Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Tài liệu Công bằng xã hội với các cơ hội phát triển của các nhóm dân cư ở một xã đồng bằng sông Hồng hiện nay ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.16 KB, 18 trang )



Công bằng xã hội với các cơ hội
phát triển của các nhóm dân cư ở
một xã đồng bằng sông Hồng
hiện nay


Học sinh Đặng Xá, Gia Lâm, Hà Nội trên đường đi học

1. Đặt vấn đề
Trong bản báo cáo phát triển thế giới 2006 với tiêu đề “Công
bằng và phát triển” của Ngân hàng Thế giới có đề cập đến sự bất
bình đẳng của hai trẻ em cùng sinh một ngày tại một vùng nông
thôn thuộc tỉnh Đông Cape (Nam Phi). Nthabiseng sinh ra trong
một gia đình nghèo, mẹ cô bé không được đi học chính thức. Còn
Pieter sinh ra trong một gia đình giàu có, mẹ của cậu tốt nghiệp
cao đẳng tại một trường Đại học gần đó. Khi chúng mới ra đời,
Nthabiseng và Pieter chẳng phải chịu trách nhiệm gì về hoàn
cảnh gia đình của mình (…) Nhưng số liệu thống kê thì vẫn coi
những biến số định trước về lý lịch đó sẽ tạo ra những khác biệt
lớn trong cuộc sống sau này của chúng. Mặc dù sinh ra ở cùng
thời gian và trong không gian như nhauN, nhưng Nthabiseng và
Pieter có cơ hội khác nhau trong cuộc sống. Nthabiseng có nguy
cơ tử vong trước khi tròn một tuổi cao hơn gấp đôi Pieter. Pieter
có thể dự kiến sống được 68 năm, còn Nthabiseng thì chỉ sống
đến 50 tuổi. Pieter có thể học hết 12 năm phổ thông, còn
Nthabiseng chỉ được đi học chưa đầy 1 năm. Nthabiseng nghèo
hơn Pieter rất nhiều. Lớn lên, cô rất ít cơ hội được tiếp cận nước
sạch và điều kiện vệ sinh, hoặc được học ở những trường tốt. Vì
thế, cơ hội dành cho hai đứa trẻ này để chúng có thể phát huy


được hết tiềm năng con người mình ngay từ đầu đã khác nhau rất
lớn - mặc dù chúng chẳng có lỗi gì trong chuyện đó. Những sự
khác biệt về cơ hội sẽ dẫn đến khả năng đóng góp của chúng rất
khác nhau cho sự phát triển của Nam Phi. Sức khỏe ngay từ khi
sinh ra của Nthabiseng có thể kém hơn, do mẹ của cô không đủ
dinh dưỡng lúc mang thai. Ngay cả khi 25 tuổi và dẫu có nhiều
cơ hội giúp Nthabiseng nảy ra một ý tưởng kinh doanh lớn
(chẳng hạn như một sáng kiến làm tăng mức sản xuất nông
nghiệp) thì cô vẫn thấy rất khó khăn khi muốn thuyết phục ngân
hàng cho mình vay tiền với lãi suất phải chăng. Pieter cũng có
một ý tưởng độc đáo tương tự (chẳng hạn như làm thế nào để
thiết kế ra một phiên bản phần mềm đầy triển vọng) lại thấy dễ
tiếp cận tín dụng hơn nhiều, nhờ có một bằng tốt nghiệp đại học
và một tài sản nào đó dùng để thế chấp (1).
Dẫn chứng trên cho thấy rõ thân phận xã hội và các cơ hội phát
triển khác nhau của hai em bé sống ở vùng nông thôn thuộc Nam
Phi. Mặc dù hai em chào đời vào cùng thời điểm và chung một
không gian xã hội, nhưng cơ hội tiếp cận trường học, dịch vụ y
tế, vay vốn ngân hàng để phát triển kinh tế là không như nhau.
Vậy, sự khác biệt các cơ hội phát triển có diễn ra đối với các cá
nhân và nhóm dân cư ở Việt Nam những năm sau đổi mới?
Dựa vào nguồn dữ liệu từ một số nghiên cứu do Viện Xã hội học
tiến hành ở Yên Thường từ năm 2000 đến năm 2008, chúng tôi
cố gắng đưa ra các dẫn chứng minh họa sự khác biệt về cơ hội
tiếp cận giáo dục, chăm sóc sức khỏe, vay vốn ngân hàng phát
triển kinh tế của cá nhân và các nhóm xã hội ở một xã nông
nghiệp thuộc đồng bằng sông Hồng những năm gần đây.
2. Vài nét về địa bàn nghiên cứu
Xã Yên Thường thuộc huyện Gia Lâm (Hà Nội), có tổng số dân
là 15.000 dân. Tổng số hộ là 3.942 hộ. Diện tích đất tự nhiên là

862 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp là 565 ha. Xã có 10
thôn, trong đó có 9 thôn vốn là những làng cổ và một thôn mới
hình thành (từ năm 1995). 9 thôn là làng cổ có đầy đủ đình, chùa
và phong tục lễ hội riêng của mỗi làng. Yên Thường cách trung
tâm Hà Nội 15 km về phía Bắc, nơi chịu tác động mạnh mẽ của
quá trình đô thị hoá, công nghiệp hóa và là điểm giáp ranh với
nhiều làng nghề vùng Kinh Bắc: Ninh Hiệp, Đồng Kỵ, Đa Hội,
Đình Bảng (2).
Với lợi thế địa lý “cận lộ, cận thị”, đồng thời là cửa ngõ thủ đô
Hà Nội, Yên Thường có hai tuyến đường quốc gia chạy qua:
Quốc lộ 1A, đoạn đường từ Hà Nội xuyên qua địa phận xã đi Bắc
Ninh, Bắc Giang và đến biên giới Lạng Sơn. Quốc lộ 3 từ cầu
Đuống chạy qua đường vành đai xã về phía Thái Nguyên và các
tỉnh miền núi phía Bắc. Song song với tuyến đường bộ, hai tuyến
đường sắt quốc gia cũng đi qua địa bàn xã. Có thể nói, hệ thống
giao thông này đã tạo điều kiện cho các hộ gia đình trong xã phát
triển sản xuất - kinh doanh và giao lưu kinh tế, xã hội với các địa
phương khác trong cả nước. Yên Thường gần khu công nghiệp
Yên Viên, nơi tiếp nhận khá đông nhân lực lao động của xã vào
học nghề và làm công nhân viên. Nằm kề sát các làng nghề vùng
Kinh Bắc đã giúp Yên Thường quan hệ và tìm kiếm việc làm cho
số đông lao động nông nhàn của xã làm việc liên tục hay định kỳ.
Như vậy, những điều kiện trên đã tạo cơ hội thuận lợi cho Yên
Thường phát triển kinh tế và giao lưu với các vùng trong cả nước.
3. Công bằng xã hội với các cơ hội phát triển của các nhóm
dân cư
3.1. Cơ hội phát triển con người: tiếp cận giáo dục và chóm sóc
sức khỏe
Tiếp cận giáo dục
Sau hai mươi năm đổi mới, kinh tế - xã hội Yên Thường đã có

nhiều thay đổi. Khi đời sống kinh tế được cải thiện thì vấn đề học
hành của con cái cũng trở thành mối quan tâm hàng đầu của
nhiều gia đình. Báo cáo tình hình phát triển kinh tế - xã hội xã
Yên Thường năm 2007 cho thấy, tỷ lệ học sinh đỗ cấp III, Cao
đẳng và Đại học đã tăng lên đáng kể. Hiện tượng học sinh bỏ học
giữa cấp 2 như nhiều năm trước không còn nữa. Đa số gia đình
đều mong muốn cho con cái theo học ở các bậc học cao. Tuy
nhiên, cuộc sống mưu sinh, điều kiện kinh tế và vấn đề chi phí
học hành hiện nay có liên quan đến cơ hội tiếp cận trường học
của trẻ em các hộ gia đình.
Quan sát cho thấy, nhóm hộ mức sống khá giả và giàu đều có
điều kiện đầu tư tối đa thời gian và tiền bạc cho con cái học hành.
Trẻ em hiếm khi phải tham gia giúp đỡ công việc sản xuất của
gia đình; hơn nữa các em còn được cha mẹ đưa đón đến trường
học hàng ngày. Ngoài những buổi học chính ở trường, các em
còn được gửi tới các thầy cô giáo giỏi kèm cặp học ngoài giờ.
Các em có đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập, kể cả máy vi tính.
Với sự quan tâm và đầu tư của gia đình, các em hoàn toàn có khả
năng theo học các cấp học cao hơn, kể cả vào bậc đại học. Trong
khi đó, nhóm hộ mức sống nghèo, trung bình, sự đầu tư về thời
gian và tiền bạc cho học tập của con cái hạn chế hơn so với hai
nhóm trên. Đặc biệt là hộ nghèo, trẻ em thường phải tham gia
giúp đỡ cha mẹ làm công việc sản xuất và nội trợ trong gia đình.
Hàng ngày do phải chú ý đến cuộc sống mưu sinh, cha mẹ ít khi
đưa đón các em đến trường, và các em không được học thêm như
các nhóm bạn khác. Sách vở, trang thiết bị và đồ dùng học tập
luôn trong tình trạng thiếu thốn. Con đường học tập của các em,
nếu cố gắng có thể theo đến cấp 3, còn việc tiếp cận đến các cấp
học cao hơn trở lên rất khó khăn.
Kết quả nghiên cứu tại Yên Thường năm 2007 cũng cho thấy, chỉ

những hộ thuộc nhóm có mức thu nhập từ trung bình trở lên mới
đề cập nhiều đến thông tin về khoản chi phí giáo dục. Nhóm hộ
nghèo thì khoản chi tiêu giáo dục hầu như không được kể đến.
Mặc dù con cái vẫn đang ở tuổi học, song vì điều kiện kinh tế,
nên cha mẹ buộc phải cho con nghỉ học sớm, tham gia lao động
hỗ trợ gia đình. Các con số dưới đây sẽ giúp chúng ta hình dung
những khó khăn của họ.

- Tiểu học: Học phí 240.000đ (cả tiền ăn trưa và học phí); học
thêm (2 môn)* 240.000đ/tháng; Hội phụ huynh học sinh
50.000đ/năm, Bảo hiểm thân thể: 100.000đ/năm.
- Trung học cơ sở: Học phí 90.000đ/tháng, học thêm
40.000đ/tháng (3 môn toán, văn, ngoại ngữ), Tiền xây dựng
trường 25.000đ, Hội phụ huynh học sinh 30.000đ/năm, Bảo hiểm
y tế 100.000đ/năm, Bảo hiểm thân thể 90.000đ/năm.
- Phổ thông trung học: Học phí 35.000đ/tháng, cộng thêm
30.000đ/tháng thu tăng cường, Xây dựng trường 50.000đ/năm,
Quỹ hội phụ huynh 50.000đ/năm, Quỹ hội cha mẹ của lớp
50.000đ. tiền hồ sơ 50.000đ/năm, Xây dựng nhà thể chất
50.000đ/năm, tiền bảo trì máy tính của trường 10.000đ/tháng,
tiền học thêm các môn chính 200.000đ/tháng.
- Học Cao đẳng, đại học: Học phí 250.000đ/1tháng, thuê nhà trọ:
250.000 đ/tháng, tiền ăn 1.000.000đ/tháng.
Với mức chi trên, các hộ thuộc nhóm nghèo có thu nhập bình
quân đầu người trên 3 triệu /năm thì việc cho con cái theo học ở
cấp I, II là một vấn đề khó khăn. Nếu hộ có 6 sào ruộng, năng
suất một vụ 1, 7 t ạ/sào, họ thu được trên 1 tấn thóc /năm và
khoản chi phí giáo dục chiếm từ 40 đến 50% tổng thu bằng thóc
của hộ gia đình. Từ cấp phổ thông trung học trở lên, chi phí học
chính thức chưa nhiều hơn cấp phổ thông cơ sở. Nhưng để theo

kịp chương trình và thi đỗ vào đại học, chi phí học thêm thường
gấp đôi, nên chỉ những hộ có thu nhập từ loại khá trở lên mới có
thể kham nổi. Và nếu muốn con cái học nghề để thoát ly hay học
đại học, thì thu nhập của một gia đình phải đạt từ
40.000.000đ/năm (3).
Như vậy, thực tế và khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em trong
các nhóm hộ dân cư Yên Thường hiện nay là rất khác nhau. Mặc
dù trong những năm qua, chính sách giáo dục của Nhà nước đã
có nhiều hỗ trợ và ưu tiên cho các nhóm xã hội yếu thế, đặc biệt
là gia đình nghèo, nhưng thực tế con cái của một số nhóm hộ
nông dân này vẫn không thể tiếp cận tốt đến hệ thống giáo dục.
Rõ ràng là, với điều kiện và ưu thế xã hội thì nhóm hộ gia đình
mức sống khá giả, giàu đang tạo điều kiện tốt nhất cho trẻ em tiếp
cận giáo dục, trong khi nhóm hộ trung bình, đặc biệt là hộ nghèo,
thì trẻ em không có điều kiện học tập tốt nhất; hơn nữa, khả năng
tiếp cận học tập ở bậc học cao là rất khó, nhất là trong bối cảnh
chi phí học hành ngày một tăng cao như hiện nay.
Chăm sóc sức khỏe: ăn uống và khám chữa bệnh
Hiện nay các khác biệt liên quan đến chăm sóc sức khỏe, cụ thể
là cơ hội tiếp cận nguồn thực phẩm và các loại hình dịch vụ chăm
sóc sức khỏe, khám chữa bệnh đang có sự phân cấp ngày càng
mạnh giữa các nhóm dân cư ở Yên Thường. Nghiên cứu năm
2007 ở Yên Thường cho thấy, có sự khác biệt đáng kể trong chi
tiêu ăn uống giữa các nhóm hộ gia đình. Chỉ số chi tiêu thấp nhất
là trên 3.000đ/người /ngày tới chỉ số cao nhất là trên
30.000đ/người /ngày. Nhóm hộ gia đình có nguồn thu nhập thấp
có mức chi tiêu kém nhất, chỉ số chi bình quân ngày mỗi người là
khoảng 3.000đ, chi cho cả gia đình một ngày chỉ từ 12.000đ đến
15.000đ. Họ chỉ dám mua bìa đậu, cùng lắm là vài lạng cá khô
cho bữa ăn. Thịt, cá thì thỉnh thoảng mới có tiền mua và cũng chỉ

dám dùng thực phẩm loại 2. Nhóm hộ trung bình, mức chi cho ăn
uống hàng ngày có chỉ số từ 7.000đ đến 10.000đ/ người /ngày.
Mặc dù kinh tế không còn khó khăn nhưng thịt, cá vẫn chưa thể
là món thường xuyên trong bữa ăn hàng ngày của họ. Nhóm hộ
gia đình khá giả có chỉ số chi tiêu cao nhất khoảng 30.000đ người
/ngày và thịt, cá trở thành món ăn bình thường đối với họ. Ba chỉ
số trên thể hiện ba mức ăn uống cơ bản. Một là mức ăn mới đảm
bảo phần lương thực hay chất bột, trong khi thực phẩm có chất
dinh dưỡng mới dừng lại ở mức thỉnh thoảng. Hai là mức ăn vừa
bảo đảm phần lương thực, vừa bảo đảm nhu cầu về chất đạm,
chất béo. Ba là mức ăn uống vừa đầy đủ dinh dưỡng vừa phong
phú về hương vị, có thể thoả mãn nhu cầu ẩm thực của con người
(4).
Việc mở rộng và nâng cấp hệ thống chăm sóc sức khỏe cho người
dân, bao gồm bệnh viện của Nhà nước và cơ sở khám chữa bệnh
tư nhân ở Yên Thường và các khu vực lân cận đã tạo nhiều cơ hội
cho người dân đến kiểm tra sức khỏe và điều trị bệnh tật. Tuy
nhiên, cơ chế khám, điều trị bệnh hiện nay đang có nhiều ảnh
hưởng tới thái độ và hành vi khám chữa bệnh, hay nói cách khác
là ảnh hưởng tới khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khoẻ
của các nhóm xã hội. Quan sát cho thấy hành vi chăm sóc sức
khỏe của các nhóm xã hội ở Yên Thường là hoàn toàn khác nhau,
chủ yếu xuất phát từ điều kiện kinh tế và khả năng chi trả của mỗi
hộ gia đình. Nhóm hộ khá giả và giàu quan tâm nhiều đến việc
chăm sóc sức khỏe, họ thường đi kiểm tra sức khỏe định kỳ. Nếu
bị bệnh, họ có khả năng đến thẳng tuyến bệnh viện cấp trung
ương để điều trị, mua được và sử dụng các loại thuốc đặc trị; hơn
nữa, họ còn có điều kiện mua sắm dụng cụ y tế như tủ thuốc gia
đình, máy đo tim, huyết áp, máy xoa bóp hỗ trợ sức khỏe. Trong
khi đó, nhóm trung bình và nghèo ít quan tâm đến sức khỏe,

nhóm nghèo - mặc dù được hỗ trợ thẻ khám bệnh miễn phí -
nhưng họ không đi kiểm tra sức khỏe định kỳ và chỉ đến cơ sở y
tế khi bệnh đã ở giai đoạn cuối. Họ thường mua thuốc tự điều trị,
ít khả năng tiếp cận các bệnh viện cấp trung ương, mua các loại
thuốc đặc trị đắt tiền.*
Khi tìm hiểu về vấn đề chi tiêu cho khám chữa bệnh của hộ gia
đình, kết quả nghiên cứu năm 2007 cũng cho thấy nhiều khác biệt
trong hành vi khám chữa bệnh. Điều ngạc nhiên, chỉ các hộ
nghèo có mức thu nhập thấp và một số hộ có mức thu nhập trung
bình mới nắm được là năm qua họ phải chi tiêu cho việc mua
thuốc điều trị bệnh cho bản thân hay thành viên của gia đình.
Trong khi đó, nhóm hộ kinh tế khá và giàu thường nhắc đến
khoản chi tiêu mua thuốc thuốc bổ (đa số là cắt thuốc Bắc) và các
khoản chi cho việc đi khám kiểm tra sức khỏe định kỳ. Phải
chăng, chỉ ở những hộ nghèo thì tình trạng sức khoẻ mới yếu và
bệnh tật là điều không thể tránh khỏi. Còn những hộ gia đình khá
giả, điều kiện sản xuất và điều kiện sống đã khác, có kinh tế nên
việc chăm sóc sức khoẻ và phòng bệnh cho bản thân đã được
quan tâm hơn nên hạn chế ốm đau, bệnh tật?(5).
Như vậy, các dẫn chứng trên tiếp tục cho thấy sự thay đổi đời
sống ở Yên Thường, với việc cải thiện chất lượng bữa ăn hàng
ngày và sự mở rộng hệ thống y tế đã tạo điều kiện tốt cho người
dân nâng cao chất lượng cuộc sống, thay đổi hành vi chăm sóc
sức khỏe khám chữa bệnh. Nhưng thực tế cho thấy, việc đón
nhận những thay đổi có khác biệt giữa các nhóm xã hội. Nhóm
hộ kinh tế khá và giàu không chỉ đã cải thiện tốt bữa ăn, mà hơn
thế họ có nhiều khả năng tiếp cận hệ thống chăm sóc sức khỏe
với chất lượng cao. Trong khi đó nhóm hộ có mức sống trung
bình, đặc biệt là hộ nghèo thì thực đơn bưa ăn chưa được cải
thiện nhiều, việc tiếp cận đến hệ thống dịch vụ chăm sóc sức

khỏe chất lượng cao vẫn còn hạn chế.
3.2. Cơ hội phát triển sản xuất và vay vốn phát triển sản xuất
Sự chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế
thị trường đã tạo điều kiện cho cộng đồng nông thôn Yên Thường
phát triển kinh tế. Cơ chế, chính sách mới không chỉ tạo ra môi
trường phát triển đa dạng, mà còn tạo cơ hội bình đẳng cho cá
nhân, hộ gia đình trong phát triển kinh tế. Trong những năm qua,
các cá nhân, nhóm hộ đều hưởng một cơ chế chính sách xã hội
như nhau, nhưng thực tiễn cho thấy, khả năng tiếp cận cơ hội
phát triển kinh tế của cá nhân và các nhóm xã hội hoàn toàn khác
nhau. Lý do của khác biệt này được nhiều nghiên cứu nhìn nhận
là do các khác biệt trình độ học vấn, vốn, quan hệ xã hội (6) v.v
Kết quả nghiên cứu ở Yên Thường năm 2002 cũng cho thấy rất
rõ năng lực và khả năng tiếp cận cơ hội phát triển kinh tế của các
nhóm hộ: Hộ gia đình có quy mô sản xuất lớn: Số hộ gia đình
được xếp vào nhóm có quy mô sản xuất lớn chiếm trên 10% tại
xã Yên Thường. Đây là nhóm chủ hộ có học vấn cao, biết tính
toán, biết tận dụng nguồn lao động trong gia đình để phát triển
kinh tế. Họ luôn là những hộ đi đầu trong việc tiếp thu và triển
khai ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất nông nghiệp, có
kinh nghiệm sản xuất và trình độ nắm bắt kỹ thuật rất tốt. Khi
ứng dụng kỹ thuật, họ thường chú ý đến từng công đoạn một cách
tỉ mỉ, từ công đoạn làm mạ, làm đất, gieo cấy, chăm sóc và triển
khai quy trình như một cán bộ kỹ thuật nông nghiệp thực thụ,
được áp dụng một cánh chính xác. Trong chăn nuôi, họ quan tâm
từ chuồng trại, tiêm phòng dịch, cơ cấu thức ăn, thời gian xuất
chuồng Họ cũng thường xuyên thay giống để tránh sự thoái hoá
và lẫn giống, biết phân tích các kỳ sinh trưởng của vật nuôi, cây
trồng để áp dụng các biện pháp kỹ thuật một cách chính xác và
hiệu quả. Sự hiểu biết này đã giúp năng suất tăng. Khả năng về

vốn, các mối quan hệ và tính năng động xã hội đã giúp nhóm hộ
gia đình này luôn có được những giống cây con mới nhất từ các
dự án chuyển giao kỹ thuật và trạm kỹ thuật giống của Nhà nước,
được bảo đảm độ thuần chủng và năng suất cao. Việc tiếp cận
tiến bộ khoa học mới của nhóm hộ này không chỉ qua các kênh
chính thức mà còn qua sách báo, tìm kiếm hướng dẫn về kỹ thuật
để tự học và ứng dụng. Nhiều hộ gia đình đã có kinh nghiệm, có
quan hệ làm ăn và lợi thế về vốn đã bao thêm cả thị trường đầu
vào và đầu ra như mở đại lý kinh doanh giống, vật tư nông
nghiệp và máy móc lớn phục vụ cho nhu cầu sản xuất của cộng
đồng. Các hộ trong nhóm này cũng có mối quan hệ làm ăn với
nhau rất chặt chẽ từ trao đổi về giống, kỹ thuật, vốn và cả đầu ra
của sản phẩm. Tuy là nhóm xã hội không chính thức, nhưng cơ
chế hoạt động gần như là tổ chức của một hội, có sự hỗ trợ nhau
về nhiều phương diện, được chính quyền chú ý và mời tham gia
vào các hội nghị - hội thảo về mô hình phát triển kinh tế, được
mời đi tham quan tìm hiểu và quan hệ làm ăn với các đối tác khác
trên mọi miền đất nước: hộ gia đình thuộc nhóm 2, có quy mô
sản xuất trung bình chiếm khoảng trên 60%, là nhóm đông nhất
hiện nay. Trình độ học vấn thấp, đa số học hết cấp 2 hoặc chưa
hết cấp 2. Trình độ học vấn ở bậc học này chưa đủ kiến thức để
có thể hiểu và áp dụng kỹ thuật, vì vậy các hộ gia đình nhóm này,
dù có nhân lực và nguồn vốn đầu tư tối thiểu, nhưng họ lại
thường không hiểu tường tận kỹ thuật hay áp dụng kỹ thuật một
cách thiếu chính xác vào trồng trọt, chăn nuôi. Nếu ở nhóm 1, các
hộ đã tiếp nhận kỹ thuật tốt và quy mô sản xuất tương đối lớn,
nên họ thường đầu tư theo hướng chuyên sâu, thì nhóm 2 tiếp cận
kỹ thuật yếu hơn, quy mô sản xuất chưa được mở rộng và chuyên
sâu. Về vốn, họ tự đầu tư với phương thức có đến đâu làm đến
đó, sợ rủi ro, không mạo hiểm. Sự hạn chế ở quan hệ xã hội và

tính năng động của các hộ gia đình này dẫn đến tính phụ thuộc
vào thị trường, chưa nhạy bén, chủ động trong tiếp cận kỹ thuật
mới và tìm nơi tiêu thụ sản phẩm. Họ cũng biết đưa giống cây,
con và quy trình kỹ thuật vào sản xuất, song do chưa am hiểu sâu
nên sản xuất chưa thực sự hiệu quả, nên chưa kích thích họ mở
rộng quy mô sản xuất. Quan niệm của họ trong làm kinh tế là
phải ổn định và an toàn. Họ cũng có xu hướng tìm việc làm thuê
cho nhóm hộ 1 và làm các nghề phụ như thợ xây, thợ nề, thợ sắt,
hay kinh doanh buôn bán nhỏ.******
Những hộ gia đình được đánh giá là có quy mô sản xuất nhỏ và
mức thu nhập thấp nhất, chiếm khoảng 14% tổng số hộ gia đình
trên toàn xã. Tìm hiểu và phân tích điều kiện sản xuất của các gia
đình thuộc nhóm này, chúng tôi thấy họ không đơn giản là chỉ
thua kém về trình độ học vấn, vốn, hay quan hệ xã hội so với 2
nhóm trên, mà họ còn yếu về sức khoẻ và khả năng lao động.
Nhiều hộ gia đình chủ hộ đều ở tuổi từ 50 trở lên, một số gia đình
trẻ thì có chồng hoặc vợ bị tàn tật, con cái còn nhỏ, không có khả
năng lao động.
Những dẫn chứng trên cho thấy, cơ chế chính sách mới đã tạo
nhiều cơ hội phát triển kinh tế cho người dân Yên Thường. Tuy
nhiên, khả năng tiếp cận của các nhóm hộ là rất khác nhau. Một
nhóm nhỏ nông dân, do có điều kiện về học vấn, vốn, quan hệ xã
hội và tính năng động xã hội đã tiếp nhận kỹ thuật mới và ứng
dụng nó vào hoạt động sản xuất của hộ mình. Sự tiếp nhận đó đã
dẫn đến sự thay đổi về nhận thức, hành vi sản xuất. Vấn đề lại
diễn ra ngược lại đối với phần đông các hộ gia đình nhóm hộ
trung bình, đặc biệt là nhóm nghèo, do thiếu trình độ học vấn,
vốn, quan hệ và tính năng động xã hội, nên không có nhiều cơ
hội tiếp cận với tiến bộ kỹ thuật, do vậy, nhận thức và hành vi sản
xuất của hộ gia đình chưa thay đổi. Cách thức sản xuất còn mang

tính truyền thống, kinh tế chưa thoát khỏi tính chất tự cung tự
cấp. Tuổi tác của chủ hộ cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến khả
năng tiếp thu và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật của hộ gia đình. Cơ
cấu việc làm của các hộ thuộc nhóm hộ này bao gồm việc làm tại
gia đình là làm nông và ngoài gia đình là làm thuê, làm mướn.
Đáng quan tâm là hoạt động ngoài gia đình lại là nơi cung cấp
công việc cho thành viên gia đình, các hộ gần như chưa tạo được
việc từ chính hoạt động sản xuất nông nghiệp tại cơ sở kinh tế gia
đình. Họ nhận các việc làm thuê tại cộng đồng, nhiều khi khó
khăn phải ra đô thị tìm kiếm việc làm. Trình độ và tay nghề thấp
nên việc tìm được một việc làm ổn định là khó. Công việc họ
nhận được chủ yếu là những việc không đòi hỏi trình độ kỹ thuật
như quét rọn vệ sinh đường làng, vận chuyển vật liệu xây dựng.
Cùng với sự thay đổi về cơ chế chính sách thì hệ thống dịch vụ
vay vốn cũng phát triển mạnh. Các Ngân hàng Nông nghiệp và
phát triển nông thôn, Ngân hàng Ngoại thương đều có trụ sở
đóng trên địa bàn hoặc gần xã, với thủ tục vay vốn nhanh chóng,
thuận tiện, cơ chế vay có nhiều ưu đãi. Tuy nhiên, điều đáng quan
tâm là khả năng tiếp cận các nguồn vốn vay này giữa các nhóm
hộ gia đình là không như nhau. Cũng từ kết quả nghiên cứu năm
2007 cho thấy, sự tiếp cận đến nguồn vốn vay giữa các nhóm hộ
khác nhau. ý kiến của một người phụ nữ thuộc hộ nghèo trong xã
đã phần nào nói lên thực tế này: “Tôi cũng không biết nữa, chỉ
biết là cứ nói cho người nghèo vay vốn làm kinh tế, nhưng rồi có
được vay đâu, người giàu họ có điều kiện hơn thì lại được vay”.
“Tôi thấy người nghèo làm gì có điều kiện để mà gần gũi, thân
thiết với cán bộ” (7).
Thông tin trên cho thấy cơ hội tiếp cận dịch vụ vay vốn để phát
triển kinh tế của các nhóm xã hội là khác nhau. Nhóm hộ nghèo
thiếu vốn phát triển nhưng họ ít cơ hội tiếp cận nguồn vốn, còn

nhóm hộ giàu và khá giả, mặc dù đã có nguồn vốn lớn nhưng họ
vẫn có nhiều cơ hội tiếp cận dịch vụ vay vốn ngân hàng. Hộ
nghèo chưa tiếp cận được với nguồn vốn ngân hàng do nhiều lý
do, trong đó, ngoài khả năng chi trả hoàn vốn còn có vấn đề liên
quan đến quan hệ xã hội của người vay với hệ thống chính quyền
và ngân hàng, điều này hộ nghèo không có.
4. Một số nhận xét
Những dẫn chứng minh họa và phân tích trên cho thấy bức tranh
về sự tham gia và khả năng tiếp cận các cơ hội phát triển, hòa
nhập đời sống xã hội của các cá nhân và nhóm hộ gia đình ở một
xã nông thôn đồng bằng sông Hồng thời kỳ sau đổi mới. Cơ chế,
chính sách, thiết chế xã hội mới đang có tác động đến diện mạo
kinh tế - xã hội nông thôn, làm thay đổi mọi mặt đời sống của cá
nhân, nhóm hộ gia đình. Tuy nhiên, cơ chế, chính sách* xã hội
mới này đã và đang tạo ra sự chênh lệch khoảng cách xã hội mới
giữa các cá nhân, nhóm hộ gia đình trong việc tiếp cận đến hệ
thống dịch vụ xã hội, phát triển kinh tế của các cá nhân, hộ gia
đình.**
- Về giáo dục: Mặc dù trong những năm qua, Nhà nước đã có
nhiều hỗ trợ và ưu tiên cho các nhóm xã hội yếu thế, nhóm
nghèo, nhưng trên thực tế, con cái của nhóm hộ nông dân mức
sống nghèo, trung bình ở Yên Thường chưa thể tiếp cận đến hệ
thống giáo dục. Rõ ràng là hệ thống giáo dục hiện nay mới chỉ
tạo cơ hội tốt cho các nhóm xã hội có ưu thế, gia đình mức sống
khá giả, giàu.
- Về chăm sóc sức khỏe: Đời sống vật chất ở Yên Thường đã có
nhiều thay đổi, người dân đã chú ý cải thiện chất lượng bữa ăn
hàng ngày và được hưởng hệ thống dịch vụ khám chữa bệnh có
chất lượng cao. Tuy nhiên, chỉ nhóm giàu và khá giả mới cải
thiện tốt bữa ăn, tiếp cận đến hệ thống chăm sóc sức khỏe mới

chất lượng cao. Nhóm hộ có mức sống trung bình, đặc biệt là hộ
nghèo vẫn chưa thể tiếp cận nguồn thực phẩm có nhiều dinh
dưỡng và hưởng lợi từ mạng lưới dịch vụ chăm sóc sức khỏe chất
lượng cao.
- Về phát triển kinh tế và tiếp cận vốn ngân hàng: Cơ chế, chính
sách mới đã tạo cơ hội phát triển kinh tế cho người dân Yên
Thường. Tuy vậy, chỉ nhóm hộ nông dân do có điều kiện về học
vấn, vốn, quan hệ xã hội mới có khả năng tiếp nhận kỹ thuật mới,
ứng dụng nó vào hoạt động sản xuất của hộ gia đình. Nhóm
nghèo, do thiếu trình độ học vấn, vốn, quan hệ và tính năng động
xã hội, nên không có nhiều cơ hội tiếp cận với tiến bộ kỹ thuật,
do vậy nhận thức và hành vi sản xuất của hộ gia đình chưa thay
đổi. Sản xuất còn mang tính truyền thống, kinh tế chưa thoát khỏi
tính chất tự cung tự cấp. Khả năng tiếp cận dịch vụ vay vốn ngân
hàng để phát triển kinh tế của nhóm hộ nghèo còn nhiều khó
khăn.
(1) Ngân hàng Thế giới, 2005, Báo cáo phát triển Thế giới: Công
bằng và phát triển. Hà Nội: Nxb. Văn hóa.
(2)* Ủy ban nhân dân xã Yên Thường, Báo cáo tình hình phát
triển kinh tế - xã hội xã Yên Thường năm 2007.
(3) Nguyễn Đức Chiện, 2007, Một số biến đổi ở một làng Việt cổ
truyền sau hơn hai mươi năm đổi mới. Báo cáo chuyên đề thuộc
đề tài cấp Nhà nước, mã số KX 02.10 (Viện Xã hội học).
(4) Nguyễn Đức Chiện, 2007, Một số biến đổi ở một làng Việt cổ
truyền sau hơn hai mươi năm đổi mới. Báo cáo chuyên đề thuộc
đề tài cấp Nhà nước, mã số KX 02.10 (Viện Xã hội học).
(5) Nguyễn Đức Chiện, 2007, Một số biến đổi ở một làng Việt cổ
truyền sau hơn hai mươi năm đổi mới. Báo cáo chuyên đề thuộc
đề tài cấp Nhà nước, mã số KX 02.10 (Viện Xã hội học).
(6) Tô Duy Hợp, 1997, Ninh Hiệp truyền thống và phát triển,

Nxb. Chính trị quốc gia; Phạm Liên Kết, Nguyễn Đức Chiện,
Trưởng thôn và việc giải quyết mối quan hệ giữa phép nước và lệ
làng (Nghiên cứu trường hợp tại một cộng đồng dân cư thuộc
nông thôn Bắc Bộ). Đề tài tiềm năng Viện Xã hội học năm 2003.
(Bài đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 155-thang-10-
2009 ngày 10/10/2009) ThS. Nguyễn Đức Chiện - Viện Xã hội
học.




×