BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA: QUẢN TRỊ - LUẬT
LỚP: 119 - QTL45 (B1)
MÔN HỌC: PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG
Buổi thảo luận thứ nhất: Nghĩa vụ
DANH SÁCH NHÓM 4
Họ và Tên
MSSV
Phạm Nguyễn Quỳnh Như
2053401020158
Nguyễn Thị Thùy Nhung
2053401020160
Võ Hồng Nhung
2053401020161
Lê Ngọc Phụng
2053401020165
Vũ Thị Thu Phương
2053401020172
Huỳnh Sinh Thái
2053401020186
Nguyễn Hồng Thắng
2053401020188
Phạm Quang Thanh
2053401020190
Võ Chí Thành
2053401020192
Nguyễn Thanh Thảo
2053401020196
2
3
Đối với người thực hiện công việc: Người thực hiện cơng việc này là một người
khơng có nghĩa vụ đối với cơng việc đó. Nghĩa vụ ở đây là nghĩa vụ pháp lý do
luật định hoặc nghĩa vụ do các bên thỏa thuận nên ta có có thể hiểu là người này là
khơng có nghĩa vụ thực hiện đối với người có cơng việc cần được thực hiện. Và
điều kiện quan trọng để xác định nghĩa vụ phát sinh từ thực hiện công việc không
ủy quyền là khi một chủ thể thực hiện công việc của người khác một cách tự
nguyện. Nếu trong trường hợp người thực hiện công việc một cách ngẫu nhiên,
khơng có chủ ý hoặc bị ép buộc thì sẽ khơng được xem là thực hiện cơng việc
khơng có ủy quyền và lúc này nghĩa vụ hồn trả của người có cơng việc cần được
thực hiện cho người thực hiện chỉ được phát sinh nếu người có cơng việc nhận
được lợi ích.
Đối với người có cơng việc được thực hiện: Họ không yêu cầu đối phương thực
hiện cơng việc của mình nên ta có thể hiểu rằng giữa người có cơng việc và người
thực hiện khơng tồn tại một hợp đồng hay bất cứ cứ một thỏa thuận nào trước đó.
Người có cơng việc có thể khơng biết hoặc sau khi biết họ không phản đối.
Đối với công việc: Theo quy định tại Điều 574 BLDS 2015 thì cơng việc này “vì
lợi ích của người có cơng việc được thực hiện” nên chỉ cần đảm bảo rằng cơng
việc này được thực hiện là vì lợi ích của người có cơng việc thì hành vi đó được
coi là thực hiện cơng việc khơng có uỷ quyền. Như vậy, chỉ cần việc thực hiện
công việc này xuất phát từ sự tự nguyện nhằm đem lại lợi ích cho người có cơng
việc cần thực hiện đồng thời đảm bảo các quy định về nghĩa vụ thực hiện công
việc theo Điều 575 BLDS 2015 thì người có cơng việc được thực hiện có nghĩa vụ
thanh tốn các chi phí hợp lý cho người thực hiện kể cả trong trường hợp công
việc khơng đạt được kết quả theo ý muốn.
5. Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong cơng trình, nhà thầu C có thể
yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của
chế định “thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền” trong BLDS 2015 khơng?
Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời: Theo Điều 574 BLDS 2015 quy định : “ Thực hiện cơng việc khơng có uỷ
quyền là việc một người khơng có nghĩa vụ thực hiện cơng việc nhưng đã tự
nguyện thực hiện cơng việc đó vì lợi ích của người có cơng việc thực hiện khi
người này không biết hoặc biết mà không phản đối”. Và như trong tình huống
trên, ta có thể xác định như sau:
•
Nhà thầu C đã ký hợp đồng với B nên C có nghĩa vụ thực hiện cơng việc
xây dựng cơng trình theo như thỏa thuận trong hợp đồng với B.
•
C khơng tự nguyện thực hiện cơng việc mà thực hiện cơng việc đúng nghĩa
vụ của mình như trong như hợp đồng đã ký với B.
•
C thực hiện cơng việc khơng vì lợi ích của A mà là vì thù lao được thưởng
theo hợp đồng đối với B.
•
A hồn tồn không biết C làm mà A nghĩ là B là thực hiện công việc này.
4
^ Vì vậy, dựa trên các cơ sở đã đưa thì nhà thầu C khơng thể u cầu chủ đầu tư
A thực hiện nghĩa vụ trên cơ sở công việc khơng có uỷ quyền.
Vấn đề 2
6. Thơng tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh tốn như thế
nào? Qua trung gian là tài sản gì?
Theo Thơng tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành
án về tài sản
1- Đối với nghĩa vụ là các khoản tiền bồi thường, tiền hồn trả, tiền cơng, tiền
lương, tiền chia tài sản, tiền đền bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay khơng có
lãi, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính thì giải quyết như sau:
a)
Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước ngày 17-1996 và trong thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến
thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở lên, thì Tồ án quy đổi các
khoản tiền đó ra gạo theo giá gạo loại trung bình ở địa phương (từ đây trở đi gọi
tắt là "giá gạo") tại thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số
lượng gạo đó thành tiền theo giá gạo tại thời điểm xét xử sơ thẩm để buộc bên có
nghĩa vụ về tài sản phải thanh tốn và chịu án phí theo số tiền đó.
b)
Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ xảy ra sau ngày 1-7-1996
hoặc tuy xảy ra trước ngày 1-7-1996, nhưng trong khoảng thời gian từ thời điểm
gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo
không tăng hay tuy có tăng nhưng ở mức dưới 20%, thì Tồ án chỉ xác định các
khoản tiền đó để buộc bên có nghĩa vụ phải thanh toán bằng tiền. Trong trường
hợp người có nghĩa vụ có lỗi thì ngồi khoản tiền nói trên còn phải trả lãi đối với
số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương
ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo quy định tại khoản 2
Điều 313 Bộ luật dân sự, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy
định khác.
2- Đối với các khoản tiền tịch thu, tiền phạt, tiền án phí thì khi xét xử tịa án chỉ
quyết định mức tiền cụ thể mà khơng áp dụng cách tính đã hướng dẫn tại khoản 1
nói trên.
3- Đối với các khoản tiền vay, gửi ở tài sản Ngân hàng, tín dụng, do giá trị của các
khoản tiền đó đã được bảo đảm thông qua các mức lãi suất do Ngân hàng Nhà
nước quy định, cho nên khi xét xử, trong mọi trường hợp tịa án đều khơng phải
quy đổi các khoản tiền đó ra gạo, mà quyết định buộc bên có nghĩa vụ về tài sản
phải thanh tốn số tiền thực tế đã vay, gửi cùng với khoản tiền lãi, kể từ ngày khi
giao dịch cho đến khi thi hành án xong, theo mức lãi suất tương ứng do Ngân hàng
Nhà nước quy định.
5
Tài sản qua trung gian là gạo để tính giá trị tiền thế chân phải hồn trả.
7. Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản
tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Cơ sở pháp lý: Điểm a khoản 1 mục I thông tư 01/TTLT ngày 29/1997
Quy đổi số tiền 50.000đ ra số kg gạo tại thời điểm phát sinh nghĩa vụ hoàn trả (năm
1973): 50.000/137đ/(kg).
Giá gạo tại thời điểm xét xử là 15.000đ:
Theo cách tính trên thì thực tế ơng Quới sẽ phải trả cho bà Cơ số tiền:
(50.000/137)*15.000=5.475.452đồng
8. Thơng tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT khơng? Vì
sao?
Căn cứ theo Mục 1.1 Thơng tư số 01/TTLT thì thơng tư trên điều chỉnh việc thanh
toán tiền đối với nghĩa vụ là các khoản tiền bồi thường, tiền hoàn trả, tiền công,
tiền lương, tiền chia tài sản, tiền đền bù cơng sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay khơng
có lãi, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính như vậy thơng tư trên
khơng điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển nhượng bất động sản
như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT.
9. Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà đất
được xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì, theo Tịa
án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hường phải thanh toán cho cụ
Bảng cụ thể là bao nhiêu? V1 sao?
Khoản tiền mà bà Hương phải trả cho cụ Bảng là % của 1.697.760.000đ tức là
339.552.000.
Vì theo Tịa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội cho rằng bà Hương chỉ mới thanh
toán được 4/5 giá trị chuyển nhượng đất cho cụ Bảng, số tiền còn nợ tương đương
với 1/5 giá trị căn nhà, đất. Do đó, bà Hương phải thanh tốn số tiền còn nợ tương
đương với 1/5 giá trị nhà, đất theo giá tại thời điểm xét xử sơ thẩm mới đúng với
hướng dẫn tại điểm b2, tiểu mục 2.1, mục 2, phần II Nghị Quyết số 02/2004.
10. Hướng như trên của Tịa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ chưa? Nêu
một tiền lệ (nếu có)?
6
Với hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội thì đã có tiền lệ. Đó
là BẢN ÁN 20/2017/DS-ST NGÀY 27/09/2017 VỀ YÊU CẦU THỰC HIỆN
NGHĨA VỤ TRẢ TIỀN
Tóm tắt bản án:
Nguyên đơn: Nguyễn Thị N
Bị đơn: Lê Thụy T
Diễn biến vụ việc:
+ Năm 2013, bà N và bà T có giao dịch miệng việc mua bán gạo.
+ Giữa năm 2014 các bên có chốt lại số nợ và bà T có ghi giấy xác nhận nợ tiền gạo còn
thiếu với nội dung là vợ chồng bà T có nợ của bà 59.825.000 đồng và cam kết sẽ trả đầy
đủ vào ngày 10/9
+ Sau đó, bà T đã trả được 5.200.000 đồng.
+ Mặc dù trên giấy nợ bà T có ghi là vợ chồng bà là Lê Thụy T và Nguyễn Anh P có nợ
bà nhưng bà N yêu cầu một mình bà T trả 54.625.000đồng.
+ Bà xác nhận việc mua bán gạo chỉ một mình bà giao dịch với bà N cũng như việc nợ
tiền mua bán gạo, xác nhận nợ, chồng bà ông Nguyễn Anh P đều không biết nên nay bà
N khởi kiện yêu cầu bà trả số tiền 54.625.000 đồng, bà đồng ý nhưng xin trả dần mỗi
năm là 5.000.000 đồng cho đến khi hết.
Nhận định của Tòa án:
+ Bà T đã thừa nhận hiện nay còn nợ lại số tiền 54.625.000 đồng nhưng chưa thanh toán
nên Hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án này là “Yêu cầu thực hiện
nghĩa vụ trả tiền”.
+ Như vậy, từ những thơng tin trên, có thể khẳng định đến nay bị đơn bà T chỉ mới trả
cho nguyên đơn được 5.200.000 đồng, cịn nợ lại 54.625.000 đồng khơng thanh tốn cho
nguyên đơn là đã đã xâm phạm đến quyền lợi của nguyên đơn. Do vậy, việc nguyên đơn
khởi kiện yêu cầu bị đơn bà Lê Thụy T phải trả 54.625.000 đồng, trả một lần là hồn tồn
có căn cứ để chấp nhận.
Vấn đề 3
11. Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển
giao nghĩa vụ theo thỏa thuận?
7
Giống nhau
1.
Đều phải thơng báo cho bên có nghĩa vụ/bên có quyền nếu chuyển giao
quyền/chuyển giao nghĩa vụ.
2.
Khơng được chuyển giao trong trường hợp hai bên đã thoả thuận không chuyển
giao hoặc pháp luật có quy định về việc khơng được chuyển giao, như nghĩa vụ gắn liền
với nhân thân, quyền yêu cầu cấp dưỡng, bồi thường do xâm phạm tới tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín.
3.
Hậu quả pháp lý là làm chấm dứt tư cách chủ thể của người chuyển giao
quyền/nghĩa vụ, làm phát sinh tư cách chủ thể, quyền và nghĩa vụ dân sự ở người được
chuyển giao.
Khác nhau
Tiêu
chí
Chủ
thể
Chuyển giao quyền u cầu
Bên có quyền có quyền chuyển giao Bên có nghĩa vụ có thể chuyển nghĩa
quyền cho sang bên thứ ba (người thế vụ cho bên thứ ba (người thế nghĩa
quyền)
vụ).
Người chuyển giao quyền yêu cầu
không phải chịu trách nhiệm về khả
năng thực hiện nghĩa vụ của bên có
nghĩa vụ nên việc chuyển giao quyền
khơng cần có sự đồng ý của bên có
nghĩa vụ (khoản 2 Điều 365 BLDS).
Quyền
hạn
Chuyển giao nghĩa vụ
Người đã chuyển giao nghĩa vụ phải
chịu trách nhiệm về khả năng thực
hiện nghĩa vụ của mình đối với bên
có quyền nên để bảo vệ lợi ích của
bên có quyền, việc chuyển giao nghĩa
vụ phải được sự đồng ý của bên có
quyền (khoản 1 Điều 370 BLDS)
8
- Đối với chuyển quyền yêu cầu có các - Đối với chuyển giao nghĩa vụ có
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ biện pháp bảo đảm thì biện pháp bảo
thì việc chuyển giao quyền yêu cầu bao đảm sẽ đương nhiên chấm dứt, trừ
gồm cả các biện pháp bảo đảm đó trường hợp có thỏa thuận khác (Điều
(Điều
371 BLDS).
368 BLDS).
- Người chuyển giao quyền có nghĩa vụ
đối với người thế quyền: người chuyển
giao quyền yêu cầu vi phạm nghĩa vụ - Không quy định về nghĩa vụ của
cung cấp thông tin và chuyển giao giấy người chuyển giao nghĩa vụ đối với
tờ có liên quan cho người thế quyền mà người thế nghĩa vụ.
gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt
hại (Điều 366 BLDS).
12. Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh tốn cho bà
Tú?
Thơng tin cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh tốn cho bà Tú là : thơng qua các
biên nhận tiền cho bà Tú cung cấp thì chính bà Phượng là người trực tiếp nhận tiền
Phạm
vi của bà Tú vào năm 2003 với số tiền là 555.000.000 đồng và theo biên nhận ngày
27/4/2004 thể hiện bà Phượng nhận của bà Lê Thị Nhan số tiền 615.000.000 đồng.
Bà Phượng không cung cấp được chứng cứ xác định bà Ngọc thỏa thuận vay tiền
Hình
Bằng văn bản và phải thơng báo cho Khơng có quy định bắt buộc về mặt
thức
bên có nghĩa vụ biết về việc chuyển hình thức.
quyền để tránh việc bên có nghĩa vụ
phải từ chối việc thực hiện nghĩa vụ đối
với người thế quyền hay thực hiện
nghĩa vụ bổ sung, trừ trường hợp có
thoả thuận khác. (khoản 2 Điều 365).
9
với bà Tú. Hơn nữa, theo lời khai của bà Phượng thì vào tháng 4/2004 do
phía
bà
Loan, ơng Thành và bà Ngọc khơng có tiền trả cho bà Tú để trả vốn vay
Ngân
hàng nên bà đã cùng với bà Tú vay nóng bên ngồi để có tiền trả cho Ngân
hàng.
Xác định bà Phượng là người xác lập quan hệ vay tiền với bà Tú.
13. Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được
chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?
Đoạn trong văn bản cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển sang
cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh là:
“Xét thấy hợp đồng vay tiền giữa bà Phượng và bà Tú, phía bà Phượng đã vi phạm
nghĩa vụ thanh tốn nợ vay khơng trả vốn, lãi cho bà Tú lẽ ra phía bà Phượng phải
có trách nhiệm thực hiện. Tuy nhiên, phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phương
chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thanh thể hiện qua việc
bà Tú đã lập hợp đồng cho bà Ngọc lấy số tiền 465.000.000 đ và hợp đồng cho bà
Loan, ông Thanh vay số tiền 150.000.000 đ vào ngày 12/5/2005. Như vậy, kể từ
thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và ơng Thanh thì
nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phương với bà Tú đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ
của bà Ngọc, bà Loan và ông Thanh đối với bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã ký.
Việc yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm thanh tốn nợ cho bà Tú là khơng có căn
cứ chấp nhận”
14. Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Tịa án?
Theo nhóm, đánh giá của tịa án là hoàn toàn hợp lý. Căn cứ theo Điều 370 BLDS
2015 phía bà Tú chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao cho bà Ngọc, bà Loan,
ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền
465.000.000đ, hợp đồng cho bà Loan, ông Thạnh vay số tiền 150.000.000đ vào
ngày 12/5/2005. Điều đó thể hiện người có quyền là bà Tú đồng ý với việc chuyển
giao, khi chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận, người có nghĩa vụ ban đầu là bà
Phượng đã được chấm dứt khỏi nghĩa vụ trả nợ. Do đó bà Ngọc, bà Loan, ơng
Thạnh trở thành người thay nghĩa vụ, có trách nhiệm trả số nợ cho bà Tú.
15. Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có cịn trách nhiệm đối
với người có quyền khơng khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ
được chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nhìn từ góc độ văn bản, chuyển giao nghĩa vụ dân sự là trường hợp người có nghĩa
vụ ban đầu chuyển giao nghĩa vụ đã giao kết cho người khác (người thế nghĩa vụ)
thực hiện nghĩa vụ giữa mình và bên có quyền với sự đồng ý của người thế đó. Bản
1
0
chất của chuyển giao nghĩa vụ dân sự là sự chuyển dịch pháp lý từ chủ thể chuyển
1
1
sang chủ thể nhận. Chủ thể nhận nghĩa vụ chính là người thứ ba thay thế cho
người
có
nghĩa vụ ban đầu và trở thành bên có nghĩa vụ. Trong trường hợp chuyển giao
nghĩa
vụ dân sự có biện pháp đảm bảo thì biện pháp đảm bảo đó cũng chấm dứt do
sự
chấm
dứt tư cách chủ thể của người có nghĩa vụ, trừ trường hợp các bên có thoả
thuận khác.
Như vậy, người có nghĩa vụ ban đầu khơng cịn trách nhiệm đối với người có quyền
nữa dù người thế nghĩa vụ khơng thực hiện được nghĩa vụ được chuyển giao.
Cơ sở pháp lý: Điều 370 BLDS 2015.
16. Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có cịn trách
nhiệm đối với người có quyền khơng khi người thế nghĩa vụ không thực hiện
nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của các tác giả mà anh/chị
biết.
Trả lời: Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu khơng
cịn trách nhiệm đối với người có quyền khi người thế nghĩa vụ khơng thực hiện
được việc chuyển giao. Theo tác giả PGS.TS Đỗ Văn Đại thì khi người có nghĩa
vụ chuyển giao cho người thế nghĩa vụ đã đồng ý chuyển giao theo thỏa thuận,
nghĩa vụ của người có nghĩa vụ đã được chuyển sang bên cho người thế nghĩa vụ.
Ngoài ra tác giả Đỗ Văn Đại cho rằng: “Nếu cho rằng người có nghĩa vụ ban đầu
vẫn có trách nhiệm đối với người có quyền thì chúng ta khơng thấy sự khác nhau
giữa chuyển giao nghĩa vụ với “thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ
ba”.
17. Đoạn nào của bản án cho thấy Tịa án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu
khơng cịn trách nhiệm đối với người có quyền?
Đoạn của bản án cho thấy Toà án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu khơng
cịn trách nhiệm đối với người có quyền:
“Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và
ơng Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng đối với bà Tú đã chấm dứt, làm
phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp
đồng vay tiền đã ký. Việc bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm thanh tốn nợ
cho bà là khơng có căn cứ chấp nhận”
“Việc bà Tú giữ giấy chứng minh Hải quan của bà Phượng theo thỏa thuận. Phía
bà Phượng khơng có nghĩa vụ trả nợ cho bà Tú, buộc bà Tú hoàn trả lại cho bà
Phượng giấy chứng minh Hải quan.”
1
2
18. Kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài đối với quan hệ giữa người có nghĩa
vụ ban đầu và người có quyền.
Theo pháp luật của Hoa Kỳ, bên nhận chuyển giao nghĩa vụ khơng phải thơng báo
cho bên có quyền. Tuy nhiên, việc chuyển giao nghĩa vụ không chấm dứt nghĩa vụ
của bên chuyển giao đối với bên có quyền. Trong trường hợp bên nhận chuyển
giao nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nghĩa vụ
thì bên có quyền sẽ u cầu bên chuyển giao nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ đối với
mình.I
19. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
Theo em nghĩ rằng, hướng giải quyết buộc bà Phùng Thị Bích Ngọc có trách
nhiệm trả cho bà Trần Thị Cẩm Tú của Tịa án là hồn tồn hợp lý bởi lẽ khoản
vay của bà Ngọc do bà Phương nhận tiền từ bà Tú giao lại cho bà Ngọc. Phía bà
Tú đã chấp nhận cho bà Phương chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà
Loan và ông Thanh thể hiện qua việc bà Tú đã lập hợp đồng cho bà Ngọc lấy số
tiền 465.000.000 đ và hợp đồng cho bà Loan, ông Thanh vay số tiền 150.000.000
đ vào ngày 12/5/2005. Như vậy, căn cứ theo Khoản 1 Điều 315 BLDS 2005 thì kể
từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và ông Thanh thì
nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phương với bà Tú đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ
của bà Ngọc, bà Loan và ông Thanh đối với bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã ký.
Riêng đối với khoản vay của bà Loan, ơng Thanh, phía bà Tú khơng u cầu thanh
tốn vì bà Loan, ơng Thanh đã thỏa thuận trả cho bà Tú.
20. Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo
lãnh của người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh
có chấm dứt không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Khi nghĩa vụ của của bà Phượng đối với bà Tú được chuyển giao thì biện pháp
bảo lãnh sẽ chấm dứt căn cứ theo điều 371 BLDS 2015: “Trường hợp nghĩa vụ có
biện pháp bảo đảm được chuyển giao thì biện pháp bảo đảm đó chấm dứt, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác.”
I “Pháp luật của Hoa Kỳ về hợp đồng và các chế tài của hợp đồng?”,
[ (truy cập ngày 21/3/2022)