Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Tài liệu Luận văn: Một số giải pháp phát triển thương mại quốc tế nhằm đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.53 MB, 48 trang )



1


Luận văn
Một số giải pháp phát triển
thương mại quốc tế nhằm đẩy
mạnh thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở Việt Nam


2
MỤC LỤC

Lời nói đầu 4
Chương I 6
Lý luận chung về thương mại quốc tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) 6
I. Lý luận chung về thương mại quốc tế 6
1. Hoạt động thương mại quốc tế và vai trò của nó trong nền kinh tế
quốc dân. 6
1.1. Khái niệm thương mại quốc tế. 6
1.2. Đặc trưng của hoạt động thương mại quốc tế. 7
1.3. Vai trò của hoạt động thương mại quốc tế. 8
2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh thương mại
quốc tế 11
2.1. Ảnh hưởng của chế độ, chính sách và luật pháp quốc tế. 11
2.2. Ảnh hưởng của việc biến động thị trường trong và ngoài nước. . 12
2.3. Ảnh hưởng của nền sản xuất trong và ngoài nước. 12
2.4. Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái và tỷ xuất ngoại tệ của hàng xuất


nhập khẩu . 13
2.5. Ảnh hưởng của môi trường chính trị và môi trường văn hoá xã
hội. 13
II. Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài. 14
1. Khái niệm đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực
tiếp nước ngoài. 14
1.1. Khái niệm và bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài. 14
a. Khái niệm: 14
b. Bản chất: 14
2.2. Đặc điểm về đầu tư trực tiếp nước ngoài. 15
a. Về kinh tế: 15
b. Về mặt pháp lý. 15


3
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài. 15
a. Năng lực tăng trưởng của nền kinh tế. 15
b. Các yếu tố kinh tế vĩ mô. 16
c. Các chính sách quốc tế. 17
d. Môi trường pháp lý. 18
2. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các nước đang 18
phát triển. 18
2.1. Tác động tích cực. 18
a. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo nguồn vốn để phát triển kinh tế.
18
b. Tạo công ăn việc làm và nâng cao chất lượng lao động. 19
c. Nâng cao năng lực công nghệ 19
d. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế 20
2.2. Tác động tiêu cực. 20
a. Về kinh tế. 20

b. Về chuyển giao công nghệ 21
c. Về cơ cấu. 21
Chương II: 22
Thực trạng về mối quan hệ giữa thương mại quốc tế và đầu tư trực tiếp
nước ngoài. 22
I. Mối quan hệ giữa thương mại quốc tế và đầu tư trực tiếp 22
nước ngoài. 22
II. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến xuất nhập khẩu. 23
1. Tác động của FDI tới xuất nhập khẩu của toàn ngành công
nghiệp. 23
2. Tác động của FDI đến xuất khẩu của từng ngành công nghiệp. 28
Nguồn : Số liệu của MIDA, 1991 29
3. Đánh giá chung. 30
III. Tác động của xuất nhập khẩu đến đầu tư trực tiếp nước ngoài. 31
Chương III 37


4
Một số giải pháp phát triển thương mại quốc tế nhằm đẩy mạnh thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam 33
I. Tiếp tục đổi mới hoàn thiện hệ thống chính sách, cơ chế quản lý
ngoại thương sao cho vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa nhất quán
theo định hướng XHCN 38
II. Tiếp tục đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, đa phương hoá
thị trường và năng động tìm kiếm bạn hàng. 40
III Lựa chọn ưu tiên phát triển những ngành mũi nhọn có tác động hỗ
trợ tích cực cho việc đa dạng hoá các sản phẩm xuất khẩu chủ lực 41
Kết luận 44
Tài liệu tham khảo 45
Nhận xét của giáo viên hướng dẫn




























5

LỜI MỞ ĐẦU

Trong thời đại ngày nay “mở cửa”, “hội nhập” với thế giới để phát triển
kinh tế đang là chiến lược của nhiều quốc gia. Bí quyết thành công của các nước
công nghiệp mới là nhận thức được mối quan hệ hữu cơ giữa phát triển kinh tế
trong nước và mở rộng quan hệ kinh tế với bên ngoài. Trong các nội dung chủ
yếu của kinh tế đối ngoại, hoạt động kinh tế xuất nhập khẩu và đầu tư trực tiếp
từ nước ngoài chiếm vị trí quan trọng vì kết quả thực tế của mọi hoạt động kinh
tế đối ngoại suy cho cùng đều được thể hiện trong kim ngạch ngoại thương và số
lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hai hoạt động này có mối quan hệ tương
hỗ nhau.
Với bài viết này em muốn trình bày cách nhìn nhận của mình về mối quan
hệ giữa thương mại quốc tế (TMQT) và hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Từ nhận thức đó em chọn đề tài “Một số giải pháp phát triển thương mại
quốc tế nhằm đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt
Nam”. Với nội dung nghiên cứu này, ngoài phần lời mở đầu và phần kết luận
chuyên đề thực tập được trình bày làm ba chương như sau:
 Chương I: Lý luận chung về TMQT và đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Chương này, đưa ra những vấn đề chung nhất về cơ sở lý thuyết của hoạt
động thương mại quốc tế và hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
 Chương II: Thực trạng về mối quan hệ giữa TMQT và hoạt đầu tư trực
tiếp nước ngoài.
Chương này, đánh giá sự tác động của TMQT đến hoạt đầu tư trực tiếp nước
ngoài và ngược lại. Thông qua tình hình thực tiễn của Malaixia và Việt Nam.
 Chương III:Một số giải pháp phát triển TMQT nhằm thu hút vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam.


6














CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI
QUỐC TẾ VÀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI)
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1. Hoạt động thương mại quốc tế và vai trò của nó trong nền kinh tế
quốc dân.
1.1. Khái niệm thương mại quốc tế.
Năm 1621 ở Anh một tác giả chủ nghĩa trọng thương Thomas Mun đã nói
"thương mại là một hòn đá thử vàng với sự phồn thịnh của một quốc gia" và


7
"không có phép lạ nào dễ kiếm tiền trừ thương mại". Chủ nghĩa trọng thương
cho rằng "TMQT là sự trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia mà trong trao đổi
phải có bên thua và bên kia được".
Có nhiều tác giả khác định nghĩa TMQT là sự mở rộng hoạt động mua
bán, trao đổi hàng hoá vượt ra khỏi phạm vi biên giới của một quốc gia, hay nói
cách khác TMQT là sự mở rộng của thương mại trong nước trên phạm vi quốc
tế. Vậy thực chất TMQT là gì?
TMQT là sự trao đổi hàng hoá- dịch vụ giữa các quốc gia thông qua hành

vi mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội phản ánh sự
phụ thuộc về kinh tế giữa các nhà sản xuất hàng hoá riêng biệt của các nước.
Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hay tất cả các công đoạn của
quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hay thực hiện một dịch vụ
trên thị trường nhằm thu lợi nhuận. Kinh doanh xuất nhập khẩu là nội dung cơ
bản của kinh doanh TMQT.
Như vậy kinh doanh xuất nhập khẩu (XNK) hàng hoá là việc đầu tư công
sức, tiền của thực hiện hoạt động XNK hàng hoá dịch vụ nhằm thu lợi nhuận.
Kinh doanh XNK, hàng hoá được thực hiện theo quy luật cung cầu thị trường,
người mua và người bán hay người xuất khẩu và người nhập khẩu gặp nhau trên
thị trường quốc tế để thoả thuận về giá cả số lượng và chất lượng của hàng hoá-
dịch vụ.
1.2. Đặc trưng của hoạt động TMQT.
TMQT có ba đặc trưng cơ bản sau:
- Kinh doanh TMQT được thực hiện bởi người mua và người bán có quốc
tịch khác nhau, ở các nước khác nhau, hàng hoá được di chuyển vượt qua phạm
vi biên giới của một quốc gia.


8
Với đặc trưng này thì phân biệt rõ giữa kinh doanh TMQT với kinh doanh
thương mại trong nước. Đối với kinh doanh thương mại trong nước, dòng lưu
chuyển của dòng hàng hoá bị giới hạn trong phạm vi biên giới của một nước.
-Dòng tiền thanh toán trong kinh doanh TMQT có thể là đồng tiền một
trong các nước (nhiều hơn hai nước) tham gia vào hoạt động XNK và cũng có
thể là một đồng tiền của nước khác.
Sử dụng đồng tiền nào trong thanh toán hợp đồng XNK phụ thuộc vào sự
thoả thuận giữa các bên tham gia hợp đồng. Đồng tiền được sử dụng thường là
các đồng tiền mạnh có sức mua lớn trên thị trường thế giới.
-Kinh doanh TMQT chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố phức tạp liên quan

đến nhiều yếu tố khác nhau, quốc tịch giữa các chủ thể tham gia vào hoạt động
TMQT như: ngôn ngữ, tôn giáo, pháp luật, văn hoá , sự khác nhau về ngôn
ngữ đòi hỏi phải có ngôn ngữ thống nhất được các bên cùng hiểu, cùng chấp
nhận đồng thời các bên cũng cần thoả thuận rõ về các quy phạm pháp luật áp
dụng trong ký kết, thực hiện và giải quyết tranh chấp trong hợp đồng.
1.3. Vai trò của hoạt động TMQT.
Như đã trình bày ở trên, TMQT là sự trao đổi hàng hoá giữa các nước
thông qua hành vi mua bán. Đây là hình thức trao đổi tích cực nó vừa biểu hiện
mối quan hệ xã hội vừa phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những
người sản xuất hàng hoá riêng biệt ở các quốc gia. Một quốc gia cũng như một
cá nhân không thể sống một cách riêng rẽ mà có thể thoả mãn đầy đủ nhu cầu
của mình, cho dù đó là những nhu cầu có khả năng thanh toán. Thông qua
TMQT, cho phép một nước mở rộng được khả năng tín dụng, tận dụng được
trang thiết bị máy móc của một nước khác mà những điều kiện sản xuất của
nước mình chưa cho phép.
Hơn thế nữa, TMQT cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt hàng với
số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với danh giới của đường khả năng sản
xuất trong nước đó nếu thực hiện chế độ tự cung tự cấp. Những lợi điểm này bắt


9
nguồn từ lợi thế so sánh giữa các quốc gia và thông qua đó đẩy mạnh tính
chuyên môn hoá của mỗi nước. Chính vì vậy mà TMQT hay nói cách khác là
quan hệ XNK trở thành một vấn đề sống còn đối với một quốc gia. Xu hướng
bình thường hoá và đa phương hoá trên thị trường quốc tế hiện nay cũng một
phần xuất phát từ những vấn đề mang tính then chốt này. Bởi vì, quan điểm
chung là đẩy mạnh sự phát triển kinh tế của nước mình không chỉ bằng tiềm lực
sẵn có trong nước mà còn bằng việc tận dụng những tiềm năng của nước ngoài.
XNK là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó không
phải là những hành vi buôn bán riêng rẽ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua

bán trong một nền kinh tế thương mại có tổ chức từ bên trong ra bên ngoài nhằm
mục đích đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn
định và từng bước nâng cao mức sống của nhân dân hay nói cách khác, vấn đề
XNK là một vấn đề mang tính quốc gia. Hiệu quả của hoạt động XNK có thể
đem lại những đột biến rất cao trong nền kinh tế.
Mặt khác nó cũng có thể gây ra những thiệt hại không thể lường trước
được, vì lúc đó nền kinh tế trong nước sẽ phải đối đầu với một hệ thống kinh tế
khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước không dễ dàng khống chế được.
Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần như ở nước ta hiện nay, việc đẩy
mạnh hoạt động ngoại thương là một hướng đi hoàn toàn đúng đắn. Nhưng
muốn hoạt động này thực sự đem lại hiệu quả cao cho đất nước, chúng ta phải
xác định được những điều có lợi và bất lợi của hoạt động này.
Ta có thể thấy hoạt động TMQT có những ưu điểm:
-Nó phát huy cao độ tính năng động sáng tạo của mọi người, mọi đối
tượng, mọi tổ chức, mọi ngành nghề , mọi địa phương trong xã hội.
-Thông qua hoạt động TMQT, một nước có thể mở rộng được khả năng
tiêu dùng của mình. Nó cho phép đáp ứng nhu cầu tiêu dùng một lượng hàng
hoá nhiều hơn khả năng sản xuất trong nước và cũng thông qua đó những tiềm
lực, những lợi thế của đất nước sẽ được khai thác một cách triệt để hơn, khả


10

năng chuyên môn hoá trong các ngành sản xuất dần dần được hình thành và có
động lực để không ngừng phát triển.
-Hoạt động TMQT đáp ứng được các nhu cầu ngày càng tăng và đa dạng
của sản xuất, tiêu dùng. Thông qua việc nhập khẩu, sự mất cân đối trong sản
xuất và tiêu dùng, giữa cung và cầu sẽ dần được khắc phục. Nhập khẩu kịp thời
cung cấp các hàng hoá cần thiết cho sản xuất và tiêu dùng, giúp cho nền kinh tế
thoát khỏi những cơn sốt giá cả một cách nhanh chóng, tránh những đột biến

nguy hiểm như sự lên giá của một mặt hàng có thể kéo theo sự lên giá của các
mặt hàng khác, gây ra sự rối loạn đình trệ trong sản xuất.
-Hoạt động thương mại quốc tế tạo ra sự cạnh tranh giữa hàng hoá trong
nước và hàng hoá nước ngoài, tạo ra sự theo dõi kiểm soát lẫn nhau rất chặt chẽ
giữa các chủ thể, sự cạnh tranh này sẽ có tính chất làm cho chất lượng nền kinh
tế trong nước được nâng cao.
-Hoạt động TMQT đòi hỏi hàng hoá phải có chất lượng cao do đó nó dẫn
tới việc xoá bỏ nhanh chóng các chủ thể kinh doanh sản phẩm lạc hậu không thể
chấp nhận được. Đồng thời qua đó các cơ chế quản lý của nhà nước cũng như
của mỗi địa phương về XNK sẽ được hoàn thiện từng bước, vì nó có những đòi
hỏi mang tính tích cực của các chủ thể tham gia XNK trong quá trình thực hiện.
Tuy nhiên hoạt động TMQT cũng đem lại những bất lợi sau:
- Thứ nhất: vì tồn tại cạnh tranh nên dễ dẫn tới những rối ren trong quan
hệ mua bán. Nếu không có sự kiểm soát chặt chẽ, kịp thời sẽ gây ra các thiệt hại
về kinh tế trong quan hệ với nước ngoài. Các hiện tượng xấu về kinh tế, tư
tưởng cũng dễ có đất phát triển như buôn lậu trốn thuế.
-Thứ hai: Sự cạnh tranh sẽ dẫn đến sự thôn tính lẫn nhau giữa các chủ thể
kinh doanh bằng các biện pháp xâú như phá hoại công việc của nhau, gây cản
trở phức tạp cho nhau, cũng như các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh
khác.


11

-Thứ ba: Hoạt động nhập khẩu và hoạt động xuất khẩu là hai hoạt động
mang tính bổ trợ cho nhau. Nhập khẩu cung cấp đầu vào cho quá trình sản xuất
như nguyên vật liệu, trang thiết bị máy móc và giúp cho đất nước có thể xuất
khẩu là biểu hiện tích cực của mình. Ngược lại, xuất khẩu là biểu hiện tích cực
của nền kinh tế, nhờ có xuất khẩu mà có được ngoại tệ để tiến hành thực hiện
hoạt động nhập khẩu, dựa trên nguyên tắc lợi thế so sánh thì một nước không thể

chỉ hoàn toàn xuất khẩu ( đây là hiện tượng bất khả thi ) nhưng cũng không chỉ
hoàn toàn nhập khẩu. Bởi vì mục đích quan trọng nhất của các hoạt động này là
nhằm nâng cao tiêu dùng trong nước, thoả mãn ngày càng cao nhu cầu của
người tiêu dùng.
2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh TMQT
XNK là việc mua bán hàng hoá với nước ngoài nhằm phát triển sản xuất
kinh doanh và đời sống. Song việc mua bán ở đây có những nét riêng phức tạp
hơn mua bán trong nước. Các bạn hàng trong giao dịch mua bán ở đây là những
người có quốc tịch khác nhau, thị trường ở đây là những thị trường lớn rất khó
kiểm soát, mua bán trung gian chiếm tỷ trọng lớn, đồng tiền thanh toán là đồng
tiền mạnh, hàng hoá phải vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu các quốc gia khác
nhau, phải tuân theo những tập quán, thông lệ quốc tế cũng như của địa
phương . Do đó hoạt động này cũng chịu ảnh hưởng của các nhân tố rất khác
nhau, ta có thể thấy một số nhân tố chính ảnh hưởng đến hoạt động XNK sau:
2.1. Ảnh hưởng của chế độ, chính sách và luật pháp quốc tế.
Đây là một nhân tố thuộc tầm vĩ mô mà bất kỳ đơn vị kinh doanh nào
tham gia vào hoạt động XNK cũng phải tuân thủ một cách vô điều kiện. Nó thể
hiện quan điểm khác nhau của mỗi nước đối với vấn đề kinh doanh XNK, nó tạo
ra sự thống nhất chung trên trường quốc tế. Luật pháp quốc tế buộc các nước vì
lợi ích chung phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong hoạt
động kinh doanh XNK.


12

Ngoài luật pháp quốc tế, hoạt động XNK của một nước còn chịu ảnh
hưởng các chế độ pháp luật, chính sách nhập khẩu của chính nước đó. Sự tuân
thủ này vừa là trách nhiệm vừa là quyền hạn đối với các đơn vị tham gia, qua
đây các đơn vị kinh doanh vừa có quyền tự chủ hơn trong hoạt động của mình,
xác định được những điều kiện bắt buộc mình phải trải qua đồng thời nó tạo ra

tâm lý tin tưởng.
2.2. Ảnh hưởng của việc biến động thị trường trong và ngoài nước.
Thị trường bao giờ cũng là nhân ố hàng đầu trong kinh doanh, sự biến
động của thị trường trong và ngoài nước sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến xu hướng
xuất nhập khẩu.
XNK như một chiếc cầu nối giữa các thị trường, tạo ra sự phù hợp gắn bó
cũng như thể hiện sự tác động qua lại của chúng với nhau. Thông qua việc
nghiên cứu thị trường nước ngoài, doanh nghiệp sẽ quyết định việc XNK mặt
hàng nào có lợi, thậm chí cả thời điểm nào có lợi nhất và thông qua thị trường
trong nước sẽ quyết định phải nhập khẩu mặt hàng nào, số lượng bao nhiêu, chất
lượng giá cả và cả người cung ứng phải như thế nào là hợp lý nhất.
2.3. Ảnh hưởng của nền sản xuất trong và ngoài nước.
Sự hưng thịnh hay tụt hậu của nền sản xuất trong và ngoài nước sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến hoạt động XNK. Nếu sản xuất trong nước phát triển hàng
hoá trong nước sẽ tạo ta sự cạnh tranh gay gắt với hàng ngoại nhập dẫn tới nhu
cầu hàng nhập khẩu sẽ giảm còn nếu sản xuất kém phát triển, hàng hoá nội địa
sẽ không đủ khả năng cạnh tranh với hàng nhập khẩu thì xu hướng nhập khẩu sẽ
tăng. Nhất là đối với hàng hoá đòi hỏi kỹ thuật cao để trang bị sự hiện đại tối
thiểu nhằm phục vụ phát triển kinh tế cũng như đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng
của tiêu dùng trong nước, việc chấp nhận là tất yếu.
Cùng với sự vận động ấy, ngược lại sự phát triển của nền sản xuất ngoài
nước sẽ làm tăng nhu cầu nhập khẩu tạo ra những sản phảm mới thuận tiện, hiện
đại với chi phí có thể chấp nhận được. Còn nếu sản xuất nước ngoài kém phát


13

triển, đây sẽ là một hệ thống rất hấp dẫn mà các nhà kinh doanh trong nước sẽ
quan tâm. Nhu cầu nhập khẩu của thị trường bên ngoài trở thành tất yếu và điều
này sẽ tác động đến việc xuất khẩu hàng hoá của các nhà kinh doanh trong nước.

Tuy nhiên các biểu hiện trên không có tính tuyệt đối mà nó chỉ là một
trong các yếu tố dẫn đến xu hướng thay đổi trong hoạt động XNK. Thông
thường một chính phủ bao giờ cũng có những chính sách để bảo hộ sản xuất
trong nước mình phát triển nhằm tránh sự mất cân đối trong nền kinh tế hoặc sự
quá phụ thuộc vào nước ngoài ở một mặt hàng nào đó mà sản xuất trong nước
vẫn có khả năng tuy với chi phí cao hơn hoặc chất lượng thấp hơn. Hoặc đôi khi
để tránh sự độc quyền, tạo ra sự cạnh tranh khuyến khích sản xuất phát triển mà
nhà nước sẽ ban hành các chính sách nhằm khuyến khích hoạt động nhập khẩu
một loại hàng.
2.4. Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái và tỷ xuất ngoại tệ của hàng XNK.
Tỷ giá hối đoái là giá cả một đồng tiền quốc gia có thể đổi lấy một đồng
tiền khác. Nếu tỷ giá hối đoái cao thì việc nhập khẩu được khuyến khích còn nếu
tỷ giá hối đoái thấp thì việc xuất khẩu được khuyến khích. Điều này giải thích
tại sao có những nước đã tiến hành phá giá đồng tiền nước mình để thúc đẩy
xuất khẩu. Do vậy sự biến động của tỷ giá sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động
XNK.
Đối với tỷ xuất ngoại tệ thì khác, trong nhập khẩu tỷ xuất ngoại tệ là tổng
số tiền bán ra khi chi ra đơn vị ngoại tệ để nhập khẩu. Nếu tỷ xuất ngoại tệ mặt
hàng đó lớn hơn tỷ giá hối đoái trên thị trường thì việc lựa chọn mặt hàng nhập
khẩu là có hiệu quả. Trong trường hợp xuất khẩu, nó là số tiền bản tệ phải chi ra
để có thể thu được một đơn vị ngoại tệ. Nếu tỷ suất đưa ra thấp hơn tỷ giá hối
đoái trên thị trường thì việc xuất khẩu là có hiệu quả.
2.5. Ảnh hưởng của môi trường chính trị và môi trường văn hoá xã hội.
Các mối quan hệ XNK là các mối quan hệ thoả thuận, tự nguyện trên cơ
sở hai bên đều có lợi, không có một quyền lực chính trị nào ép buộc. Tuy nhiên


14

các quan hệ này chỉ được phát triển trên cơ sở có một sự ổn định chính trị trong

nước, các doanh nghiệp trong và ngoài nước mới yên tâm tiến hành hoạt động
XNK.
Trong hoạt động kinh doanh XNK thì môi trường văn hoá xã hội, phong
tục tập quán có ảnh hưởng rất sâu sắc. Trên thực tế cho thấy chỉ những phong
tục tập quán tiêu dùng rất nhỏ cũng có thể làm ảnh hưởng rất lớn đến khối
lượng, kích cỡ của các mặt hàng XNK.
II. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI.
1. Khái niệm đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước
ngoài.
1.1. Khái niệm và bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
a. Khái niệm:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là phương thức đầu tư vốn, tài sản ở nước
ngoài để tiến hành sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ với mục đích tìm kiếm
lợi nhuận và những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định.
b. Bản chất:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư quốc tế được đặc trưng
bởi quá trình xuất khẩu tư bản từ nước này sang nước khác, một hình thức cao
hơn của xuất khẩu hàng hoá. Đầu tư trực tiếp nước ngoài được hiểu là một hoạt
động kinh doanh, một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài. Nhân tố
nước ngoài ở đây không chỉ là sự khác biệt về quốc tịch hoặc về lãnh thổ cư trú
thường xuyên của các bên tham gia vào quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài mà
còn thể hiện ở việc tư bản bắt buộc phải vượt qua khỏi tầm kiểm soát của một
quốc gia. Việc di chuyển tư bản này nhằm mục đích phục vụ kinh doanh tại các
nước tiếp nhận đầu tư, đồng thời lại là điều kiện để xuất khẩu máy móc, vật tư,
nguyên liệu và khai thác tài nguyên của nước chủ nhà.


15


2.2. Đặc điểm về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
a. Về kinh tế:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đưa vốn vào nước tiếp nhận và đi kèm với
vốn là cả kỹ thuật, công nghệ, bí quyết kinh doanh và năng lực Marketing. Chủ
đầu tư đưa vốn vào đầu tư là tiến hành tổ chức sản xuất kinh doanh và sản phẩm
làm ra được tiêu thụ ở thị trường nước sở tại hoặc thị trường quốc tế.
Việc tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài phát sinh nợ cho nước nhận
đầu tư. Thay cho lãi xuất, nước nhận đầu tư được phần lợi nhuận thích đáng khi
dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả.Bên cạnh đó, nước sở tại còn có điều kiện để
phát triển tiềm năng trong nước.
Chủ thể đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu là các công ty xuyên quốc
gia. Các công ty này chiếm 90% khối lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên
thế giới.
b. Về mặt pháp lý.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm là: chủ đầu tư nước ngoài phải
đóng góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định tuỳ theo luật đầu tư của mỗi
nước. Đầu tư nước ngoài là hình thức đầu tư vốn của tư nhân do cá chủ đầu tư tự
quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về
lãi,lỗ. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những
ràng buộc về chính trị.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài.
a. Năng lực tăng trưởng của nền kinh tế.
Xét về lâu dài thì đây là nhân tố quan trọng nhất để xác định triển vọng
thu hút và hiệu quả sử dụng của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Vốn đầu tư nước
ngoài không tự chảy vào các nước đang phát triển nếu như triển vọng và năng
lực phát triển nền kinh tế không sáng sủa và lâu bền. Một năng lực tăng trưởng


16


kinh tế là sự ổn định chính trị kinh tế xã hội, một cơ cấu thích hợp và năng động
cao, có lợi thế so sánh của đất nước lớn, có hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển,
trình độ khoa học kỹ thuật cao. Thật vậy, năng lực phát triển có vai trò nổi bật
trong việc thu hút vốn và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài bởi vì chẳng
ai muốn đầu tư vào nơi mà triển vọng tăng trưởng mù mịt. Điều đó có nghĩa là
nếu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được sử dụng một cách có hiệu quả thì khả
năng nhận vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài càng lớn. Khi đó cơ hội tăng trưởng
nhanh vững chắc của quốc gia đó càng trở nên hiện thực và năng lực thu hút sử
dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài càng cao hơn.
b. Các yếu tố kinh tế vĩ mô.
Sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô là điều kiện tiên quyết của mọi ý
định và hành vi đầu tư. Sự ổn định môi trường kinh tế vĩ mô là sự ổn định các
yếu tố kinh tế vĩ mô và gắn liền với năng lực tăng trưởng. Sự ổn định đó sẽ kiểm
soát nhịp độ tăng trưởng nhanh và lâu bền và sẽ không gây ra một trạng thái
"quá nóng" trong đầu tư. Một số yếu tố kinh tế vĩ mô liên quan tới vấn đề thu
hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài như là:
-Yếu tố lạm phát và ổn định tiền tệ: Yếu tố này là tiêu chuẩn số một để có
thể ổn định môi trường kinh tế vĩ mô. Việc ổn định lạm phát và giá trị tiền tệ sẽ
tác động trực tiếp đến đồng vốn của đầu tư nước ngoài. Nếu lạm phát cao, giá trị
tiền tệ mất ổn định sẽ tác động trực tiếp đến đồng vốn của đầu tư nước ngoài, lúc
đó nhà đầu tư không những không thu hồi được vốn mà còn mất hết vốn. Cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu á vừa qua là một bài học thực tiễn cho vấn
đề này.
-Lãi suất: Về lý thuyết mức lãi suất của nước tiếp nhận vốn đầu tư cao so
với lãi suất quốc tế thì sức hút đối với nhà đầu tư nước ngoài càng mạnh. Với lãi
suất cao còn có tác dụng căn bản là cho phép huy động được nhiều vốn trong
nước lớn. Đây là nguồn vốn đối ứng trong nước cực kỳ quan trọng để thu hút và
sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hiệu quả hơn. Với lãi suất cao, ổn định
không những thu hút được nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mà còn là vũ



17

khí hiệu nghiệm để ngăn chặn được việc đào thoát vốn ra nước ngoài. Tuy vậy
nếu tăng quá cao lãi suất có nghĩa là phí tổn trong đầu tư cao và khi phí tổn cao
sẽ làm giảm lợi nhuận thực của nhà đầu tư.
-Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái tác động lớn tới sức hấp dẫn và sử dụng
hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài. Tỷ giá hối đoái thấp làm tăng xuất khẩu, từ đó
làm tăng trưởng kinh tế và ngược lại. Mặt khác tỷ giá hối đoái thấp tức là giá trị
đồng tiền trong nước giảm so với ngoại tệ, điều này làm cho giá hàng nhập khẩu
đắt và giá hàng xuất khẩu rẻ. Nếu kéo dài tình trạng này thì trong dài hạn nó làm
tổn hại đến tăng trưởng và phát triển kinh tế, do đó nó ảnh hưởng đến thu hút và
sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Như vậy một tỷ giá hối
đoái phù hợp sẽ tạo khả năng thúc đẩy xuất khẩu, nền kinh tế tăng trưởng vững
chắc và từ đó nó có vai trò trực tiếp to lớn tới huy động và sử dụng thật sự có
hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
-Nợ nước ngoài và cán cân thanh toán quốc tế: tình trạng nợ nước ngoài
và cán cân thanh toán quốc tế của nước nhận đầu tư có ảnh hưởng mạnh đến thu
hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong dài hạn. Thật vậy, nếu một nền kinh tế
mà nợ nước ngoài nhiều và cán cân thanh toán quốc tế thường xuyên bị thâm hụt
thì khả năng trả nợ sẽ thấp và hàng năm nước đó phải trích ra nhiều nguồn lực
để trả nợ, do đó phần thặng dư dành cho đầu tư sẽ rất ít ỏi. Thật sự, là không có
một công ty nước ngoài nào lại muốn đầu tư vào nơi ít có khả năng thu hồi vốn.
c. Các chính sách quốc tế.
Các chính sách kinh tế của nước chủ nhà có tác động rất lớn đối với việc
thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vì các chính sách này sẽ điều
chỉnh, quy định quyền lợi, nghĩa vụ của các nhà đầu tư. Một số chính sách tiêu
biểu liên quan trực tiếp đến thu hút và sử dụng vồn đầu tư trực tiếp nước ngoài
là:
-Chính sách thuế có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của nhà đầu tư. Do

đó, ưu đãi về thuế có tác động rất lớn đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.


18

-Chính sách tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến huy động nguồn vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài. Theo lý thuyết nếu mức lãi suất trong nước cao thì khả năng
hấp dẫn nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cao và ngược lại.
-Chính sách thương mại: Chính sách này ảnh hưởng rất lớn tới việc thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nhất là chinh sách ngoại thương. Mức thuế nhập
khẩu cao, Quota xuất khẩu thấp sẽ cản trở rất mạnh tới lĩnh vực xuất nhập khẩu.
Từ đó, sẽ cản trở tính hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là sản
xuất hàng hoá hướng về xuất khẩu.
d. Môi trường pháp lý.
Yếu tố này có thể làm hạn chế hay cản trở hoàn toàn hoạt động của các
công ty nước ngoài trên nước sở tại. Một điều tất nhiên nếu nước chủ nhà không
đảm bảo về quyền sở hữu tài sản, môi trường cạnh tranh lành mạnh thì sẽ chẳng
có nhà đầu tư nước ngoài nào giám vào nước họ. Dễ nhận thấy rằng, môi trường
pháp lý thuận lợi an toàn hơn cho vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thì khả năng
thu hút vốn càng cao.
2. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các nước đang
phát triển.
2.1. Tác động tích cực.
a. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo nguồn vốn để phát triển kinh tế.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một nguồn bổ sung vốn quan trọng để các
nước đang phát triển thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bù đắp cho sự
thiếu hụt của nguồn vốn trong nước. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là mọt hình
thức huy động vốn để hỗ trợ cho nhu cầu đầu tư của nền kinh tế, nó có ưu thế
hơn hẳn so với các hình thức huy động vốn khác như việc vay vốn nước ngoài
luôn đi cùng với một mức lãi suất nhất định và đôi khi trở thành gánh nặng cho

nền kinh tế.


19

Ngoài ý nghĩa tăng trưởng vốn đầu tư nội địa, đầu tư trực tiếp nước ngoài
còn bổ sung đáng kể nguồn thu ngân sách của chính phủ các nước đang phát
triển thông qua thuế từ các xí nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài. Đây là
nguồn thu quan trọng cho vốn ngân sách và nguồn ngoại tệ để đầu tư các dự án
công cộng trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá. Vốn đầu tư ở các nước đang
phát triển tăng và làm tăng đầu tư, nhờ đó các nhân tố như lao động được sử
dụng tăng lên, năng suất lao động tăng lên theo. Qua đó làm tăng trưởng nền
kinh tế của đất nước này. Qua đây, ta thấy rõ vai trò to lớn của đầu tư trực tiếp
nước ngoài với tăng trưởng kinh tế và cả tiết kiệm của các nước đang phát triển.
b. Tạo công ăn việc làm và nâng cao chất lượng lao động.
Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng thu hút một lượng lớn lao
động, góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp ở các nước đang phát triển. Đầu
tư trực tiếp nước ngoài ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội tạo công ăn việc làm
thông qua việc cung cấp việc làm trong các công ty có vốn trực tiếp nước ngoài
và nó còn tạo ra cơ hội việc làm trong các tổ chức khác của nước sở tại, khi mà
các nhà đầu tư nước ngoài mua hàng hoá dịch vụ từ các nhà sản xuất trong nước,
hoặc thuê họ qua các hợp đồng gia công chế biến.
Đầu tư nước ngoài còn góp phần phát triển nguồn nhân lực nâng cao kỹ
năng quản lý kinh doanh cho nước sở tại. Chính các chủ đầu tư nước ngoài tổ
chức mở các lớp đào tạo về quản lý, kỹ năng làm việc đã góp phần tích cực vào
việc bồi dưỡng đào tạo đội ngũ lao động ở các nước sở tại. Để cán bộ và công
nhân của nước sở tại có khả năng quản lý và sử dụng công nghệ tiên tiến và yêu
cầu của công việc. Đó chính là đội ngũ nòng cốt trong việc học tập, tiếp thu kỹ
thuật, công nghệ tiên tiến, năng lực quản lý điều hành tiên tiến của nước ngoài.
Mặt khác các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài có yêu cầu cao về chất lượng

nguồn lao động đã cố gắng nâng cao chất lượng để thích ứng với trình độ khoa
học, kỹ thuật tiên tiến.
c. Nâng cao năng lực công nghệ.


20

Song song với việc tạo nguồn vốn bổ sung cho các nước đang phát triển
đầu tư phát triển trực tiếp nước ngoài còn là một kênh quan trọng để đưa kỹ
thuật mới, kỹ năng sản xuất mới vào các nước đang phát triển. Thông qua đầu tư
trực tiếp nước ngoài, nước sở tại có thể tiếp nhận được công nghệ này. Qua đó
đầu tư đầu tư nước ngoài có thể thúc đẩy sự đổi mới kỹ thuật của nước nhận đầu
tư, như góp phần tăng năng suất của các yếu tố sản xuất thay đổi cấu thành sản
phẩm và xuất khẩu, thúc đẩy phát triển các nghề mới, đặc biệt là những nghề đòi
hỏi công nghệ cao. Qua chuyển giao công nghệ, làm trình độ công nghệ của
nước sở tại ngày một cao hơn, từ đó nâng cao dần năng lực của nước sở tại.
d. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong điều kiện nền kinh tế mở các quan hệ kinh tế quốc tế tạo ra động
lực và điều kiện cho sự chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế của các quốc gia,
trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài là một động lực mạnh mẽ có ý nghĩa to lớn
tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thông qua đó các nước đang phát triển sẽ tham
gia ngày càng nhiều vào quá trình phân công lao động quốc tế. Để hội nhập vào
nền kinh tế thế giới, tham gia vào quá trình liên kết giữa các nước đòi hỏi các
nước phát triển phải tự thay đổi cơ cấu kinh tế của nước mình cho phù hợp với
sự phân công lao động quốc tế. Sự chuyển dịch cơ cấu ở các nước phát triển sẽ
ngày càng tiến bộ hơn phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của thế giới.
2.2. Tác động tiêu cực.
a. Về kinh tế.
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều khi làm lợi ích của nhà đầu
tư nước ngoài vượt qua lơị ích của nước sở tại nhận được. Vì để thu hút đầu tư

trực tiếp nước ngoài, nước nhận đầu tư phải áp dụng một số ưu đãi cho các nhà
đầu tư như: giảm thuế, miễn thuế trong một thời gian khá dài cho phần lớn các
dự án đầu tư nước ngoài hoặc việc trả tiền của họ cho việc thuê đất, nhà xưởng
và một số dịch vụ trong nước thấp hơn so với nhà đầu tư trong nước.


21

Ngoài ra còn có trường hợp các nhà đầu tư nước ngoài thường tính giá
cao cho những nguyên vật liêụ, bán thành phẩm, máy móc thiết bị mà họ nhập
vào để thực hiện đầu tư. Việc làm này đã mang lại nhiều lợi cho chủ đầu tư,
chẳng hạn chốn được thuế của nước sở tại đánh vào lợi nhuận của chủ đầu tư.
Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã lợi dụng chỗ sơ hở của pháp luật và thiếu kinh
nghiệm quản lý của nước sở tại để chốn thuế gian lận và vi phạm những quy
định về bảo vệ môi trường sinh thái và những lợi ích khác của nước sở tại.
b. Về chuyển giao công nghệ
Là một mặt tác động lớn của đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng còn tồn
tại nhiều hạn chế và tiêu cực, không chuyển giao đúng quy định ( chuyển giao
còn nhỏ giọt , từng phần và thông thường là công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm với
giá cao hơn giá mặt bằng quốc tế, vì rất khó tính được giá trị thực của máy móc
chuyển giao đó nên hiệu quả bị thua thiệt trong thu lợi nhuận ). Từ thực tế trên,
việc chuyển giao công nghệ lạc hậu đã gây ra nhiều thiệt hại cho nước nhận đầu
tư.
c. Về cơ cấu.
Các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều khi sản xuất và bán những hàng
hoá không thích hợp cho các nước đang phát triển thậm chí đôi khi còn có hại
cho sức khoẻ con người và gây ô nhiễm môi trường. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
làm cho cơ cấu đầu tư theo ngành và theo lãnh thổ của nước chủ nhà bất hợp lý
gây ra tình trạng đầu tư tràn lan kém hiệu quả và tài nguyên thiên nhiên bị khai
thác qúa mức. Vì mục tiêu của nhà đầu tư là kiếm lợi nhuận nên họ đầu tư vào

những nơi có lợi nhất do vậy khi lượng vốn nước ngoài tăng thêm thì sẽ gây ra
sự mất cân đối giữa các vùng sự mất cân đối này có thể gây nên bất ổn về chính
trị.




22

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA THƯƠNG MẠI QUỐC
TẾ VÀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI.
I. MỐI QUAN HỆ GIỮA TMQT VÀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚCNGOÀI.
Đứng trên góc độ phân tích về mặt lý thuyết có thể thấy giữa TMQT và
đầu tư trực tiếp nước ngoài có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Thật vậy, nếu xét
trên bình diện một quốc gia ta có thể ví hoạt động như là khâu nhập các yếu tố
đầu vào (nguyên vật liệu bán thành phẩm, máy móc thiết bị ) phục vụ cho quá
trình sản xuất - ví như hoạt động đầu tư, còn hoạt động xuất khẩu được ví như
hoạt động bán hàng. Do đó nếu như hoạt động xuất nhập khẩu phát triển, nghĩa
là việc nhập các yếu tố đầu vào được ổn định và hoạt động bán hàng được xúc
tiến tốt thì điều đó sẽ kích thích hoạt động sản xuất hay nói khác đi là hoạt động
đầu tư trực tiếp nước ngoài được đẩy mạnh. Mặt khác khi hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài được đẩy mạnh đồng nghĩa với việc sản xuất năng lực của nước
sở tại tăng lên và hàng hoá sản xuất ra có chất lượng tốt hơn, giá thành rẻ hơn do
đó sẽ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu.
Đối với các nước đang phát triển, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài được
coi là giải pháp quan trọng để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế nói chung và
thúc đẩy xuất khẩu nói riêng. Việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo
điều kiện cho việc thúc đẩy xuất khẩu, biểu hiện ở các khía cạnh sau:

-Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư có hiệu quả vào các
lĩnh vực thay thế nhập khẩu.
-Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư vào các ngành có hàm
lượng vốn và có trình độ công nghệ cao.
-Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư vào các ngành hướng
mạnh ra xuất khẩu.


23

II. TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐẾN XUẤT
NHẬP KHẨU.
Từ những năm đầu của thập kỷ 70, chiến lược công nghiệp hoá hướng vào
xuất khẩu với sự tham gia sâu rộng của đầu tư trực tiếp nước ngoài( FDI ) đã
dẫn đến sự thay đổi to lớn trong cơ cấu hàng xuất nhập khẩu và tăng nhanh xuất
khẩu cuả Malaixia. Có nhiều ý kiến cho rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế của
Malaixia phụ thuộc chủ yếu vào xuất khẩu (Y.Okamoto, 1994 và L.W.Heng,
1996 ), trong đó có sự góp phần quan trọng của FDI. Nhưng bên cạnh đó , một
số ý kiến khác lại đánh giá FDI không có tác động lớn đến xuất khẩu và giữa các
yếu tố nàyvới tăng trưởng kinh tế không có mối quan hệ phụ thuộc rõ ràng.
(Dodado, 1993 và Ahmad, 1995).
Để kiểm tra quan điểm về vai trò của FDI đối với xuất khẩu và qua đó ảnh
hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của Malaixia, phần này sẽ phân tích có
tính định lượng về mức độ tác động của FDI với hoạt động xuất nhập khẩu của
các ngành công nghiệp từ kết quả nghiên cứu thực nghiệm đã được tiến hành ở
Malaixia trong những năm gần đây.
1. Tác động của FDI tới xuất nhập khẩu của toàn ngành công nghiệp.
Trong cả hai giai đoạn công nghiệp hoá thay thế hàng nhập khẩu và
hướng vào xuất khẩu, FDI luôn đóng vai trò tích cực như động lực thúc đẩy kim
ngạch xuất nhập khẩu và thay đổi cơ cấu sản xuất hàng xuất khẩu. Thời kỳ đầu

của công nghiệp hoá, kim ngạch xuất khẩu mới chỉ ở mức 13.5% của GDP
(1965 ) , nhưng đến năm 1994 con số đó đã đạt tới 82.9%. Đồng thời cơ cấu
hàng xuất khẩu cũng có sự thay đổi lớn theo chiều hướng tỷ trọng hàng nông sản
phẩm giảm dần so với tốc độ tăng nhanh từ 25.3% năm 1965 lên tới 78.2% năm
1994 của hàng công nghiệp trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (
L.W.Heng và E.Devandason, 1996).
Các nghiên cứu thực nghiệm (Engle & Granger, 1987;Bahmani &
Janardhanan, 1993; Rasiah, 1995 ) đã tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của FDI


24

đối với xuất nhập khẩu trong toàn ngành và từng ngành công nghiệp của
Malaixia. Theo các tác giả, các ngành công nghiệp đóng vai trò là động lực tăng
trưởng của nền kinh tế và thu hút chủ yếu nguồn FDI của cả nước. Vì vậy động
thái xuất nhập khẩu của các ngành công nghiệp là đối tượng phân tích của các
nghiên cứu thực nghiệm.
Để làm rõ dược mức độ tác động của FDI đối với kim ngạch xuất nhập
khẩu, các nghiên cứu thực nghiệm đã phân loại toàn ngành công nghiệp thành
hai nhóm: Những ngành có sở hữu vốn nước ngoài lớn ( Foreign Dominated
Branches- FDBs ) và những ngành có sở hữu vốn nước ngoài nhỏ LDBs. Hơn
nữa, trong mỗi nhóm lại phân làm ba loại: lớn hơn 60%, 50% và 40% tỷ lệ sở
hữu vốn của nước ngoài và ký hiệu theo thứ tự FDB1, FDB2, FDB3 hoặc nhỏ
hơn các tỷ lệ tương tự đối với LDBs ( LDB1, LDB2, LDB3 ). Các tỷ lệ phân
chia này được tính ở mức trung bình trong giai đoạn 1968-1990 hoặc ít nhất
cũng phải đạt từ 15 năm trở lên trong giai đoạn nghiên cứu.
Mục đích của việc phân loại các ngành công nghiệp theo tỷ lệ sở hữu vốn
là để so sánh được động thái xuất nhập khẩu của các ngành công nghiệp ở các
mức độ phụ thuộc khác nhau vào vốn nước ngoài hoặc trong nước. Trên cơ sở
đó thấy rõ được tác động của FDI đối với xuất nhập khẩu của các nhóm ngành

này. Nếu FDBs có tốc độ tăng trưởng và tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu cao
hơn LDBs thì có thể đi đến khẳng định được vai trò to lớn của FDI đối với thúc
đẩy xuất nhập khẩu của toàn ngành công nghiệp và qua đó ảnh hưởng quan
trọng đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Theo số liệu điều tra của cơ quan phát triển công nghiệp Malaixia-MIDA
được tiến hành năm 1991, vốn nước ngoài chiếm trên 60% trong hai ngành điện
& điện tử và đồ uống & thuốc lá (FDB1 ). Tiếp theo là ngành dệt may ở mức
trên 50% ( FDB2 ) và con số này cũng đạt tới trên 40% đối với hai ngành cao su
và chế tạo máy (FDB3 ). Tương tự, những ngành có vốn nước ngoài nhỏ hơn
60% ( LDB1 ) là thực phẩm, đồ gỗ, khoáng sản phi kim loại, kim loại , sắt thép,
hoá chất, thiết bị vận tải, cao su, chế tạo máy và dệt may. LDB2 cũng bao gồm


25

hầu hết các ngành của LDB1 ( ngoại trừ ngành dệt may ). Nếu không tính các
ngành cao su, thiết bị vận tải và chế tạo máy thì LDB3 bao gồm những ngành
còn lại của LDB2.
Những kết quả nghiên cứu thực nghiệm đã tính toán được các hệ số quan
trọng về mối quan hệ giữa tỷ lệ giữa xuất khẩu ( Xi ) và nhập khẩu( Mi) của
FDBs và LDBs trong tổng kim ngạch xuất và nhập khẩu ( Xi, Mi ) của toàn
ngành công nghiệp. Tỷ lệ Xi/ Xi và Mi/Mi của FDB3 và LDBs thay đổi khá
rõ nét theo chiều hướng khác nhau giữa các năm 1968-1990. Thật vậy, nếu so
sánh giữa đại diện tiêu biểu của hai nhóm ngành ( FDB1 và LDB1 ) thì tỷ lệ Xi
/Xi của FDB1 tăng nhanh từ 0,005 năm 1968 đã lên 0,13131 năm 1979 và đạt
tới 0,288 năm 1990. Trong khi đó những con số tương tự lại giảm dần từ 0,303
xuống còn 0,293 và 0,202 đối với LDB1. Nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình
trạng này là do các nhóm ngành FDBs chủ yếu hướng vào xuất khẩu, trong khi
đó phần lớn các sản phẩm của các nhóm ngành LDBs lại tiêu thụ trong nước
(thay thế hàng nhập khẩu). Về tỷ lệ Mi/Mi của FDB1 và LDB1 cũng diễn biến

theo hướng ngược chiều nhau như các hệ số xuất khẩu.









×