Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Tài liệu Tiểu luận:Tìm hiểu hệ thống Marketing ngành cà phê docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (682.28 KB, 34 trang )

0

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội
Khoa Kinh tế & PTNT
o0o




TIỂU LUẬN MARKETING NÔNG NGHIỆP

Đề tài: “Tìm hiểu hệ thống Marketing ngành cà phê”




GVHD: Ths. Nguyễn Hùng Anh
Nhóm : Nhóm 5
Lớp: K54 PTNT


HÀ NỘI – 2012

1




MỤC LỤC:
Trang
I- MỞ ĐẦU 2


1. Tính cấp thiết của đề tài 2
2. Mục tiêu nghiên cứu 3
2.1. Mục tiêu chung 3
2.2. Mục tiêu cụ thể 3
3. Phương pháp nghiên cứu 3
II- NỘI DUNG 3
1. Hệ thống cơ sở lý luận 3
2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ cà phê trên thế giới 5
3. Hệ thống Marketing ngành Cà phê 8
4. Mối quan hệ giữa các tác nhân tham gia vào hệ thống 9
4.1. Các tác nhân tham gia 9
4.2. Mối quan hệ giữa các tác nhân 11
5. Chi phí và hiệu quả của hệ thống Marketing 15
5.1. Chi phí marketing 15
5.2. Hiệu quả marketing 21
6. Khó khăn, thách thức 23
6.1. Về sản xuất 23
7. Đề xuất giải pháp 28
III- KẾT LUẬN 31
IV- TÀI LIỆU THAM KHẢO 33
2


I- MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hệ thống Marketing đang ngày càng đóng vai trò đặc biệt quan trọng
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nông nghiệp nói
riêng và nền kinh tế nói chung, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
và mở cửa thị trường nội địa như hiện nay. Ngày nay, hệ thống marketing
không chỉ đơn thuần là làm nhiệm vụ đưa hàng hóa từ người sản xuất đến tay

người tiêu dùng cuối cùng mà nó còn có vai trò thúc đẩy nhu cầu quảng bá sản
phẩm, nắm rõ nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng, thu thập thông tin khách hàng,
đối thủ cạnh tranh,… từ đó tạo ra động lực phát triển cho hoạt động sản xuất
kinh doanh, nâng cao tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Chỉ có
như thế doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển bền vững.
Cà phê là một sản phẩm xuất hiện từ lâu đời và rất được ưa chuộng trên
toàn cầu. Đây là loại hàng hóa giao dịch mạnh trên thị trường thế giới đã và
đang mang lại cho hàng triệu nông dân ở các nước xuất khẩu cà phê nguồn thu
nhập chính. Việt Nam là một nước có diện tích trồng cà phê lớn và là quốc gia
có sản lượng xuất khẩu cà phê đứng thứ hai trên thế giới và đứng đầu về sản
xuất, xuất khẩu cà phê vối. Có được một vị trí quan trọng như vậy là do chúng
ta sớm có chủ trương phát triển cây cà phê trở thành ngành kinh tế và nguồn
hàng xuất khẩu "mũi nhọn". Nhìn lại sự phát triển của cà phê Việt Nam thời
gian qua mặc dù đạt số lượng xuất khẩu khá tốt nhưng về chất lượng, giá cả
vẫn còn thất thế so với các nước xuất khẩu cà phê trên thế giới. Việt Nam hòa
nhập vào thị trường thế giới trong bối cảnh bị mất thị trường truyền thống (Liên
Xô và các nước XHCN trước đây) trong khi đó thị trường cà phê thế giới được
hình thành từ lâu đời và được phân chia rõ rệt, hầu như cà phê Việt Nam không
còn chỗ đứng. Chúng ta chủ yếu bán cà phê cho các nước trung gian, do vậy
giá cả luôn thấp hơn mặt bằng giá chung của thế giới.
3

Nhằm ổn định, nâng cao chất lượng, giá cả, khẳng định vị trí của cà phê
Việt Nam, chúng ta cần có những giải pháp khả thi và triển khai một cách đồng
bộ. Để cà phê Việt Nam đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, ngành cà
phê cần chú ý thay đổi cơ cấu sản phẩm ngay từ khâu sản xuất đến khi thu được
sản phẩm hoàn thiện.
Nhận thức được điều đó, để hiểu rõ hơn về hệ thống marketing ngành
cà phê, nhóm chúng tôi thực hiện nghiên cứu với đề tài “Tìm hiểu hệ thống
Marketing ngành hàng Cà phê”.

2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Tìm hiểu về hệ thống marketing nông nghiệp trong ngành hàng Cà Phê.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa một số lý luận về marketing nông nghiệp & ngành cà phê
- Tìm hiểu về hệ thống marketing trong ngành cà phê
- Mối quan hệ giữa các tác nhân tham gia hệ thống marketing ngành Cà
phê
- Chi phí, hiệu quả của hệ thống marketing cà phê
- Đưa ra những khó khăn hạn chế ngành gặp phải, từ đó đề xuất một số
giải pháp cụ thể.
3. Phương pháp nghiên cứu
Một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong đề tài:
- Phương pháp phân tích thông tin (phân tích, đánh giá, nhận xét,…).
- Phương pháp tổng hợp thông tin từ các nguồn tin cần thiết như sách báo,
tạp chí, luận văn - luận án, Internet,…
- Phương pháp thống kê mô tả nội dung đề tài…
II- NỘI DUNG
1. Hệ thống cơ sở lý luận
 Khái niệm Marketing
4

Có rất nhiều khái niệm khác nhau về marketing. Theo quan điểm cổ
điển: Marketing là một quá trình mà ở đó nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ được
dự đoán và được thỏa mãn thông qua một quá trình bao gồm nhận thức thúc đẩy
và phân phối.
Theo Philip Kotler thà marketing được hiểu là một quá trình quản lý
mang tính xã hội, nhờ đó mà các cá nhân và tập thể có được những gì họ cần và
mong muốn thông qua việc tạo ra, chào bán và trao đổi những sản phẩm có giá
trị với những người khác.

Hiệp hội marketing của Mỹ thì nói: Marketing là sự dự đoán, sự quản lý,
sự điều chỉnh và sự thỏa mãn nhu cầu thông qua quá trình trao đổi.
Theo chuyên gia nghiên cứu marketing của Liên hợp quốc “Marketing
là khoa học điều hành toàn bộ hoạt động kinh doanh kể từ khâu sản xuất đến
khâu tiêu thụ, nó căn cứ vào nhu cầu biến động của thị trường hay nói cách khác
đi là lấy thị trường làm định hướng”.
Vậy khái quát nhất có thể nói: Marketing là chức năng quản lý của
doanh nghiệp về tổ chức toàn bộ các hoạt động nhằm hướng tới thỏa mãn nhu
cầu tiêu dùng của khách hàng, từ việc phát hiện ra nhu cầu và biến sức mua
của người tiêu dùng thành nhu cầu thực sự về một hàng hóa cụ thể đến việc đưa
hàng hóa đến người tiêu dùng cuối cùng nhằm làm cho khách hàng thỏa mãn
khi tiêu dùng hàng hóa hay dịch vụ của doanh nghiệp, trên cơ sở đó đảm bảo
cho doanh nghiệp đạt được mục tiêu đề ra.
Khái niệm marketing thường dựa trên những khái niệm cốt lõi như: nhu
cầu, mong muốn và yêu cầu, sản phẩm, giá trị, chi phí và sự hài lòng, trao đổi,
giao dịch và các mối quan hệ, thị trường, marketing và những người làm
marketing…
 Marketing nông nghiệp: Marketing nông nghiệp là toàn bộ các hoạt
động marketing liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp.
5

 Hệ thống Marketing ngành cà phê: là hoạt động của toàn bộ các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia vào chu trình dịch chuyển các sản phẩm cà
phê từ tay người sản xuất đến tay người tiêu dùng cuối cùng.
 Liên kết dọc
Liên kết dọc là mối quan hệ phân phối lợi ích giữa các tác nhân và việc
truyền thông tin, truyền kiến thức và chia sẽ rủi ro giữa các tác nhân ở các cấp
khác nhau tham gia vào hệ thống marketing.
Hệ thống marketing dọc gồm các nhà sản xuất, nhà bán buôn, nhà bán
lẻ, hoạt động như một thể thống nhất. Hoặc thành viên này là chủ của thành

viên khác hoặc cho họ độc quyền kinh tiêu hoặc có quyền lực mạnh đến nỗi các
thành viên kia phải hợp tác. Một hệ thống marketing dọc có thể do một nhà sản
xuất, một nhà bán lẻ hay một nhà bán buôn thống trị, xuất hiện nhằm kiểm soát
hoạt động của kênh và điều giải xung đột do mỗi thành viên chỉ chạy theo lợi
ích riêng của mình.
 Liên kết ngang
Liên kết ngang là mối liên kết giữa những nhà sản xuất với nhau, các nhà
bán buôn với nhau… (hay nói cách khác là những tác nhân cùng cấp với nhau)
trong hệ thống marketing. Mối quan hệ giữa họ vừa là mối quan hệ vừa hợp tác
và vừa cạnh tranh với nhau.
 Chi phí marketing:
Chi phí marketing là tất cả các chi phí cho sản phẩm nông nghiệp sau
khi rời khỏi nông trại cho đến khi được người tiêu dùng mua.
Các loại chi phí marketing chủ yếu trong nông nghiệp bao gồm : Chuẩn bị cho
sản phẩm (làm sạch và phân loại), đóng gói, bóc dỡ, vận chuyển, hao hụt sản
phẩm, lưu kho, chế biến…

2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ cà phê trên thế giới
Hiện nay, trên thế giới có gần 80 quốc gia trồng cà phê, trong đó,
châu Phi có 35 nước, Trung Mỹ có 25 nước, Nam Mỹ có 10 nước, châu Á có 13
6

nước, châu Đại Dương có 6 nước. Sản phẩm hạt cà phê là loại hàng hóa giao
dịch mạnh trên thị trường thế giới ở London và NewYork và đã đang tạo việc
làm, mang lại nguồn thu nhập chính cho hàng triệu nông dân ở các nước xuất
khẩu cà phê. Năm 2005, cà phê được coi là mặt hàng xuất khẩu hợp pháp thứ 7
trên thế giới.
Các nước tiêu thụ cà phê lớn nhất là Hoa Kỳ, Đức, Pháp, Nhật Bản,
Ý, Người Phần Lan uống nhiều cà phê nhất thế giới với 1737 tách/năm, trung
bình 5 tách/ngày, tương ứng 11,3kg/năm/người. Hoa Kỳ năm 1998 sử dụng

1.148.000 tấn cà phê, trung bình tiêu thụ 4,8kg/ người/năm hay 646 tách /năm.
Người Đức sử dụng trung bình 6,7kg/ người/năm hay 4 tách /ngày và cà phê
được coi là thức uống ưa thích nhất, xếp trước cả bia. Đối với Việt Nam, do
phong tục tập quán uống chè từ lâu đời nên lượng cà phê tiêu thụ nội địa còn
khiêm tốn, trung bình 0,5 kg/ người/năm (năm 2009).
 Thực trạng sản xuất cà phê ở Việt Nam
Cà phê được trồng đầu tiên ở Việt Nam tại huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng
Bình năm 1897. Thực dân Pháp lập các đồn điền cà phê ở Chi Nê ( Hòa Bình),
Ba Vì (Hà Tây), Đồng Giao (Ninh Bình), Phủ Quỳ (Nghệ An), từ năm 1930-
1945 cà phê được trồng ở Tây Nguyên. Trước cách mạng tháng 8 diện tích cà
phê ở nước ta ít, năm 1930 là 10.700 ha. Suốt thời gian chống Pháp và chống
Mỹ diện tích, sản lượng cà phê tăng chậm. Từ năm 1975 trở lại đây ngành cà
phê đã tăng cả về diện tích và năng suất, sản lượng.
Do điều kiện khí hậu và đất đai thích hợp nên cây được phát triển trên
quy mô rộng và cho sản phẩm có chất lượng. Đặc biệt, trong bối cảnh tiêu dùng
cà phê thế giới ngày càng tăng và việc gia nhập tổ chức thương mại quốc tế
WTO đã mang lại cho ngành cà phê nước ta cơ hội mới. Từ năm 1995-2007
diện tích trồng, thu hoạch, sử dụng cà phê nhân đều tăng lên mạnh qua các năm.
Từ diện tích trồng 186,4 nghìn ha năm 1995 đã tăng lên 506,4 nghìn ha năm
2007. Đặc biệt, sản lượng cà phê đã có bước tiến đáng kể nhờ áp dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật, thâm canh cà phê, năm 2007 đã đạt 961,2 nghìn tấn. Việc áp
7

dụng công nghệ khoa học kỹ thuật trong trồng trọt cũng giúp nông dân nâng
năng suất cà phê lên cao. Nếu năm 1985, năng suất cà phê Việt Nam mới ở mức
1 tấn/ha thì 20 năm sau năng suất đó đã đạt bình quân 1,7 tấn/ha, trong đó có
một số năm đạt bình quân 2-2,5 tấn/ha. Bình quân trong 20 năm mỗi hecta cà
phê đã cho sản lượng hàng năm là 1,68 tấn.Trong một vài năm gần đây, nhiều
nông dân đã mở rộng diện tích trồng cà phê trung bình khoảng 2.000 ha/năm.
Diện tích cà phê nước ta hiện nay đạt khoảng 500.000 ha.

Ở nước ta, 2 giống cà phê được trồng phổ biến là cà phê vối (Robusta)
và cà phê chè (Arabica). Cà phê vối chủ yếu được trồng ở Miền Nam do giống
này ưa nhiệt độ cao hơn. Còn cà phê chè thì được nhiều ở Miền Bắc (Sơn La,
Tuyên Quang, Bắc Thái, Vĩnh Phú, Lai Châu, Lạng Sơn, Hòa Bình, Yên
Bái, ).Việt Nam là nước sản xuất cà phê Robusta lớn nhất thế giới với hơn
90% sản lượng là các loại cà phê giá rẻ. Diện tích trồng cà phê Arabica hiện nay
khoảng 35.000 ha chiếm khoảng 6% tổng diện tích cà phê của cả nước.

Hình 1: Sản lượng cà phê nước ta từ niên vụ 1995/1996 đến niên vụ
2010/2011 (đơn vị: nghìn tấn)

(Nguồn: Báo cáo tình hình ngành hàng cà phê Việt Nam của USDA)

8

Chính phủ nước ta hiện nay cố gắng hạn chế việc mở rộng diện tích mới
mà thay vào đó là khuyến khích đầu tư nhằm cải thiện năng suất, chất lượng
diện tích gieo trồng hiện tại bằng cách trồng mới thay thế những cây cà phê già
và áp dụng Quy trình thực hiện nông nghiệp tốt (GAP)…
3. Hệ thống Marketing ngành Cà phê
Sản phẩm cà phê trong ngành cà phê của mỗi doanh nghiệp để có thể
tham gia vào thì trường và tham gia một cách có hiệu quả thì không thể thiếu
hoạt động của hệ thống marketing. Để hoạt động marketing thành công thì bộ
phận marketing của doanh nghiệp phải phối hợp hoạt động với các bộ phận
khác và cân nhắc sự ảnh hưởng của những nhà cung cấp, các đối thủ cạnh tranh,
các trung gian marketing và khách hàng (người tiêu dùng) trong hệ thống.


Hình: Hệ thống marketing và các yếu tố ảnh hưởng (nguồn: tailieu.vn/…)



9

4. Mối quan hệ giữa các tác nhân tham gia vào hệ thống
4.1. Các tác nhân tham gia
Các tác nhân tham gia vào hệ thống ngành cà phê bao gồm nhiều nhân
tố có tác động trực tiếp tới sự phát triển của ngành cà phê. Các tác nhân đó là
sự tham gia của người sản xuất, những người thu gom, các nhà bán buôn, bán
lẻ, các nhà tiêu thụ,… Các tác nhân tham gia vào hệ thống marketing theo chiều
dọc bao gồm nhiều thành viên tham gia, các thành viên thực hiện các kiểu liên
kết khác nhau tạo ra những cấp độ kênh khác nhau. Các thành viên hoạt động
liên kết hoặc độc lập với nhau với mục đích tối đa hóa lợi nhuận của mình.
Trong hệ thống marketing của ngành cà phê, các tác nhân tham gia hoạt
động thường độc lập với nhau hoặc nếu có sự liên kết cũng chỉ là sự liên kết
lỏng lẻo, các bên đều hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận của mình nên tạo ra sự
khó khăn trong việc tiêu thụ. Trong khâu sản xuất, hiện có 561.000 hộ với 2,6
triệu lao động đang trồng cà phê tại Tây Nguyên, trong đó 90% số hộ có quy mô
canh tác nhỏ hơn 1ha. Do sản xuất riêng lẻ, nên chất lượng sản phẩm, áp dụng
tiến bộ kỹ thuật thấp, không có cơ chế kiểm soát chất lượng hiệu quả (chỉ 10%
tổng sản lượng cà phê được sản xuất theo chứng chỉ bền vững). Chi phí sản xuất
cao, người sản xuất không có động lực và sức ép để sản xuất cà phê chất lượng
cao,… Việt Nam đang trồng hai dòng cà phê chính là cà phê Robusta (dòng cà
phê giá rẻ) và Arabica (dòng có giá trị xuất khẩu cao nhưng chỉ chiếm chưa đầy
1/4 sản lượng). Tập quán của những người trồng cà phê Arabica chưa thoát khỏi
lối canh tác cổ điển của những người trồng cà phê Robusta, nên chất lượng thấp.
Tình trạng thu hoạch khi trái còn xanh, thu hoạch bừa bãi diễn ra thường xuyên;
thâm canh, đầu tư sau thu hoạch yếu kém…
Hiện nay, mối liên hệ giữa doanh nghiệp thu mua, chế biến, xuất khẩu
với nông dân hết sức lỏng lẻo, thiếu sự chia sẻ lợi ích, trong khi hơn 80% diện
tích cà phê nằm trong tay người dân. Nông dân “mù” thông tin, thường xuyên bị

ép giá, nhận rủi ro về mình. Trong chuỗi phân phối lợi nhuận, người trồng cà
phê chỉ được hưởng tỉ lệ quá nhỏ nhoi so với các doanh nghiệp chế biến, tinh
10

chế cà phê xuất khẩu. Đây là yếu tố cơ bản khiến nông dân không an tâm đầu
tư sản xuất. Chia sẻ lợi ích hợp lý trong chuỗi sản xuất sản phẩm từ người trồng
- người sơ chế - môi giới - chế biến công nghiệp đang là đòi hỏi bức thiết nhất
hiện nay. Đây là yếu tố quyết định nếu muốn duy trì và nâng tầm sản phẩm cà
phê. Người trồng cà phê vẫn phải “giật gấu vá vai” mới sống nổi với cây cà phê
trong khi họ thường xuyên đối diện hàng loạt thách thức.
Trong trường hợp các doanh nghiệp không đủ điều kiện về vốn cũng
như thị trường xuất khẩu sẽ tự liên kết với nhau, tạo thành những doanh nghiệp
lớn hơn, cùng góp sức, vốn tạo nên những bước đột phá trên thị trường cà phê
thế giới.
Hệ thống marketing của ngành cà phê Việt Nam được hình thành bởi sự
liên kết của nhiều tác nhân tham gia vào ngành hàng. Trong mối liên kết này có
thể chia các tác nhân thành 2 nhóm chính:
 Nhóm tham gia liên kết trực tiếp trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ cà
phê bao gồm: Người sản xuất, người thu gom, người chế biến, người tiêu thụ…
+ Người sản xuất: bao gồm hộ nông dân là chủ yếu, ngoài ra còn có
trang trại, các doanh nghiệp và các hợp tác xã trực tiếp sử dụng các yếu tố đầu
vào để sản xuất ra cà phê.
+ Người thu gom: có thể là tư thương (là người thu gom địa phương và
họ hoạt động theo thời vụ), các tổ chức thu mua của các doanh nghiệp (tham gia
chế biến, xuất khẩu cà phê), các hợp tác xã. Với mặt hàng cà phê thì người thu
gom đây chủ yếu là doanh nghiệp, họ thường ký hợp đồng giao sau với người
sản xuất. Hình thức liên kết này đang ngày càng trở nên phổ biến.
+ Nhà chế biến: Bao gồm các cá nhân hay các tổ chức tham gia vào chế
biến hay sơ chế cà phê. Thông thường, người chế biến cà phê là các doanh
nghiệp hay hợp tác xã.

+ Người tiêu thụ: Có thể là các doanh nghiệp chế biến hay xuất khẩu cà
phê, các đại lý, của hàng và người tiêu dùng.
11

 Nhóm tham gia liên kết gián tiếp: bao gồm Nhà khoa học, chính quyền
các cấp, cơ sở cung cấp đầu vào cho sản xuất, các tổ chức xã hội, tổ chức tín
dụng, ngân hàng,… Các tác nhân này không trực tiếp tham gia vào việc sản
xuất, chế biến hay tiêu thụ sản phẩm mà chỉ chủ yếu đóng vai trò hỗ trợ cho
người sản xuất về kỹ thuật, cung cấp vốn, vật tư, thông tin thị trường và cơ chế
chính sách…
4.2. Mối quan hệ giữa các tác nhân
4.2.1. Mối quan hệ theo chiều ngang
a. Mối quan hệ giữa các NSX
Có mối quan hệ hợp tác là chủ yếu. Những NSX hợp tác với nhau trong
khuôn khổ HTX , các tổ chức công ở địa phương hoặc sự hợp tác giữa các hộ
quen biết nhau.
 Các hộ tự hợp tác với nhau dưới hình thức chung vốn để mua sắm máy
móc, thiết bị, công cụ lao động phục vụ cho sản xuất.
 Các hộ hợp tác trong khâu áp dụng đồng bộ việc phòng trừ sâu bệnh.
 Những NSX còn cung cấp cho nhau thông tin về giá và cầu của thị
trường.
 Giám sát nhau trong hoạt động sản xuất cà phê để đảm bảo chất lượng
cũng như uy tín của vùng
 Tuy có sự trao đổi về thông tin nhưng những NSX vẫn có sự độc lập
trong các quyết định của mình.
b. Mối quan hệ giữa các tác nhân trung gian
 Có sự gắn kết với nhau trong việc thực hiện vai trò của những người
khâu nối giữa NSX và NTD.
 Các tác nhân trung gian này cung cấp các thông tin về nhu cầu cà phê
của các tác nhân khác trong hệ thống.

 Các nhà thu gom, môi giới vận chuyển cung cấp cà phê cho các trung
gian khác.
12

 Các trung gian có sự ràng buộc chặt chẽ về mặt cung cấp.
 Có sự trao đổi về thông tin giữa các tác nhân trung gian.
 Các tác nhân có sự chia sẻ rủi ro với nhau.
4.2.2. Mối quan hệ theo chiều dọc.


Sơ đồ mối liên kết giữa các tác nhân trong hệ thống

Với hình thức liên kết theo chiều dọc, quan hệ giữa các tác nhân thể hiện
rõ rệt trong các hoạt động của ngành hàng. Trong đó các nhà thu gom, nhà phân
phối, nhà bán buôn, bán lẻ là các tác nhân trung gian có vai trò giảm chi phí cho
người sản xuất, tăng phạm vi tiếp cận khách hàng, chia sẻ rủi ro với nhà sản
xuất, kết nối cung – cầu và tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm hàng hóa.



chế,
chính
sách,
pháp
luật
của
nhà
Nhà sản xuất
Người thu
gom


Nhà ch
ế

bi
ế
n

Nhà ph
ân
ph

i

Nhà khoa
học,
Khuyến
nông

Đại lý bán
buôn

Đại lý bán lẻ

Ngân
hàng
và các
tổ chức
tín
dụng

Người tiêu dùng
Ngư

i bán l


13

Các tác nhân này kết nối với nhau thông qua các dòng: dòng chuyển quyền sở
hữu. dòng thông tin, dòng vận động vật chất, dòng thanh toán và dòng xúc tiến.
Điều kiện đảm bảo cho việc tồn tại của mối quan hệ theo chiều dọc giữa
các tác nhân bao gồm năng lực đàm phán, dòng kiến thức, niềm tin và sự phân
phối lợi ích kinh tế.
Theo đó năng lực đàm phán là khả năng, sức thuyết phục người khác
của mỗi cá nhân,là phương tiện cơ bản để đạt được cái mà ta mong muốn từ
người khác. Đó là quá trình giao tiếp có đi có lại được thiết kế nhằm thỏa thuận
trong khi giữa ta và bên kia có những quyền lợi có thể chia sẻ và có những
quyền lợi đối kháng. Dây là một năng lực không thể thiếu của mỗi cá nhân để
đạt được hiệu quả trong các quan hệ hợp tác.
Dòng kiến thức (hay thông tin): là điều không thể thiếu trong bất kì hoạt
động sản xuất kinh doanh nào. Các tác nhân trong hệ thống cần chia sẻ thông tin
về thị trường, giá cả với nhau. Hay nói cách khác cần đảm bảo được tính minh
bạch của thông tin thị trường.
Niềm tin: giữa các tác nhân với nhau cần tạo dựng được niềm tin với đối
tác, trong sản xuất kinh doanh uy tín là điều vô cùng quan trọng. Nếu không có
niềm tin hay không tạo dựng được lòng tin đối với các tác nhân khác thì mối
quan hệ này sẽ không đem lại hiệu quả, thậm chí rất dễ đổ vỡ.
Phân phối lợi ích kinh tế: sản phẩm cà phê trước khi đến tay người tiêu dùng đã
qua tay các tác nhân trung gian, và qua mỗi khâu trung gian, giá trị của nó lại
được tăng thêm một lượng nhất định. Do đó việc phân phối lợi ích kinh tế giữa

các tác nhân làm tăng giá trị gia tăng của sản phẩm một cách công bằng cũng là
một trong những điều kiện đảm bảo duy trì mối quan hệ giữa các tác nhân trong
hệ thống.
- Quan hệ hợp tác trong hoạt động cung ứng đầu vào cho sản xuất: Nội
dung liên kết này thể hiện giữa các nhà cung cấp đầu vào và người sản xuất cà
phê trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Chủ thể cung ứng đầu vào có
thể là doanh nghiệp thu mua, các cơ sở thu gom hay các đại lý đầu vào,… mối
14

liên kết này thường được thực hiện thông qua hợp đồng tiêu thụ sản phẩm. Hộ
nông dân được doanh nghiệp hỗ trợ về giá và cước vận chuyển trong khâu mua
sắm các đầu vào.
- Liên kết trong hoạt động ứng dụng KHKT vào sản xuất: Chủ thể tham
gia trong hoạt động này là các nhà khoa học (cán bộ nghiên cứu của các viện,
các trung tâm nghiên cứu, cán bộ khuyến nông…), hợp tác xã, doanh nghiệp
chế biến và hộ nông dân. Trong quan hệ này, nhà khoa học có cơ sở vững chắc
để phát triển nghiên cứu đáp ứng đòi hỏi của thị trường tiêu dùng về chất lượng,
mẫu mã, nguồn gốc sản phẩm…đảm bảo an toàn. Hộ sản xuất có điều kiện để
áp dụng TBKT vào sản xuất nhằm giảm chi phí, đem lại hiệu quả cao trong sản
xuất.
- Liên kết trong hoạt động vay vốn phát triển sản xuất: Nội dung liên kết
trong hoạt động này có các tác nhân chính là các tổ chức tín dụng, ngâ hàng và
hộ nông dân. Mối liên kết này mang lại lợi ích cho cả 2 bên. Một mặt tạo điều
kiện giúp nông dân có vốn phát triển sản xuất, mặt khác cũng tạo ra thu nhập
cho các tổ chức cho vay từ lãi suất.
- Liên kết trong hoạt động chế biến: Các cơ sở chế biến trực tiếp thu mua
nguyên liệu từ các hộ sản xuất hoặc thông qua người thu gom, thương lái hay
hợp tác xã bằng hợp đồng thu mua sản phẩm. Trong mối liên kết này, người sản
xuất có được nguồn vốn phục vụ sản xuất, có cán bộ kỹ thuật do doanh nghiệp
cử xuống hướng dẫn sản xuất và có đầu ra ổn định cho sản phẩm. Đồng thời

doanh nghiệp chế biến cũng yên tâm mở rộng thị trường nhờ có nguồn cung ổn
định.
- Liên kết trong tiêu thụ: Nội dung liên kết này có thể được thực hiện trực
tiếp giữa doanh nghiệp và hộ nông dân thông qua hợp đồng tiêu thụ hoặc thông
qua các cá nhân, tổ chức trung gian như: hợp tác xã, cơ sở thu gom, thương
lái…Trong hoạt động tiêu thụ, các doanh nghiệp thường hỗ trợ hộ sản xuất dưới
hình thức ứng trước cho hộ vật tư để có sự ràng buộc cũng như để hộ chủ động
được vốn cho quá trình đầu tư, ngoài ra còn giúp đỡ nông dân trong việc áp
15

dụng kỹ thuật, hỗ trợ vay vốn, thực hiện bao tiêu sản phẩm với giá thỏa thuận
đảm bảo lợi ích cho cả 2 bên.
- Quan hệ giữa người sản xuất với tổ chức đoàn thể và cơ quan nhà nước:
mối quan hệ này thể hiện rõ nhất trong sự cung cấp thông tin thị trường và
chuyển giao KHKT.
5. Chi phí và hiệu quả của hệ thống Marketing
5.1. Chi phí marketing
Chi phí marketing là tất cả các chi phí cho sản phẩm nông nghiệp sau
khi rời khỏi nông trại cho đến khi được người tiêu dùng mua.
Các loại chi phí marketing chủ yếu trong nông nghiệp bao gồm :

Hình: Các loại chi phí trong marketing nông nghiệp
Mỗi tác nhân tham gia đều có chi phí marketing khác nhau theo chuỗi giá
trị như sau : người sản xuất -> tác nhân trung gian -> các nhà bán buôn, bán lẻ
-> người tiêu dùng (các tác nhân trung gian bao gồm người thu gom và các
doanh nhiệp chế biến…)
a) Người sản xuất
16

Người sản xuất bao gồm hộ nông dân là chủ yếu, ngoài ra còn có trang

trại, các doanh nghiệp và các hợp tác xã trực tiếp sử dụng các yếu tố đầu vào để
sản xuất ra cà phê.
 Nông dân tự tiêu thụ sản phẩm :áp dụng đối với những hộ nông dân
trồng cà phê với quy mô nhỏ. Sau khi thu hái cà phê người tự chế biến theo
phương pháp thủ công, mang tính chất gia đình : Thu hoạch -> Phân loại ->
Chế biến -> Bảo quản -> Tiêu thụ.
Mỗi công đoạn đều được thực hiện với nhiều giai đoạn khác nhau. Khi cà
phê thu hoạch sẽ được tập trung lại và tiến hành phân loại, loại bỏ tạp chất ( đất,
đá, cành cây … ) và phân loại quả khô, quả xanh, quả non ra khỏi quả chín đều.
Sau khi phân loại cà phê là khâu chế biến thông qua các công đoạn bóc vỏ,
ngâm ủ, rửa nhớt và phơi sấy. Cuối cùng là khâu bảo quản và tiêu thụ bằng cách
chứa cà phê trong bao tải để nơi khô thoáng và tiêu thụ dần theo mối làm ăn
giữa hộ sản xuất với người tiêu dùng.
Phương tiện vận chuyển rất đơn giản, có thể bằng chính phương tiện gia đình :
xe máy, xe thồ, …
 Khi nông dân bán xô cho các nhà tư thương : Nếu bán cho tư thương,
người dân không phải tham gia vào quá trình thu hoạch. Người nông dân
thường được các thương lái bao tiêu nguyên vườn. Đây là hình thức ưa chuộng
nhất của nông dân trồng cà phê, do không phải tham gia vào việc thu hoạch, bảo
quản, mà vẫn đảm bảo bán hết cà phê ( bao gồm các loại quả kém chất lượng).
 Nông dân bán cho doanh nghiệp tư nhân.
Khi bán cho doanh nghiệp, nông dân ký hợp đồng với doanh nghiệp và phải
tuân theo các tiêu chuẩn nghiêm ngặt của doanh nghiệp ( công ty Dakman, công
ty Amazaro VN, chi nhánh Newman Group, Olam VN, Hà Lan VN và Công ty
Vĩnh An.) . Công ty Man – Buôn Ma Thuột (Dakman) được trực tiếp thu mua
cà phê của nông dân. Lý do, theo UBND tỉnh là Man – Buôn Ma Thuột đã liên
kết với nông dân trồng 3.676ha cà phê sạch 4C với sản lượng khoảng 12.000
tấn/năm.
17


 Nông dân bán cho các hợp tác xã
Khi bán cho hợp tác xã người nông dân ít bị ép giá hơn so với việc bán cho
các tư thương. Tuy nhiên người sản xuất phải tiến hành thu hoạch cà phê nhưng
được thu mua ngay tại vườn mà không phải vận chuyển tới nơi thu mua tập
trung.
Mỗi cách thức bán cà phê của người sản xuất cho các nhà thu gom đều có
tỷ lệ hao hụt riêng, cụ thê:
- Khi tự tiêu thụ nông dân chịu hao hụt rất nhỏ, khoảng nhỏ hơn 1%, chủ yếu
do quá trình vận chuyển.
- Khi bán cho tư thương, người nông dân không phải lo hao hụt bởi thương lái
đảm nhiệm các khâu sau thu hoạch.
- Khi bán cho doanh nghiệp: nếu doanh nghiệp cử người đến vườn thu hoạch
thì hao hụt không đáng kể <1% (chủ yếu do một số trường hợp doanh nghiệp
thu hoạch không khéo léo). Nếu nông dân tự thu hoạch và vận chuyển đến
doanh nghiệp, hao hụt họ phải chịu, chủ yếu là do vận chuyển và bốc vác
(khoảng 1-2%). Trong cả hai trường hợp thu họach này nông dân đều phải
chịu hao hụt.
b) Người thu gom
Có thể là tư thương (là người thu gom địa phương và họ hoạt động theo
thời vụ), các tổ chức thu mua của các doanh nghiệp (tham gia chế biến, xuất
khẩu cà phê), các hợp tác xã.
 Phần sơ chế
Khâu sơ chế khá đơn giản: sau khi vận chuyển từ vườn về, cà phê được đặt tập
trung ở những nơi thoáng mát. Tư thương tiến hành phân loại sơ qua để tiếp tục
khâu đóng gói.
 Bảo quản
Cà phê sau khi thu hái vẫn là những sản phẩm tươi nên các tư thương có tiến
hành thực hiện sấy khô hoặc phơi khô cà phê trước khi vận chuyển tới cơ sở chế
18


biến. Có thể chứa hạt cà phê khô trong bao tải đặt cao so với nền nhà để tạo sự
thông thoáng.
 Đóng gói
Sau khi được phân loại, cà phê được tư thương chứa vào bao tải và vận
chuyển tới các cơ sở chế biến để tiêu thụ. Tuy nhiên rất ít tư thương chú ý tới
việc đảm bảo chất lượng của quả cà phê nên dễ bị hư hỏng.
 Vận chuyển
Việc vận chuyển chủ yếu được thực hiện bằng ô tô chuyên chở hoặc bằng xe
máy tới các cơ sở chế biến thuộc các công ty chế biến cà phê lớn.
Cà phê được chứa trong bao tải lớn và xếp chồng lên nhau vào các xe chuyên
chở để đưa tới các cơ sở chế biến cà phê.
Vì cà phê có dạng hạt nên tỷ lệ hao hụt trong quá trình vận chuyển hầu như
không có.
 Hao hụt tư thương phải chịu:
Tư thương thường là đối tượng chịu hao hụt lớn nhất trong toàn chuỗi giá
trị cà phê, bao gồm:
- Hao hụt do thời gian kéo dài để thu gom đủ số lượng dẫn đến tình trạng chất
lượng quả cà phê thu hái trước và sau không đồng đều. Tuy nhiên, các hao hụt
này thường không đáng kể, chỉ khoảng 3 – 5 % tuỳ vào thời gian để lâu hay
mau.
- Hao hụt do quá trình sơ chế: trong quá trình sơ chế quả cà phê không đảm bảo
cũng dẫn tới chất lượng không được đảm bảo gây mất giá sản phẩm. Hao hụt
này chiếm khoảng 2%.
- Hao hụt do vận chuyển, bốc vác: cà phê có dạng hạt nên hao hụt này không
quá lớn chỉ khoảng 1%
Ngoài các hao hụt trên đây, đôi khi tư thương cũng phải chịu thêm mất mát do
một số khách hàng không chịu thanh toán theo thỏa thuận. Do không có hợp
đồng pháp lí rõ ràng nên tư thương không thể đòi tiền được.
19


Đối với các doanh nghiệp thu mua cà phê thuộc các cơ sở chế biến cà phê được
thu gom với khối lượng lớn, họ thường ký hợp đồng giao sau với người sản
xuất. Hình thức liên kết này đang ngày càng trở nên phổ biến hơn so với hình
thức bán cho tư thương vì giá cả cao hơn.
Có một thực tế hiện nay là phần lớn nông dân không muốn bán cà phê cho
các doanh nghiệp bởi đòi hỏi của doanh nghiệp khắt khe hơn rất nhiều so với
thương lái, mặc dù khi bán cho doanh nghiệp nông dân được trả giá cao hơn
một chút . Chính do việc phân loại sản phẩm gắt gao theo đúng yêu cầu của
doanh nghiệp về hình thức bên ngoài & kích cỡ, chất lượng nên hàng đạt
không được chọn khiến nông dân phải vất vả để tiêu thụ. Ngòai ra, khi bán cho
người thu gom, người dân không tham gia vào việc thu họach, vận chuyển,
trong khi bán cho doanh nghiệp, nông dân phải chịu khoản chi phí không nhỏ
cho việc bốc vác, vận chuyển đến doanh nghiệp
=> Khi lợi nhuận và công sức bán cho doanh nghiệp không hơn hẳn thương lái,
người dân vẫn chọn những người thu gom cho sự an tòan và ít nhọc nhằn. Họ
không thể suy nghĩ sâu sắc cho một ‘kế họach lâu dài’ do hạn chế của nhận thức
=> đây chính là khó khăn trong việc phát triển mô hình sản xuất.
c) Người chế biến
Sau khi tiến hành thu gom nguyên liêu từ người nông dân trồng cà phê người
chế biến tiền hành hàng loạt các hoạt động như: bảo quản, phân loại, sơ chế
bóc vỏ quả, ngâm ủ, rửa nhớt và đưa vào chế biến chi phí cho việc bảo
quản và chế biến được coi là là nhiều nhất và chủ yếu nhất của nhà chế biến:
 Chi phí bảo quản: Cà phê hái xong phải chế biến ngay. Nếu ủ đống
cà phê làm cho quả cà phê nóng và lên men. Chất lượng cà phê bị suy giảm. Vì
thế khâu bảo quản khá quan trong khi số lượng cà phê nhiều. Trang thiết bị
cho bảo quản cà phê là khá lớn.
 Chi phí chế biến: Giai đoạn chế biến cần rất nhiều giai đoạn vì thế chi
phí thuê nhân công là khá lớn, đồng thời nhà chế biến còn phải đầu tư lượng
máy móc tiên tiến để phục vụ cho sản xuất.
20


Ngoài ra người chế biến còn tiến hành hoạt động dán nhãn, bao gói cho sản
phẩm nhằm hạn chế những bất lợi trong qua trình bảo quản xảy như nấm mốc,
các bệnh do côn trùng gây ra đồng thời khẳng định thương hiệu cho doanh
nghiệp của mình trên thị trường.
d) Người bán buôn và người bán lẻ
 Người bán buôn:
Các khâu sau nhận hàng của người bán buôn tại các chợ đầu mối như sơ chế,
dán nhãn và vận chuyển thường nhanh chóng hơn so với thương lái, do địa
điểm vận chuyển không xa các chợ đầu mối. Vì vậy chi phí marketing của
người bán buôn chủ yếu là khâu bảo quản, đóng gói.
 Chi phi bảo quản:
Do đặc tính lý học cũng như sinh lý của cà phê thay đổi từ lúc được thu hái tới
khi đem về kho nên trong bảo quản cà phê thường xảy ra bất lợi.Sau khi thu
mua cà phê người bán buôn phải tiến hành các khâu bảo quản với mức chi phí
khá cao. Như chi phí cho bảo quản kín, bảo quản trong bao, bảo quản
thoáng gió…
 Chi phí đóng gói: Người bán buôn đa phần tốn rất ít cho chi phí đóng
gói bởi họ nhận sản phẩm đã qua bao gói từ nhà chế biến, họ tiến hành phân
phối cho người bán lẻ hoặc người tiêu dùng với số lượng lớn bằng phương pháp
đóng thùng giấy hoặc bìa các tông … nên chi phí náy rất ít và thườn là không
đáng kể.
 Chi phí vận chuyển:
Khi nhận sản phẩm từ nhà chế biến: Cà phê sau khi đã được chế biến sẽ được
vận chuyển từ nhà chế biến tới nhà bán buôn thông qua phương tiện xe tải, xe
công tơ chuyên dụng hoặc người bán buôn từ thuê xe để chở hàng cho mình
Khi bán cho người bán lẻ, người tiêu dùng: Nhà bán buôn có thể dùng xe tải,
xe công tơ chuyên dùng chở cho người bán lẻ hoặc cho cả người tiêu dùng có
nhu cầu lớn.
21


 Người bán lẻ: Cũng như người bán buôn họ chỉ tốn những chi phí như bảo
quản, vận chuyển bởi những giai đoạn quan trọng đã được các tác nhân khác
tiến hành.
Những hạn chế trong hệ thống marketing
Khó khăn Hướng khắc phục
- Thu hoạch còn thô sơ, chủ yếu do
con người.
- Rất ít tư thương được tiếp cận
các tiến bộ của công nghệ sau thu
hoạch, ngay tại nhà vườn và cách
thức sơ chế hiệu quả.
- Chưa có hệ thống bảo quản đảm
bảo chất lượng sản phẩm.
- Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật,
đặc biệt trong công tác thu hoạch đem
lại năng suất và hiệu quả.
- Tập huấn cho các nhà tư thương luyện
tập các phương pháp trong việc thu hái
trái, bốc dỡ, vận chuyển và bảo quản
- Đối với thương lái có nhu cầu xuất
khẩu, nên giúp đỡ, hỗ trợ thông tin cần
thiết cũng như biện pháp đạt chứng chỉ
xuất khẩu .
- Đầu tư xây dựng hệ thống kho bảo
quản hợp lý.

5.2. Hiệu quả marketing
Hiệu quả marketing đối với mỗi ngành hàng là cách thức đánh giá nhằm có
được cái nhìn tổng quan đối với từng tác nhân tham gia trong chuỗi giá trị, từ đó

giúp đưa ra những giải pháp cải thiện hiệu quả trong sản xuất và tiêu thụ.
- Với người sản xuất: Hiệu quả trong sản xuất đang thực sự được quan tâm bởi
qua những số liệu gần đây thì diện tích trồng cà phê ngày càng tăng, năng suất
cà phê cũng tăng mạnh khiến kim ngạch xuất khẩu nhờ đó cũng đi lên.



22

Năm

Diện tích gieo
cà phê (1000
ha)

Năng
suất(tạ/ha)

Diện tích cho
cà phê(1000
ha)

Kim ngạch
xu
ất khẩu
(triệu USD)

2007

478.5


18.7

488.9

1,916.650

2008 495 21.1 500.2 2113.761
2009 501.1 20.8 507.2 1730.57
2010 508.5 21.5 514.4 1763
Bảng: diện tích, năng suất cà phê giai đoạn 2007-2010
(Nguồn: tailieu.vn…)
Bên cạnh đó các đầu vào được sử dụng như giống, phân bón …còn nhiều
dịch bệnh đắt đỏ, người dân chưa biết hợp đồng với các doanh nghiệp cung cấp
đầu vào để đảm bảo nguồn giống an toàn và tiết kiêm chi phí hơn. Ngoài ra
người dân đã thực hiện phân loại sản phẩm để nâng cao giá thành mỗi tấn cà
phê tuy nhiên vẫn có những sản phẩm không đáp ứng được tiêu chuẩn của
doanh nghiệp thu mua, khi đấy người dân lại phải tự tiêu thụ mất thêm chi phí
bảo quản, vận chuyển, bốc dỡ… mà chưa biết tìm nơi tiêu thụ hiệu quả hơn
hoặc chế biến thành các sản phẩm khác chính vì thế mà hiệu quả mang lại chưa
cao, chưa khai thác hết lợi thế của vùng, lợi nhuận chưa tương xứng với tiềm
năng bỏ ra.
Biến đổi khí hậu (lượng mưa không ổn định, hạn hán ) cũng là một
trong những nguyên nhân gây nên những khó khăn, tác động không nhỏ. Giá
bán giảm liên tục, dẫn đến việc nhiều người “om” hàng chưa muốn bán chờ giá
tăng. Bên cạnh đó, cà phê ở nước ta được trồng từ những năm 80 của thế kỷ
XX, đến nay đều trên 20 năm tuổi nên già cỗi, năng suất thấp…
- Với người thu gom và hệ thống trung gian bán buôn bán lẻ: Vẫn còn khá
nhiều bất cập bởi việc sơ chế, bảo quản cho cà phê vẫn còn thụ động, hiện
tượng cà phê bị hỏng trong quá trình bảo quản vẫn còn nhiều Đa số ít quan tâm

đầu tư cơ sở vật chất phục vụ cho kinh doanh nên trình độ ứng dụng công nghệ
23

sau thu hoạch còn thủ công. Việc sơ chế khá đơn giản, sau khi thu hoạch về cà
phê được đặt ở nơi thoáng mát, không áp dụng hình thức bảo quản nào, rồi vận
chuyển đi ngay chính vì thế dẫn đến hao hụt lớn về chất lượng và số lượng cà
phê. Bên cạnh đó hợp đồng mua bán với nông dân chủ yếu là thỏa thuận miệng .
Khi bán lẻ hoặc bán cho thương lái nhỏ hơn thương lái chỉ buôn bán dựa trên
thoả thuận miệng chứ không hề thông qua bất kì một hình thức hợp đồng chính
thức nào, và việc quảng cáo, tiếp thị sản phẩm chưa được quan tâm nhiều.
 Các doanh nghiệp chế biến phải chịu thêm chi phí marketing do thu mua
những sản phẩm cà phê chỉ sơ chế sơ qua. Các cơ sở chế biến phải tiến hành
thanh lọc lại một lần nữa những hạt cà phê không đạt tiêu chuẩn, lựa chọn hạt
có chất lượng tốt để chuyển tới các khâu tiếp theo trong hoạt động chế biến.
 Các công ty xuất khẩu cà phê đang ngày càng được chú trọng về cả chất
và lượng. Họ sẽ là tổ chức đứng ra chịu trách nhiệm đối với sản phẩm cà phê đã
qua chế biến mà được lựa chọn để xuất khẩu ra thị trường thế giới.
 Người tiêu dùng: vì cà phê là sản phẩm đã qua chế biến nên việc lựa
chọn tiêu dùng của người tiêu dùng phụ thuộc vào thương hiệu và thị hiếu tiêu
dùng của người dân là chính. Người tiêu dùng sẽ chấp nhận mua sản phẩm cà
phê đen hay cà phê hòa tan tùy theo sở thích của họ với mọi mức giá khác nhau.
6. Khó khăn, thách thức
6.1. Về sản xuất
+ Diện tích được mở rộng và quy hoạch một cách tùy tiện, nhỏ lẻ, tự
phát; không có tổ chức dẫn đến giá cà phê biến động và tính thâm canh yếu
+Hầu hết cà phê trở nên già cỗi: Hiện số hecta cà phê già cỗi phải tái
canh đã chiếm 30% tổng diện tích cà phê cả nước và đến năm 2020 dự báo sẽ là
50% tương đương với việc giảm 50% sản lượng cà phê. Theo số liệu thống kê
mới nhất của Hiệp hội Cà phê – Ca cao Việt Nam thì hiện nay nước ta có trên
500.000 hécta cà phê, trong số đó chỉ có khoảng 274.000 hécta chiếm khoảng

54,8% diện tích đuợc trồng trong giai đoạn sau năm 1993 với độ tuổi hiện nay
cũng đã từ 10 – 15 năm. Còn diện tích cà phê có độ tuổi từ 15 đến 20 năm hiện
24

cũng có khoảng 139.000 hécta và ở độ tuổi trên 20 năm cũng có tới 86.400
hécta. Theo những khảo sát gần đây cho thấy, cây cà phê được người Pháp
trồng trước đây có tuổi thọ lên tới 30 – 40 năm, trong khi những diện tích cà phê
được chúng ta phát triển sau này chỉ đạt năng suất cao trong độ tuổi khoảng 18
năm trở lại.
Như vậy có thể thấy rằng trong thời gian từ 5 đến 10 năm tới, nước ta sẽ
có tới trên 50% diện tích cà phê hết thời kỳ kinh doanh và phải cưa đốn phục
hồi hoặc phá bỏ trồng lại.
+ Phần lớn diện tích cà phê trồng không đúng quy cách
Nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là do trong những thời kỳ giá cà
phê trên thế giới tăng cao, người dân đã đổ xô phát triển diện tích cà phê mới
bất chấp những khuyến cáo của các cơ quan quản lý nhà nước cũng như các nhà
khoa học và hầu hết các diện tích cà phê trồng mới này đều không nằm trong
vùng quy hoạch, chủ yếu được trồng ở những nơi không thích hợp cho cây cà
phê phát triển như: tầng đất nông, độ dốc lớn, thiếu nguồn nước tưới…
Do việc phát triển diện tích cà phê ở những vùng đất không thích hợp như thế
nên hiệu quả kinh tế không cao, năng suất thấp, chi phí sản xuất tăng cao và cây
cà phê không có tuổi thọ.
+ Chăm sóc không đúng kỹ thuật
Hiện nay việc trồng và chăm sóc cà phê của bà con nông dân hầu hết
đều không tuân thủ đúng kỹ thuật mà các nhà khoa học đã khuyến cáo. Do việc
mở rộng diện tích và tập trung đầu tư tăng năng suất một cách tối đa, người
trồng cà phê đã tiến hành phá bỏ các loại cây che bóng mát trong vườn cà phê,
tăng cường lượng nước tưới và bón phân hoá học…
Chính những biện pháp kỹ thuật thâm canh cao độ này đã làm cho cây cà phê
nhanh chóng suy kiệt, mau già cỗi, môi trường đất bị ô nhiễm nặng, nhiều loại

sâu bệnh như nấm, tuyến trùng hại rễ nhanh chóng phát sinh và tàn phá nhiều
vùng cà phê. Bên cạnh đó, việc đốn bỏ nhiều loại cây che bóng mát trong vườn

×