Tải bản đầy đủ (.pdf) (145 trang)

Tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật) (pdf io)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (27.19 MB, 145 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

LÊ HỒNG VĂN

TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN
TẠI PHIÊN TỊA XÉT XỬ SƠ THẨM
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN
TẠI PHIÊN TỊA XÉT XỬ SƠ THẨM
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự Và Tố tụng hình sự
Định hƣớng ứng dụng
Mã ngành: 8380104

Người hướng dẫn khoa học: Ts. Trần Thị Kim Oanh
Học viên: Lê Hồng Văn
Lớp: Cao Học Luật, Phú n Khóa 1

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021




LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
nêu trong luận văn là trung thực, phản ánh khách quan quá trình nghiên cứu.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ
cơng trình nào khác.
Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm trước pháp luật và Hiệu trường Đại học
Luật TP Hồ Chí Minh về Luận văn Thạc sĩ này.
Tác giả

Lê Hồng Văn


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tác giả Luận văn xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất
đến TS. Trần Thị Kim Oanh đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong q trình
hồn thành luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn Ban Giám Hiệu Trường Đại học Luật TP Hồ Chí
Minh, cùng tồn thể các thầy giáo, cô giáo đã truyền đạt những kiến thức xã hội và
chuyên môn vô cùng quý giá cả về lý thuyết và thực tiễn. Những kiến thức hữu ích
đó sẽ là hành trang giúp tôi trưởng thành và tự tin thực hiện công việc chuyên môn
ngày càng tốt hơn và hiệu quả hơn.
Xin cảm ơn tới Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên đã giúp đỡ và tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho tơi hồn thành luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn!


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


CHỮ VIẾT TẮT

VIẾT ĐẦY ĐỦ

BLHS năm 2015

Bộ luật Hình sự nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam số 100/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015

BLTTHS năm 2003

Bộ luật Tố tụng Hình sự nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam số 19/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003

BLTTHS năm 2015

Bộ luật Tố tụng Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam số 101/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015

KSV

Kiểm sát viên

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1

CHƢƠNG 1. XÉT HỎI CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TỊA HÌNH SỰ
SƠ THẨM ..................................................................................................................7
1.1. Quy định của pháp luật về xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tịa hình
sự sơ thẩm ..............................................................................................................7
1.2. Thực tiễn xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tịa hình sự sơ thẩm ........11
1.2.1. Kết quả đạt được ....................................................................................11
1.2.2. Hạn chế và nguyên nhân ........................................................................12
1.3. Giải pháp nâng cao chất lƣợng xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tịa
hình sự sơ thẩm ...................................................................................................19
Kết luận Chƣơng 1 ..................................................................................................23
CHƢƠNG 2. TRANH LUẬN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA XÉT
XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ .........................................................................24
2.1. Quy định của pháp luật về tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tịa
hình sự sơ thẩm ...................................................................................................24
2.2. Thực tiễn tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tịa hình sự sơ thẩm .27
2.2.1. Kết quả đạt được ....................................................................................27
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân ........................................................................29
2.3. Giải pháp nâng cao chất lƣợng tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên
tịa hình sự sơ thẩm .............................................................................................36
Kết luận Chƣơng 2 ..................................................................................................42
KẾT LUẬN ..............................................................................................................43
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tranh tụng tại phiên tịa có vai trị hết sức quan trọng, nó không chỉ là sự đánh
giá kết quả hoạt động của các giai đoạn điều tra, truy tố mà cịn có tác dụng quyết định

trong giai đoạn xét xử. Đây chính là cơ chế tối ưu nhất để bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của bị cáo, đảm bảo việc truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Ngay sau
khi Nghị quyết số 08/NQ/TW của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công
tác tư pháp trong thời gian tới” được quán triệt, hầu hết các vụ án đã được đưa ra xét xử
với sự đổi mới thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở những quy định của
Bộ luật Tố tụng hình sự mới và theo tinh thần cải cách tư pháp của Bộ Chính trị. Tại
phiên tịa, Hội đồng xét xử đã thể hiện được tính khách quan, tơn trọng, lắng nghe ý
kiến của cả Kiểm sát viên, luật sư, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Phiên
tịa đã thể hiện được tính dân chủ, bình đẳng giữa những người tiến hành tố tụng, người
tham gia tố tụng trong việc đưa ra chứng cứ, bày tỏ quan điểm, cùng tranh luận xác
định sự thật khách quan. Cùng với việc xét hỏi, Hội đồng xét xử còn chấp nhận luật sư,
bị cáo và những người tham gia tố tụng xuất trình chứng cứ mới. Hội đồng xét xử xem
xét đầy đủ, tồn diện chứng cứ có trong hồ sơ, chứng cứ đã được Kiểm sát viên phân
tích, đánh giá khi luận tội bảo vệ cáo trạng, quan điểm của người bào chữa và những
người tham gia tố tụng để ra phán quyết cuối cùng.
Hoạt động xét xử tại phiên tòa là một hoạt động tố tụng quan trọng trong giai
đoạn tố tụng của một vụ án hình sự, trong đó vai trị tranh tụng của Kiểm sát viên là
yếu tố quyết định, bởi lẽ Tòa án chỉ quyết định việc xét xử trên cơ sở Cáo trạng truy
tố và hồ sơ do Viện kiểm sát chuyển sang 1. Khơng một cơ quan, tổ chức nào có thể
thay thế Viện kiểm sát nhân dân trong việc truy tố người phạm tội ra tòa. Viện kiểm
sát nhân dân là cơ quan duy nhất truy tố người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và
thực hiện việc buộc tội tại phiên tịa. Việc xét xử có đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật hay không phụ thuộc vào công tác thực hành quyền công tố của VKSND.
Kết quả tranh tụng không chỉ là sự đánh giá hiệu quả hoạt động tố tụng của các giai
đoạn điều tra, truy tố, mà đây cịn u cầu cấp thiết trong việc đảm bảo tính công
bằng, dân chủ giữa người tham gia tố tụng với vai trị thực hành quyền cơng tố Nhà
nước của Viện kiểm sát, là căn cứ để xác định sự thật vụ án và là cơ sở để Hội đồng
xét xử ra bản án chính xác, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xác

1


Giới hạn của việc xét xử theo Điều 298 BLTTHS 2015


2
định vai trò quan trọng của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, tại các Nghị quyết
của Đảng về cải cách tư pháp như Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 01/01/2002, Nghị
quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, Kết luận 79-KL/TW ngày 28/7/2010… đều xác
định tranh tụng trong xét xử là một trong những nội dung trọng tâm và là khâu đột
phá của tiến trình cải cách tư pháp.
Thực hiện Chỉ thị số 09/CT-VKSTC về “Nâng cao chất lượng tranh tụng của
Kiểm sát viên tại phiên tòa”, xem tranh tụng là trọng tâm, Kiểm sát viên cơ bản đã
thể hiện rõ vai trị, vị trí pháp lý, là người đại diện Viện kiểm sát nhân dân thay mặt
Nhà nước làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng. Với tinh thần “tranh
tụng dân chủ” như Nghị quyết 08-NQ/TW và Nghị quyết 49-NQ/TW đã đề ra, các
Kiểm sát viên đã chú trọng việc kiểm tra, nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án và lập hồ sơ
kiểm sát xét xử án hình sự theo đúng Quyết định số 07/VKSTC-V3 của Viện kiểm
sát nhân dân tối cao. Qua các phiên tòa cho thấy kỹ năng xét hỏi, tranh luận của
Kiểm sát viên được nâng lên, thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự; chủ động tham gia xét hỏi, làm rõ những chứng cứ để chứng minh tội phạm, làm
rõ hành vi phạm tội của bị cáo, bảo vệ cáo trạng, bảo đảm việc truy tố và xét xử của
Tòa án đúng người đúng tội, đúng pháp luật, không để bỏ lọt tội phạm và người
phạm tội. Tuy nhiên, bên cạnh đó cịn có những phiên tòa KSV chưa nắm vững các
quy định của Luật, các văn bản dưới luật liên quan; không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ
án; việc chuẩn bị đề cương xét hỏi sơ sài, chưa chủ động tham gia xét hỏi; phương
pháp, nội dung tranh luận một số Kiểm sát viên còn chung chung, chưa có tính
thuyết phục; chưa sử dụng mâu thuẫn trong lời bào chữa của bị cáo, luật sư để tranh
luận. Phong cách, thái độ khi tranh luận có KSV cịn thiếu bình tĩnh…
u cầu cải cách tư pháp, hồn thiện thủ tục tố tụng hình sự nói chung, tranh

tụng trong xét xử nói riêng đã được đề ra trong nhiều Nghị quyết của Đảng về cải
cách tư pháp, trong đó Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị
về “Một số nhiệm vụ trọng tâm của cơng tác tư pháp trong thời gian tới” có đoạn
nêu: “Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh
tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng
khác…Việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại
phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát
viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người
có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức


3
thuyết phục và trong thời hạn quy định”2. Tại Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về “chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã nhấn
mạnh: “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn,
trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo
đảm tính cơng khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các
phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”3. Đặc biệt khoản
5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
được bảo đảm, coi đây là nguyên tắc hiến định then chốt của hoạt động xét xử. Với
yêu cầu đó, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung “Nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử được bảo đảm” vào hệ thống các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự
(Điều 26). Đây là tư tưởng, quan điểm có tính chỉ đạo xun suốt q trình xây
dựng và đã được cụ thể trong các thủ tục tố tụng nói chung, thủ tục xét xử nói riêng.
Vì xét xử được coi là hoạt động trọng tâm của toàn bộ hoạt động tố tụng với các thủ
tục xét xử công khai, bảo đảm cho những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ
các quyền và nghĩa vụ của mình bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự,
góp phần khắc phục tình trạng để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm.
Hiện thực hóa các quy định về tranh tụng của BLTTHS 2015 vào thực tiễn
công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, đề cao vai trị chủ

động, tích cực của Kiểm sát viên tại phiên tòa nhằm làm rõ chứng cứ, chứng minh
về chủ thể và hành vi phạm tội, nhằm làm rõ có hay khơng có sự việc phạm tội,
tránh làm oan người vô tội, cũng như bỏ lọt tội phạm. Tranh tụng giúp làm sáng tỏ
vụ án và là cơ sở để Hội đồng xét xử ra phán quyết đúng người, đúng tội, nghiêm
minh, bảo vệ công lý. Tại Chỉ thị số 09/CT-VKS ngày 06/04/2016 của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã xác định: “ Kiểm sát viên phải thường xuyên
nghiên cứu, nắm vững các quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự,
các văn bản pháp luật và hướng dẫn thi hành, đặc biệt là các quy định mới của
luật, nâng cao kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức xã hội ..vv..để chủ động
tranh tụng tại phiên tòa. Việc xét hỏi, luận tội, tranh luận ở phiên tòa thực hiện
đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và hướng dẫn của Ngành”4.
2

BCT, Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp
trong thời gian tới”
3
BCT, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020”
4
VKSNDTC, Chỉ thị số 09/CT-VKSTC, ngày 06/4/2016 về Tăng cường các biện pháp nâng cao chất lượng
tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa.


4
Để đảm bảo vai trò của Kiểm sát viên trong phiên tịa hình sự sơ thẩm, đáp
ứng u cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay, từ những vướng mắc thực
tiễn nói trên, học viên chọn đề tài “Tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét
xử sơ thẩm theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua nghiên cứu và tìm hiểu, tác giả nhận thấy đã có nhiều cơng trình nghiên

cứu liên quan đến việc tranh tụng của Kiểm sát viên, điển hình như: bài viết “Thực
trạng và một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tịa hình sự
theo tinh thần cải cách tư pháp” tác giả Trần Duy Bình, đã phân tích thực trạng
tranh tụng tại phiên tịa hình sự của nhiều chủ thể như: Kiểm sát viên, người bào
chữa, theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 nên chỉ có giá trị tham
thảo; Đề tài khoa học “Chuyên đề tranh luận và những giải pháp nâng cao chất
lượng tranh luận của Kiểm sát viên trong xét xử hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp” của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đã phân tích rất cụ thể về số liệu thực
tiễn tranh luận của Kiểm sát viên trong xét xử án hình sự giai đoạn 2011-2013, qua
đó đề ra nhiều giải pháp thiết thực nâng cao chất lượng hoạt động này trong thời
gian đến; bài viết “Kinh nghiệm tranh luận, đối đáp của Kiểm sát viên tại phiên tịa
hình sự” của tác giả Lương Thị Thúy Dung đã đưa ra nhiều tình huống thực tiễn và
đề ra nhiều giải pháp rất cụ thể giúp nâng cao kỹ năng tranh luận, đối đáp của Kiểm
sát viên tại phiên tịa hình sự …
Ngồi ra, cịn có một số đề tài như: Luận văn Tiến sĩ “Bảo đảm nguyên tắc
tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo tinh thần cải cách tư
pháp” của tác giả Hoàng Văn Thành; Luận văn thạc sỹ “Thực tiễn thực hiện nguyên
tắc tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam, từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận” của tác giả Phan Hùng, đã phân tích rất cụ
thể về nguyên tắc trong tranh tụng trong xét xử; Luận văn thạc sỹ “Xét hỏi của
Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả
Lê Thị Thu Hải đã phân tích rất có trọng tâm về trình tự xét hỏi, nội dung xét hỏi
của Kiểm sát viên tại phiên tịa hình sự sơ thẩm.
Các cơng trình nghiên cứu này nhìn nhận việc tranh tụng của Kiểm sát viên
tại phiên tịa hình sự với nhiều góc độ khác nhau, có giá trị thực tiễn nhất định trong
việc đánh giá tính hiệu quả của hoạt động tranh tụng. Tuy nhiên, phần nhiều các
cơng trình nghiên cứu này rơi vào các thời điểm của Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003, so với Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung nên giá trị



5
ứng dụng đến thời điểm hiện nay không cao. Đồng thời chưa có đề tài nào nghiên
cứu trọng tâm hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự dưới góc
độ xét hỏi và tranh luận theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Để từ đó có
cách nhìn trực diện qua việc thực hiện Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về tranh tụng
của Kiểm sát viên tại phiên tòa, đánh giá những mặt đạt được cũng như những tồn
tại, hạn chế từ đó đề ra những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tranh
tụng của Kiểm sát viên trong thời gian đến…
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
Mục đích: nghiên cứu các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và các văn
bản hướng dẫn về tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết vụ
án hình sự, đánh giá thực trạng tranh tụng của Kiểm sát viên cũng như bất cập trong
việc thực hiện các quy định của pháp luật, từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hồn
thiện các quy định của pháp luật về tranh tụng cũng như những giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong tình hình mới.
Nhiệm vụ: phân tích các quy định của Luật tố tụng hình sự Việt Nam và các
văn bản hướng dẫn về xét hỏi, tranh luận của KSV tại phiên tịa hình sự; nghiên
cứu, đánh giá thực trạng xét hỏi, tranh luận của Kiểm sát viên trong thời gian qua để
chỉ ra những tồn tại, hạn chế, xác định nguyên nhân dẫn đến thực trạng để đề xuất,
kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm là đề tài rất rộng nên luận văn chỉ tập trung đi sâu nghiên cứu hoạt động xét
hỏi, tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tịa hình sự sơ thẩm theo quy định của
Luật tố tụng hình sự Việt Nam và các văn bản hướng dẫn. Đánh giá thực trạng xét
hỏi, tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tịa hình sự sơ thẩm trên địa bàn một số
tỉnh như: Phú Yên, Đắk Lắk, Lâm Đồng để kiến nghị, đề xuất giải pháp hoàn thiện
và nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên.
- Phạm vi nghiên cứu: tác giả nghiên cứu trên cơ sở khảo sát thực tế, thu thập

số liệu, tài liệu thực tiễn xét hỏi và tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tịa hình
sự sơ thẩm từ năm 2017 đến 2020.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện luận văn, tác giả sử dụng phương pháp phân tích luật để
phân tích, đánh giá các quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự; các quan điểm của


6
Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp; các văn bản dưới luật. Ngồi ra, cịn sử
dụng các phương pháp như tổng hợp, thống kê, so sánh, phân tích, lịch sử.
6. Dự kiến các kết quả nghiên cứu và địa chỉ ứng dụng các kết quả
nghiên cứu
Dự kiến kết quả nghiên cứu: hoàn thiện nội dung Điều 307, Điều 320, Điều
321 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 9, Điều 24, Điều 26 Quy chế Công tác
thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự (Ban hành kèm theo Quyết
định số 505/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao), từ đó nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tịa sơ
thẩm hình sự.
Địa chỉ ứng dụng: Luận văn nêu những vấn đề lý luận chung về xét hỏi, tranh
luận của Kiểm sát viên tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Trên cơ sở tiến
hành khảo sát thực tiễn tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự trên địa bàn tỉnh Phú Yên, qua đó đánh giá những ưu, nhược điểm, những
khó khăn, vướng mắc, bất cập từ đó đề xuất các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện
các quy định của pháp luật, góp phần nâng cao vai trị, vị trí của Kiểm sát viên trong
công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự. Là tài liệu quan
trọng giúp cho đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên ngành Kiểm sát nhân dân vận dụng
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ cũng như đội ngũ Thẩm phán khi thực hiện nhiệm
vụ xét xử tại Tòa án. Đồng thời là nguồn tài liệu tham khảo, nghiên cứu tại các cơ sở
đào tạo, bồi dưỡng, nhất là các cơ sở bồi dưỡng chức danh tư pháp.
7. Bố cục luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 2 chương với cơ cấu như sau:
Chƣơng 1. Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tịa hình sự sơ thẩm
Chƣơng 2. Tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tịa hình sự sơ thẩm


7
CHƢƠNG 1
XÉT HỎI CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM
1.1. Quy định của pháp luật về xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tịa
hình sự sơ thẩm
“Xét hỏi” có nghĩa là: [nhà chức trách] hỏi kĩ để phát hiện hành vi phạm pháp
hoặc tìm hiểu sự thật về một vụ án5. Từ cách giải thích trên cho thấy “xét hỏi” là
việc làm của chủ thể có thẩm quyền và việc hỏi là để làm rõ nội dung về sự thật của
vụ án.
Xét hỏi tại phiên tịa là một giai đoạn của q trình xét xử một vụ án hình sự,
trong đó Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa,.. phải trực tiếp xét hỏi và
nghe ý kiến của các bị cáo, người bị hại, người làm chứng, người giám định, người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan,…để xem xét, đánh giá các tình tiết của vụ án một
cách khách quan, tồn diện. Có thể nói, phần xét hỏi tại phiên tịa là giai đoạn trung
tâm của hoạt động xét xử và cũng là giai đoạn quan trọng nhất để xác định sự thật
của vụ án. Việc hỏi và trả lời được diễn ra công khai, được xem là cách thức kiểm
tra kết quả của cơ quan điều tra, xác định lại một lần nữa về sự thật của vụ án hình
sự, có hay khơng có sự việc phạm tội và tội phạm. Để thực hiện điều này, Hội đồng
xét xử (Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân dân), Kiểm sát viên, Người bào chữa và
những người tham gia tố tụng khác mà Bộ luật Tố tụng Hình sự (sau đây gọi tắt là
BLTTHS) quy định được xem là các chủ thể độc lập có quyền đặt câu hỏi trực tiếp
đối với bị cáo, bị hại, người làm chứng, những người tham gia tố tụng khác để làm
rõ các tài liệu, chứng cứ đã thu thập trong q trình điều tra, truy tố có đủ cơ sở để
kết tội hay khơng, từ đó có cơ sở xác định sự thật khách quan của vụ án.

Theo đó, xét hỏi có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, xét hỏi là nội dung nằm trong phần thủ tục tranh tụng tại phiên tòa,
được thực hiện sau phần thủ tục bắt đầu phiên tòa.
Thứ hai, xét hỏi được thực hiện theo trình tự do BLTTHS năm 2015 quy định
và chủ thể có quyền xét hỏi tại phiên tịa sơ thẩm hình sự là HĐXX, KSV, người
bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự.
Bị cáo có quyền tự hỏi những người tham gia phiên tòa nếu được Chủ tọa
đồng ý.
Thứ ba, xét hỏi quy định nội dung mà HĐXX, KSV, người bào chữa, người
bảo vệ quyền lợi của đương sự có quyền được hỏi để làm rõ về nội dung vụ án. Tùy
5

Trung tâm Từ điển học (2009), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, tr. 1462.


8
thuộc vào từng chủ thể có thẩm quyền hỏi mà BLTTHS quy định tương ứng nội
dung được hỏi.
Thứ tư, xét hỏi được tiến hành công khai, liên tục theo quy định của
BLTTHS và phải tuân theo quy định của pháp luật Tố tụng hình sự, điều này được
thể hiện cụ thể từ Điều 307 đến Điều 311 BLTTHS 2015.
Chính từ những đặc điểm này nên xét hỏi tại phiên tòa là giai đoạn trung tâm
của hoạt động xét xử và cũng là giai đọan quan trọng nhất để xác định sự thật khách
quan của vụ án. Việc hỏi và trả lời được diễn ra công khai, được xem là cách thức
kiểm tra kết quả điều tra của Cơ quan điều tra. Đối với KSV, việc xét hỏi có ý nghĩa
quyết định để xem xét, đánh giá chứng cứ và các tình tiết của vụ án cũng như khẳng
định cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật hay không.
Đây là nhiệm vụ quan trọng thể hiện được năng lực, trách nhiệm, vai trò của KSV
tại phiên tịa hình sự. Xét hỏi tại phiên tịa vừa là phương thức thực hành quyền
cơng tố, vừa là trách nhiệm của cơ quan công tố nhằm kiểm tra lại tồn bộ chứng cứ

một cách cơng khai, chứng minh mọi luận điểm nêu trong cáo trạng bằng việc chủ
động xét hỏi, đưa ra các chứng cứ để bảo vệ cáo trạng và đồng thời góp phần cùng
HĐXX làm rõ sự thật của vụ án.
* Về trình tự xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm:
Trình tự là danh từ, chỉ sự sắp xếp lần lượt, thứ tự trước sau6. Từ cách giải
thích này có thể thấy trình tự xét hỏi tại phiên tòa là việc quy định thứ tự các chủ thể
được quyền xét hỏi.
Nếu như BLTTHS năm 1988 quy định chung chung về trình tự xét hỏi khi
“Khi xét hỏi từng người, chủ toạ phiên toà hỏi trước rồi đến các hội thẩm nhân dân,
sau đó đến kiểm sát viên”7 thì BLTTHS năm 2003 quy định tại khoản 2 Điều 207 về
trình tự xét hỏi như sau: “2. Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tịa hỏi trước rồi
đến các Hội thẩm, sau đó đến Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi
của đương sự. Những người tham gia phiên tòa cũng có quyền đề nghị với chủ tọa
phiên tịa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Người giám định được hỏi về
những vấn đề có liên quan đến việc giám định”8. Tuy có tiến bộ so với BLTTHS năm
1988 về trình tự hỏi cũng như bổ sung thêm chủ thể có quyền hỏi là người bào chữa,
người bảo vệ quyền lợi của đương sự nhưng lại không quy định phải hỏi ai trước, ai
6

Trung tâm Từ điển học (2009), tlđd (5), tr. 1319.
Bộ luật TTHS (1988), Điều 181
8
Bộ luật TTHS (2003), Điều 207
7


9
sau làm cho trình tự xét hỏi trên thực tiễn có phần theo nhận định chủ quan của chủ
tọa phiên tịa, khơng thể hiện được tính hợp lý, nghiêm minh trong tố tụng… Quy
định trên vơ hình chung làm cho Hội đồng xét xử mất đi vai trò là một vị “trọng tài”

khách quan xem xét, đánh giá chứng cứ, lập luận của các bên (bên buộc tội và bên gỡ
tội) để từ đó đưa ra những nhận định khách quan về vụ án9.
BLTTHS năm 2015 có điểm mới tiến bộ hơn so với hai bộ luật trước đây khi
đưa cả phần xét hỏi và tranh luận thành thủ tục tranh tụng tại phiên tịa. Trên cơ sở
này, trình tự xét hỏi cũng cơ bản được sửa đổi, bổ sung so với trước đây về
việc“Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo
thứ tự hợp lý…Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tịa hỏi trước sau đó quyết
định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi10. Quy định này giúp cho Chủ
tọa phiên tòa chủ động điều hành việc hỏi một cách linh hoạt, quyết định người hỏi
trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý tùy theo tính chất, nội dung vụ án và diễn biến cụ
thể tại các phiên tòa. Tuy nhiên, quy định này đã làm tăng vai trò của chủ tọa phiên
tịa, ít nhiều làm vai trị của kiểm sát viên với tư cách là chủ thể buộc tội bị mờ nhạt
tại phiên tòa11. Bởi lẽ, KSV là người thực hiện quyền cơng tố, là chủ thể buộc tội tại
phiên tịa, phải là chủ thể xét hỏi chính để bảo vệ cáo trạng. Tuy nhiên, theo
BLTTHS 2015 thì trình tự xét hỏi của KSV lại sau Thẩm phán, Hội thẩm nên hầu
như đa số các vụ án được xét xử trên thực tế thì Thẩm phán, Hội thẩm là chủ thể hỏi
nhiều, hỏi kỹ đến lượt KSV thì việc hỏi mang tính hình thức, lặp lại những nội dung
mà HĐXX đã hỏi và khơng cịn mang tính chất phải làm sáng tỏ sự thật vụ án cũng
như bảo vệ cáo trạng đã truy tố. Trong khi Điều 24 Quy chế công tác thực hành
quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự, ban hành kèm theo Quyết định số
505/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
lại quy định:“Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa, Kiểm sát
viên bắt buộc phải tham gia xét hỏi…để xác định sự thật khách quan của vụ án, làm
sáng tỏ hành vi phạm tội, tội danh, vai trị, vị trí của từng bị cáo, trách nhiệm dân
sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp”.12
9

Nguyễn Hồ Quân, “Điểm mới về trình tự xét hỏi tại phiên tịa sơ thẩm hình sự theo BLTTHS năm 2015”,
19/4/2019.

10
Bộ luật TTHS (2015), Điều 307
11
Nguyễn Ngọc Kiện, “Đánh giá một số điểm mới về thủ tục tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ thẩm”,
01/7/2017.
12
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2017), Quy chế công tác thực hành quyền cơng tố, kiểm sát xét xử vụ án
hình sự, ban hành kèm theo Quyết định số 505/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017


10
Do đó, việc BLTTHS 2015 quy định trình tự xét hỏi của KSV như trên là
không hợp lý, khiến cho chủ thể buộc tội trở thành thụ động, phụ thuộc vào việc
điều khiển của chủ tọa phiên tòa, chờ cho Thẩm phán, Hội thẩm hỏi mới đến KSV;
có vụ HĐXX hỏi tất cả những vấn đề trong nội dung vụ án, dẫn đến KSV khơng
cịn gì để hỏi, hoặc chỉ hỏi để mang tính thủ tục, khơng phát huy được chức năng,
vai trò và trách nhiệm của KSV tại phiên tịa. Vì thế, cần thiết phải sửa đổi trình tự
xét hỏi hợp lý và khoa học để KSV thực hiện đúng chức năng cơng tố, buộc tội tại
phiên tịa, bảo đảm được nguyên tắc tranh tụng trong xét xử án hình sự theo đúng
tinh thần cải cách tư pháp.
* Về nội dung xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm:
Nếu như trình tự xét hỏi quy định về mặt hình thức thứ tự các chủ thể có quyền
hỏi thì nội dung xét hỏi là những vấn đề được hỏi khi xét hỏi bị cáo và những người
có liên quan khác. Vì vậy nội dung xét hỏi của KSV bao gồm tất cả các nội dung liên
quan đến vụ án, là cơ sở để khẳng định hay bác bỏ cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo,
do đó phạm vi hỏi này khơng hạn chế, đó có thể là: những tài liệu, chứng cứ xác định
có sự việc phạm tội hay không, ai là người thực hiện hành vi phạm tội, những tình tiết
tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, nhân thân bị cáo, nguyên nhân
và điều kiện phạm tội, trách nhiệm dân sự... Đó chính là trách nhiệm của KSV và
đồng thời thể hiện KSV hỏi có trọng tâm hay khơng, có làm rõ được các vấn đề vụ án

để từ đó ngày càng nâng cao chất lượng, vị trí tranh tụng của KSV tại phiên tịa hình
sự. BLTTHS năm 2015 có sự sửa đổi căn bản mới so với các bộ luật trước đây về nội
dung xét hỏi của KSV đối với bị cáo, như quy định KSV có quyền“hỏi để làm rõ về
những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội và những tình tiết
khác của vụ án”13 thay vì chỉ quy định như BLTTHS năm 2003 “Kiểm sát viên hỏi
về những tình tiết của vụ án liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội bị cáo”14, thêm cụm từ
“và những tình tiết khác của vụ án” nhằm làm rõ thêm những nội dung mà KSV cần
phải xét hỏi bị cáo tại phiên tòa. Bên cạnh đó, BLTTHS năm 2015 cịn bổ sung thêm
quy định KSV có quyền “nhận xét kết luận định giá tài sản và hỏi những vấn đề cịn
chưa rõ hoặc có mâu thuẫn trong định giá tài sản …” 15.
Tuy có nhiều điểm mới tiến bộ, song BLTTHS 2015 vẫn quy định chung
chung chưa có sự rõ ràng, cụ thể về nội dung xét hỏi tại phiên tòa của KSV, điều
13

Bộ luật Tố tụng hình sự (2015), Điều 309
Bộ luật Tố tụng hình sự (2003), Điều 209
15
Bộ luật Tố tụng hình sự (2015), Điều 315
14


11
này ảnh hưởng đến chất lượng xét hỏi tại phiên tịa của KSV, bởi lẽ xét về trình tự
xét hỏi KSV đã bị ảnh hưởng thì đến nội dung xét hỏi của KSV cũng sẽ bị tác động,
có phần hạn chế chức năng buộc tội tại phiên tịa hình sự của Viện kiểm sát.
Trong khi đó, Điều 24 Quy chế thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử
vụ án hình sự quy định về nội dung xét hỏi của KSV để“nhằm xác định sự thật của
vụ án và các tình tiết khác có liên quan đến việc định tội và đề nghị mức hình
phạt…; làm sáng tỏ hành vi phạm tội, tội danh, vai trị, vị trí của từng bị cáo, trách
nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp”16. Quy định này mặc dù được

ban hành sau khi BLTTHS 2015 có hiệu lực, nhưng về bản chất lại hoàn toàn khác
với bộ luật, chỉ quy định hỏi để định tội mà không quy định hỏi về chứng cứ, tài
liệu, đồ vật liên quan đến việc gỡ tội và những tình tiết khác của vụ án là có sự mâu
thuẫn, áp dụng trên thực tiễn sẽ gây ra sự hiểu lầm hoặc vận dụng không đúng dẫn
đến chất lượng nội dung xét hỏi không cao.
1.2. Thực tiễn xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
1.2.1. Kết quả đạt được
Từ năm 2017 đến năm 2020, Tòa án các cấp trên cả nước đã thụ lý 275.066
vụ/ 474.483 bị cáo, kết quả đã xét xử 240.741 vụ/ 404.518 bị cáo.
Trong thời gian qua chất lượng, hiệu quả việc hỏi của KSV tại phiên tịa hình
sự sơ thẩm có nhiều chuyển biến tích cực, các KSV đã có nhiều cố gắng, nổ lực khi
thực hành quyền cơng tố tại phiên tịa, cơ bản đã thể hiện được vị trí của chủ thể buộc
tội tại phiên tịa. Cơng tác chuẩn bị trước khi xét xử được chú trọng, nhất là việc
chuẩn bị đề cương xét hỏi, hệ thống chứng cứ buộc tội, gỡ tội để nắm chắc nội dung
vụ án. Về trình tự xét hỏi cơ bản đúng quy định của BLTTHS, về nội dung hỏi ngày
càng có chất lượng, trọng tâm được những vấn đề cốt lõi khi buộc tội bị cáo tại phiên
tòa, nhất là những vụ án có bị cáo phản cung, không nhận tội, giúp cho bị cáo nhận
thấy được hành vi sai trái và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, khơng có
trường hợp KSV khơng hỏi tại phiên tịa. Đã góp phần bảo đảm chất lượng hoạt động
xét xử ngày càng được nâng cao, phán quyết của Tịa án khách quan, chính xác, đúng
sự thật, khơng bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Điển hình như vụ án
“Lê Thanh Bảo Đức phạm tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi quy định tại khoản 1
Điều 142 BLHS”. Bị cáo Lê Thanh Bảo Đức có hành vi dùng vũ lực giao cấu trái ý
muốn của bị hại Cao Lê Huyền Trâm, sinh 04/9/2006 (13 tuổi 01 tháng 16 ngày). Tuy
16

Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2017), tlđd (12).


12

nhiên, tại phiên tịa, bị cáo kiên quyết khơng nhận tội, cho rằng các lời khai mà bị cáo
khai trong q trình điều tra, truy tố có sự dụ cung, đe dọa từ phía Điều tra viên, KSV
nên bị cáo lo sợ khai nhận chứ thực chất bị cáo không thực hiện hành vi hiếp dâm mà
chỉ dẫn bị hại vào khách sạn để ngủ. KSV đã hỏi làm rõ việc bị cáo và bị hại có hẹn
gặp nhau, từ trước bị cáo đã có ý định quan hệ tình dục với bị hại, bị cáo được tại
ngoại khơng có sự đe dọa nào để khai báo sai sự thật, hỏi bị cáo ai là người dụ cung,
đe dọa bị cáo nhưng bị cáo không chỉ ra được là ai, hỏi bị cáo khi đưa bị hại vào
phịng thì chính bị cáo là người khóa cửa dẫn đến bị hại khơng thể kháng cự, q
trình điều tra giữa bị cáo và bị hại đều được tham gia đối chất làm rõ17… Những câu
hỏi này mang tính chất rất thuyết phục, giúp cho HĐXX nhìn nhận được bản chất của
sự thật vụ án, khẳng định được việc bị cáo không nhận tội là sự quanh co, không
thành khẩn khai báo, cố tình kéo dài thời gian giải quyết vụ án.
1.2.2. Hạn chế và nguyên nhân
* Về trình tự xét hỏi của KSV tại phiên tịa hình sự sơ thẩm
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện trình tự xét hỏi của KSV tại
phiên tòa còn tồn tại nhiều hạn chế, chưa thể hiện được chức năng công tố tại phiên
tòa, còn phụ thuộc rất nhiều vào việc hỏi của HĐXX, cụ thể như sau:
Thứ nhất, về trình tự xét hỏi tại phiên tòa
Điều 307 BLTTHS quy định “Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ những
tình tiết về từng sự việc, từng tội trong vụ án và từng người” và “Khi xét hỏi từng
người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm,
Kiểm sát viên… thực hiện việc hỏi…”. Thực hiện đúng quy định của BLTTHS,
thực tiễn xét xử Chủ tọa phiên tịa ln ln là người xét hỏi trước, khơng có vụ án
nào Chủ tọa nhường việc hỏi lại cho KSV. Đây là hạn chế khi KSV thành chủ thể
hỏi sau HĐXX, có vụ án KSV tham gia hỏi cho đảm bảo đầy đủ về mặt thủ tục,
mang nặng tính hình thức, khơng cịn chứa đựng ý nghĩa của cơ quan cơng tố - buộc
tội tại phiên tịa.
Thứ hai, về cơng tác chuẩn bị đề cương xét hỏi
Qua thực tiễn thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử án hình sự tại nơi
học viên cơng tác cũng như tham khảo ở một số địa phương khác thấy rằng, thực

trạng chuẩn bị đề cương xét hỏi, hệ thống chứng cứ vụ án trước khi tham gia phiên
tòa chưa đầy đủ, có lúc có nơi cịn có tâm lý chủ quan nên KSV hầu như chuẩn bị
17

Biên bản phiên tòa ngày 12/8/2020 của TAND TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên


13
đề cương xét hỏi một cách sơ sài và việc tham gia xét hỏi tại phiên tòa còn hạn chế.
Thực tế này cho thấy công tác kiểm tra, chỉ đạo đối với công tác chuẩn bị xét xử của
Lãnh đạo Viện đối với KSV chưa sâu sát, vì chưa có quy định nào bắt buộc KSV
phải trình đề cương xét hỏi để Lãnh đạo Viện duyệt trước khi tham gia phiên tòa.
Điều này đã làm cho KSV chủ quan, tự quyết định việc chuẩn bị hoặc không chuẩn
bị đề cương xét hỏi, làm ảnh hưởng đến tính chủ động và chất lượng xét hỏi tại
phiên tịa.
Thứ ba, KSV khơng chủ động tham gia xét hỏi
Xuất phát từ trình tự xét hỏi theo quy định của BLTTHS, thực tiễn HĐXX
trở thành chủ thể chính yếu và quan trọng quyết định việc hỏi tại phiên tòa dẫn
đến Chủ tọa phiên tòa, Thẩm phán đã hỏi làm rõ tất cả những tình tiết trong vụ án,
đến khi Hội thẩm tiếp tục hỏi càng khiến cho KSV khơng cịn nội dung gì để hỏi
làm rõ, lâm vào thụ động, có hỏi cũng chỉ chung chung cho đúng thủ tục tại phiên
tòa. Điều này là hồn tồn mâu thuẫn với Điều 26 BLTTHS khi “Tịa án có trách
nhiệm tạo điều kiện cho KSV,… trung tụng dân chủ, bình đẳng trước Tịa án”18,
trong khi đó xét hỏi và tranh luận chính là tranh tụng tại phiên tòa. Sự mâu thuẫn
trên cũng như quan niệm của Chủ tọa phiên tịa phải có trách nhiệm chính trong
việc hỏi, cịn KSV chỉ có trách nhiệm tranh luận để bảo vệ quan điểm truy tố đã
vơ hình chung biến thủ tục tranh tụng thành thủ tục thẩm vấn của HĐXX, làm cho
vị trí, vai trị, trách nhiệm của KSV bị mờ nhạt. Điển hình như vụ án Đỗ Thị Kim
Loan, Bùi Tấn Hiếu về tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả là phụ gia thực phẩm”,
theo quy định tại khoản 1 Điều 193 BLHS. Từ tháng 10/2018, tại nhà số 147 Trần

Rến, phường Phú Lâm, Tp. Tuy Hòa, Đỗ Thị Kim Loan, Bùi Tấn Hiếu đã có hành
vi sản xuất, buôn bán bột ngọt giả các nhãn hiệu Ajinomoto và Miwon. Đến
khoảng 13 giờ 30 phút ngày 19/01/2019, trong lúc Loan điều khiển xe môtô 78V20242 di chuyển trên đường Nguyễn Văn Linh, phường Phú Lâm, Tp. Tuy Hòa chở
theo 60 gói bột ngọt giả nhãn hiệu Ajinomoto, loại 400g để đi tiêu thụ thì bị Cơng
an Tp. Tuy Hịa phát hiện, thu giữ. Tại phiên tòa, HĐXX đã đặt ra tổng cộng 15
câu hỏi đối với 02 bị cáo, các câu hỏi đặt ra đều hướng vào việc các bị cáo có
hành vi sản xuất, tiêu thụ bột ngọt giả hay khơng? Cụ thể vai trị của từng bị cáo
làm gì trong hoạt động sản xuất, tiêu thụ; giá trị thu lợi sau khi tiêu thụ là bao
nhiêu? Các vật chứng được thu giữ do các bị cáo sử dụng vào mục đích gì. Tại
18

BLTTHS (2015), Điều 26


14
phiên tòa các bị cáo đều khai nhận hành vi phạm tội theo các câu hỏi mà HĐXX
đặt ra, đến lượt KSV hỏi thì khơng cịn nội dung gì khác cần phải làm rõ, nhưng
bắt buộc KSV phải hỏi nên KSV đã hỏi một cách khái quát cho qua phần thủ tục
hỏi như: Ai là người khởi xướng việc sản xuất, tiêu thụ, bột ngọt giả? Bị cáo thực
hiện những nhiệm vụ gì? Hoặc cái cân đồng hồ có sử dụng vào việc sản xuất bột
ngọt hay không…?19. Những câu hỏi đặt ra của KSV mang tính hình thức, trùng
lắp, khơng cịn mang tính chất của chủ thể buộc tội, tranh tụng tại phiên tịa,
nhưng với điều kiện, hồn cảnh khi HĐXX đã hỏi hết, hỏi rõ như trên thì KSV
không sao tránh khỏi việc trùng lắp câu hỏi.
Từ thực tiễn xét xử, cho rằng việc xét hỏi chủ yếu là thuộc về Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân. Chủ tọa phiên tịa quyết định việc hỏi và hỏi hết tồn bộ những nội
dung liên quan đến vụ án dẫn đến KSV bị phụ thuộc và không chủ động tham gia xét
hỏi. Điển hình như vụ án Nguyễn Văn Dũng về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” quy
định tại khoản 1 Điều 178 BLHS. Tại biên bản phiên tòa thể hiện, KSV chỉ tham gia
hỏi chiếu lệ 04 câu hỏi nhưng khơng liên quan gì đến việc phạm tội của bị cáo như “bị

cáo nghiện ma túy khi nào”; “sau đó có tái nghiện khơng”; “có chắc chắn khơng”20.
Đây cũng là thực tiễn gặp phải của một số biên bản phiên tòa tại Phú Yên, Đắk Lắk,
Lâm Đồng mà tác giả đã nghiên cứu.
* Về nội dung xét hỏi của KSV tại phiên tịa hình sự sơ thẩm
Nội dung xét hỏi là vấn đề quan trọng mà KSV cần phải tập trung để hỏi, làm
rõ. Tuy nhiên, qua nghiên cứu các biên bản phiên tòa tại tỉnh Phú Yên, Đắk Lắk,
Lâm Đồng, nhận thấy nội dung xét hỏi tại phiên tòa của KSV còn rất nhiều tồn tại,
hạn chế, chưa đủ cơ sở để làm rõ việc buộc tội, gỡ tội cũng như các tình tiết khác
của vụ án, cụ thể như sau:
Thứ nhất, hỏi còn trùng lắp, hỏi về những vấn đề khơng trọng tâm
Ngồi việc HĐXX hỏi nhiều dẫn đến KSV khơng hỏi được thêm thì có nhiều
vụ án KSV khơng chủ động việc hỏi, hỏi cịn lặp lại nội dung đã hỏi của HĐXX.
Điển hình như vụ án Thái Bá Dũng về tội Trộm cắp tài sản. Tại phiên tịa, KSV đã
khơng chủ động đặt ra câu hỏi để làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo mà cịn lặp
những câu hỏi mà trước đó HĐXX đã hỏi như: “khi nào bị cáo về quê; tại sao bị cáo
lại về quê; quan hệ giữa bị cáo và chị Mai”21 mà trước đó HĐXX đã hỏi làm rõ.
19

Biên bản phiên tòa ngày 14/04/2021 của TAND TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
Biên bản phiên tòa ngày 28/0112018 của TAND huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng
21
Biên bản phiên tòa ngày 09/08/2018 của TAND huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng
20


15
Hay vụ án Nguyễn Ngọc Minh, Huỳnh Thanh Hiếu cùng đồng phạm về tội
“Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 BLHS và tội “Gá bạc” theo khoản 1 Điều 322
BLHS. Trong vụ án này có tổng cộng 17 bị cáo nhưng KSV tham gia phiên tòa chỉ
hỏi chung chung, lặp lại nhiều câu hỏi tương tự như những câu hỏi mà trước đó

HĐXX đã hỏi như “bị cáo đem theo bao nhiêu tiền đánh bạc; bị cáo đánh mấy ván;
bị cáo thua bao nhiêu”22 thể hiện sự chủ quan trong công tác chuẩn bị tham gia xét
xử, không thể hiện được vị trí, vai trị của KSV tại phiên tịa. Hoặc hỏi những vấn
đề không cần thiết như vụ Đào Văn Diệp và đồng phạm Cướp giật tài sản, vắng mặt
bị hại; KSV nhiều lần hỏi các bị cáo “có gửi lời xin lỗi đến các bị hại không” là
không cần thiết vì vấn đề này khơng có ý nghĩa gì đối việc xử lý vụ án.
Thứ hai, KSV hỏi khơng làm rõ được nội dung, tính chất vụ án, hành vi của
bị cáo
BLTTHS quy định KSV có quyền “hỏi để làm rõ về những chứng cứ, tài
liệu, đồ vật liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội và những tình tiết khác của vụ án”23 .
Tại Điều 24 Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình
sự, ban hành kèm theo Quyết định số 505/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017 quy định
“Trước khi tham gia phiên tòa, Kiểm sát viên phải chuẩn bị đề cương xét hỏi, dự
kiến các vấn đề cần làm sáng tỏ, những vấn đề mà người bào chữa quan tâm, dự
kiến các tình huống khác có thể phát sinh tại phiên tòa để tham gia xét hỏi nhằm
xác định sự thật của vụ án và các tình tiết khác có liên quan đến việc định tội và đề
nghị mức hình phạt. …làm sáng tỏ hành vi phạm tội, tội danh, vai trị, vị trí của
từng bị cáo...”24. Tuy nhiên, trên thực tiễn có nhiều vụ án, KSV đã khơng chuẩn bị
kỹ đề cương xét hỏi, chưa tổng hợp được những vấn đề đã làm rõ, nhưng vấn đề
chưa làm rõ để tiếp tục hỏi làm rõ tội danh của bị cáo. Điển hình như vụ án Lê Tuấn
Anh phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự và tội
“Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo khoản 1 Điều 178 BLHS. Tại phiên tòa bị cáo
quanh co chối tội gây hư hỏng tài sản nhưng KSV chỉ hỏi lướt qua nhanh không làm
rõ trọng tâm, như “ngày 01/7/2020 bị cáo đi đâu về; bị cáo có nhớ lời khai tại cơ
quan điều tra khơng, bị cáo thấy oan chỗ nào”. Đối với tội cố gây thương tích cũng
như vậy, bị cáo chối khơng đánh bị hại thì KSV chỉ hỏi “thương tích bà Nga do ai
gây ra; 02 con dao để ở đâu; bị cáo có ý kiến gì về tỷ lệ thương tích của bà Nga”25
22

Biên bản phiên tòa ngày 04/03/2021 của TAND TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên

BLTTHS (2015), Điều 307
24
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2017), tlđd (12).
25
Biên bản phiên tòa ngày 12/03/2021 của TAND TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
23


16
là không trọng tâm với sự chối tội của bị cáo tại phiên tòa. Trong vụ án này, tại
phiên tòa KSV phải hỏi trọng tâm ý thức, động cơ của bị cáo khi lấy xe mô tô tông
vào cửa làm hư hỏng tài sản là như thế nào. Bị cáo có quyền lựa chọn phương pháp
khác nếu như bị cáo nại ra rằng xe bị hư thắng nên mới đâm vào cửa thì bị cáo có
thể cho xe ngã hẳn xuống đường, bị cáo biết rõ xe mô tô là nguồn nguy hiểm cao độ
nhưng vẫn tông thẳng vào cửa và sau khi làm vỡ cánh cửa bị cáo bỏ chạy là bỏ mặc
hậu quả xảy ra. Đối với tội cố ý gây thương tích, KSV cần hỏi làm rõ việc bị cáo
chuẩn bị hung khí nguy hiểm là dao mang đến nhà bà Nga là có mục đích, đối với
việc tương quan lực lượng thì bị cáo là người to khỏe, bà Nga là mẹ của bị cáo đồng
thời là phụ nữ nên khơng có việc bị cáo cho rằng chỉ giằng co. Chưa hỏi làm rõ mâu
thuẫn trong quan hệ giữa bị cáo và bà Nga dẫn đến việc gây thương tích cũng như
hậu quả của việc bị cáo gây thương tích. Những nội dung này chỉ mới dừng lại ở
việc buộc tội, còn gỡ tội đối với bị cáo thì KSV cũng khơng hỏi đến, nhất là khi bị
cáo đã chối tội…
Hay vụ án Lê Đức Chính, Nguyễn Văn Hoài Linh về tội “Trộm cắp tài sản”
theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS. Tại phiên tịa, bị cáo Chính cho rằng q
trình điều tra bị bức cung mới nhận tội chứ thực chất thời điểm xảy ra vụ án bị cáo
khơng có mặt tại Phú Yên mà đang làm lái xe tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy
nhiên, khi hỏi KSV khơng đặt ra được những câu hỏi để buộc tội đối với bị cáo
Chính mà chỉ hỏi “Tại sao Linh khai là đi trộm cùng bị cáo; giữa bị cáo và Linh có
mâu thuẫn gì; bị cáo đã cam đoan thế nào khi lấy lời khai”26 là không sắc bén,

khiến cho nội dung bị cáo cho rằng ngoại phạm thành cơ sở để HĐXX ra quyết định
trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Theo quan điểm của tác giả, đối với những phiên tòa hình sự có nhiều tội
danh, nhiều bị cáo, thì KSV phải hỏi có sự trọng tâm, chốt được những vấn đề cần
làm sáng tỏ, nếu bị cáo chối tội thì hỏi để làm rõ những căn cứ cho rằng bị cáo
không phạm tội, tiếp tục hỏi để cho bị cáo thấy rõ hành vi của mình là sai trái thì
mới có sức thuyết phục tại phiên tịa.
Thứ ba, hỏi khơng làm rõ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Ngồi làm rõ các tình tiết liên quan đến buộc tội, gỡ tội đối với bị cáo thì việc
hỏi làm rõ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có ý nghĩa quan
trọng đối với việc quyết định hình phạt của bị cáo. Do đó, tại phiên tịa KSV phải
hỏi làm rõ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo để
26

Biên bản phiên tòa ngày 26/05/2021 của TAND TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên


17
khẳng định những tình tiết đã được áp dụng trong Cáo trạng truy tố cũng như những
tình tiết phát sinh thêm trong q trình Tịa án chuẩn bị xét xử và tại phiên tịa. Tuy
vậy trên thực tiễn, có nhiều vụ án KSV chỉ tập trung hỏi liên quan đến việc định tội
đối với bị cáo, không hỏi rõ các vấn đề này, điển hình như vụ án Nguyễn Ngọc
Hồng về tội “Gá bạc” theo khoản 1 Điều 322 BLHS; các bị cáo Nguyễn Sáu,
Nguyễn Lâm Hùng, Phạm Đình Tấn, Nguyễn Thanh Kiều, Nguyễn Tấn Lợi về tội
“Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 BLHS. Theo đó các bị cáo Nguyễn Lâm Hùng,
Phạm Đình Tấn, Nguyễn Thanh Kiều, Nguyễn Tấn Lợi đã bị Tòa án nhân dân
huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên xét xử ngày 20/11/2020 về tội Đánh bạc27. Nhưng
tại phiên tịa, KSV khơng hỏi rõ vấn đề này dẫn đến đề nghị áp dụng tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự “phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” theo
quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS là thiếu chính xác.

Thứ tư, hỏi khơng làm rõ các vấn đề về bồi thường, vật chứng, các biện pháp
tư pháp khác
BLTTHS đã quy định rõ trách nhiệm của KSV khi hỏi bị cáo về những chứng
cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội và những tình tiết khác của vụ
án. Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự quy
định KSV phải hỏi để làm rõ trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư
pháp. Tuy nhiên, trên thực tiễn có rất nhiều vụ án, KSV chỉ tập trung hỏi để làm rõ
hành vi phạm tội của bị cáo mà không hỏi các vấn đề liên quan trách nhiệm dân sự,
các vật chứng được thu giữ cũng như các biện pháp tư pháp. Điều này ảnh hưởng
đối với việc giải quyết vụ án, vì ngồi việc bị xử lý hình sự, bị cáo phải có trách
nhiệm bồi thường dân sự và các biện pháp tư pháp khác; các đồ vật bị thu giữ phải
làm rõ có hay khơng có liên quan đến sự việc phạm tội nhằm đề xuất hướng xử lý
phù hợp… Điển hình như vụ án “Đánh bạc” theo Điều 321 BLHS và “Gá bạc” theo
Điều 322 BLHS. Tại phiên tịa, KSV đã khơng hỏi các vật chứng được thu giữ tại
chiếu bạc sử dụng vào mục đích gì, cịn giá trị sử dụng hay khơng mà đề xuất tiêu
hủy là khơng có căn cứ28. Hay vụ án Lê Đức Chính, Nguyễn Văn Hồi Linh về tội
“Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS, KSV chỉ tập trung
hỏi làm rõ việc trộm cắp tài sản giữa bị cáo Linh và bị cáo Chính mà không đặt ra
câu hỏi nào để làm rõ việc các bị cáo sử dụng đoản phá khóa của ai, các bị cáo đã

27
28

Biên bản phiên tòa ngày 10/12/2020 của TAND huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên
Biên bản phiên tòa ngày 01/04/2021 của TAND TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên


18
bồi thường gì cho bị hại hay chưa 29 là thiếu sót trong việc xét hỏi, dẫn đến việc xét
hỏi khơng được tồn diện, chất lượng xét hỏi khơng cao.

* Nguyên nhân của hạn chế
Thực trạng trên có nhiều nguyên nhân, trong đó khách quan do BLTTHS
năm 2015 quy định khơng hợp lý về trình tự xét hỏi tại phiên tòa. Việc trao quyền
cho Chủ tọa phiên tòa thành chủ thể chính quyết định việc hỏi đến Thẩm phán, Hội
thẩm, sau đó mới đến lượt KSV làm cho phiên tịa kéo dài việc hỏi, hỏi lặp lại.
HĐXX, chủ tọa phiên tịa là người điều khiển phiên tịa, chỉ nên đóng vai trò của
người “cầm cân”, là “trọng tài” để phân xử cịn việc hỏi chính trao cho KSV – chủ
thể buộc tội trong tố tụng hình sự. Bởi lẽ đây là chủ thể gắn liền với quá trình điều
tra, làm rõ sự thật vụ án mới ban hành quyết định truy tố buộc tội bị cáo.
Bên cạnh đó, quy định của BLTTHS và Quy chế công tác thực hành quyền
công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự khơng thống nhất về nội dung hỏi. BLTTHS
quy định KSV phải hỏi về “những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc buộc
tội, gỡ tội và những tình tiết khác của vụ án” 30 tức là tập trung vào các tình tiết của
vụ án; Quy chế cơng tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự đã
quy định31 KSV hỏi liên quan trách nhiệm dân sự, vật chứng và các biện pháp tư
pháp khác khiến cho các KSV có sự nhận thức khác nhau, có vụ hỏi có vụ khơng,
khơng hỏi làm rõ để giải quyết vụ án được toàn diện.
Nguyên nhân chủ quan dẫn đến nhiều tồn tại, hạn chế trong việc xét hỏi trong
thời gian qua có nhiều nguyên nhân, trong đó:
Thứ nhất, là do năng lực, kinh nghiệm của một số KSV còn chưa đáp ứng
nhiệm vụ được giao. Nhiều KSV chưa có sự chuẩn bị tốt đề cương xét hỏi, chưa hệ
thống được chứng cứ gỡ tội, buộc tội nên tại phiên tịa cịn lúng túng, khơng hỏi
trọng tâm làm rõ được tính chất, mức độ của hành vi phạm và tội phạm; chưa hỏi và
đưa ra những tài liệu, chứng cứ làm rõ việc bị cáo phản cung, không nhận tội là
khơng có cơ sở dẫn đến khơng bảo vệ được quan điểm truy tố.
Thứ hai, lãnh đạo đơn vị kiểm sát thiếu kiểm tra, đôn đốc trong việc thực
hiện chức năng thực hành quyền công tố tại phiên tịa của KSV trong cơng tác
chuẩn bị tham gia xét xử như chuẩn bị đề cương tham gia xét hỏi, dự kiến tình
huống tranh tụng, hệ thống chứng cứ buộc tội, gỡ tội và các nội dung khác có liên
29


Biên bản phiên tòa ngày 26/05/2020 của TAND TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
BLTTHS 2015, khoản 2 Điều 309
31
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2017), tlđd (12), khoản 2 Điều 24
30


19
quan nên việc chỉ đạo về đường lối giải quyết vụ án,… Vì vậy lãnh đạo chưa kịp
thời phát hiện được những tồn tại, thiếu sót của KSV.
Thứ ba, cơng tác đào tạo bồi dưỡng tại chỗ, bồi dưỡng nghiệp vụ chưa đáp
ứng nhiệm vụ được giao
Trong những năm qua, ngành Kiểm sát nhân dân cũng như VKSND hai cấp
tỉnh và huyện ở Phú Yên đã có nhiều cố gắng trong cơng tác đào tạo, nâng cao kỹ
năng, trình độ nghiệp vụ cho cán bộ, KSV. Tuy nhiên, việc đào tạo, bồi dưỡng tại
chỗ vẫn chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn do việc luân chuyển, điều động, thay đổi vị
trí cơng tác thường xun đã ảnh hưởng năng lực chuyên sâu của cán bộ, KSV.
Hiện nay cơ sở đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại Thành phố Hồ Chí
Minh là cơ sở đào tạo nghiệp vụ cho các tỉnh từ Huế đến Cà Mau nhưng đội ngũ
giảng viên của cơ sở này đa số không phải là người đã từng thực hiện nhiệm vụ
công tố nên hạn chế về kinh nghiệm thực tiễn, không thể truyền đạt nhiều kiến thức,
tình huống liên quan đến việc tranh tụng của KSV tại phiên tòa...
1.3. Giải pháp nâng cao chất lƣợng xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên
tòa hình sự sơ thẩm

* Về giải pháp hồn thiện về pháp luật:
Qua những tồn tại, hạn chế nêu trên đã làm rõ được việc BLTTHS 2015 cũng
như Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự quy
định về trình tự xét hỏi, nội dung xét hỏi không hợp lý, rõ ràng cần phải sửa đổi để

khẳng định trách nhiệm của chủ thể buộc tội và chủ thể điều khiển phiên tịa, góp
phần nâng cao chất lượng giải quyết vụ án hình sự cũng như chất lượng tranh tụng
theo tinh thần cải cách tư pháp.
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung về trình tự xét hỏi theo Điều 307 BLTTHS 2015
như sau:
Điều 307. Trình tự xét hỏi
1. Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ những tình tiết về từng sự việc, từng
tội trong vụ án và từng người. Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định
người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý.
2. Khi xét hỏi từng người, Kiểm sát viên phải hỏi trước sau đó Chủ tọa
phiên tòa quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, người bào chữa, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi (bổ sung cụm từ Kiểm
sát viên phải hỏi trước sau đó Chủ tọa phiên tòa quyết định để người bào chữa,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi)


×