Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

Pháp luật về trái phiếu chuyển đổi (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.1 MB, 141 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

PHAN THỊ THANH HẬU


PHAN THỊ THANH HẬU

LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ
TRÁI PHIẾU CHUYỂN ĐỔI



LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH TẾ

KHĨA 29
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 01-2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

PHÁP LUẬT VỀ
TRÁI PHIẾU CHUYỂN ĐỔI
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phan Huy Hồng
Học viên: Phan Thị Thanh Hậu


Lớp: Cao học Luật Kinh tế
Khóa: 29

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 01-2022

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 12-2021


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan rằng tồn bộ nội dung trong Luận văn này được hình thành và phát
triển từ những quan điểm cá nhân của tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS.
Phan Huy Hồng - Giảng viên Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
Trong Luận văn này, tơi có trích dẫn, sử dụng một số ý kiến, quan điểm khoa
học của một số tác giả. Việc trích dẫn này tuân thủ các quy định của pháp luật về sở
hữu trí tuệ và được thể hiện cụ thể trong Danh mục tài liệu tham khảo.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực, khách quan của các dữ liệu, số
liệu và các thông tin được trình bày trong Luận văn.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày
tháng
Tác giả Luận văn

Phan Thị Thanh Hậu

năm 2022


DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Nội dung viết tắt


CTCK

Cơng ty chứng khốn

CTCP

Cơng ty cổ phần

CTĐC

Cơng ty đại chúng

CTCPCĐC

Cơng ty cổ phần chưa đại chúng

ĐHĐCĐ

Đại hội đồng cổ đông

LCK

Luật Chứng khoán

LDN

Luật Doanh nghiệp

NHNN


Ngân hàng Nhà nước

SGDCK

Sở giao dịch Chứng khoán

TCPH

Tổ chức phát hành

TPCĐ

Trái phiếu chuyển đổi

TPDN

Trái phiếu doanh nghiệp

TTLKCK

Trung tâm Lưu ký Chứng khoán

UBCKNN

Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁI PHIẾU CHUYỂN ĐỔI ................ 7
1.1. Khái quát chung về trái phiếu chuyển đổi ...................................................... 7
1.1.1. Khái niệm trái phiếu chuyển đổi ............................................................. 7
1.1.2. Đặc điểm pháp lý của trái phiếu chuyển đổi ......................................... 10
1.1.3. Tính chất pháp lý của trái phiếu chuyển đổi ......................................... 12
1.1.4. Phân loại trái phiếu chuyển đổi ............................................................. 13
1.1.5. Ý nghĩa của trái phiếu chuyển đổi ......................................................... 15
1.2. Nội dung pháp luật về trái phiếu chuyển đổi................................................ 16
1.2.1. Chủ thể tham gia vào quan hệ phát hành trái phiếu chuyển đổi ........... 16
1.2.2. Điều kiện phát hành ............................................................................... 23
1.2.3. Thủ tục phát hành và chuyển đổi trái phiếu chuyển đổi........................ 34
1.2.4. Hệ quả pháp lý của việc phát hành trái phiếu chuyển đổi ..................... 44
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ....................................................................................... 49
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN PHÁP LUẬT VỀ TRÁI PHIẾU CHUYỂN ĐỔI VÀ
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ......................................................... 50
2.1. Đánh giá chung ................................................................................................ 50
2.1.1. Sự đa dạng của văn bản điều chỉnh về trái phiếu chuyển đổi ............... 50
2.1.2. Sự bao quát về mặt nội dung của quy định ........................................... 52
2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về trái phiếu chuyển đổi......... 53
2.2.1. Thực tiễn áp dụng quy định về chủ thể phát hành................................. 54
2.2.2. Thực tiễn áp dụng quy định về đối tượng sở hữu ................................. 56
2.2.3. Thực tiễn áp dụng quy định về điều kiện phát hành ............................. 59
2.2.4. Thực tiễn áp dụng quy định về thủ tục phát hành ................................. 65
2.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật...................................................................... 69
2.3.1. Hoàn thiện chủ thể phát hành trái phiếu chuyển đổi ............................. 69
2.3.2. Quy định chi tiết và có hướng dẫn trách nhiệm của nhà đầu tư chiến lược
......................................................................................................................... 70
2.3.3. Hoàn thiện quy định về điều kiện, thủ tục phát hành trái phiếu chuyển
đổi, chuyển đổi trái phiếu chuyển đổi ............................................................. 71
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ....................................................................................... 75

KẾT LUẬN ............................................................................................................. 76


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp, bên cạnh việc tăng vốn
góp của chủ sở hữu, thành viên góp vốn (đối với công ty trách nhiệm hữu hạn), phát
hành thêm cổ phiếu (đối với cơng ty cổ phần) thì vay vốn là một phương thức được
nhiều doanh nghiệp lựa chọn. Phương thức huy động vốn vay hiện nay thường tập
trung vào các nguồn như: vay Ngân hàng Nhà nước (NHNN - tổ chức tín dụng được
quyền vay), vay từ các tổ chức, cá nhân và vay bằng cách phát hành giấy tờ có giá.
Phương thức phát hành giấy tờ có giá của doanh nghiệp để vay vốn hay còn gọi
là phát hành trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) trong những năm trở lại đây phát triển
mạnh và không ngừng tăng về quy mô1. Việc phát hành trái phiếu giúp doanh nghiệp
giải quyết được nhu cầu về vốn mà không phải sử dụng vốn chủ sở hữu hoặc tăng
vốn trong khi nguồn vốn thu được từ trái phiếu có thể đáp ứng cho các kế hoạch mang
tính khẩn cấp và quan trọng như: tái cơ cấu nợ, đầu tư dự án mới, mua sắm tài sản…
Ngoài ra, sử dụng phương thức này cũng mang lại những lợi ích đáng kể cho tổ chức
phát hành (TCPH) nhờ lãi suất rẻ, cố định; có thể không cần tài sản bảo đảm; linh
hoạt thời gian đáo hạn và đặc biệt là người sở hữu trái phiếu có thể chuyển đổi thành
vốn chủ sở hữu (cổ phần) của TCPH khi đến thời điểm quy định.
Loại trái phiếu có đặc tính chuyển đổi từ nợ thành vốn chủ sở hữu được gọi là
trái phiếu chuyển đổi (TPCĐ), một dạng của trái phiếu doanh nghiệp bên cạnh các
loại khác như trái phiếu kèm theo chứng quyền, trái phiếu xanh … Tại thị trường vốn
Việt Nam, kênh huy động từ TPCĐ không chỉ diễn ra trên thị trường chứng khoán,
nơi chứng khoán được mua bán dể dàng và nhanh chóng mà cịn diễn ra ngay tại các
doanh nghiệp chưa niêm yết. Có rất nhiều các doanh nghiệp đã sử dụng loại trái phiếu


Báo cáo trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam 2021 ngày 11/11/2021 của Công ty Cổ phần FiinGroup có đoạn:
“Quy mơ giá trị phát hành sơ cấp trong 9 tháng 2021 đạt 430 nghìn tỷ đồng, tăng 27% so với cùng kỳ năm
trước mặc dù có giai đoạn trì hỗn lại sau khi Nghị định 153 và 155 đi vào hiệu lực. Ngành Bất động sản với
giá trị phát hành đạt 172 nghìn tỷ đồng, tăng 2% so với cùng kỳ. Trong khi đó, các ngân hàng thương mại gia
tăng huy động vốn qua kênh trái phiếu với giá trị 116 nghìn tỷ đồng (chiếm 33% tổng giá trị phát hành), tăng
20,5% so với cùng kỳ năm 2020 với nhằm thực hiện tăng vốn cấp 2 và cải thiện tỉ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho
vay trung dài hạn theo quy định của NHNN trước nhu cầu vốn trung và dài hạn rất lớn từ doanh nghiệp.”,
truy cập ngày
12/12/2021.
Xem thêm: Nguyễn Thị Minh Huệ, Nguyễn Thị Thanh Hương (2020), “Tổng quan về thị trường trái phiếu
doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp Chí Cơng Thương, truy cập ngày 11/12/2021.
1


2

này nhằm tối ưu hóa mục tiêu tìm vốn của mình như2: Cơng ty Cổ phần Thành Thành
Cơng – Biên Hịa, Cơng ty Cổ phần Tập đồn Đầu tư Địa ốc No Va, Ngân hàng TMCP
Phát Triển Thành phố Hồ Chí Minh, Tập đồn VinGroup, …
Mặc dù TPCĐ khơng phải là loại hình TPDN mới, tuy nhiên trong những năm
qua, việc doanh nghiệp vận dụng loại trái phiếu này cho hoạt động vốn và hiệu quả
của kênh dẫn vốn này vẫn còn nhiều bất cập và trở ngại bởi:
Thứ nhất, các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về loại hình trái phiếu này
nằm rải rác tại nhiều văn bản dẫn đến sự thiếu thống nhất và mơ hồ trong cách áp
dụng và căn cứ.
Thứ hai, sự đa dạng của chủ thể phát hành, phương án phát hành và đối tượng
sở hữu (nhà đầu tư) cũng dẫn đến sự khó khăn trong việc vận dụng các điều kiện,
trình tự, thủ tục để phát hành, chuyển đổi TPCĐ.
Thứ ba, việc thiếu các chuẩn mực kiểm soát và chế tài cho những hành vi vi
phạm tạo cơ hội để một số TCPH không đủ tiêu chuẩn lạm dụng việc phát hành trái

phiếu, xem đây là phương tiện để phục mục mục đích chiếm dụng vốn dẫn đến thiệt
hại cho nhà đầu tư và hệ thống tài chính.
Trong một thị trường vốn non trẻ và còn nhiều hứa hẹn như Việt Nam, TPDN
nói chung và TPCĐ nói riêng sẽ cịn được doanh nghiệp lựa chọn nhiều hơn để phục
vụ nhu cầu vốn của mình. Từ những bất cập nêu trên, với mong muốn nghiên cứu và
kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về TPCĐ, tác giả lựa chọn đề tài
“Pháp luật về trái phiếu chuyển đổi” để phân tích, đánh giá nhằm mục đích góp phần
củng cố và thống nhất các quy định, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vận dụng
trong hoạt động tìm kiếm vốn, đưa TPCĐ trở thành một kênh hút vốn tối ưu, thúc đẩy
thị trường TPDN phát triển và thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngồi.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học liên quan đến lĩnh vực
trái phiếu diễn ra đã góp phần nâng cao chất lượng và vai trò của trái phiếu đối với
thị trường vốn nói riêng và nền kinh tế nói chung. Những cơng trình nghiên cứu khoa
học này mang lại giá trị từ lý thuyết đến thực tiễn để góp phần nâng cao nhận thức và
hoàn thiện quy định của pháp luật nhằm điều chỉnh hoạt động phát hành loại chứng
khoán này trở nên tốt hơn. Các vấn đề pháp lý đặt ra đối với trái phiếu và thị trường

Đây là một số doanh nghiệp cổ phần đại chúng phát hành trái phiếu chuyển đổi trong năm 2020, 2021 để huy
động vốn.
2


3

trái phiếu đã được nghiên cứu trong một số đề tài và cơng bố trên các tạp chí khoa
học pháp lý như:
“Giải pháp hoàn thiện khung pháp lý cao thị trường giao dịch trái phiếu tập
trung tại Việt Nam” của tác giả Hà Thị Thùy Dương, Luận văn Thạc sĩ Luật học
năm 2003. Với cơng trình này, tác giả đã khai thác các vấn đề lý luận và thực tiễn

trong lĩnh vực trái phiếu và thị trường trái phiếu, tìm hiểu mơ hình thị trường trái
phiếu của một số nước trên thế giới, phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật điều
chỉnh thị trường giao dịch trái phiếu tập trung ở Việt Nam, đánh giá hoạt động của
thị trường này trong thời gian từ năm 1990, đặc biệt là từ khi thành lập thị trường
giao dịch chứng khoán vào 7/2000 đến 2003 để làm cơ sở đề xuất hoàn thiện.
“Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp Trung Quốc và kinh nghiệm
cho Việt Nam” của tác giả Bạch Thị Thanh Hà, Nguyễn Thị Vân Anh đăng trên Tạp
chí Nghiên cứu tài chính Kế tốn, Học viện Tài chính, năm 2019, số 04. Với cơng
trình nghiên cứu này, hai tác giả đã đưa ra những cải cách nhằm phát triển thị trường
TPDN và chứng minh kết quả đạt được của Trung Quốc sau những cải cách đó, từ
đó rút ra kinh nghiệm cho thị trường TPDN cho Việt Nam. Theo đó, Việt Nam cần
bổ sung khung pháp lý cho phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp khởi
nghiệp huy động vốn trái phiếu; tiếp tục phát triển hệ thống định mức tín nhiệm tạo
cơ sở đánh giá mức độ rủi ro TPDN cho các nhà đầu tư…
“Giải pháp hỗ trợ thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển” của tác giả
Nguyễn Thị Phương Dung đăng trên Tạp chí Tài chính, Bộ Tài chính, kỳ 02, tháng
12/2017, số 670. Với cơng trình nghiên cứu này, tác giả đưa ra một số giải pháp cho
thị trường TPDN Việt Nam. Cụ thể, cần có những quy định nâng cao chất lượng trái
phiếu cũng như tính minh bạch của thơng tin để đảm bảo cho các nhà đầu tư tiếp cận
thông tin đầy đủ, chính xác; cơ quan hữu quan cần cân nhắc về điều kiện phát hành
TPDN.
“Huy động nguồn lực tài chính cho phát triển thông qua phát hành trái phiếu
doanh nghiệp” của tác giả Nguyễn Thanh Phương đăng trên Tạp chí Ngân hàng,
NHNN Việt Nam, tháng 8/2017, số 15. Với công trình nghiên cứu này, tác giả đã đưa
ra những đánh giá chung về thực trạng phát hành TPDN và khuyến nghị đối với các
quy định pháp luật trong hoạt động phát hành trái phiếu.
Đối với TPCĐ, cơng trình nghiên cứu có tên “Phương pháp định giá và nghiên
cứu tình huống trái phiếu chuyển đổi có điều kiện (CoCo) tại Ngân hàng An Bình”
của tác giả Nguyễn Thị Phương Liên và Nguyễn Tuấn Anh đăng trên tạp chí Khoa



4

học Thương mại, Trường Đại học Thương mại, tháng 5/2019, số 129 đã đề cập và
nghiên cứu loại chứng khoán này. Tuy nhiên, qua nội dung tác phẩm, hai tác giả chỉ
đưa ra tính chất chung về chức năng, loại hình chuyển đổi, giá chuyển đổi và những
rủi ro đi kèm, điểm mạnh, điểm yếu của TPCĐ có điều kiện (CoCo) nhằm so sánh
và khẳng định sự khác nhau giữa của CoCo 3 so với TPCĐ, trái phiếu truyền thống
mà Ngân hàng Thương mại nắm giữ.
Có thể thấy, tính đến thời điểm nghiên cứu, theo sự tìm hiểu của tác giả thì vẫn
chưa có thêm một cơng trình nào thực hiện nghiên cứu với mức độ chuyên sâu và
toàn diện về quy định pháp luật đối với TPCĐ. Hầu hết các cơng trình chỉ nghiên cứu
chung về TPDN hoặc nghiên cứu một góc độ nào đó của TPCĐ nên chưa làm bật lên
được toàn bộ những vấn đề pháp lý, chưa đánh giá một cách tổng thể để định hướng
khung pháp lý cho loại hình chứng khốn đặc biệt này. Tác giả trên cơ sở kế thừa kết
quả và giá trị khoa học của các đề tài, cơng trình nghiên cứu trước đó kết hợp với việc
nghiên cứu quy định của pháp luật và phân tích thực trạng thi hành để cố gắng chuyển
tải được một cách đầy đủ, chi tiết, chuyên sâu các vấn đề. Đồng thời đánh giá, kiến
nghị hoàn thiện pháp luật để làm cơ sở pháp lý cho quá trình vận dụng huy động vốn
từ kênh phát hành TPCĐ trong tương lai. Đây cũng là điều thể hiện được tính mới
của đề tài nghiên cứu bởi lần đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt Nam, sẽ có đề tài
nghiên cứu chun sâu và tồn diện về quy định của pháp luật đối với TPCĐ.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn này hướng đến mục đích phân tích, hồn thiện các quy định của pháp
luật Việt Nam điều chỉnh TPCĐ trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng quy định
pháp luật hiện hành. Để đạt được mục đích nêu trên, tác giả sẽ nghiên cứu hai (02)
nhóm vấn đề sau đây:
Thứ nhất, khái niệm về TPCĐ và phát hành TPCĐ là gì? Đặc điểm và tính chất
pháp lý của TPCĐ? Quy định pháp luật hiện hành về TPCĐ và hệ quả của việc phát
hành ảnh hưởng gì đến TCPH, nhà đầu tư và thị trường vốn?

“Trái phiếu chuyển đổi dự phòng trong tiếng Anh là Contingent Convertible, viết tắt là CoCo. Trái phiếu
chuyển đổi dự phòng (CoCo) là một công cụ nợ được phát hành bởi các định chế tài chính châu Âu. Trái phiếu
chuyển đổi dự phòng hoạt động theo cách tương tự như trái phiếu chuyển đổi truyền thống. Chúng có một mức
giá thực hiện cụ thể mà một khi giá trái phiếu đạt được, thì có thể chuyển đổi trái phiếu thành vốn cổ phần hoặc
cổ phiếu. Các nhà đầu tư chính của CoCo là các nhà đầu tư cá nhân ở châu Âu, châu Á và các ngân hàng tư
nhân”.
“Trái phiếu chuyển đổi dự phịng (Contingent Convertible – CoCo) là gì, đặc điểm?”, truy cập ngày
12/12/2020.
3


5

Thứ hai, thực tiễn áp dụng pháp luật của TCPH để huy động vốn từ loại chứng
khoán này và đề xuất hoàn thiện những quy định pháp luật để hoạt động phát hành,
chuyển đổi TPCĐ đạt hiệu quả tốt nhất.
4. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn này nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam điều chỉnh về
hoạt động phát hành trái phiếu chuyển đổi của doanh nghiệp.
5. Phạm vi nghiên cứu
Thực hiện nghiên cứu này, tác giả đã tìm và trích dẫn, sử dụng các nguồn tài
liệu, số liệu liên quan đến TPCĐ và phát hành TPCĐ nhằm phục vụ cho mục đích
phân tích, đánh giá, so sánh giữa thực tiễn áp dụng và quy định pháp luật. Các tài
liệu, số liệu này nằm rải rác tại các nguồn khác nhau và ra đời trong khoản từ năm
2010 trở lại đây.
Luận văn tập trung khai thác, đào sâu khái niệm, đặc điểm về TPCĐ và quy định
của pháp luật về TPCĐ như Luật Doanh nghiệp (LDN), Luật Chứng khốn (LCK),
các Nghị định, Thơng tư hướng dẫn thi hành qua các thời kỳ, các giao dịch đã thực
hiện trên thực tế của các doanh nghiệp để phân tích về mặt lý luận, đánh giá thực tiễn
và đưa ra cái nhìn tổng quan về sự thay đổi của các quy định pháp luật, sự hạn chế

của pháp luật so với thực tiễn thi hành.
6. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện nghiên cứu đề tài “Pháp luật về trái phiếu chuyển đổi” này, tác giả sử
dụng các phương pháp nghiên cứu như sau:
Phương pháp phân tích, bình luận: phương pháp này được sử dụng nhằm làm
rõ các vấn đề pháp lý, các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến điều kiện,
trình tự, thủ tục phát hành và chuyển đổi TPCĐ. Bên cạnh đó, phương pháp này cịn
được dùng để đánh giá, bình luận về cách thức các doanh nghiệp vận dụng pháp luật
trong hoạt động phát hành TPCĐ trên thực tế.
Phương pháp so sánh: phương pháp này được tác giả sử dụng nhằm so sánh
các quy định của pháp luật hiện hành với các quy định được ban hành đã hết hiệu lực
thi hành; so sánh các quy định pháp luật chứng khoán so với quy định của pháp luật
doanh nghiệp, các văn bản hướng dẫn thi hành khác; so sánh phương thức phát hành
TPCĐ riêng lẻ so với phát hành TPCĐ ra công chúng; so sánh điều kiện, trình tự, thủ
tục phát hành của cơng ty cổ phần đại chúng (CTCPĐC) so với công ty cổ phần chưa
đại chúng (CTCPCĐC); so sánh hệ quả pháp lý sau chuyển đổi giữa TCPH và nhà
đầu tư.


6

Phương pháp thống kê: tác giả sử dụng phương pháp thống kê để liệt kê, đưa
ra các dẫn chứng về thực tế áp dụng pháp luật, các vấn đề về trình tự, thủ tục mà chủ
thể thực hiện trong quá trình vận dụng pháp luật để phát hành TPCĐ.
Phương pháp tổng hợp: Qua việc phân tích, đánh giá, bình luận, thống kê và
so sánh các vấn đề lý luận, thực tiễn vận dụng quy định về TPCĐ, tác giả sử dụng
phương pháp tổng hợp nhằm đưa ra nhận định về sự chưa tương thích giữa lý luận và
thực tiễn. Từ đó đề xuất phương hướng hồn thiện quy định pháp luật điều chỉnh về
TPCĐ và hoạt động pháp lý liên quan đến loại chứng khốn này.
7. Đóng góp mới về mặt lý luận và thực tiễn

Về mặt lý luận, thông qua việc nghiên cứu các đặc điểm pháp lý của TPCĐ và
điều kiện, trình tự, thủ tục phát hành TPCĐ, tác giả đã cố gắng khái quát lại toàn bộ
những quy định pháp luật kể từ thời điểm pháp luật Việt Nam công nhận sự tồn tại
của TPCĐ cũng như sự thay đổi theo thời gian của quy định pháp luật trong việc điều
chỉnh loại chứng khoán này. Từ những quy định đó, tác giả muốn nhấn mạnh những
điểm cịn hạn chế, bất cập của pháp luật và đưa ra các kiến nghị, góp ý hồn thiện
pháp luật trong tương lai.
Về mặt thực tiễn, từ những ví dụ được dẫn giải xuyên suốt trong luận văn, tác
giả đã cố gắng chứng minh sự thiếu thống nhất trong cách vận dụng pháp luật của
doanh nghiệp khi phát hành TPCĐ. Vấn đề này nếu khơng được giải quyết sớm, về
lâu dài có thể gây nên sự khó khăn của doanh nghiệp phát hành hoặc tạo kẻ hở cho
những doanh nghiệp cố ý dùng TPCĐ như kênh hút vốn nhằm chiếm đoạt vốn. Cho
nên, tầm quan trọng của việc hiểu và vận dụng một cách đồng bộ, nghiêm túc và chặt
chẽ các quy định của pháp luật trên thực tế giúp việc phát hành TPCĐ diễn ra hiệu
quả. Đó cũng là một gợi ý để nhà làm luật có cái nhìn tổng thể và đánh giá tính khả
thi của quy định pháp luật hiện hành về TPCĐ.


7

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁI PHIẾU CHUYỂN ĐỔI
1.1. Khái quát chung về trái phiếu chuyển đổi
1.1.1. Khái niệm trái phiếu chuyển đổi
TPCĐ khơng phải là loại hình chứng khốn mới nếu xét về thời điểm pháp luật
Việt Nam công nhận sự tồn tại của nó trên thị trường vốn. Ngay sau khi Nghị định
52/2006/NĐ-CP4 lần đầu tiên thừa nhận và quy định về TPCĐ, đã có nhiều TCPH
lựa chọn TPCĐ như một kênh thu hút vốn như Ngân hàng TMCP Sài Gịn, Ngân
hàng TMCP Á Châu (ACB), Cơng ty Cổ phần Đầu Tư Hạ Tầng Kỹ Thuật Thành phố
Hồ Chí Minh5.

Quy định về khái niệm, điều kiện, thủ tục phát hành TPCĐ của Nghị định
52/2006/NĐ-CP là một bước tiến lớn trong tư duy phát triển thị trường vốn bởi bên
cạnh TPDN nói chung, pháp luật đã đưa TPCĐ trở thành loại chứng khốn độc lập
và có những lợi thế, đặc thù riêng để TCPH đa dạng hóa cách sử dụng phương án huy
động vốn. Là một loại chứng khoán nợ, TPCĐ ghi nhận cam kết thanh toán vốn và
lãi của TCPH đối với chủ sở hữu trái phiếu theo thời gian và lãi suất đã thoả thuận
tương tự như TPDN. Sự đặc thù của TPCĐ giúp nhà đầu tư thực hiện quyền chuyển
đổi TPCĐ để sở hữu cổ phần của TCPH khi đến hạn chuyển đổi. Sự linh hoạt này giúp
TPCĐ trở nên có nhiều lựa chọn hơn khi so sánh với TPDN thông thường.
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 2 Nghị định 52/2006/NĐ-CP, khái niệm TPCĐ
quy định: “Trái phiếu chuyển đổi là loại trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu

Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006 của Chính phủ quy định về phát hành trái phiếu doanh
nghiệp.
5
Theo thơng tin thơng cáo báo chí thì đây là các tổ chức phát hành tiêu biểu sử dụng trái phiếu chuyển đổi để
huy động vốn ngay sau khi Nghị định 52/2006/NĐ-CP được ban hành. Cụ thể: Ngân hàng TMCP Sài Gòn là
đơn vị đầu tiên phát hành trái phiếu chuyển đổi sau khi có Nghị định bằng đợt phát hành tháng 9/2006 với tổng
giá trị đợt phát hành là 1000 tỷ đồng; Ngân hàng TMCP Á Châu phát hành trong Quý 4/2006 với tổng giá trị
1.650 tỷ đồng; Công ty Cổ phần Đầu tư Hạ Tầng Kỹ Thuật Thành phố Hồ Chí Minh là doanh nghiệp phi tài
chính chứng khốn đầu tiên phát hành 131,5 tỷ đồng trái phiếu chuyển đổi năm 2006.
/>765&_afrLoop=43782497960341224#%40%3F_afrLoop%3D43782497960341224%26centerWidth%3D100
%2525%26dDocName%3DCNTHWEBAP01162531765%26leftWidth%3D0%2525%26pageTemplate%3D
%252Foracle%252Fwebcenter%252Fsiteresources%252FscopedMD%252Fs8bba98ff_4cbb_40b8_beee_296
c916a23ed%252FsiteTemplate%252Fgsreb7f299f_0d88_4514_a092_22e830e01a86%252FTemplate.jspx%2
6rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrlstate%3D12yavyooih_4, truy cập ngày 12/12/2021.
truy cập ngày
12/12/2021.
truy cập ngày 12/12/2021
4



8

phổ thông của cùng một tổ chức phát hành theo các điều kiện đã được xác định trong
phương án phát hành”. Cho đến nay, Nghị định 153/2020/NĐ-CP cũng khơng có sự
thay đổi nhiều khi quy định: “Trái phiếu chuyển đổi” là loại hình trái phiếu do cơng
ty cổ phần phát hành, có thể chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thơng của chính doanh
nghiệp phát hành theo điều kiện, điều khoản đã được xác định tại phương án phát
hành trái phiếu”.
Có thể thấy khái niệm về TPCĐ của pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ vẫn
giữ nguyên về nội hàm của ba (03) vấn đề. Bao gồm:
(i) TCPH được quyền phát hành TPCĐ là CTCP. Bản thân TPCĐ sẽ trở nên hoàn
hảo và trọn vẹn hơn khi hai bên trong giao dịch đạt đến đích cuối cùng là chuyển
đổi TPCĐ thành cổ phiếu. Vì đối tượng chuyển đổi là “cổ phiếu” chứ khơng
phải là “phần vốn góp” nên cơng ty trách nhiệm hữu hạn khơng thể đáp ứng
được tiêu chí chuyển đổi này. Điều này cho thấy, pháp luật đã ưu ái hoạt động
huy động vốn của CTCP là đa dạng hơn rất nhiều so với công ty trách nhiệm
hữu hạn.
(ii) TPCĐ được chuyển đổi thành cổ phần phổ thông của TCPH6. Vốn của CTCP
gồm cổ phần phổ thông và các loại cổ phần ưu đãi khác như cổ phần ưu đãi cổ
tức, cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần ưu đãi hoàn lại và các loại cổ phần ưu
đãi khác quy định tại điều lệ của CTCP7. Quyền và nghĩa vụ của cổ đông phổ
thông là đa dạng và đầu đủ hơn so với các cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi8. Việc
chuyển đổi TPCĐ thành cổ phần phổ thông đảm bảo cơ chế thực hiện quyền và
nghĩa vụ đầy đủ với tư cách là chủ sở hữu của nhà đầu tư sau khi chuyển đổi TPCĐ.
Tuy nhiên, quy định về TPCĐ đã loại bỏ khả năng có sự tham gia của chủ thể cơng
ty mẹ và con khiến nó chưa thật sự linh hoạt ngồi yếu tố chuyển đổi9.

Quy định của pháp luật hiện hành về đối tượng chuyển đổi cũng hẹp hơn nếu so sánh với các nghiên cứu của

các tác giả về pháp luật nước ngồi. Cụ thể, trái phiếu chuyển đổi có thể chuyển đổi thành cổ phiếu cổ thông,
trái phiếu hoặc các loại chứng khoán khác… Xem thêm: Nguyễn Hồng Năng (2015), “Thị trường vốn nợ, luật
và hợp đồng”, Nhà xuất bản Cơng Thương, trang 295. Hoặc: Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung (2008),
“Công ty, vốn, quản lý và tranh chấp”, Nhà xuất bản Tri Thức, trang 198.
7
Khoản 2, Điều 114 Luật Doanh nghiệp 2020 giữ nguyên quy định tại Khoản 2, Điều 113 Luật Doanh nghiệp 2014.
8
Điều 115 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định về quyền và nghĩa vụ của cổ đông phổ thông đầy đủ hơn so với
quyền và nghĩa vụ của cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi tại các Điều 116, 117, 118.
9
Trong tác phẩm “International Loans, Bonds and Securities Regulation” của tác giả Wood Philip, ông có đưa
ra nhận định về trái phiếu chuyển đổi như sau: “Phát hành trái phiếu có thể chuyển đổi là việc phát hành trái
phiếu của công ty, điều khoản cho phép người sở hữu chuyển đổi trái phiếu của mình lấy cổ phiếu của công ty
phát hành hoặc của công ty mẹ hoặc công ty con của công ty phát hành” - Dịch từ: “Convertible bond issues
are issues of bonds by company, the terms of which allow the holder to exchange his bonds for shares of the
company or of the company's parent or subsidiary.”, London, Sweet & Maxwell 1995, p.144.
6


9

(iii) Các điều kiện điều khoản của TPCĐ được TCPH quy định để làm cơ sở cho
hoạt động phát hành và chuyển đổi. Điều này cũng khẳng định, các điều kiện,
điều khoản mà TCPH quy định chính là hình dạng pháp lý của TPCĐ.
Đối với hoạt động phát hành TPCĐ, pháp luật tạo nền tảng cơ sở pháp lý để
hoạt động phát hành diễn ra theo nhu cầu huy động vốn và nhu cầu đầu tư của các
chủ thể trên thị trường. Hoạt động phát hành TPCĐ được hiểu theo các yếu tố sau:
Thứ nhất, hoạt động phát hành TPCĐ là hoạt động đặc thù của CTCP được
triển khai với sự tham gia của các cơ quan, tổ chức chuyên môn.
Tương tự như TPDN và cổ phiếu, hoạt động phát hành TPCĐ buộc phải có sự

tham gia của các cơ quan chuyển môn và cơ quan nhà nước về nhằm đảm bảo hoạt
động phát hành phù hợp với quy định của pháp luật. Những cơ quan chuyên môn và
cơ quan nhà nước góp phần tạo sự chắc chắn và đảm bảo tính an tồn, minh bạch của
TPCĐ và giao dịch giữa nhà đầu tư với TCPH.
Thứ hai, hoạt động phát hành TPCĐ đáp ứng nhu cầu về vốn và đầu tư của hai
chủ thể chính trong giao dịch này là TCPH và nhà đầu tư
Vận hành và phân bổ nguồn vốn là một trong những vấn đề phức tạp của doanh
nghiệp. Khi nguồn vốn bị thiếu hụt, TCPH có thể sử dụng phương án huy động vốn
mà pháp luật cho phép để đảm bảo mục tiêu duy trì hoạt động, tạo động lực để phát
triển. Cùng với cổ phiếu và TPDN, TPCĐ là lựa chọn để TCPH sử dụng vốn vay
nhằm đáp ứng nhu cầu vốn. Thông qua việc phát hành này, mục tiêu của TPCH là
nguồn vốn thu được để phục vụ hoạt động. Tính chất chuyển đổi trong tương lai giúp
TCPH tăng tính hấp dẫn của TPCĐ đồng thời là cách để TCPH tránh trả nợ khi nợ
vay được chuyển thành vốn chủ sở hữu. Ngược lại, nhà đầu tư tham gia giao dịch này
với mục tiêu thỏa mãn nhu cầu thu lợi từ khoản đầu tư. Ban đầu bản chất của giao
dịch này là vay vốn và trả lãi nhưng sự chuyển đổi diễn ra làm triệt tiêu trách nhiệm
của quan hệ này.
Thứ ba, pháp luật định hình khung pháp lý để hoạt động phát hành TPCĐ diễn
ra hiệu quả hơn
Kể từ khi thừa nhận sự tồn tại của TPCĐ và quy định về phát hành TPCĐ trong
Nghị định 52/2006/NĐ-CP, pháp luật đã liên tục thay đổi theo hướng chi tiết và phân
hóa hơn để đảm bảo hoạt động phát hành TPCĐ được diễn ra theo đúng chủ thể và
phương án phát hành. Trải qua các lần sửa đổi, bổ sung, đến nay Nghị định
153/2020/NĐ-CP đã thật sự phân chia về hoạt động phát hành TPCĐ rõ hơn cùng với
LCK 2019. Theo những quy định này, hoạt động phát hành TPCĐ ra công chúng


10

thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật chứng khoán. Ngược lại hoạt động phát hành

riêng lẻ sẽ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật doanh nghiệp. TCPH căn cứ theo
nội dung về điều kiện, trình tự, thủ tục để thực hiện phù hợp với nhu cầu của mình.
Có thể nói, sự hiệu quả của hoạt động phát hành phụ thuộc rất lớn vào các quy định
của pháp luật điều chỉnh. Cho nên, vấn đề cấp thiết đặt ra là pháp luật cần phải liên
tục thay đổi, điều chỉnh để phù hợp với tình hình và sự phát triển của thị trường vốn
nợ.
1.1.2. Đặc điểm pháp lý của trái phiếu chuyển đổi
TPCĐ là loại chứng khoán mang bản chất pháp lý đặc thù bởi người sở hữu
TPCĐ có thể thực hiện quyền chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu theo những điều
kiện, điều khoản quy định ban đầu. Hoạt động phát hành TPCĐ cũng như sự chuyển
đổi của TPCĐ khiến chúng mang những đặc điểm sau:
1.1.2.1. Trái phiếu chuyển đổi là một loại tài sản linh hoạt
Theo quy định về quản lý giấy tờ có giá tại Thơng tư số 135/2018/TT-BTC ngày
28/12/2018 thì có thể khẳng định TPCĐ cũng là giấy tờ có giá và là một loại tài sản
được quy định theo pháp luật dân sự10. Tuy nhiên, không đơn thuần là “giấy xác nhận
nợ” như TPDN, pháp luật đã tạo cho TPCĐ một đặc điểm riêng biệt mà căn cứ vào
đây, TCPH có thể linh hoạt sử dụng TPCĐ để tận dụng đặc điểm “có thể chuyển đổi
thành cố phiếu” làm tăng tính thu hút và linh hoạt khi phát hành. Chủ sở hữu TPCĐ
không chỉ sở hữu quyền của một chủ nợ theo quy định của pháp luật dân sự11 mà còn
sở hữu cả quyền chuyển đổi trực tiếp để trở thành chủ sở hữu TCPH. Đặc điểm chuyển
đổi này thể hiện tính linh hoạt về bản chất của TPCĐ mà còn tạo cho TCPH linh hoạt
trong việc vận dụng để huy động vốn.
1.1.2.2. Trái phiếu chuyển đổi là vừa là công cụ để huy động vốn, vừa là phương
thức thanh toán nợ vay bằng cách chuyển nợ thành vốn chủ sở hữu
Mang bản chất là một công cụ nợ, TCPH sử dụng công cụ TPCĐ nhằm huy
động vốn vay từ các chủ thể bên ngoài. Ở khía cạnh này, tương tự như TPDN, TPCĐ
cũng tạo cho TCPH nghĩa vụ của của một người vay thông thường như quy định của
pháp luật dân sự. Đến thời điểm thanh toán nợ, TCPH phải thực hiện nghĩa vụ thanh
toán nợ gốc, nợ lãi cho chủ nợ bằng tài sản của mình. Tuy nhiên, sự đặc thù của TPCĐ
cho phép TCPH tránh khỏi nghĩa vụ thanh tốn tồn bộ nợ gốc – giá trị trái phiếu cho

Khoản 2 Điều 3 Thơng tư số 135/2018/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 28/12/2018 quy định về quản lý đối
với tiền mặt, giấy tờ có giá, tài sản quý tạm gửi, tạm giữ do Kho bạc Nhà nước nhận bảo quản.
11
Điều 466 và Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.
10


11

chủ nợ. Thay vào đó, TCPH có thể dùng tồn bộ khoản nợ của trái phiếu để chuyển
đổi thành khoản vốn sở hữu. Phương thức chuyển đổi nợ thành vốn này có thể coi là
một cách trả nợ mang lại sự thỏa mãn cho cả TCPH và chủ nợ. Một mặt nó giúp
TCPH tránh phải trả một khoản nợ đến hạn, mặt khác nó tạo ra một sự tăng vốn chủ
sở hữu để mở rộng thêm. Đó là sự khác biệt mà TPCĐ tạo ra và là ưu điểm rất lớn
nếu so với công cụ phát hành cổ phiếu hoặc TPDN thông thường.
1.1.2.3. Một bên trong giao dịch chuyển đổi trái phiếu chuyển đổi là công ty cổ
phần
Pháp luật doanh nghiệp quy định loại hình cơng ty được quyền phát hành trái
phiếu bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn và CTCP12. Tuy nhiên, vì hoạt động
chuyển đổi TPCĐ là chuyển trái phiếu thành cổ phiếu của TCPH. Vì vậy, công ty
trách nhiệm hữu hạn không thể mang tư cách là TCPH. Điều này cũng có thể khẳng
định, một bên trong giao dịch chuyển đổi TPCĐ chắc chắn là CTCP. Bên còn lại của
giao dịch chuyển đổi trái phiếu sẽ đa dạng hơn bởi chỉ cần đáp ứng các điều kiện luật
định về quyền sở hữu TPCĐ theo phương án phát hành riêng lẻ hoặc phát hành ra
công chúng. Bên cịn lại này bên cạnh là cá nhân thì có thể là công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên hoặc cũng
có thể là CTCP.
1.1.2.4. Việc chuyển đổi trái phiếu chuyển đổi dẫn đến hệ quả làm tăng vốn chủ
sở hữu và “sự pha loãng” tỷ lệ sở hữu của mỗi cổ đông trong doanh nghiệp phát
hành

Khi chủ sở hữu TPCĐ và TCPH thực hiện hoạt động chuyển đổi TPCĐ thành
cổ phiếu, TCPH buộc phải phát hành thêm một lượng cổ phiếu tương ứng theo tỷ lệ
chuyển đổi đã quy định trong phương án phát hành và dựa theo giá trị của trái phiếu
đó. Trong trường hợp này, lượng cổ phiếu phát hành thêm để thay thế cho toàn bộ
khoản nợ của TPCĐ sẽ khiến vốn chủ sở hữu của TCPH tăng lên. Điều này đồng
nghĩa với lượng cổ phần trong TCPH cũng tăng, vốn điều lệ của TCPH sẽ lớn hơn so
với thời điểm chưa chuyển đổi. Số lượng cổ phần mà TCPH phát hành cho chủ sơ
hữu mới (chủ nợ trước đó) làm cho tổng số cổ phần trong TCPH tăng lên. Khi này,
tỷ lệ sở hữu cổ phần của của các cổ đông cũ của công ty sẽ bị pha loãng theo hướng
giảm xuống khi mà vốn điều lệ của công ty tăng lên.

12

Điểm a, Khoản 1, Điều 9 Nghị định 153/2020/NĐ-CP.


12

Vấn đề này có thể được diễn giải bằng ví dụ sau: Công ty cổ phần ABC phát
hành TPCĐ cho nhà đầu tư với tổng giá trị khoản nợ là 10.000.000.000 đồng, mệnh
giá chuyển đổi là 10.000 đồng/cổ phần. Vốn điều lệ của công ty ACB là
50.000.000.000 đồng chia thành 5.000.000 cổ phần phổ thơng (cơng ty khơng có các
loại cổ phần khác) tương ứng với mỗi cổ phần có mệnh giá 10.000 đồng. Đến thời
hạn chuyển đổi TPCĐ, tất cả TPCĐ đều được chuyển đổi. Công ty ABC tiến hành
phát hành thêm 1.000.000 (quy đổi 10.000.000.000 nợ thành 1.000.000 cổ phần với
mệnh giá chuyển đổi là 10.000 đồng/cổ phần) mới để thay thế cho toàn bộ giá trị
TPCĐ. Khi thực hiện hoạt động phát hành này, tổng số cổ phần của công ty ABC
tăng lên thành 6.000.000 cổ phần. Vốn điều lệ của công ty cũng tăng lên
60.000.000.000 đồng. Trong cơng ty ABC có cổ đơng X, trước thời điểm công ty
ACB chuyển đổi TPCĐ, ông X sở hữu 1.000.000 cổ phần chiếm tỷ lệ 20% vốn điều

lệ. Đến khi công ty ABC phát hành thêm 1.000.000 cổ phần để chuyển đổi TPCĐ,
ông X vẫn sở hữu 1.000.000 cổ phần trong công ty ABC nhưng tỷ lệ sở hữu của ơng
X trong cơng ty ABC giảm xuống chỉ cịn 16,6%. Đây là sự pha lỗng cổ phần mà cổ
đơng cũ của công ty không mong muốn giao dịch chuyển đổi trái phiếu diễn ra.
1.1.3. Tính chất pháp lý của trái phiếu chuyển đổi
Là một loại chứng khoán được pháp luật cơng nhận và điều chỉnh, TPCĐ cũng
có những tính chất pháp lý như sau:
1.1.3.1. Tính thanh khoản
Loại chứng khốn này mang bản chất này là một giấy nợ nhưng chủ nợ có quyền
thực hiện chuyển nhượng TPCĐ để thu hồi vốn mà không cần phải chờ đến thời hạn
thanh toán của chủ thể phát hành hoặc thời điểm chuyển đổi thành cổ phiếu13. Giá trị
của trái phiếu chuyển đổi khi giao dịch không cố định, các bên trong giao dịch tự do
thỏa thuận giá mua bán tùy thuộc vào nhu cầu, các quyền lợi của trái phiếu và yếu tố
thị trường tại thời điểm giao dịch. Giá trị của TPCĐ là yếu tố để nhà đầu tư tính tốn
sự sinh lời, rủi ro trong hiện tại hoặc tương lai và đưa ra quyết định bán hay giữ trái
phiếu này.
1.1.3.2. Tính hồn trả

Điểm c, Khoản 3, Điều 8, Nghị định 153/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020. Quy định này không chỉ cho phép
nhà đầu tư thực hiện quyền chuyển nhượng trái phiếu chuyển đổi mà cịn có quyền thực hiện các giao dịch
khác như: cho, tặng, thừa kế, chiết khấu; được sử dụng trái phiếu làm tài sản bảo đảm trong các quan hệ dân
sự.
13


13

Vì TPCĐ có bản chất vay mượn nên khi đến hạn thanh tốn, TCPH phải có
nghĩa vụ thanh tốn đầy đủ cả gốc và lãi cho người sở hữu trái phiếu. Trường hợp
TCPH mất khả năng trả nợ hoặc bị tuyên bố phá sản, khoản nợ từ TPCĐ được đưa

vào thứ tự ưu tiên thanh tốn trước các cổ đơng theo quy định của pháp luật14. Mặt
khác, khi chủ sở hữu trái phiếu thực hiện quyền chuyển đổi TPCĐ thì ngồi khoản
lãi được TCPH chi trả thì chủ sở hữu TPCĐ cịn được TCPH hồn trả một lượng cổ
phiếu tương ứng để thay thế cho TPCĐ đó.
1.1.3.3. Tính thu lợi
Trong điều kiện lý tưởng, chủ sở hữu TPCĐ được quyền hưởng tối đa ba (03)
khoản thu nhập từ TPCĐ. Trong đó bao gồm: (i) thu nhập từ mức lãi suất theo quy
định trong phương án phát hành loại TPCĐ của TCPH; (ii) thu nhập từ chênh lệch
giá giao dịch so với giá mua TPCĐ khi chủ sở hữu bán đi TPCĐ; (iii) thu nhập từ
khoản lợi tức và chênh lệch giữa giá trị cổ phiếu nhận chuyển đổi so với giá cổ phiếu
đang lưu thông trên thị trường mà chủ sở hữu nhận được khi thực hiện quyền chuyển
đổi. Đây là một tính chất rất đặc thù mà tác giả gọi là tính “đa lợi” của TPCĐ khi so
sánh với các loại TPDN khác.
1.1.4. Phân loại trái phiếu chuyển đổi
Tùy thuộc vào góc nhìn đánh giá ở lĩnh vực tài chính hay pháp lý mà TPCĐ sẽ
được phân loại theo từng tiêu chí riêng. Là một dạng của TPDN, mặc dù pháp luật
hiện hành không quy định chi tiết về cách phân loại TPCĐ nhưng căn cứ vào quy
định của mỗi văn bản và thực tiễn phát hành của mỗi TCPH, tác giả tự đánh giá và
phân loại TPCĐ theo mỗi tiêu chí như sau:
1.1.4.1. Theo tiêu chí bảo đảm
Theo tiêu chí này, TPCĐ được phân loại thành: TPCĐ có tài sản bảo đảm và
TPCĐ khơng có tài sản bảo đảm.
TPCĐ có tài sản bảo đảm là trái phiếu được TCPH cam kết bảo đảm thanh tốn
tồn bộ hoặc một phần lãi, gốc khi đến hạn bằng tài sản của TCPH hoặc tài sản của
bên thứ ba theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm; hoặc được bảo lãnh
thanh toán theo quy định của pháp luật15. Tài sản bảo đảm cho TPCĐ có thể là bất
động sản, động sản, tài sản cố định khác như máy móc, trang thiết bị… Tài sản bảo
đảm là phương tiện trả nợ khi TCPH mất khả năng thực hiện nghĩa vụ nợ cam kết đối

14

15

Điểm d, Khoản 1, Điều 54, Luật Phá sản số 51/2014/QH13 ngày 19/6/2014.
Điều 17 Nghị định 153/2020/NĐ-CP.


14

với TPCĐ đã phát hành. Khi TPCĐ có tài sản bảo đảm, nó khơng chỉ tạo sự an tâm
cho nhà đầu tư mà còn giúp TCPH thực hiện đợt phát hành với khả năng thành cơng
hơn.
TPCĐ khơng có tài sản bảo đảm là loại TPCĐ được phát hành nhưng không có
tài sản bảo đảm cho nghĩa vụ thanh tốn nợ vay của TCPH. Trong trường hợp này,
rủi ro pháp lý cho chủ sở hữu TPCĐ sẽ lớn hơn trong trường hợp TCPH khơng có
khả năng thanh tốn nợ vay đến hạn hoặc bị tuyên bố phá sản. Bên cạnh đó, theo quy
định về thứ tự ưu tiên thanh toán nợ vay, chủ sở hữu TPCĐ khơng có tài sản bảo đảm
sẽ có thứ tự ưu tiên thanh tốn sau của chủ sở hữu TPCĐ có tài sản bảo đảm. Do đó,
nhà đầu tư ngồi việc đánh giá rủi ro pháp lý của TPCĐ cịn phải đánh giá kỹ tình
trạng, thơng tin và khả năng của TCPH nhằm bảo vệ quyền lợi của mình tốt hơn.
1.1.4.2. Theo tiêu chí chủ thể phát hành và đối tượng sở hữu
Dựa theo tiêu chí này, TPCĐ được phân loại thành: TPCĐ phát hành riêng lẻ
và TPCĐ phát hành ra công chúng.
TPCĐ phát hành riêng lẻ được phát hành bởi TCPH là công ty đại chúng
(CTĐC) và CTCPCĐC nhắm đến đối tượng được quyền sở hữu là nhà đầu tư chứng
khoán chuyên nghiệp và số lượng nhà đầu tư trong đợt phát hành ít hơn một trăm
(100) nhà đầu tư. Tùy thuộc vào TCPH, TPCĐ được phát hành theo hình thức này có
thể tn thủ quy định của pháp luật chứng khoán hoặc pháp luật doanh nghiệp.
TPCĐ phát hành ra cơng chúng chỉ có thể được thực hiện bởi TCPH là CTĐC.
Loại TPCĐ được phát hành ra công chúng được thực hiện thông qua thị trường chứng
khốn để TCPH cơng khai chào bán cho mọi nhà đầu tư và không hạn chế về số lượng

nhà đầu tư được quyền sở hữu. Doanh nghiệp khi thực hiện phát hành TPCĐ ra công
chúng phải tuân thủ theo quy định của pháp luật chứng khoán về điều kiện, trình tự,
thủ tục phát hành.
1.1.4.3. Theo tiêu chí hình thức của trái phiếu
Theo tiêu chí này, TPCĐ được phân loại thành: TPCĐ biểu hiện dưới dạng
chứng chỉ và TPCĐ biểu hiện dưới dạng bút toán điện tử.
TPCĐ biểu hiện dưới dạng chứng chỉ thông thường được TCPH là CTCPCĐC
phát hành cho nhà đầu tư để chứng nhận quyền của chủ sở hữu trái phiếu. Về mặt
pháp lý, TPCĐ biểu hiện dưới dạng chứng chỉ khơng có bất kỳ khác biệt gì về quyền
và nghĩa vụ của chủ sở hữu so với TPCĐ biểu hiện dưới dạng bút toán điện tử. Tác
giả đánh giá rằng, hạn chế của loại trái phiếu này chỉ phát sinh trong trường hợp chủ
sở hữu thực hiện các giao dịch chuyển nhượng, tặng, cho, cầm cố, thế chấp, thừa kế


15

đối với trái phiếu. Khi xảy ra sự kiện pháp lý này, thủ tục thay đổi thông tin trên trái
phiếu của bên nhận chuyển nhượng, tặng, cho, cầm cố, thế chấp, thừa kế sẽ phức tạp
và TCPH phải thực hiện cấp đổi lại, thời gian sẽ kéo dài. Hình thức và nội dung của
TPCĐ biểu hiện dưới dạng chứng chỉ được Bộ Tài chính quy định cụ thể đối với việc
in và phân phối cho chủ sở hữu sau khi hoàn thành đợt chào bán.
TPCĐ biểu hiện dưới dạng bút toán điện tử được các CTĐC sử dụng bởi các
hoạt động phát hành thường diễn ra trực tiếp trên thị trường chứng khoán. Xuất phát
từ sự linh doạt trong giao dịch mua bán nhanh chóng và liên tục nên loại trái phiếu
này được TCPH niêm yết thông tin tại Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam
(TTLKCK) để ghi và lưu trữ dưới dạng dữ liệu điện tử. Ưu điểm của TPCĐ biểu hiện
dưới dạng bút toán điện tử là thơng tin chủ sở hữu có thể được cập nhật nhanh chóng
ngay sau khi các giao dịch diễn ra.
1.1.4.4. Theo tiêu chí chuyển đổi
Theo tiêu chí này thì TPCĐ được phân loại thành: TPCĐ tự do chuyển đổi và

TPCĐ bắt buộc chuyển đổi.
TPCĐ bắt buộc chuyển đổi được phát hành trong trường hợp TCPH có quy định
điều khoản chủ sở hữu TPCĐ buộc phải chuyển đổi TPCĐ thành cổ phiếu trong một
thời hạn được ấn định kể từ ngày phát hành. Trong trường hợp này, chủ sở hữu có
nghĩa vụ tuân thủ điều kiện, điều khoản của TPCĐ đối với TCPH. Chủ sở hữu TPCĐ
có thể quyền thực hiện việc chuyển nhượng TPCĐ trước thời hạn chuyển đổi để thu
hồi vốn.
TPCĐ tự do chuyển đổi là trái phiếu mà chủ sở hữu có quyền từ chối hoặc thực
hiện quyền chuyển đổi căn cứ theo đánh giá của họ đối với tình hình của TCPH và
giá trị TPCĐ vào thời điểm chuyển đổi. Khác với TPCĐ bắt buộc chuyển đổi, chủ sở
hữu không bị ràng buộc điều kiện phải chuyển đổi. Do đó, quyền định đoạt TPCĐ
của chủ sở hữu sẽ rộng hơn và tự do hơn.
1.1.5. Ý nghĩa của trái phiếu chuyển đổi
1.1.5.1. Đối với tổ chức phát hành
TPCĐ giúp TCPH có thêm lựa chọn kênh huy động vốn nhằm phục vụ cho mục
tiêu cấp thiết và quan trọng của doanh nghiệp. Với những ưu thế về lãi suất, thời hạn,
điều kiện, điều khoản mà pháp luật đã trao cho bên vay được toàn quyền quyết định,
phát hành TPCĐ giúp TCPH tìm được nguồn vốn với chi phí sử dụng vốn thấp, thời
hạn linh hoạt trong khi lại tối thiểu hóa các quyền của người cho vay. Điều này khác
biệt hoàn toàn trong mối quan hệ vay mượn khi TCPH vay vốn từ chủ nợ là ngân


16

hàng bởi TCPH hoàn toàn bị động trong quan hệ vay mượn này. Hơn nữa, so sánh
với việc phương án phát hành thêm cổ phiếu thì thủ tục phát hành TPCĐ không làm
phát sinh sự thay đổi về cơ cấu tổ chức của TCPH, khơng tác động về quyền kiểm
sốt của các cổ đông TCPH trước khi trái phiếu được chuyển đổi và hạn chế được
quyền với tư cách chủ sở hữu.
1.1.5.2. Đối với nhà đầu tư

Sở hữu TPCĐ có thể giúp nhà đầu tư thực hiện các quyền sở hữu với tư cách
khác nhau tùy thuộc vào quyết định của họ. Ban đầu, sau khi mua TPCĐ, nhà đầu tư
có quyền với tư cách là chủ nợ của TCPH. Tư cách chủ nợ này cho phép nhà đầu tư
được hưởng lợi tức từ lãi suất cho TCPH vay và có sự bảo đảm nghĩa vụ thanh tốn
hoặc ưu tiên thanh toán khi TCPH mất khả năng thanh toán nợ. Khi sở hữu TPCĐ
với tư cách là chủ nợ, quyền của nhà đầu tư khơng có khác biệt so với người sở hữu
TPDN thông thường. Tuy nhiên, đến thời hạn chuyển đổi, TPCĐ giúp nhà đầu tư có
thêm quyền sở hữu cổ phần - làm đồng chủ sở hữu TCPH trong trường hợp nhà đầu
tư thực hiện quyền chuyển đổi TPCĐ thành cổ phiếu. Điều này cho thấy việc đầu tư
vào TPCĐ ở khía cạnh này có ưu thế hơn so với TPDN thông thường.
1.1.5.3. Đối với nền kinh tế
So với TPDN nói chung và cổ phiếu, TPCĐ là loại chứng khốn có tính an tồn
và linh hoạt dựa vào sự đặc thù về quyền chuyển đổi của nó. Sự xuất hiện của TPCĐ
như một sự đan xen về tính chất giữa TPDN và cổ phiếu đã làm đa dạng hoá nguồn
huy động vốn của doanh nghiệp. Đồng thời đáp ứng nhu cầu đầu tư của các nguồn
vốn nhàn rỗi trong xã hội, giúp dịng vốn được lưu thơng, tạo ra sự kết nối giữa nơi
có vốn (nhà đầu tư) và nơi cần vốn (TCPH) và giúp hạn chế đi sự phụ thuộc vào kênh
cấp vốn truyền thống từ hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, có thể thấy việc TCPH tận
dụng kênh huy động vốn từ TPCĐ thể hiện sự tự do thỏa thuận trong quan hệ vay
mượn và quyền tự quyết, tự chịu trách nhiệm của người đi vay và người vay. Nếu cả
TCPH và nhà đầu tư sử dụng TPCĐ tuân thủ đầy đủ điều kiện luật định, TPCĐ không
chỉ tác động hiệu quả về mặt tài chính mà cịn cho thấy pháp luật đã định hình và có
sự hỗ trợ tốt hơn cho sự vận hành của nền kinh tế.
1.2. Nội dung pháp luật về trái phiếu chuyển đổi
1.2.1. Chủ thể tham gia vào quan hệ phát hành trái phiếu chuyển đổi
Hoạt động phát hành TPCĐ và chuyển đổi TPCĐ diễn ra có sự tham gia của các
chủ thể khác nhau theo quy định của pháp luật doanh nghiệp và chứng khoán. Các
chủ thể này chia thành các nhóm với chức năng, nhiệm vụ được quy định riêng nhằm



17

phục vụ hoạt động phát hành và chuyển đổi diễn ra đúng theo điều kiện, trình tự và
thủ tục luật định. Bên cạnh nhóm chủ thể phát hành và chủ thể sở hữu TPCĐ là hai
chủ thể chính trong hoạt động phát hành và chuyển đổi thì cịn có sự tham gia của các
chủ thể hỗ trợ, cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán, thị trường chứng khoán và
các chủ thể thực hiện nghiệp vụ cho thị trường chứng khốn. Cụ thể, có thể liệt kê
các chủ thể này bao gồm: (i) TCPH; (ii) chủ sở hữu TPCĐ - chủ nợ; (iii) chủ thể hỗ
trợ hoạt động phát hành gồm: đại diện người sở hữu trái phiếu, cơ quan quản lý đăng
ký kinh doanh, cơng ty chứng khốn, cơng ty kiểm tốn; (iv) chủ thể quản lý nhà
nước về hoạt động phát hành TPCĐ gồm: Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ và Cơ quan
ngang bộ khác, Ủy ban nhân dân các cấp, UBCKNN, NHNN; (v) chủ thể thực hiện
nghiệp vụ cho thị trường chứng khoán gồm: SGDCK (Sở Giao dịch Chứng khoán)
và TTLKCK (Trung tâm Lưu ký Chứng khốn).
1.2.1.1. Chủ thể phát hành
Căn cứ theo giải thích về tổ chức phát hành trái phiếu của LCK 201916, có thể
hiểu rằng chủ thể phát hành, chào bán TPCĐ là doanh nghiệp thực hiện các hoạt động
chào bán, phát hành TPCĐ. Quy định này đã điều chỉnh cởi mở và rộng hơn về phạm
vi, chủ thể phát hành so với LCK 200617 cũng như hoàn thiện hơn so với Luật số
62/2010/QH12 ngày 24/11/2010 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán
2006 (LCK sửa đổi 2010)18. Bên cạnh đó, quy định về tổ chức phát hành của LCK
2019 đã thừa nhận tổ chức phát hành có thể là doanh nghiệp cổ phần đại chúng hoặc
chưa đại chúng và cũng khơng bó buộc hoạt động chào bán, phát hành theo hình thức
phát hành ra cơng chứng hay phát hành riêng lẻ.
Tại định nghĩa về TPCĐ theo Nghị định 153/2020/NĐ-CP thì “Trái phiếu
chuyển đổi là loại hình trái phiếu do công ty cổ phần phát hành”19. Quy định về
TPCĐ của Nghị định 153/2020/NĐ-CP đã nêu đích danh tổ chức phát hành TPCĐ
chỉ có thể là doanh nghiệp theo loại hình CTCP. Quy định này một mặt loại bỏ hoàn
toàn quyền phát hành TPCĐ của công ty trách nhiệm hữu hạn bởi tính “có thể chuyển
Khoản 21, Điều 4 Luật Chứng khoán 2019.

Khoản 13, Điều 6 Luật Chứng khoán 2006 đã định nghĩa về tổ chức phát hành như sau: “Tổ chức phát hành
là tổ chức thực hiện phát hành chứng khốn ra cơng chúng”. Định nghĩa này đã giới hạn phương thức phát
hành chứng khoán chỉ được thực hiện ra cơng chúng và loại bỏ hồn tồn hoạt động phát hành riêng lẻ. Điều
này cũng đồng nghĩa rằng, tổ chức phát hành chỉ có thể là cơng ty đại chúng mà thơi.
18
Khoản 3, Điều 1 Luật Chứng khốn sửa đổi 2010 đã mở rộng hơn về định nghĩa tổ chức phát hành. Theo đó:
“Tổ chức phát hành là tổ chức thực hiện chào bán chứng khoán”. Định nghĩa này đã cho phép cả công ty cổ
phần chưa đại chúng tham gia hoạt động chào bán chứng khoán và được quyền thực hiện theo phương thức
phát hành riêng lẻ chứng khoán.
19
Khoản 3, Điều 4 Nghị định 153/2020/NĐ-CP.
16
17


18

đổi thành cổ phiếu phổ thơng của chính doanh nghiệp phát hành” mà công ty trách
nhiệm hữu hạn không đáp ứng được. Mặt khác nó đã khẳng định lại sự bao hàm và
cơng nhận cho loại hình CTCPCĐC và CTĐC được sử dụng TPCĐ cho hoạt động
huy động vốn của mình.
1.2.1.2. Đối tượng sở hữu trái phiếu chuyển đổi - nhà đầu tư - chủ nợ
Đối tượng sở hữu TPCĐ là nhà đầu tư cá nhân, tổ chức được quyền mua TPCĐ
do TCPH chào bán, phát hành và tùy thuộc vào phương án phát hành riêng lẻ hoặc
phát hành ra công chúng. Theo quy định của tại Nghị định 163/2020/NĐ-CP (đã hết
hiệu lực) thì cá nhân, tổ chức cũng có thể là những cá nhân, tổ chức nước ngoài tham
gia kinh doanh, đấu tư chứng khoán tại thị trường Việt Nam20. Tuy nhiên Nghị định
153/2020/NĐ-CP đã thay thế hoàn toàn quy định này bằng cách định nghĩa chi tiết
về điều kiện năng lực tài chính hơn là kiểu quy định nhà đầu tư theo phạm vi lãnh
thổ21.

Trong trường hợp TCPH phát hành TPCĐ ra cơng chúng, pháp luật chứng
khốn quy định thơng thống hơn về người có thể mua trái phiếu này bao gồm tất cả
cá nhân và tổ chức mà khơng cần đáp ứng điều kiện về tính “là nhà đầu tư chứng
khoán chuyên nghiệp” hay “được xem là đối tác chiến lược” miễn sao số lượng không
dưới 100 người22. Ngược lại với người mua TPCĐ được phát hành riêng lẻ, những cá
nhân hoặc tổ chức được quyền mua phải đáp ứng điều kiện “là nhà đầu tư chứng
khoán chuyên nghiệp” hay “được xem là đối tác chiến lược” nêu trên23. Trong trường
hợp này, chủ nợ của TCPH không thể là các cá nhân hay tổ chức không xác định hoặc
không đảm bảo các điều kiện luật định.
Với tư cách là chủ nợ24 khi mua TPCĐ được phát hành bởi TCPH, chủ sở hữu
TPCĐ mang những quyền tương tự như trong quan hệ vay mượn của dạng hợp đồng
vay tài sản theo quy định của pháp luật dân sự25. Trong quan hệ này, quyền của chủ
sở hữu trái phiếu là nghĩa vụ của TCPH. Tính chất của một hợp đồng song vụ thể
hiện thông qua mối quan hệ này. Vì vậy mà có thể khẳng định, chủ sở hữu TPCĐ là
một bên đối kháng trong quan hệ phát hành và chuyển đổi TPCĐ với bên còn lại là
TCPH. Sự kiện nhà đầu tư đăng ký và mua thành công TPCĐ làm phát sinh các quyền
Khoản 1, Điều 8 Nghị định 163/2020/NĐ-CP.
Điều 8 Nghị định 153/2020/NĐ-CP.
22
Khoản 19, Điều 4 Luật Chứng khoán 2019.
23
Điều 118 Luật Doanh nghiệp 2020 và Điều 8 Nghị định 153/2020/NĐ-CP.
24
Khoản 21, Điều 3 Nghị định 155/2020/NĐ-CP.
25
Điều 463 đến Điều 470 Bộ luật Dân sự năm 2015.
20
21



19

với tư cách của một chủ nợ và phát sinh nghĩa vụ của TCPH với tư cách là người vay.
Tuy nhiên, những quyền của chủ sở hữu TPCĐ sẽ chấm dứt ngay sau khi giao dịch
chuyển đổi TPCĐ thành cổ phiếu của TCPH được thực hiện hoàn tất. Khi quan hệ
vay mượn đặc thù này đến hạn, tư cách của chủ sở hữu TPCĐ cũng chuyển thành tư
cách là một chủ sở hữu TCPH đi kèm theo đó là những quyền và nghĩa vụ mà pháp
luật doanh nghiệp đã quy định cho cổ đông26.
1.2.1.3. Chủ thể hỗ trợ hoạt động phát hành
Bên cạnh hai chủ thể chính trong hoạt động phát hành và chuyển đổi TPCĐ là
TCPH và nhà đầu tư thì để hoạt động phát hành được diễn ra đúng trình tự, thủ tục,
sự tham gia của các chủ thể mang tính hỗ trợ về chun mơn nghiệp vụ là không thể
thiếu. Các chủ thể này gồm:
(i) Đại diện người sở hữu trái phiếu tham gia khi TCPH trực tiếp chỉ định. Đại diện
người sở hữu trái phiếu căn cứ theo các chức năng, quyền hạn của mình tham
gia để đại diện cho các chủ sở hữu trái phiếu thực hiện các quyền giám sát tuân
thủ của TCPH, yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thanh toán của bên bảo lãnh,
bảo đảm, báo cáo cho UBCKNN khi phát hiện sai phạm của TCPH27.
(ii) Cơng ty chứng khốn tham gia với vai trò bắt buộc theo quy định của pháp luật
bởi nghiệp vụ chuyên môn của công ty chứng khốn có thể giúp ích cho TCPH
thơng qua việc tư vấn và thực hiện hoạt động phát hành cho TCPH bằng hợp
đồng dịch vụ giao kết giữa hai bên có phát sinh phí dịch vụ theo quy định của
pháp luật chứng khoán cũng như pháp luật dân sự. Bên cạnh đó, trong trường
hợp TCPH muốn thực hiện hoạt động phát hành thông qua môi giới, đại lý phát
hành hay cần tổ chức bảo lãnh phát hành, cơng ty chứng khốn sẽ là doanh
nghiệp thực hiện những nghiệp vụ này28. Khác với vai trị tư vấn phát hành là
bắt buộc thì khi tham gia với tư cách là đại lý phát hành, môi giới phát hành hay
bảo lãnh phát hành không bắt buộc bởi quyền quyết định thuộc về sự lựa chọn
của TCPH.
(iii) Cơng ty kiểm tốn tham gia với tư cách là đơn vị kiểm toán đối với báo cáo tài

chính của TCPH. Tương tự như cơng ty chứng khốn, sự tham gia của cơng ty
kiểm tốn là bắt buộc bởi nghiệp vụ chun mơn của cơng ty kiểm tốn là cần

Điều 114, 115 Luật Doanh nghiệp 2014. Điều 115, 119 Luật Doanh nghiệp 2020 đã có thay đổi một số nội
dung về quyền và nghĩa vụ của cổ đông công ty cổ phần.
27
Điều 24 Nghị định 155/2020/NĐ-CP.
28
Điều 72 Luật Chứng khoán 2019.
26


20

thiết để kiểm sốt thơng tin tài chính mà TCPH cung cấp. Thơng qua ý kiến
kiểm tốn báo cáo tài chính của cơng ty kiểm tốn, hoạt động phát hành TPCĐ
nói riêng và phát hành chứng khốn nói chung đã được kiểm tra một bước trước
khi TCPH trình hồ sơ phát hành đến UBCKNN.
(iv) Cơ quan đăng ký kinh doanh, đầu tư nước ngồi tuy khơng tham gia hoạt động
phát hành TPCĐ nhưng đóng vai trị là cơ quan quản lý thủ tục đăng ký thay đổi
vốn điều lệ và cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp trong trường hợp
TCPH và chủ sở hữu TPCĐ thực hiện chuyển đổi thành công từ TPCĐ thành cổ
phiếu của TCPH để chấm dứt quan hệ vay mượn29. TCPH bắt buộc phải thực
hiện thủ tục đăng ký thay đổi tăng vốn điều lệ sau khi chuyển đổi TPCĐ. Nếu
chủ sở hữu TPCĐ là nhà đầu tư nước ngoài, khi chuyển đổi từ chủ nợ thành cổ
đông công ty, phải đáp ứng điều kiện về tỷ lệ sở hữu nước ngoài30 của nhà đầu
tư nước ngoài trong TCPH và phải thực hiện đầy đủ thủ tục đăng ký mua cổ
phần theo quy định của pháp luật đầu tư.
1.2.1.4. Chủ thể quản lý nhà nước về hoạt động phát hành trái phiếu chuyển đổi
Liên quan đến hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán nói chung và

hoạt động phát hành TPCĐ nói riêng, các chủ thể quản lý nhà nước đã được thống
nhất về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn để phối hợp quản lý vận hành đối với lĩnh
vực đặc thù này. Theo đó:
(i) Theo quy định tại LCK 2006 và LCK 2019, trách nhiệm quản lý chung về chứng
khoán và thị trường chứng khốn thuộc về Chính phủ. Chính phủ thơng qua Bộ
Tài Chính, Bộ và các Cơ quan ngang bộ khác, Ủy ban Nhân dân các cấp được
phân công nhiệm vụ, quyền hạn để phối hợp, hỗ trợ quản lý, giám sát trực tiếp
hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán để hoạt động này vận hành
một cách hiệu quả nhất31.
(ii) Trong kế hoạch xây dựng một thị trường vốn linh hoạt để vận hành các kênh
phân phối vốn cho nền kinh tế, bổ sung cho kênh cấp vốn truyền thống từ hệ
thống ngân hàng, UBCKNN chính thức được ra đời ngày 28/11/1996 với các
chức năng, nhiệm vụ chủ yếu là quản lý, giám sát hoạt động của thị trường

Điều 216 Luật Doanh nghiệp 2020.
Khoản 38, Điều 3 Nghị định 155/2020/NĐ-CP.
31
Điều 6 Luật Chứng khoán 2006 quy định “Quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán”.
Quy định này khơng có sự thay đổi khi Luật Chứng khoán 2019 ra đời và được quy định tại Điều 7, Luật Chứng
khoán 2019.
29
30


×