Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Tài liệu Giáo dục quyền con người trong các cơ sở đào tạo chuyên ngành Luật ở Việt Nam pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.77 KB, 18 trang )





Giáo dục quyền con người trong
các cơ sở đào tạo chuyên ngành
Luật ở Việt Nam

Quyền con người là một giá trị hội tụ trong đó nhiều giá trị khác
về văn hóa, lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội, pháp lý…

1. Tổng quan về quyền con người trong hệ thống pháp luật
Việt Nam
Quyền con người là một giá trị hội tụ trong đó nhiều giá trị khác
về văn hóa, lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội, pháp lý… Nó là
thành quả của quá trình phát triển về nhận thức và tri thức của
con người, thuộc sở hữu của chung nhân loại. Tuy nhiên trong
thực tế, quyền con người luôn gắn vớiquan niệm chủ quan, với
các giá trị khác nhau, cho nên, một mặt, chúng ta phải thừa nhận
những quan niệm mang tính dân tộc về quyền con người; mặt
khác, chúng ta phải đối mặt với tình trạng là ðôi khi nhân danh
quyền con người, các cá nhân, các nhóm người, vì lợi ích riêng
của mình, đã đưa ra những ðòi hỏi vô lý, trái với lợi ích chung
của cả cộng đồng người. Cũng do ðó mà, quyền con người
thường trở thành vấn đề gây tranh cãi trên trường quốc tế, nhất là
khi nó được lồng vào một động cơ chính trị (nhiều khi nó được
coi như một thứ để “mặc cả” trong các đàm phán, thương lượng
quốc tế). Như vậy, quyền con người - tự thân nó là một giá trị
chứa đựng rất nhiều yếu tố tích cực, nhưng để nó thực sự là mẫu
số chung quy đồng các giá trị khác nhau trong xã hội, thì cần phải
tiếp cận nó trong sự cân bằng với nhiều mối tương quan.


*“Ở nước ta, vấn đề quyền con người được quan tâm từ rất sớm,
trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 khai sinh nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Đó là
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. ở
nước ta, vấn đề quyền con người được quan tâm từ rất sớm, trong
Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 khai sinh nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh - trên cơ sở kế thừa bản Tuyên
ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776 và bản Tuyên ngôn Nhân
quyền của nước Pháp năm 1789 - đã khẳng định: đó là quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Trên cơ sở
đó, trong đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta ở các
thời kỳ khác nhau, đặc biệt trong giai đoạn khi chuyển sang nền
kinh tế thị trường và trong quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO), những vấn đề về nhân quyền đã có
sự thay đổi rất lớn về lượng và chất không chỉ trong quan niệm
mà cả trong thực tiễn áp dụng. Hiện nay, ở nước ta hệ thống pháp
luật điều chỉnh những vấn đề liên quan đến quyền con người thể
hiện ở khá nhiều lĩnh vực. Trước tiên phải kể đến Hiến pháp
1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) khẳng định: “ở nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể
hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và
luật” (Điều 50); “ Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân;
công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và
xã hội ” (Điều 51); “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp
luật” (Điều 52) Trên cơ sở các quy định có tính chất nguyên tắc
chung nói trên của Hiến pháp, quyền con người ở nước ta được
pháp luật ghi nhận tập trung ở một số lĩnh vực sau (1):
1.1. Các quyền trong lĩnh vực chính trị
Điều 54 của Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân, không

phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn
giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ nười tám
tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên
đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy
định của pháp luật” (Điều 54). Cụ thể hóa nội dung này của Hiến
pháp, Quốc hội đã ban hành các luật: Luật Bầu cử đại biểu Quốc
hội năm 1997, được sửa đổi, bổ sung một số điều vào năm 2002;
Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 1994, được thay
thế bằng Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003.
Nhiều văn bản luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội và ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định cụ thể các quyền của công dân
tham gia trực tiếp và gián tiếp vào công việc quản lý nhà nước,
như quyền được biết, được bàn, được làm và được kiểm tra, giám
sát. Riêng quyền thực hiện dân chủ trực tiếp ở cơ sở, ủy ban
thường vụ Quốc hội đã ban hành các nghị quyết về quy chế thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (năm1998); quy chế thực hiện
dân chủ trong hoạt động của doanh nghiệp nhà nước (năm 1998);
quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của các cơ quan (năm
1998); Pháp lệnh về việc thực hiện dân chủ ở xã, phường năm
2007.
1.2. Các quyền trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội
Hiến pháp năm 1992 đã quy định công dân có các quyền và nghĩa
vụ học tập; quyền và nghĩa vụ lao động; quyền được hưởng chế
độ bảo vệ sức khỏe; quyền về nhà ở; quyền sở hữu, tự do kinh
doanh… Các quyền và nghĩa vụ này đều đã được Quốc hội và ủy
ban Thường vụ Quốc hội cụ thể hóa trong các luật và pháp lệnh,
như: Luật Giáo dục năm 1998, được thay thế bằng Luật năm
2005; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm1991, được
thay thế năm 2004; Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân (năm 1989);
Bộ luật Lao động năm 1994, được sửa đổi, bổ sung vào các năm

2002, 2006 và 2007; Luật Dạy nghề năm 2006; Luật người lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm
2006; Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm
miễn dịch ở người (HIV/AIDS) năm 2006; Luật Phòng, chống
bệnh truyền nhiễm năm 2007; Luật Bình đẳng giới năm 2006;
Luật Nhà ở năm 2005; Luật Xây dựng năm 2003; …
Trong các quyền nêu trên, quyền tự do kinh doanh là quyền mới
được quy định trong Hiến pháp, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế trong điều kiện mới, tạo tiền đề quan trọng cho việc thực thi
dân chủ và quyền con người. Để cụ thể hóa vấn đề này, Quốc hội
cũng đã ban hành nhiều văn bản luật, như: Bộ luật Dân sự, Bộ
luật Lao động, Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam,
Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Đầu tư, Luật Doanh
nghiệp, Luật Thương mại, Luật Hàng hải…
1.3. Các quyền liên quan đến nhóm đối tượng đặc thù (phụ nữ, trẻ
em, người tàn tật, người cao tuổi): Đây là lĩnh vực xã hội rất quan
tâm, đã được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật,
góp phần quan trọng vào những thành tựu về bảo đảm và thúc
đẩy các quyền của nhóm đối tượng được coi là yếu thế, nhạy cảm
trong xã hội. Các quy định cụ thể trong Luật Bình đẳng giới cùng
với các quyền được chăm sóc và bảo vệ sức khỏe bà mẹ, trẻ em;
các chính sách về bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế, chế độ thai sản, chế độ đối với lao động nữ (Luật Bảo hiểm xã
hội; Luật Phòng, chống bạo lực gia đình; Luật Bảo hiểm y tế;
Luật Dạy nghề; Luật Thanh niên), … đã tạo điều kiện để phụ nữ
từng bước thực hiện tốt vai trò người công dân, người lao động,
người mẹ, người thầy đầu tiên của con người; đồng thời, cũng
góp phần phòng chống các tệ nạn xã hội, các hành vi bạo lực,
xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ, trẻ em.
Các quyền cơ bản của trẻ em như: quyền được sống, được bảo vệ

thân thể, nhân phẩm; quyền được chăm sóc sức khỏe; quyền được
học tập, được phát triển; quyền được vui chơi, giải trí; quyền
được bày tỏ ý kiến, nguyện vọng… đều được cụ thể hóa trong
các quy định của pháp luật (Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em; Luật Giáo dục). Quốc hội đã phê chuẩn việc Việt Nam
tham gia Công ước Quốc tế về bảo vệ trẻ em; thông qua Luật Bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1998, được thay thế vào
năm 2004. Nội dung này cũng được quy định tại nhiều văn bản
luật khác. Trong điều kiện kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn,
Đảng và Nhà nước vẫn dành nhiều ưu đãi cho trẻ em bằng việc
miễn phí khám, chữa bệnh cho trẻ em dưới 6 tuổi, chính sách phổ
cập giáo dục phổ thông cơ sở… là những cố gắng lớn.
Các quyền của đối tượng tàn tật, người cao tuổi cũng như các
chính sách đối với họ được quy định tại Pháp lệnh về người tàn
tật năm 1998; Pháp lệnh Người cao tuổi năm 2000, Bộ luật Lao
động, Luật Dạy nghề
1.4. Các quyền về nhân thân
Quy định khá cụ thể trong nhiều văn bản pháp luật, bao gồm:
quyền tự do đi lại, tự do cư trú (Bộ luật Dân sự; Pháp lệnh xuất
nhập cảnh, cư trú của người nước ngoài ở Việt Nam; Luật Cư
trú); quyền tự do ngôn luận (Luật Báo chí năm 1990, sửa đổi năm
1999; Luật Xuất bản năm 2004, sửa đổi năm 2008); quyền tự do
tín ngưỡng (Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo; Luật Đất đai; Bộ
luật Hình sự); quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền được
bảo đảm bí mật về thư tín, điện thoại, điện tín (Bộ luật Hình sự;
Pháp lệnh Bưu chính viễn thông); quyền khiếu nại, tố cáo (Luật
Khiếu nại, tố cáo năm 1998, được sửa đổi, bổ sung vào năm 2004
và năm 2005; đồng thời quy định trong nhiều văn bản pháp luật
khác như: Luật Đất đai, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng
dân sự, Luật về Luật sư, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt…); quyền

bất khả xâm phạm về thân thể và quyền tự do cá nhân. Để bảo
đảm thực thi những quy định của Hiến pháp về quyền bất khả
xâm phạm về thân thể và quyền tự do cá nhân, Quốc hội đã ban
hành nhiều văn bản pháp luật, gồm: Bộ luật Hình sự; Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003; Pháp lệnh Thi hành án phạt tù năm 1999,
được sửa đổi bổ sung năm 2004; Luật Đặc xá năm 2007. Nghị
quyết số 388/NQ-UBTVQH11 ngày 17/3/2003 của ủy ban
Thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do
người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra đã
quy định, công dân bị thiệt hại do bị oan trong hoạt động này có
quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự. Mới
đây, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XII đã xem xét, cho ý kiến
về dự án luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự
theo hướng bỏ bớt hình phạt tử hình đối với một số tội danh; xem
xét dự án Luật Lý lịch tư pháp, Luật Bồi thường nhà nước… là
các dự án luật liên quan nhiều đến các quyền tự do dân chủ, tự do
cá nhân của công dân.
Về quyền tự do tín ngưỡng, Điều 70 Hiến pháp năm 1992 quy
định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước
pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được
pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn
giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và
chính sách của Nhà nước”. Để thực hiện các quy định này, trước
đây chỉ có các văn bản của Chính phủ, nhưng gần đây ủy ban
Thường vụ Quốc hội đã nâng lên thành một văn bản có giá trị
pháp lý cao hơn, đó là Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo.
Ngoài ra, việc xây dựng và hoàn thiện các cơ chế bảo vệ và bảo
đảm việc thực hiện các quyền nói trên cũng được coi trọng. Hiến
pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung một số điều vào năm 2001,

Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Tòa
án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Hoạt
động giám sát của của Quốc hội, … đều đã thể hiện rõ ý tưởng
này, có nhiều điều quy định về tổ chức bộ máy nhà nước, cơ chế
vận hành, trách nhiệm, quyền hạn… bảo đảm thực hiện các
quyền cơ bản của công dân, làm cho nhà nước thực sự là của dân,
do dân và vì dân.
Sự thận trọng đến mức dè dặt, chậm chạp trong việc tuyên
truyền, giảng dạy về quyền con người làm ảnh hưởng nhất định
về nhận thức của xã hội nói chung và của cá nhân, cơ quan, tổ
chức nói riêng trong việc thực hiện và đảm bảo các quyền con
người ở nước ta. Tuy nhiên, cũng cần khẳng định rằng, vấn đề
nhân quyền và thực thi quyền con người ở nước ta vẫn chưa đạt
hiệu quả như mong muốn. Có thể lý giải vấn đề này từ nhiều
nguyên nhân khác nhau, trong đó có việc tuyên truyền, giảng dạy,
đào tạo về quyền con người ở nước ta còn nhiều hạn chế. Sự thận
trọng đến mức dè dặt, chậm chạp trong việc tuyên truyền, giảng
dạy về quyền con người làm ảnh hưởng nhất định về nhận thức
của xã hội nói chung và của cá nhân, cơ quan, tổ chức nói riêng
trong việc thực hiện và đảm bảo các quyền con người ở nước ta.
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi trao đổi về việc giáo dục
quyền con người ở Việt Nam tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành
luật.
2. Thực trạng giáo dục quyền con người tại các cơ sở đào tạo
chuyên ngành luật ở Việt Nam (2)
Ở nước ta, việc tìm hiểu, nghiên cứu và giảng dạy về nhân quyền
được quan tâm một cách chính thức cách đây khoảng 15 năm.
Năm 1994, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (nay là Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh) đã thành lập
một cơ quan nghiên cứu về nhân quyền là Trung tâm Nghiên cứu

nhân quyền (nay đổi tên là Viện nghiên cứu Quyền con người)
nhưng thực tế hầu như không giảng dạy mà nghiên cứu các vấn
đề lý luận về nhân quyền. Ngoài ra, còn có các trung tâm nghiên
cứu về quyền con người như: Viện Nghiên cứu con người (Viện
Khoa học xã hội Việt Nam); Khoa Luật (Đại học Quốc gia Hà
Nội); Trung tâm nghiên cứu pháp luật về Quyền con người và
quyền công dân (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh)
nhưng kết quả nghiên cứu và giảng dạy còn rất khiêm tốn.
Các cơ sở đào tạo trình độ cử nhân luật ở nước ta chủ yếu tập
trung ở các trường công lập như Trường đại học Luật Hà Nội;
Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh; Khoa Luật Đại học
quốc gia Hà Nội; Khoa Luật - Đại học Khoa học Huế; Trung tâm
đào tạo từ xa Đại* học Huế; và một số khoa luật thuộc các trường
Đại học Đà Nẵng, Đại học Cần Thơ, Đại học Đà Lạt, Đại học
Lao động - xã hội, Đại học Công đoàn, Đại học Kinh tế quốc dân
Hà Nội…
Tại các cơ sở đào tạo nói trên, chương trình đào tạo về nguyên
tắc phải tuân thủ chương trình khung giáo dục đại học ngành luật
học của Bộ Giáo dục và Đào tạo (3) . Trong đó, tổng thời gian
đào tạo là bốn năm, chia thành tám học kỳ với khoảng 3090 tiết,
tương ứng khoảng 206 đơn vị học trình. Chương trình đào tạo
bao gồm hai nội dung: khối kiến thức giáo dục đại cương và khối
kiến thức giáo dục chuyên nghiệp. Trong đó, khối kiến thức giáo
dục chuyên nghiệp có hai phần: đào tạo chung (kiến thức cơ sở
khối ngành và ngành) và đào tạo chuyên ngành (kiến thức
ngành). Tất cả các nội dung đào tạo nói trên đều mang tính bắt
buộc cho mọi sinh viên. Riêng trong đào tạo chuyên ngành thì
bao gồm hai nội dung: kiến thức bắt buộc và kiến thức tự chọn
(4).* Trong toàn bộ chương trình đào tạo bắt buộc ở trên không
có nội dung (môn học) về quyền con người theo nghĩa là một

phân môn độc lập. Song, điều đó cũng không đồng nghĩa với việc
cho rằng chương trình đào tạo tại các cơ sở chuyên ngành luật
không đào tạo những vấn đề về nhân quyền. Thực tế, trong
chương trình đào tạo, nội dung này thường được tiếp cận dưới
góc độ quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được giảng dạy
trong môn Luật Hiến pháp. Ngoài ra, các bộ môn khác tùy theo
đặc thù của nội dung môn học, ở các mức độ khác nhau cũng đề
cập đến quyền con người, ví dụ: vấn đề con người trong triết học
Mác - Lênin (môn Triết học Mác - Lênin); vấn đề dân tộc trong
quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội (môn Chủ nghĩa xã hội khoa
học); quyền dân sự của công dân (môn Luật Dân sự); quyền tự do
trong kinh doanh (môn Luật Thương mại); quyền tự do việc làm
(môn Luật Lao động); an sinh xã hội cho công dân (Luật An sinh
xã hội); trách nhiệm hình sự trong việc vi phạm các quyền của
công dân (môn Luật Hình sự) Môn Công pháp quốc tế có hai
bài riêng nói đến quyền con người, đó là Dân cư trong luật quốc
tế và Luật quốc tế về quyền con người (5). Tuy nhiên hiện nay,
giáo trình giảng dạy do các trường trực tiếp biên soạn nên liều
lượng và mức độ của các nội dung nói trên cũng có sự khác nhau
nhất định.
Trong chương trình đào tạo chuyên ngành, phần tự chọn thì chỉ
duy nhất chuyên ngành Luật quốc tế có chuyên đề tự chọn có tiêu
đề Luật quốc tế về quyền con người. Theo sự tìm hiểu của chúng
tôi, tại ba cơ sở đào tạo cử nhân luật chính quy lớn nhất hiện* nay
là Trường đại học Luật Hà Nội; Trường đại học Luật thành phố
Hồ Chí Minh; Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội đều có
chuyên đề tự chọn nói trên cho sinh viên thuộc chuyên ngành
Luật quốc tế (6). Tuy nhiên, tại trường đại học Luật Hà Nội,
chương trình tự chọn đó mới được thực hiện từ năm 2003 đến
nay. Nhưng sau khi khoa Luật Quốc tế đổi tên thành khoa Luật

Kinh doanh quốc tế thì trong chương trình đào tạo của nhà trường
ban hành năm 2006 đã không còn áp dụng môn tự chọn nói trên.
Trên cơ sở chương trình đào tạo khung của Bộ Giáo dục và Đào
tạo, từ thực trạng đào tạo và xây dựng chương trình đào tạo của
các cơ sở đào tạo cử nhân luật, có thể rút ra một số nhận xét sau:
- Trong chương trình đào tạo khung của Bộ cũng như nội dung
đào tạo của các trường không có một bộ môn độc lập về quyền
con người (nhân quyền). Vấn đề quyền con người được đưa vào
chương trình tự chọn cho luật chuyên ngành một số trường và vì
thế, số lượng sinh viên dự học môn này cũng rất hạn chế.
- Trong giảng dạy, nội dung quyền con người thường được tiếp
cận theo nghĩa hẹp là các quyền cơ bản của công dân. Theo cách
đó, vấn đề quyền con người được tiếp cận ở các mức độ khác
nhau trong hầu hết các môn học. Tuy nhiên, khi giảng dạy, các
giảng viên thường tiếp cận nó thuần túy như là một nội dung của
môn học mà không tiếp cận nó ở góc độ quyền công dân cũng
như quyền con người.
- Vì những lý do chủ quan và khách quan nhất định mà quan
điểm và nhận thức về vấn đề này trong đào tạo chưa có sự thống
nhất.
2. Hướng nghiên cứu, giảng dạy vấn đề quyền con người tại
các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật
Công cuộc hội nhập quốc tế và việc trở thành thành viên chính
thức của WTO đã mở ra rất nhiều cơ hội cho Nhà nước và mọi
người dân Việt Nam, song đây cũng là chặng đường đầy thách
thức - mà một trong những vấn đề đó là vấn đề nhân quyền ở
Việt Nam. Thế giới từ lâu đã có những đồng thuận mang tính
nguyên tắc về quyền con người được thể hiện trong Hiến chương
Liên hợp quốc; Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (năm
1948); Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm

1966; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
năm 1966; Công ước quốc tế về xóa bỏ tất cả các hình thức phân
biệt đối xử với phụ nữ; Công ước quốc tế về quyền trẻ em…
Nhưng, bên cạnh những giá trị chung mang tính phổ quát của
nhân loại, thì quyền con người còn là một giá trị văn hóa với
những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể. Điều đó cắt nghĩa cho
việc tại sao vẫn còn có xung đột giữa các nhà nghiên cứu, các nhà
chính trị trong quan niệm cũng như việc thực hiện nhân quyền ở
các quốc gia khác nhau, nói cách khác là không thể phủ nhận tính
nhạy cảm của vấn đề trong thực tiễn. Tại nhiều nước trên thế
giới, nhất là ở châu Âu, trong các cơ sở đào tạo luật, việc giảng
dạy, nghiên cứu môn học quyền con người là một môn học không
thể thiếu hoặc được lồng ghép nhân quyền với các môn học khác
một cách có ý thức và chủ động. Đáng kể nhất là Thụy Điển có
Viện Luật nhân quyền và nhân đạo quốc tế Raoul Wallenberg rất
nổi tiếng với nhiều chương trình nghiên cứu và giảng dạy nhân
quyền không chỉ ở châu Âu; hay khoa Luật, Đại học Lund (Thụy
Điển) có giảng dạy các môn luật luôn có sự lồng ghép với vấn đề
nhân quyền. Khoa Luật, Đại học Hồng Kông có nhiều môn học
luật quốc tế về quyền con người và luật nhân đạo cho sinh viên.
Đại học Mahidol (Thái Lan) có chương trình đào tạo thạc sĩ về
quyền con người bằng tiếng Anh và tiếng Thái. Khoa Luật, Đại
học Bắc Kinh cũng có chương trình đào tạo thạc sĩ về quyền con
người trong chương trình hợp tác với Viện Raoul Wallenberg.
*“Trong một xã hội dân chủ, một nhà nước của dân, do dân và vì
dân, một nền kinh tế tự do thương mại, thì nhân quyền là những
giá trị có tính tiền đề cần được cả xã hội và người dân nhận thức
đúng” ở nước ta, như đã trình bày, đây là vấn đề mới và tương
đối nhạy cảm. Do đó, việc nghiên cứu cũng như giảng dạy vấn đề
quyền con người phải giải quyết rất nhiều mối tương quan khác

nhau với không ít rào cản bên trong và bên ngoài. Theo chúng
tôi, giáo dục quyền con người tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành
luật ở Việt Nam cần lưu ý một số khía cạnh chính sau:
- Về nhận thức, cần thấy rằng, việc đưa nội dung giáo dục quyền
con người là sự cần thiết có tính tất yếu khách quan. Bởi lẽ: thứ
nhất, trong một xã hội dân chủ, một nhà nước của dân, do dân và
vì dân, một nền kinh tế tự do thương mại, thì nhân quyền là
những giá trị có tính tiền đề cần được cả xã hội và người dân
nhận thức đúng; thứ hai, quyền con người chỉ có thể được hiện
thực hóa và bảo đảm thực hiện thông qua các quy định của pháp
luật. Hơn ở bất cứ lĩnh vực nào, pháp luật là phương tiện hữu
hiệu nhất để bảo đảm các quyền con người. Vì vậy, chương trình
đào tạo chuyên ngành luật nhất thiết phải có nội dung giáo dục
quyền con người; thứ ba, trong bối cảnh hiện nay của quan hệ
quốc tế, các thế lực thù địch thường xuyên có những đánh giá
thiếu khách quan, vu khống đối với vấn đề nhân quyền ở Việt
Nam làm ảnh hưởng đến hình ảnh cũng như mối quan hệ quốc tế
của Việt Nam trên nhiều phương diện. Việc đưa vào giảng dạy,
đào tạo có tính phổ cập về quyền con người một mặt nhằm nâng
cao nhận thức (đặc biệt cho các cán bộ pháp lý trong tương lai),
mặt khác để thế giới có thông tin và hiểu biết đầy đủ hơn về vấn
đề nhân quyền ở Việt Nam; thứ tư, cần nhận thức lại việc quy
định chương trình khung trong đào tạo đại học nói chung và đào
tạo cử nhân luật nói riêng. Nên chăng, mở rộng hơn nữa quyền tự
quyết định về nội dung chương trình đào tạo phù hợp với mục
tiêu, yêu cầu đào tạo của các trường, nhất là các trung tâm đào
tạo lớn và có uy tín.
- Về nội dung chương trình: Cần tiếp cận những giá trị, quan
niệm về quyền con người đương đại của các nước trên thế giới,
nhưng phải đặt nó trong giá trị văn hóa Việt Nam với điều kiện

kinh tế, xã hội cụ thể. Theo chúng tôi, nên xây dựng môn học
quyền con người theo nghĩa là một phân môn đào tạo bắt buộc
của chương trình cử nhân luật. Tuy nhiên, nội dung môn học chỉ
giải quyết những vấn đề chung về quyền con người vì những nội
dung cụ thể đã được giải quyết trong các bộ môn chuyên ngành.
Do đó, trên cơ sở tham khảo chương trình giảng dạy một số nước
và thực tiễn ở Việt Nam, thì cơ cấu nội dung chương trình giảng
dạy môn học quyền con người (nhân quyền) cần có các nội dung
chủ yếu sau: Tổng quan (hay khái quát chung, lý luận chung) về
quyền con người; Hệ thống pháp luật quốc tế về quyền con
người; Các nhóm quyền cơ bản theo pháp luật quốc tế; Các nhóm
quyền đặc thù; Việt Nam với vấn đề quyền con người.
- Về đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy: Hiện nay, nói chung
do các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật ở nước ta chưa có sự
quan tâm thỏa đáng đến vấn đề này nên đội ngũ giảng viên giảng
dạy, nghiên cứu về quyền con người còn thiếu và yếu. Do đó, cần
có sự đầu tư và chuẩn bị nguồn nhân lực để thực hiện chương
trình đó.
- Cuối cùng, bên cạnh sự quyết tâm về khoa học, rất cần sự quyết
tâm về chính trị, đặc biệt từ phía cơ quan quản lý mà trực tiếp là
Bộ Giáo dục và đào tạo, lãnh đạo các trường đại học trong việc
tiếp nhận và đổi mới chương trình đào tạo cử nhân luật nói chung
và vấn đề quyền con người nói riêng.
(1) Phần này được tham khảo từ bài viết của đồng chí Nguyễn
Phú Trọng: “Quốc hội Việt Nam với việc bảo đảm và thực hiện
quyền con người” trên
/>ntID/65044/Author/Nguy?n%20Phỳ%20Tr?ng/Default.aspx
(2) Các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật trong bài viết được hiểu
là các cơ sở đào tạo luật ở trình độ cử nhân.
(3) Quyết định số 29/2005/QĐ-BGD&ĐT ngày 16/9/2005 của Bộ

trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo ban hành bộ chương trình khung
giáo dục đại học khối ngành khoa học xã hội trình độ đại học.
Về nguyên tắc, chương trình đào tạo này được áp dụng cho các
hệ đào tạo cử nhân luật. Tuy nhiên, trong thực tế, chỉ có hệ đào
tạo chính quy tuân thủ đầy đủ, chặt chẽ nội dung chương trình
khung theo quy định. Các hệ đào tạo khác (tại chức, từ xa…) về
cơ bản cũng thực hiện theo nhưng có sự điều chỉnh nhằm phù
hợp với đối tượng đào tạo.
(4) Xem Quyết định số 29/2005/QĐ-BGD&ĐT ngày 16/9/2005
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo ban hành bộ chương trình
khung giáo dục đại học khối ngành khoa học xã hội trình độ đại
học.
(5) Giáo trình Luật Quốc tế, Trường đại học Luật Hà Nội, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội, 2006.
(6) Tại Trường đại học Luật Hà Nội, đây là một chương trong
giáo trình Luật quốc tế, nhưng trong phần tự chọn được thiết kế
giảng trong 20 tiết với bốn nội dung: 1. Giới thiệu khái quát luật
quốc tề về quyền con người; 2.* Các quyền dân sự - chính trị của
con người; 3. Các quyền kinh tế - xã hội - văn hóa của con
người; 4. Điều chỉnh pháp lý quyền của những nhóm người dễ bị
tổn thương trong xã hội.
Tại Trường đại học Luật TP. Hồ Chí Minh có môn Pháp luật về
quyền công dân, quyền con người là môn tự chọn do Bộ môn
Luật Hiến pháp, Khoa Luật hành chính đảm nhiệm. Đầu năm
2008, Ban giám hiệu nhà trường đã quyết định thành lập Trung
tâm Nghiên cứu pháp luật về quyền con người và quyền công dân
và bước đầu đi vào hoạt động.
(Bài đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 155-thang-10-
2009 ngày 10/10/2009) TS. Nguyễn Hữu Chí - Trưởng Bộ môn
Luật lao động & an sinh xã hội, Trường Đại học Luật Hà Nội.




×