Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

THU HOẠCH so sánh sự biến đổi chức năng của gia đình qua hai thời kỳ trước và sau đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.18 KB, 23 trang )

THU HOẠCH- So sánh sự biến đổi chức năng của gia đình qua
hai thời kỳ trước và sau đổi mới (1986)
I. Mở đầu
Nghị quyết hội nghị TW lần thứ 5 (khóa VIII) đã đặt vấn đề gia
đình một tầm quan trọng trong sự nghiệp xây dựng văn hóa và phát
triển về mọi mặt của đất nước.Vấn đề đặt ra là phải tạo ra đời sống
lành mạnh ở các đơn vị cơ sở, đầu tiên là gia đình, giữ gìn và phát
huy những đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam, coi trọng xây dựng
gia đình văn hóa và xây dựng mối quan hệ khăng khít giữa gia
đình_nhà trường & xã hội.
Gần đây, gia đình khơng chỉ nổi lên như một vấn đề quan trọng
và cấp thiết của riêng Việt Nam mà còn là vấn đề đang đặt ra với các
dân tộc trên toàn thế giới. Loài người đã từ giã thế kỷ XX để bước vào
thế kỷ XXI. Vấn đề gia đình ngày càng trở nên phong phú, đa dạng và
phức tạp.Ở mọi nơi, mọi lúc, gia đình đều chứng tỏ sức mạnh của nó.
Nó có thể xây dựng và cũng có thể phá hoại. Nó đem lại hạnh phúc
cho con người cũng như gieo rắc những điều bất hạnh. Không lúc nào
bằng lúc này, vấn đề GĐ được đặt ra với một ý nghĩa phổ qt; nó
khơng chỉ mang tính cấp thiết của hiện tại mà cịn gắn liền với quá
khứ và góp phần quyết định đối với tương lai.
Lịch sử CNH_HĐH của dân tộc gắn liền với những biến đổi sâu
sắc của gia đình, đều chịu sự tác động kìm hãm hay thúc đẩy, tiến bộ
hay bảo thủ của GĐ. GĐ cũ với những quy tắc cổ truyền, với quan hệ
gắn bó giữa các thành viên, với trật tự trên dưới, với sự phục tùng đối
với người gia trưởng đã được duy trì và vận dụng như một nhân tố
1


tích cực trong CNH_HĐH. Nhưng phải chăng kiểu gia đình này có thể
tồn tại mãi với thời gian? Phải chăng mâu thuẫn giữa thế giới mới và
cũ, giữa sự lỗi thời của quá khứ và sự đòi hỏi của tương lai sẽ tránh


khỏi được một sự bùng nổ sâu sắc và mạnh mẽ.
VN là một nước chậm tiến đang đi vào CNH_HĐH với đầy rẫy
những khó khăn. Gia đình VN là một vấn đề khoa học. GĐ kiểu cũ
kéo dài hàng ngàn năm đã không thể tự bảo tồn trước những đổi thay
của đất nước. Hoàn cảnh một đất nước phương Đông bị phong kiến
bên trong và thực dân bên ngồi áp bức, địi hỏi nhân dân ta phải vượt
ra khỏi sự kìm hãm và ràng buộc của gia đình. Cách mạng tháng 8 là
một bước ngoặt lớn trong lịch sử. Cách mạng khơng chỉ giải phóng
đất nước, giải phóng dân tộc thốt khỏi xiềng xích nơ lệ nói chung, mà
cịn giải phóng cho gia đình. Trên con đường đổi mới, gia đình cũng
đang tiếp tục chuyển biến, cái mới và cái cũ còn đan xen nhau. Qua 2
thời kỳ từ giải phóng miền Bắc 54 đến 1986(đổi mới) và từ đổi mới
đến nay, gia đình Việt Nam mang những bộ mặt như thế nào. Với việc
phân tích 2 chức năng của gia đình, đó là:chức năng văn hóa & chức
năng tái sản xuất, thông qua 2 thời kỳ vừa nói trên, những giá trị nào
của gia đình VN là cịn được duy trì, giá trị nào nhường chỗ cho
những giá trị của thời kỳ mới.
II. Nội dung
1. Khái niệm
Gia đình là một thiết chế xã hội có sự liên kết nhau nhằm thực
hiện việc duy trì nịi giống và chăm sóc con cái. Đó là sự liên kết ít

2


nhất 2 người trên cơ sở huyết thống, hôn nhân và nhận con ni.
Những người này ít nhất cũng phải sống cùng nhau.
2. Nội dung chính
Gia đình thực hiện 7 chức năng, đó là:chính trị, tái sản xuất, kinh
tế, văn hóa, giáo dục, xã hội hóa và chức năng tình cảm. Trong đó bài

viết đi sâu tìm hiểu, phân tích 2 chức năng:văn hóa & tái sản xuất qua
2 thời kỳ từ giải phóng miền Bắc 54 đến 1986 và từ 86 đến nay. Như
chúng ta đã biết, từ năm 54, miền Bắc được giải phóng hồn tồn,
bước vào cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một luồng sinh khí
mới bao trùm lên tồn miền Bắc, người người nhà nhà vừa đón nhận
tự do vừa hối hả lao động để chi viện cho miền Nam còn đang chiến
tranh. Nền kinh tế lúc này ở miền Bắc là nền kinh tế bao cấp, tính tập
thể trong lao động được thể hiện rõ. Nhưng từ sau đổi mới, đất nước
chuyển sang nền kinh tế thị trường. Tính cá nhân trong lao động được
nâng cao và phát huy. Chính sự khác nhau về chính sách kinh tế, cách
thức sản xuất qua mỗi thời kỳ đã ảnh hưởng đến nhiều mặt của xã
hội , trong đó gia đình _tế bào của xã hội là nơi chịu ảnh hưởng, tác
động rõ rệt.
2.1. Sự biến đổi chức năng văn hóa
a, Gia đình là nơi bảo lưu truyền thống văn hóa dân tộc:truyền
thống đạo lý, truyền thống hiếu học và truyền thống tâm linh duy trì
thờ phụng tổ tiên
Truyền thống đạo lý của dân tộc Việt nam nói chung và gia đình
VN nói riêng là tính cố kết chặt chẽ, coi trọng đời sống tập thể hơn cá
nhân. Từ xa xưa, truyền thống này đã được khẳng định qua việc các
thành viên trong gia đình, cộng đồng cùng nhau chống lại thiên tai để
3


sản xuất và cùng nhau chống giặc ngoại xâm phương Bắc. Từ năm
5486, gia đình VN vẫn duy trì tốt truyền thống này. Vai trị trụ cột
trong gia đình vẫn là đàn ông và các thành viên hướng về trung tâm
đó, tạo nên sự cố kết thật bình n. Nhưng từ sau đổi mới, sự cố kết
này có phần lỏng lẻo. Các thành viên trong đó có cả phụ nữ đều được
giải phóng và có những cơng việc riêng ngồi xã hội. Như thế tức

khắc sẽ tạo ra sự dãn ra, dàn trải vị thế, vai trò của các thành viên.
Từ 5486, truyền thống hiếu học rất được chú trọng, đây là sự
tiếp nối tất yếu của một đất nước có 1000 năm văn hiến như VN. Bác
Hồ đã từng nói”Vì lợi ích 10 năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng
người”. Khi miền Bắc được giải phóng, hàng loạt các cơng trình xây
được mọc lên, trong đó có trường học. Trẻ em trong các gia đình được
cắp sách đến trường:” Trẻ em như búp trên cành, biết ăn ngủ biết học
hành là ngoan”. Sau đổi mới, truyền thống này tiếp tục được duy trì,
phát triển. Bởi lẽ thời kỳ đổi mới hơn bao giờ hết rất cần thông tin, tri
thức, việc học hành ln là một chính sách ưu tiên của Đảng. Con em
trong các gia đình được nhà nước khuyến khích , tạo điều kiện ra nước
ngồi học tập. Bản thân trong mỗi gia đình cũng cố gắng dành những
điều kiện tốt nhất cho sự nghiệp học tập của con cái”Hi sinh đời bố,
củng cố đời con”.
Truyền thống tâm linh, việc duy trì thờ phụng tổ tiên trong cả 2
thời kỳ luôn được bảo tồn , giữ gìn. Sau đổi mới , các gia đình có
nhiều điều kiện hơn, họ thể hiện sự quan tâm của mình với ông bà, tổ
tiên bằng những hành động cụ thể như xây dựng nhà thờ, sửa sang lại
mồ mả tổ tiên, lập lại gia phả…

4


b, Gia đình là nơi xây dựng các giá trị chuẩn mực đạo đức, thể
hiện qua mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, vấn đề hơn
nhân và gia đình, vấn đề về vai trị của người phụ nữ
aTừ 5486, vai trị của người đàn ơng trong gia đình vẫn là trụ
cột, nên tính gia trưởng vẫn nặng nề. Nho giáo đã ảnh hưởng sâu sắc
đến VN , nó đề cao và chỉ ra uy quyền tuyệt đối của người đàn ơng
trong gia đình, cũng như của một ông vua trong thiên hạ_một sự đồng

nhất của chữ hiếu và chữ trung. Từ 5486, tàn dư phong kiến vẫn
còn để lại rất nhiều dấu ấn lên nếp sống của mỗi gia đình, trong đó
tính gia trưởng vẫn cịn đậm nét vì thời kỳ này, phụ nữ chưa tham gia
nhiều và rộng rãi các cơng việc ngồi xã hội. Chừng nào người đàn
ơng cịn được coi là”trụ cột của gia đình”, chừng đấy tính gia trưởng
vẫn cịn nặng nề.
Sau đổi mới đến nay, khơng thể nói tính gia trưởng đã bị triệt
tiêu hồn tồn. Q trình CNH_HĐH đất nước đang tạo điều kiện cho
phụ nữ tham gia vào các hoạt động xã hội và đòi hỏi nam giới cùng
chia sẻ gánh nặng cơng việc trong gia đình. Tuy nhiên, đối với nam
giới, vấn đề xóa bỏ những quan niện về vai trò trụ cột của họ lại chưa
được phụ nữ và xã hội nhìn nhận. “Nếu phụ nữ quyết định những việc
lớn thì người chồng cảm thấy bất lực và yếu đuối, làm cho người
chồng thấy mình bị mất quyền lực gia đình.” Nhưng, trên thực tế
ngày nay phụ nữ đã có thể gánh vác và quyết định cơng việc gia đình.
Phụ nữ cũng như nam giới họ sẽ làm được tất cả. Điều này cho thấy,
việc cả nam giới và phụ nữ muốn duy trì quan niệm “quyền lực” của
người đàn ơng trong gia đình thực ra là khơng còn ý nghĩa lắm.

5


Vị trí, vai trị của người phụ nữ có sự biến đổi nào qua hai thời
kỳ? Như chúng ta đã biết, trong suốt thời kỳ phong kiến, vai trò của
người phụ nữ trong gia đình cũng như trong dịng họ hoàn toàn “lép
vế”, họ tồn tại bên cạnh những người đàn ơng “tại gia tịng phụ, xuất
giá tịng phu, phu tử tòng tử”. Từ sau Cách mạng tháng Tám, đặc biệt
là từ 54 đến 86, hoàn cảnh lịch sử mới đã khơi dậy ở phụ nữ những
suy nghĩ mới, tình cảm mới, đem lại cho họ sức mạnh để vùng lên,
để đứng thẳng với tư cách con người. Phụ nữ không chỉ quẩn quanh

làm nội trợ và tham gia sản xuất vì lợi ích gia đình mà cịn đảm đang
việc nước việc nhà, cầm cày cầm súng không chịu thua kém nam
giới. Phụ nữ dần dần có chỗ đứng với tư cách là một lực lượng lao
động trong xã hội. Ngày nay, vai trò của phụ nữ ngày càng được
khẳng định và nâng cao. Không chỉ được quyền tham gia các công
việc hoạt động xã hội vốn được coi là của đàn ơng mà phụ nữ cịn địi
hỏi các ơng chồng cùng mình gánh vác những cơng việc vốn được coi
là của phụ nữ. Phụ nữ vẫn là người chủ yếu làm các cơng việc nội trợ
trong gia đình. Tuy nhiên, so với quá khứ, họ làm ít hơn và nam giới
phần nào chia sẻ với phụ nữ trong các hoạt động này.
c, Nơi xây dựng, thực hiện các phong tục tập quán, định hướng
lối sống.
Gia đình là nơi mà các thành viên được thấm nhuần những lý
tưởng, lễ nghi, phong tục tập qn của dịng họ, xã hội. Có thể nói,
đây là cái nơi đầu tiên hình thành nên nhân cách con người, để từ đó
con người hịa nhập vào xã hội. Cả trước và sau đổi mới, chức năng
này của gia đình vẫn ln được bảo tồn, duy trì. Gia đình là nơi sinh
hoạt ăn ở, là nơi giao tiếp, tiến hành lễ Tết, giỗ chạp, cưới xin, ma
6


chay. “Giỏ nhà ai quai nhà nấy”, câu tục ngữ này luôn luôn đúng. Nếu
con cái ngay từ tuổi ấu thơ được sự giáo dục đúng đắn, gương mẫu
của cha mẹ, chúng sẽ ít có cơ hội tham gia vào các tệ nạn xã hội. Tuy
nhiên, trước và sau đổi mới, gia đình cũng có sự đổi mới nhất định,
cũng như sự đào thải những giá trị truyền thống lỗi thời, phản tiến
hóa.
Trong gia đình, ngồi mối quan hệ giữa các thành viên thì vấn đề
hơn nhân của con cái, những vấn đề liên quan đến hôn nhân như ly
hôn, quan hệ tình dục trước hơn nhân cũng rất được coi trọng. Hôn

nhân của con cái trong thời kỳ 54-86 khơng cịn là kiểu “cha mẹ đặt
đâu con ngồi đấy”. Sau giải phóng, đất nước được độc lập tự do, vấn
đề con người cũng được chú ý sao cho vừa có độc lập tự do vừa có
hạnh phúc. Nam nữ được tự do tìm hiểu, nếu ưng thuận nhau thì xin
cha mẹ làm đám cưới, với sự chứng kiến của họ hàng hai bên. Chỉ
những trường hợp đặc biệt, cha mẹ mới ép con cái kết hôn theo
nguyện vọng của cha mẹ. Nếu xét về khía cạnh hạnh phúc của cá
nhân, thì ly hơn trong thời kỳ sau đổi mới cũng được coi nhẹ hơn,
thoáng hơn là một sự giải thốt.
Trở lại vấn đề kết hơn, đặt trong thời kỳ từ 86 đến nay quả là có
nhiều biến đổi : tìm hiểu nhau chưa đủ, nam nữ có xu hướng sống thử
cùng nhau như vợ chồng rồi mới đi đến kết hơn. Bên cạnh kết quả tích
cực (nhiều đơi thực sự hiểu nhau hơn để đưa ra những quyết định sáng
suốt có nên kết hơn hay khơng), cịn có những tác động tiêu cực, sau
thời gian sống thử người nào đi đường người nấy, cả hai đều chịu
những hậu quả tâm lý nhất định.

7


Gia đình từ một cơ cấu đóng chuyển sang cơ cấu mở, từ một hệ
thống ứng xử được khuôn mẫu hóa đến một hệ thống hành vi đa dạng,
hợp lý, tiến bộ hơn. Nếu như trước đổi mới, sự giáo dục chỉ là một
chiều là cha mẹ nói gì con nghe đấy thì sau đổi mới, con cái có quyền
nói lên những suy nghĩ của mình, quan điểm của mình, và cha mẹ
phải tơn trọng quyền đó của con cái. Những chuyển đổi này diễn ra
đồng hành với quá trình nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh
thần. Tuy nhiên, đây là quá trình chuyển đổi phức tạp, mỗi gia đình
phải ln ln vận động trong xu thế phát triển chung của xã hội để có
những cách ứng xử hợp lý, tiến bộ với nhau.

Một điều đáng nói nữa là sự hình thành một lối sống mới so với
trước đây. Thời kỳ 5486 là thời kỳ của nền kinh tế bao cấp, nền
kinh tế đóng, lối lao động tập thể đã hình thành nên lối sống tập thể.
Thời kỳ này, lao động gia đình là chính, cơng cụ sản xuất thủ cơng, ít
có khả năng tham gia kinh tế thị trường. Hạn chế thuê mướn nhân
công, đều do người trong gia đình tham gia lao động, kể cả người già
và trẻ em. Vì thế, sản xuất khơng hạch toán lỗ lãi và năng suất cá nhân
mà dựa trên ý thức tự giác và tinh thần đồng cam cộng khổ của mọi
người. Tất cả hầu như cùng làm cùng ăn, và cùng gắng sức hết mình.
Sau 86, luồng gió kinh tế mới đã đảo lộn tất cả. Sự phân công
lao động giữa vợ và chồng không theo quy tắc truyền thống mà hướng
tới sự độc lập kinh tế khi phụ nữ tham gia các hoạt động kinh tế phi
nông nghiệp. Sự độc lập kinh tế giữa vợ và chồng dẫn đến xung đột
gia đình, người chồng chấp nhận vai trị bình đẳng của người vợ
nhưng quan hệ gia đình có phần lỏng lẻo hơn. Trong quan hệ giữa cha
mẹ và con cái, kinh tế thị trường kích thích chủ nghĩa cá nhân, làm
8


suy yếu các chuẩn mực đạo đức gia đình, bố mẹ thường thích ở riêng
khi cịn khả năng lao động. Quan hệ cha mẹ_con cái cần có tính nghi
lế để duy trì tình cảm gia đình.
2.2. Sự biến đổi chức năng tái sản xuất
a, Tái sản xuất sinh học
Gia đình là thiết chế duy nhất đảm bảo chức năng sinh đẻ, duy
trì và phát triển nịi giống cho xã hội. Từ 5486, số con trong gia
đình lớn, TFR=5(qua các năm 60, 78, 80). Từ 86 đến nat, TFR giảm
còn 2.28(2003). Theo quan niệm Nho giáo, mỗi gia đình VN đều rất
coi trọng con trai vì con trai khơng chỉ nối dõi tơng đường mà cịn là
người đảm nhận chính việc hương khói cho tổ tiên. Trong khoảng

5486, quan niệm này vẫn cịn ngun sức ảnh hưởng. Thường trong
các gia đình, người con trai cả ở cùng cha mẹ ruột. Người con trai cả
được giữ lại bởi vì anh ta sẽ thừa hưởng từ người cha khơng chỉ nhf
cửa mà cịn tiếp tục kế thừa bổn phận thờ cúng tổ tiên. Những người
con trai trong các gia đình chỉ có một con trai duy nhất thường được
chiều chuộng một cách đặc biệt, ít khi bị bố mẹ bắt làm việc nặng cho
dến lúc trưởng thành. Từ 86nay, tâm lý coi trọng con trai vẫn còn
tồn tại, tuy nhiên sự cân bằng giới tính đã bắt đầu thiết lập. Con gái
hay con trai cũng đều được hưởng những điều kiện xã hội như nhau,
cùng được chăm lo phát triển. Chính sách kế hoạch hóa gia đình của
VN là:”Mỗi gia đình chỉ có từ 1 đến 2 con”, bất kể là nam hay nữ.
Nếu như trước đây, con cái sinh ra có 1cha_1 mẹ đàng hồng thì ngày
nay, lẽ tự nhiên đó trong thời kỳ mở cửa đang có sự thay đổi. Có
những người mẹ công khai sinh con và nuôi con một mình, đứa trẻ
khơng hề biết đến cha. Lại có những trường hợp đẻ thuê, để mướn…
9


Nằm trong bối cảnh xã hội đang bị tấn công bởi quá nhiều luồng giá
trị, tư tưởng, chức năng sinh đẻ của gia đình cũng bao gồm trong nó
những vấn đề nằm ngoài”lẽ tự nhiên”.
b, Tái sản xuất sức lao động
Gia đình là nơi nghỉ ngơi, đem lại tâm lý cân bằng, cảm giác thư
giãn sau thời gian lao động, thơng qua chăm sóc sức khỏe vế cả thể
chất và tinh thần.
Từ 5486, đất nước ta vẫn cịn nghèo vì vừa trải qua chiến
tranh và nền kinh tế chưa phát triển. Với phương châm là”cơm đủ no,
áo đủ mặc”, các gia đình chỉ cố gắng chú trọng đến sức khỏe thể chất
cho mỗi thanh viên. Sau đổi mới, nền kinh tế mở cửa đã đem lại nhiều
điều kiện cho đời sống vật chất kéo theo phát triển đời sống tinh thần,

mỗi thành viên trong gia đình khơng chỉ”ăn chắc mặc bền” mà còn”ăn
ngon mặc đẹp”. Sau những giờ làm việc mệt mỏi, trở về gia đình, mỗi
thành viên khơng chỉ được hồi phục sức lao động bằng những bữa
cơm, tắm rửa mà các thành viên còn cùng nhau tham gia những hoạt
động tinh thần như cùng chơi thể thao, cùng thưởng thức âm nhạc,
xem phim ngoài rạp…Các thành viên cùng nhau chia sẻ những mối
quan tâm, sở thích, nhu cầu…của mình và được mọi người ủng hộ.
III. Kết luận
Thơng qua việc phân tích 2 chức năng:văn hóa và tái sản xuất ở
2 thời kỳ từ 5486 và từ 86 đến nay, chúng ta thấy được gia đình VN
đã và đang mang một bộ mặt như thế nào. Truyền thống hiếu học,
truyền thống tâm linh, thờ phụng tổ tiên cùng những lí tưởng, lễ nghi,
phong tục tập quán cơ bản của gia đình, dịng họ, xã hội vẫn ln
10


được bảo tồn và phát huy. Tính gia trưởng của người đàn ơng cũng
như vai trị của người phụ nữ , chức năng tái sản xuất của gia đình
ngày càng được cải thiện và phát triển. Bên cạnh đó, tính cố kết cộng
đồng, vấn đề hơn nhân và gia đình, lối sống tập thể lại ngày càng trở
nên lỏng lẻo, thống hơn và có phần xuống cấp. Sự thốt ly đời sống
gia đình mới đầu thực sự là một hiện tượng giải phóng cho cá nhân đã
dần dần trở thành một sự nghèo nàn trong đời sống tinh thần, sự thiếu
thốn về tình cảm, sự cơ đơn, sự tẻ nhạt trong cuộc đời. Trong tình hình
này, vấn đề gia đình nhiều lúc được đặt ra như một sự luyến tiếc quá
khứ, một nhu cầu trong cuộc sống hiện đại.
Đất nước ta đang tiến nhanh trên con đường đổi mới. Gia đình
cũng đang tiếp tục chuyển biến, cái mới và cái cũ cịn đan xen nhau.
Khơng cịn chữ hiếu mù qng như xưa”cha khiến con chết mà con
không chết là bất hiếu”. Tình cảm gia đình ngày nay phải được xây

dựng trên cơ sở binh đẳng và tự nguyện chứ không phải do sự áp đặt
của quyền lực chính trị và sự trói buộc của quyền lợi kinh tế. Nhân
dân ta đã từng đổ bao xương máu và mồ hôi đẻ giành lại độc lập, tự
do, xây dựng một cuộc sống bình đẳng và dân chủ. Gia đình phải là
nền tảng của xã hội mới, phải bảo vệ những thành quả mà cách mạng
đã đạt được chứ không phải đi ngược lại những thành quả ấy.
Bước vào thời kỳ CNH_HĐH , VN xác định có đầy rẫy những
khó khăn trước mắt. Tuy nhiên, VN cũng có những thuận lợi to lớn là
với sự nỗ lực và sáng tạo, VN có thể tránh được những sai lầm của
người đi trước và xử lí vấn đề gia đình một cách khoa học, hợp lý,
phát huy được những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, gạt bỏ được
những nhân tố lạc hậu để gia đình VN trở thành nhân tố tích cực cho
11


CNH và HĐH, vừa thể hiện bản sắc văn hóa của dân tộc, vừa phù hợp
với xu hướng tiến bộ của nhân loại.
Nghị quyết hội nghị TW lần thứ 5 (khóa VIII) đã đặt vấn đề gia
đình một tầm quan trọng trong sự nghiệp xây dựng văn hóa và phát
triển về mọi mặt của đất nước.Vấn đề đặt ra là phải tạo ra đời sống
lành mạnh ở các đơn vị cơ sở, đầu tiên là gia đình, giữ gìn và phát
huy những đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam, coi trọng xây dựng
gia đình văn hóa và xây dựng mối quan hệ khăng khít giữa gia
đình_nhà trường & xã hội.
Gần đây, gia đình khơng chỉ nổi lên như một vấn đề quan trọng
và cấp thiết của riêng Việt Nam mà còn là vấn đề đang đặt ra với các
dân tộc trên toàn thế giới. Loài người đã từ giã thế kỷ XX để bước vào
thế kỷ XXI. Vấn đề gia đình ngày càng trở nên phong phú, đa dạng và
phức tạp.Ở mọi nơi, mọi lúc, gia đình đều chứng tỏ sức mạnh của nó.
Nó có thể xây dựng và cũng có thể phá hoại. Nó đem lại hạnh phúc

cho con người cũng như gieo rắc những điều bất hạnh. Không lúc nào
bằng lúc này, vấn đề GĐ được đặt ra với một ý nghĩa phổ qt; nó
khơng chỉ mang tính cấp thiết của hiện tại mà cịn gắn liền với quá
khứ và góp phần quyết định đối với tương lai.
Lịch sử CNH_HĐH của dân tộc gắn liền với những biến đổi sâu
sắc của gia đình, đều chịu sự tác động kìm hãm hay thúc đẩy, tiến bộ
hay bảo thủ của GĐ. GĐ cũ với những quy tắc cổ truyền, với quan hệ
gắn bó giữa các thành viên, với trật tự trên dưới, với sự phục tùng đối
với người gia trưởng đã được duy trì và vận dụng như một nhân tố
tích cực trong CNH_HĐH. Nhưng phải chăng kiểu gia đình này có thể
12


tồn tại mãi với thời gian? Phải chăng mâu thuẫn giữa thế giới mới và
cũ, giữa sự lỗi thời của quá khứ và sự đòi hỏi của tương lai sẽ tránh
khỏi được một sự bùng nổ sâu sắc và mạnh mẽ.
VN là một nước chậm tiến đang đi vào CNH_HĐH với đầy rẫy
những khó khăn. Gia đình VN là một vấn đề khoa học. GĐ kiểu cũ
kéo dài hàng ngàn năm đã không thể tự bảo tồn trước những đổi thay
của đất nước. Hồn cảnh một đất nước phương Đơng bị phong kiến
bên trong và thực dân bên ngoài áp bức, đòi hỏi nhân dân ta phải vượt
ra khỏi sự kìm hãm và ràng buộc của gia đình. Cách mạng tháng 8 là
một bước ngoặt lớn trong lịch sử. Cách mạng khơng chỉ giải phóng
đất nước, giải phóng dân tộc thốt khỏi xiềng xích nơ lệ nói chung, mà
cịn giải phóng cho gia đình. Trên con đường đổi mới, gia đình cũng
đang tiếp tục chuyển biến, cái mới và cái cũ còn đan xen nhau. Qua 2
thời kỳ từ giải phóng miền Bắc 54 đến 1986(đổi mới) và từ đổi mới
đến nay, gia đình Việt Nam mang những bộ mặt như thế nào. Với việc
phân tích 2 chức năng của gia đình, đó là:chức năng văn hóa & chức
năng tái sản xuất, thơng qua 2 thời kỳ vừa nói trên, những giá trị nào

của gia đình VN là cịn được duy trì, giá trị nào nhường chỗ cho
những giá trị của thời kỳ mới.
II. Nội dung
1. Khái niệm
Gia đình là một thiết chế xã hội có sự liên kết nhau nhằm thực
hiện việc duy trì nịi giống và chăm sóc con cái. Đó là sự liên kết ít
nhất 2 người trên cơ sở huyết thống, hôn nhân và nhận con ni.
Những người này ít nhất cũng phải sống cùng nhau.
13


2. Nội dung chính
Gia đình thực hiện 7 chức năng, đó là:chính trị, tái sản xuất, kinh
tế, văn hóa, giáo dục, xã hội hóa và chức năng tình cảm. Trong đó bài
viết đi sâu tìm hiểu, phân tích 2 chức năng:văn hóa & tái sản xuất qua
2 thời kỳ từ giải phóng miền Bắc 54 đến 1986 và từ 86 đến nay. Như
chúng ta đã biết, từ năm 54, miền Bắc được giải phóng hồn tồn,
bước vào cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một luồng sinh khí
mới bao trùm lên toàn miền Bắc, người người nhà nhà vừa đón nhận
tự do vừa hối hả lao động để chi viện cho miền Nam còn đang chiến
tranh. Nền kinh tế lúc này ở miền Bắc là nền kinh tế bao cấp, tính tập
thể trong lao động được thể hiện rõ. Nhưng từ sau đổi mới, đất nước
chuyển sang nền kinh tế thị trường. Tính cá nhân trong lao động được
nâng cao và phát huy. Chính sự khác nhau về chính sách kinh tế, cách
thức sản xuất qua mỗi thời kỳ đã ảnh hưởng đến nhiều mặt của xã
hội , trong đó gia đình _tế bào của xã hội là nơi chịu ảnh hưởng, tác
động rõ rệt.
2.1. Sự biến đổi chức năng văn hóa
a, Gia đình là nơi bảo lưu truyền thống văn hóa dân tộc:truyền
thống đạo lý, truyền thống hiếu học và truyền thống tâm linh duy trì

thờ phụng tổ tiên
Truyền thống đạo lý của dân tộc Việt nam nói chung và gia đình
VN nói riêng là tính cố kết chặt chẽ, coi trọng đời sống tập thể hơn cá
nhân. Từ xa xưa, truyền thống này đã được khẳng định qua việc các
thành viên trong gia đình, cộng đồng cùng nhau chống lại thiên tai để
sản xuất và cùng nhau chống giặc ngoại xâm phương Bắc. Từ năm
5486, gia đình VN vẫn duy trì tốt truyền thống này. Vai trị trụ cột
14


trong gia đình vẫn là đàn ơng và các thành viên hướng về trung tâm
đó, tạo nên sự cố kết thật bình yên. Nhưng từ sau đổi mới, sự cố kết
này có phần lỏng lẻo. Các thành viên trong đó có cả phụ nữ đều được
giải phóng và có những cơng việc riêng ngồi xã hội. Như thế tức
khắc sẽ tạo ra sự dãn ra, dàn trải vị thế, vai trò của các thành viên.
Từ 5486, truyền thống hiếu học rất được chú trọng, đây là sự
tiếp nối tất yếu của một đất nước có 1000 năm văn hiến như VN. Bác
Hồ đã từng nói”Vì lợi ích 10 năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng
người”. Khi miền Bắc được giải phóng, hàng loạt các cơng trình xây
được mọc lên, trong đó có trường học. Trẻ em trong các gia đình được
cắp sách đến trường:” Trẻ em như búp trên cành, biết ăn ngủ biết học
hành là ngoan”. Sau đổi mới, truyền thống này tiếp tục được duy trì,
phát triển. Bởi lẽ thời kỳ đổi mới hơn bao giờ hết rất cần thông tin, tri
thức, việc học hành luôn là một chính sách ưu tiên của Đảng. Con em
trong các gia đình được nhà nước khuyến khích , tạo điều kiện ra nước
ngoài học tập. Bản thân trong mỗi gia đình cũng cố gắng dành những
điều kiện tốt nhất cho sự nghiệp học tập của con cái”Hi sinh đời bố,
củng cố đời con”.
Truyền thống tâm linh, việc duy trì thờ phụng tổ tiên trong cả 2
thời kỳ luôn được bảo tồn , giữ gìn. Sau đổi mới , các gia đình có

nhiều điều kiện hơn, họ thể hiện sự quan tâm của mình với ơng bà, tổ
tiên bằng những hành động cụ thể như xây dựng nhà thờ, sửa sang lại
mồ mả tổ tiên, lập lại gia phả…
b, Gia đình là nơi xây dựng các giá trị chuẩn mực đạo đức, thể
hiện qua mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, vấn đề hơn
nhân và gia đình, vấn đề về vai trò của người phụ nữ
15


aTừ 5486, vai trị của người đàn ơng trong gia đình vẫn là trụ
cột, nên tính gia trưởng vẫn nặng nề. Nho giáo đã ảnh hưởng sâu sắc
đến VN , nó đề cao và chỉ ra uy quyền tuyệt đối của người đàn ơng
trong gia đình, cũng như của một ông vua trong thiên hạ_một sự đồng
nhất của chữ hiếu và chữ trung. Từ 5486, tàn dư phong kiến vẫn
còn để lại rất nhiều dấu ấn lên nếp sống của mỗi gia đình, trong đó
tính gia trưởng vẫn cịn đậm nét vì thời kỳ này, phụ nữ chưa tham gia
nhiều và rộng rãi các cơng việc ngồi xã hội. Chừng nào người đàn
ơng cịn được coi là”trụ cột của gia đình”, chừng đấy tính gia trưởng
vẫn cịn nặng nề.
Sau đổi mới đến nay, khơng thể nói tính gia trưởng đã bị triệt
tiêu hồn tồn. Q trình CNH_HĐH đất nước đang tạo điều kiện cho
phụ nữ tham gia vào các hoạt động xã hội và đòi hỏi nam giới cùng
chia sẻ gánh nặng cơng việc trong gia đình. Tuy nhiên, đối với nam
giới, vấn đề xóa bỏ những quan niện về vai trò trụ cột của họ lại chưa
được phụ nữ và xã hội nhìn nhận. “Nếu phụ nữ quyết định những việc
lớn thì người chồng cảm thấy bất lực và yếu đuối, làm cho người
chồng thấy mình bị mất quyền lực gia đình.” Nhưng, trên thực tế
ngày nay phụ nữ đã có thể gánh vác và quyết định cơng việc gia đình.
Phụ nữ cũng như nam giới họ sẽ làm được tất cả. Điều này cho thấy,
việc cả nam giới và phụ nữ muốn duy trì quan niệm “quyền lực” của

người đàn ơng trong gia đình thực ra là khơng cịn ý nghĩa lắm.
Vị trí, vai trị của người phụ nữ có sự biến đổi nào qua hai thời
kỳ? Như chúng ta đã biết, trong suốt thời kỳ phong kiến, vai trị của
người phụ nữ trong gia đình cũng như trong dịng họ hồn tồn “lép
vế”, họ tồn tại bên cạnh những người đàn ơng “tại gia tịng phụ, xuất
16


giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Từ sau Cách mạng tháng Tám, đặc biệt
là từ 54 đến 86, hoàn cảnh lịch sử mới đã khơi dậy ở phụ nữ những
suy nghĩ mới, tình cảm mới, đem lại cho họ sức mạnh để vùng lên,
để đứng thẳng với tư cách con người. Phụ nữ không chỉ quẩn quanh
làm nội trợ và tham gia sản xuất vì lợi ích gia đình mà còn đảm đang
việc nước việc nhà, cầm cày cầm súng không chịu thua kém nam
giới. Phụ nữ dần dần có chỗ đứng với tư cách là một lực lượng lao
động trong xã hội. Ngày nay, vai trò của phụ nữ ngày càng được
khẳng định và nâng cao. Không chỉ được quyền tham gia các công
việc hoạt động xã hội vốn được coi là của đàn ông mà phụ nữ cịn địi
hỏi các ơng chồng cùng mình gánh vác những công việc vốn được coi
là của phụ nữ. Phụ nữ vẫn là người chủ yếu làm các công việc nội trợ
trong gia đình. Tuy nhiên, so với quá khứ, họ làm ít hơn và nam giới
phần nào chia sẻ với phụ nữ trong các hoạt động này.
c, Nơi xây dựng, thực hiện các phong tục tập quán, định hướng
lối sống.
Gia đình là nơi mà các thành viên được thấm nhuần những lý
tưởng, lễ nghi, phong tục tập quán của dòng họ, xã hội. Có thể nói,
đây là cái nơi đầu tiên hình thành nên nhân cách con người, để từ đó
con người hịa nhập vào xã hội. Cả trước và sau đổi mới, chức năng
này của gia đình vẫn ln được bảo tồn, duy trì. Gia đình là nơi sinh
hoạt ăn ở, là nơi giao tiếp, tiến hành lễ Tết, giỗ chạp, cưới xin, ma

chay. “Giỏ nhà ai quai nhà nấy”, câu tục ngữ này luôn luôn đúng. Nếu
con cái ngay từ tuổi ấu thơ được sự giáo dục đúng đắn, gương mẫu
của cha mẹ, chúng sẽ ít có cơ hội tham gia vào các tệ nạn xã hội. Tuy
nhiên, trước và sau đổi mới, gia đình cũng có sự đổi mới nhất định,
17


cũng như sự đào thải những giá trị truyền thống lỗi thời, phản tiến
hóa.
Trong gia đình, ngồi mối quan hệ giữa các thành viên thì vấn đề
hơn nhân của con cái, những vấn đề liên quan đến hôn nhân như ly
hơn, quan hệ tình dục trước hơn nhân cũng rất được coi trọng. Hôn
nhân của con cái trong thời kỳ 54-86 khơng cịn là kiểu “cha mẹ đặt
đâu con ngồi đấy”. Sau giải phóng, đất nước được độc lập tự do, vấn
đề con người cũng được chú ý sao cho vừa có độc lập tự do vừa có
hạnh phúc. Nam nữ được tự do tìm hiểu, nếu ưng thuận nhau thì xin
cha mẹ làm đám cưới, với sự chứng kiến của họ hàng hai bên. Chỉ
những trường hợp đặc biệt, cha mẹ mới ép con cái kết hôn theo
nguyện vọng của cha mẹ. Nếu xét về khía cạnh hạnh phúc của cá
nhân, thì ly hơn trong thời kỳ sau đổi mới cũng được coi nhẹ hơn,
thoáng hơn là một sự giải thốt.
Trở lại vấn đề kết hơn, đặt trong thời kỳ từ 86 đến nay quả là có
nhiều biến đổi : tìm hiểu nhau chưa đủ, nam nữ có xu hướng sống thử
cùng nhau như vợ chồng rồi mới đi đến kết hơn. Bên cạnh kết quả tích
cực (nhiều đơi thực sự hiểu nhau hơn để đưa ra những quyết định sáng
suốt có nên kết hơn hay khơng), cịn có những tác động tiêu cực, sau
thời gian sống thử người nào đi đường người nấy, cả hai đều chịu
những hậu quả tâm lý nhất định.
Gia đình từ một cơ cấu đóng chuyển sang cơ cấu mở, từ một hệ
thống ứng xử được khn mẫu hóa đến một hệ thống hành vi đa dạng,

hợp lý, tiến bộ hơn. Nếu như trước đổi mới, sự giáo dục chỉ là một
chiều là cha mẹ nói gì con nghe đấy thì sau đổi mới, con cái có quyền
nói lên những suy nghĩ của mình, quan điểm của mình, và cha mẹ
18


phải tơn trọng quyền đó của con cái. Những chuyển đổi này diễn ra
đồng hành với quá trình nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh
thần. Tuy nhiên, đây là quá trình chuyển đổi phức tạp, mỗi gia đình
phải ln ln vận động trong xu thế phát triển chung của xã hội để có
những cách ứng xử hợp lý, tiến bộ với nhau.
Một điều đáng nói nữa là sự hình thành một lối sống mới so với
trước đây. Thời kỳ 5486 là thời kỳ của nền kinh tế bao cấp, nền
kinh tế đóng, lối lao động tập thể đã hình thành nên lối sống tập thể.
Thời kỳ này, lao động gia đình là chính, cơng cụ sản xuất thủ cơng, ít
có khả năng tham gia kinh tế thị trường. Hạn chế thuê mướn nhân
công, đều do người trong gia đình tham gia lao động, kể cả người già
và trẻ em. Vì thế, sản xuất khơng hạch tốn lỗ lãi và năng suất cá nhân
mà dựa trên ý thức tự giác và tinh thần đồng cam cộng khổ của mọi
người. Tất cả hầu như cùng làm cùng ăn, và cùng gắng sức hết mình.
Sau 86, luồng gió kinh tế mới đã đảo lộn tất cả. Sự phân công
lao động giữa vợ và chồng không theo quy tắc truyền thống mà hướng
tới sự độc lập kinh tế khi phụ nữ tham gia các hoạt động kinh tế phi
nông nghiệp. Sự độc lập kinh tế giữa vợ và chồng dẫn đến xung đột
gia đình, người chồng chấp nhận vai trị bình đẳng của người vợ
nhưng quan hệ gia đình có phần lỏng lẻo hơn. Trong quan hệ giữa cha
mẹ và con cái, kinh tế thị trường kích thích chủ nghĩa cá nhân, làm
suy yếu các chuẩn mực đạo đức gia đình, bố mẹ thường thích ở riêng
khi cịn khả năng lao động. Quan hệ cha mẹ_con cái cần có tính nghi
lế để duy trì tình cảm gia đình.

2.2. Sự biến đổi chức năng tái sản xuất
a, Tái sản xuất sinh học
19


Gia đình là thiết chế duy nhất đảm bảo chức năng sinh đẻ, duy
trì và phát triển nịi giống cho xã hội. Từ 5486, số con trong gia
đình lớn, TFR=5(qua các năm 60, 78, 80). Từ 86 đến nat, TFR giảm
cịn 2.28(2003). Theo quan niệm Nho giáo, mỗi gia đình VN đều rất
coi trọng con trai vì con trai khơng chỉ nối dõi tơng đường mà cịn là
người đảm nhận chính việc hương khói cho tổ tiên. Trong khoảng
5486, quan niệm này vẫn còn nguyên sức ảnh hưởng. Thường trong
các gia đình, người con trai cả ở cùng cha mẹ ruột. Người con trai cả
được giữ lại bởi vì anh ta sẽ thừa hưởng từ người cha không chỉ nhf
cửa mà còn tiếp tục kế thừa bổn phận thờ cúng tổ tiên. Những người
con trai trong các gia đình chỉ có một con trai duy nhất thường được
chiều chuộng một cách đặc biệt, ít khi bị bố mẹ bắt làm việc nặng cho
dến lúc trưởng thành. Từ 86nay, tâm lý coi trọng con trai vẫn còn
tồn tại, tuy nhiên sự cân bằng giới tính đã bắt đầu thiết lập. Con gái
hay con trai cũng đều được hưởng những điều kiện xã hội như nhau,
cùng được chăm lo phát triển. Chính sách kế hoạch hóa gia đình của
VN là:”Mỗi gia đình chỉ có từ 1 đến 2 con”, bất kể là nam hay nữ.
Nếu như trước đây, con cái sinh ra có 1cha_1 mẹ đàng hồng thì ngày
nay, lẽ tự nhiên đó trong thời kỳ mở cửa đang có sự thay đổi. Có
những người mẹ cơng khai sinh con và ni con một mình, đứa trẻ
khơng hề biết đến cha. Lại có những trường hợp đẻ thuê, để mướn…
Nằm trong bối cảnh xã hội đang bị tấn công bởi quá nhiều luồng giá
trị, tư tưởng, chức năng sinh đẻ của gia đình cũng bao gồm trong nó
những vấn đề nằm ngồi”lẽ tự nhiên”.
b, Tái sản xuất sức lao động


20


Gia đình là nơi nghỉ ngơi, đem lại tâm lý cân bằng, cảm giác thư
giãn sau thời gian lao động, thơng qua chăm sóc sức khỏe vế cả thể
chất và tinh thần.
Từ 5486, đất nước ta vẫn cịn nghèo vì vừa trải qua chiến
tranh và nền kinh tế chưa phát triển. Với phương châm là”cơm đủ no,
áo đủ mặc”, các gia đình chỉ cố gắng chú trọng đến sức khỏe thể chất
cho mỗi thanh viên. Sau đổi mới, nền kinh tế mở cửa đã đem lại nhiều
điều kiện cho đời sống vật chất kéo theo phát triển đời sống tinh thần,
mỗi thành viên trong gia đình khơng chỉ”ăn chắc mặc bền” mà còn”ăn
ngon mặc đẹp”. Sau những giờ làm việc mệt mỏi, trở về gia đình, mỗi
thành viên khơng chỉ được hồi phục sức lao động bằng những bữa
cơm, tắm rửa mà các thành viên còn cùng nhau tham gia những hoạt
động tinh thần như cùng chơi thể thao, cùng thưởng thức âm nhạc,
xem phim ngoài rạp…Các thành viên cùng nhau chia sẻ những mối
quan tâm, sở thích, nhu cầu…của mình và được mọi người ủng hộ.
III. Kết luận
Thơng qua việc phân tích 2 chức năng:văn hóa và tái sản xuất ở
2 thời kỳ từ 5486 và từ 86 đến nay, chúng ta thấy được gia đình VN
đã và đang mang một bộ mặt như thế nào. Truyền thống hiếu học,
truyền thống tâm linh, thờ phụng tổ tiên cùng những lí tưởng, lễ nghi,
phong tục tập quán cơ bản của gia đình, dịng họ, xã hội vẫn ln
được bảo tồn và phát huy. Tính gia trưởng của người đàn ơng cũng
như vai trò của người phụ nữ , chức năng tái sản xuất của gia đình
ngày càng được cải thiện và phát triển. Bên cạnh đó, tính cố kết cộng
đồng, vấn đề hơn nhân và gia đình, lối sống tập thể lại ngày càng trở
21



nên lỏng lẻo, thống hơn và có phần xuống cấp. Sự thốt ly đời sống
gia đình mới đầu thực sự là một hiện tượng giải phóng cho cá nhân đã
dần dần trở thành một sự nghèo nàn trong đời sống tinh thần, sự thiếu
thốn về tình cảm, sự cơ đơn, sự tẻ nhạt trong cuộc đời. Trong tình hình
này, vấn đề gia đình nhiều lúc được đặt ra như một sự luyến tiếc quá
khứ, một nhu cầu trong cuộc sống hiện đại.
Đất nước ta đang tiến nhanh trên con đường đổi mới. Gia đình
cũng đang tiếp tục chuyển biến, cái mới và cái cũ cịn đan xen nhau.
Khơng cịn chữ hiếu mù quáng như xưa”cha khiến con chết mà con
không chết là bất hiếu”. Tình cảm gia đình ngày nay phải được xây
dựng trên cơ sở binh đẳng và tự nguyện chứ không phải do sự áp đặt
của quyền lực chính trị và sự trói buộc của quyền lợi kinh tế. Nhân
dân ta đã từng đổ bao xương máu và mồ hôi đẻ giành lại độc lập, tự
do, xây dựng một cuộc sống bình đẳng và dân chủ. Gia đình phải là
nền tảng của xã hội mới, phải bảo vệ những thành quả mà cách mạng
đã đạt được chứ không phải đi ngược lại những thành quả ấy.
Bước vào thời kỳ CNH_HĐH , VN xác định có đầy rẫy những
khó khăn trước mắt. Tuy nhiên, VN cũng có những thuận lợi to lớn là
với sự nỗ lực và sáng tạo, VN có thể tránh được những sai lầm của
người đi trước và xử lí vấn đề gia đình một cách khoa học, hợp lý,
phát huy được những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, gạt bỏ được
những nhân tố lạc hậu để gia đình VN trở thành nhân tố tích cực cho
CNH và HĐH, vừa thể hiện bản sắc văn hóa của dân tộc, vừa phù hợp
với xu hướng tiến bộ của nhân loại.

22



MỤC LỤC

23



×