sinh không thể là quyền lợi được bảo hiểm do nó chưa chắc
chắn xảy ra trong tương lai. Những quyền lợi khơng cịn tồn tại khơng được xem là
quyền lợi có thể được bảo hiểm vì khi đó người mua bảo hiểm khơng có thiệt hại
khi sự kiện bảo hiểm xảy ra. Ví dụ như cha mẹ không được mua bảo hiểm cho con
vẫn đang là thai nhi chưa được sinh ra, vợ chồng đã li hơn thì khơng cịn quyền lợi
có thể được bảo hiểm, …
Thứ hai, quyền lợi được bảo hiểm là những quyền lợi hợp pháp14. Quyền lợi
hợp pháp là những quyền lợi được nhà nước công nhận, thường được xác định
trích... mua bảo hiểm nhân thọ cho người lao động được tính vào chi phí được trừ ngồi việc
khơng vượt mức quy định tại điểm này còn phải được ghi cụ thể điều kiện hưởng và mức hưởng tại
một trong các hồ sơ sau: Hợp đồng lao động; Thỏa ước lao động tập thể; Quy chế tài chính của
Cơng ty, Tổng cơng ty, Tập đồn…”
12
Phan Phương Nam, “Tiếp tục hoàn thiện Luật Kinh doanh bảo hiểm”,
truy cập ngày 20/8/2021.
13
Khoản 1 Điều 23 Luật KDBH.
14
Trần Vũ Hải, tlđd (7), trang 26.


16

thông qua mối quan hệ giữa BMBH và người được bảo hiểm bao gồm việc BMBH
mua bảo hiểm cho chính bản thân mình, mua bảo hiểm cho bố mẹ, con cái, anh chị
em ruột, mua bảo hiểm cho vợ hoặc chồng, mua bảo hiểm cho những người có mối

quan hệ nuôi dưỡng, cấp dưỡng, mua bảo hiểm cho những người mà BMBH có
quyền lợi được bảo hiểm đối với người này. Pháp luật mặc nhiên thừa nhận quyền
quyết định của mỗi con người đối với sự sống hay cái chết của bản thân họ, do đó
BMBH hồn tồn có quyền mua bảo hiểm cho chính mình như một sự tích lũy hoặc
để bảo đảm quyền lợi tài chính cho người khác khi sự kiện bảo hiểm xảy ra. Mối
quan hệ giữa cha mẹ, con cái, anh chị em ruột là mối quan hệ huyết thống, khơng có
lợi ích vật chất nào có thể so sánh được nên pháp luật cho phép các chủ thể này có
thể mua bảo hiểm cho nhau. Tuy nhiên, Luật KDBH lại không quy định là cha mẹ
đẻ hay con đẻ, để bảo vệ tốt nhất quyền lợi cho bản thân người được bảo hiểm, quy
định này nên được xây dựng trên cơ sở mối quan hệ tình cảm trực tiếp giữa cha mẹ
và con cái, bao gồm cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi. Trên
thực tế, để tránh rủi ro pháp lý khi luật không quy định rõ cha mẹ đẻ hay con đẻ, các
doanh nghiệp bảo hiểm đã loại trừ quan hệ cha kế, mẹ kế với con riêng của vợ hoặc
chồng. Mối quan hệ giữa vợ và chồng luôn tồn tại các nghĩa vụ nhất định về tài sản
chung và con chung và các lợi ích tài chính tương ứng. Do đó cùng với việc cơng
nhận quan hệ hôn nhân, pháp luật cũng công nhận những quyền lợi giữa vợ và
chồng là hợp pháp để cho phép vợ, chồng được mua bảo hiểm cho nhau để tránh
những rủi ro về tài chính khi một trong hai người gặp những sự kiện rủi ro để lại
những thiệt hại về vật chất và tinh thần cho người còn lại. Luật KDBH cho phép
BMBH mua bảo hiểm cho những người có mối quan hệ ni dưỡng, cấp dưỡng,
mua bảo hiểm cho những người mà BMBH có quyền lợi được bảo hiểm đối với
người này khi BMBH chứng minh được có lợi ích tài chính phát sinh từ quan hệ
ni dưỡng, cấp dưỡng thông qua việc chứng minh sự tồn tại của mối quan hệ nuôi
dưỡng, cấp dưỡng như cô, dì đang trực tiếp ni dưỡng cháu, hay chứng minh được
BMBH có quyền lợi tài chính từ người được bảo hiểm ví dụ người cho vay được
phép mua bảo hiểm cho người vay trong phạm vi số tiền cho vay, người bán hàng
được mua bảo hiểm cho người mua hàng trong phạm vi số tiền người mua hàng
chưa trả cho người bán hàng…Quyền lợi không hợp pháp là những quyền lợi phát
sinh từ các mối quan hệ hoặc hành vi không được pháp luật thừa nhận, những quyền
lợi không hợp pháp không thể được bảo hiểm do vi phạm pháp luật và nguy cơ gây

thiệt hại cho xã hội.


17

Thứ ba, BMBH phải được sự chấp thuận của người được bảo hiểm trong
trường hợp chết của người được bảo hiểm. Điều kiện này được quy định cụ thể tại
khoản 1 Điều 38 Luật KDBH, theo đó “Khi bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng
bảo hiểm con người cho trường hợp chết của người khác thì phải được người đó
đồng ý bằng văn bản, trong đó có ghi rõ số tiền bảo hiểm và người thụ hưởng”. Đối
với những người chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, pháp luật yêu cầu phải có
sự đồng ý của cha mẹ hoặc người giám hộ hợp pháp. Sở dĩ pháp luật quy định như
vậy vì con người có các yếu tố tự nhiên thuộc về bản thân mình và có những quyền
nhất định đối với các yếu tố đó, đồng thời quy định này nhằm loại bỏ tình trạng
người thụ hưởng muốn trục lợi bất chính, gây nguy hại cho sự sống của người được
bảo hiểm và thiệt hại cho xã hội.
Như vậy, quyền lợi được bảo hiểm là một trong các yếu tố quan trọng, hợp
đồng bảo hiểm sẽ bị vơ hiệu trong trường hợp BMBH khơng có quyền lợi có thể
được bảo hiểm15. Để chứng minh có quyền lợi được bảo hiểm, BMBH phải chứng
minh mối quan hệ giữa mình với người được bảo hiểm thuộc một trong các mối
quan hệ đã được liệt kê. Việc chứng minh quyền lợi được bảo hiểm vừa bảo vệ
những yếu tố nhân thân của người được bảo hiểm, tránh trường hợp trục lợi bảo
hiểm vừa xác định chính xác quyền lợi mà người mua bảo hiểm có thể nhận được từ
người được bảo hiểm.
(ii) Bên bảo hiểm
Bên bảo hiểm trong HĐBHNT là chủ thể tham gia ký kết hợp đồng bảo hiểm,
là DNBH được thành lập, tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật KDBH và
các quy định khác của pháp luật có liên quan để kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm.
DNBH ngoài việc đáp ứng các điều kiện chung theo quy định của pháp luật về
doanh nghiệp còn phải đáp ứng một số quy định đặt thù như khả năng tài chính,

trình độ chun mơn nghiệp vụ của người quản trị điều hành và loại hình doanh
nghiệp phù hợp.
Điều kiện để xác định DNBH đáp ứng điều kiện về tư cách chủ thể là DNBH
được Bộ Tài Chính cấp giấy phép thành lập, hoạt động16 và giấy phép đó hiện có
hiệu lực tại thời điểm giao kết hợp đồng. DNBH muốn thành lập phải có vốn điều lệ
Điểm a, Khoản 1, Điều 22 Luật KDBH.
Điều 15, Nghị định số 73/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính Phủ Quy định chi tiết Luật
Kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm.
15
16


18

bằng hoặc cao hơn mức vốn pháp định. Mức vốn pháp định của DNBH là 600 tỷ
đồng17. Đây là điều kiện về khả năng tài chính để đảm bảo rằng DNBH đủ khả năng
chi trả khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Hình thức hoạt động của DNBH được giới
hạn trong ba loại hình: cơng ty cổ phần, cơng ty trách nhiệm hữu hạn, hợp tác xã18.
Sở dĩ Luật KDBH chỉ cho phép DNBH hoạt động ở ba loại hình trên để tránh rủi ro
về tài chính xảy ra đối với những người tham gia bảo hiểm.
Bên cạnh đó, người quản trị, điều hành doanh nghiệp phải đáp ứng các điều
kiện chung theo quy định của pháp luật và phải đáp ứng các điều kiện riêng áp dụng
cho lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, bao gồm: trực tiếp làm việc cho doanh nghiệp
trong lĩnh vực bảo hiểm, tài chính, ngân hàng tối thiểu 05 năm đối với Chủ tịch Hội
đồng quản trị, Chủ tịch Hội đồng thành viên, 03 năm đối với thành viên Hội đồng
quản trị, Hội đồng thành viên, Trưởng Ban kiểm soát, Kiểm soát viên (đối với
doanh nghiệp khơng phải thành lập Ban kiểm sốt), Trưởng Ban kiểm tốn nội bộ
hoặc có kinh nghiệp quản lý điều hành tối thiểu 03 năm tại doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực bảo hiểm, tài chính, ngân hàng19.
Ngồi ra, DNBH, thông qua người đại diện, thực hiện các quyền và nghĩa vụ

trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm với BMBH phải đảm bảo
người đại diện có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và có thẩm quyền đại diện cho
DNBH. Người đại diện cho doanh nghiệp thường bao gồm hai loại là người đại diện
giao dịch và người đại diện ký kết. Người đại diện giao dịch là người cùng với
BMBH hoàn tất các thủ tục để ký kết hợp đồng. Chủ thể này có thể là nhân viên của
DNBH hoặc đại lý bảo hiểm. Về nguyên tắc, người đại diện giao dịch phải được
đào tạo về chun mơn và có sự ủy quyền từ DNBH. Người đại diện ký kết hợp
đồng bảo hiểm là người có thẩm quyền ký vào văn bản hợp đồng để xác nhận tính
ràng buộc của hợp đồng đối với DNBH. Chính vì vậy, người đại diện ký kết thường
là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hoặc người được ủy quyền của
người đại diện theo pháp luật của DNBH.
(iii) Người được bảo hiểm

Điều 10, Nghị định số 73/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính Phủ Quy định chi tiết Luật
Kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm.
18
Điểm 7 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm.
19
Khoản 3 Điều 27, Nghị định số 73/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính Phủ Quy định chi tiết
Luật Kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm.
17


19

Người được bảo hiểm trong HĐBHNT là người có tuổi thọ, tính mạng, sức
khỏe được DNBH chấp thuận bảo hiểm. Do đặc trưng của đối tượng bảo hiểm là
tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe nên người được bảo hiểm chỉ có thể là cá nhân. Người
được bảo hiểm có thể đồng thời là người thụ hưởng.
Muốn trở thành người được bảo hiểm trong HĐBHNT, người đó phải đang

cịn sống, khỏe mạnh, có khả năng lao động và làm việc bình thường để đảm bảo
rằng rủi ro của đối tượng bảo hiểm chưa xảy ra, hợp đồng bảo hiểm không bị vô
hiệu và phải đang cư trú tại một địa điểm cố định. Bào thai còn trong bụng mẹ hoặc
một người đã chết thì khơng thể trở thành người được bảo hiểm do họ hoặc là chưa
có cuộc sống riêng hoặc đã mất đi sự sống đồng nghĩa với việc đối tượng bảo hiểm
không tồn tại20. Hiện nay pháp luật về kinh doanh bảo hiểm không yêu cầu người
được bảo hiểm phải là người Việt Nam cũng không cấm cá nhân nước ngoài mua
bảo hiểm con người tại Việt Nam, hơn thế nữa pháp luật cịn cho phép doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người nước ngoài làm việc tại Việt Nam được lựa
chọn mua bảo hiểm tại doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam hoặc sử
dụng dịch vụ bảo hiểm qua biên giới, pháp luật chỉ cấm trường hợp cá nhân Việt
Nam mua bảo hiểm ở nước ngoài21. Tuy nhiên, thực tế Quy tắc và điều khoản bảo
hiểm của một số DNBH yêu cầu người được bảo hiểm phải đang cư trú tại Việt
Nam, người được bảo hiểm có thể ra nước ngồi ngắn ngày (đi cơng tác hay du
lịch), tuy nhiên khi người được bảo hiểm thay đổi nơi cư trú hoặc khơng cịn cư trú
tại Việt Nam thì người được bảo hiểm hoặc BMBH phải thơng báo cho DNBH, khi
đó DNBH sẽ quyết định tiếp tục bảo hiểm với mức phí bảo hiểm khơng đổi, tăng
phí bảo hiểm hoặc chấm dứt hợp đồng bảo hiểm và hồn trả cho BMBH giá trị hồn
lại, nếu có, sau khi trừ chi phí khám, xét nghiệm y khoa và các khoản nợ, nếu có22.
Điều khoản này khơng trái với quy định của pháp luật nên về nguyên tắc sẽ được ưu
tiên áp dụng.

20
21

Nguyễn Thị Thủy, tlđd (6), trang 89.
Khoản 1 Điều 6 Luật KDBH.

Điều 12.2 Quy tắc và điều khoản sản phẩm bảo hiểm tử kỳ với quyền lợi bảo hiểm tai nạn cá
nhân – Phú Tâm An của Công ty TNHH Bảo Hiểm Nhân Thọ Prudential được Bộ tài chính phê

chuẩn theo Cơng văn số 15454/BTC-QLBH ngày 27/10/2014, sửa đổi theo Công văn số
1151/BTC-QLBH ngày 26/01/2015, Công văn số 11473 /BTC-QLBH ngày 20/08/2015, Công văn
số 14086/BTC-QLBH ngày 19/10/2017 và Công văn số 1223/BTC-QLBH ngày 10/2/2020.
22


×