Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

THU HOẠCH những tiền đề khách quan chủ quan của sự hình thành chủ nghĩa xã hội khoa học ý nghĩa đối với cách mạng nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.98 KB, 33 trang )

1

THU HOẠCH-Những tiền đề khách quan-chủ quan của sự
hình thành chủ nghĩa xã hội khoa học-ý nghĩa đối với
cách mạng nước ta hiện nay

Chủ nghĩa xã hội khoa học là bộ phận thể hiện tập
chung nhất tính chính trị thực tiễn sinh động của chủ nghĩa
Mác- Lênin. Sự ra đời chủ nghĩa Mác nói chung và chủ nghĩa
xã hội khoa học nói riêng là một bước ngoặt cách mạng trong
lĩnh vực tư tưởng của nhân loại. Từ đây giai cấp cơng nhân
đã có một lý luận cách mạng khoa học dẫn lối, đưa đường.
Với sự ra đời chủ nghĩa Mác nói chung và chủ nghĩa xã hội
khoa học nói riêng đã giúp giai cấp công nhân hiểu được sứ
mệnh lịch sử của mình, và làm thế nào để thực hiện được sứ
mệnh lịch sử đó. Thực tiễn lịch sử phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế từ khi chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời
đến nay đã chứng minh vai trò, sức sống mãnh liệt của chủ
nghĩa xã hội khoa học.
Từ khi ra đời cho đến nay, chủ nghĩa xã hội khoa học
luôn bị các thế lực thù địch xem như là “bóng ma cộng sản”


2

cần phải xoá bỏ. Đặc biệt, mỗi khi phong trào cộng sản và
cơng nhân quốc tế lâm vào khủng hoảng,thối trào thì sự
chống phá đó càng quyết liệt hơn bao giờ hết.
Ngày nay, trước sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xô và Đông Âu, chủ nghĩa xã hội hiện thực tạm thời lâm vào
khủng hoảng, thoái trào; chủ nghĩa cơ hội xét lại, chủ nghĩa


chống cộng lại được một lần nữa điên cuồng chống phá chủ
nghĩa xã hội cả trên lĩnh vực lý luận cũng như trên thực tiễn;
chúng ngang nhiên rêu rao tuyên bố rằng: chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản là do chính bản thân C.Mác, Ph. Ăng
ghen tự nặn ra từ trong đầu óc chủ quan của bản thân, chứ
không dựa trên một luận cứ khoa học nào; và chủ nghĩa xã
hội hiện thực nếu có thì đó chẳng qua chỉ là một bào thai, một
ung nhọt của lịch sử, chứ nó khơng nằm trong tiến trình phát
triển của lịch sử xã hội lồi người; cái bào thai, cái ung nhọt
đó đã đến thời kỳ tự nó thối rữa ra; sự sụp đổ chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô và Đông Âu là tất yếu khách quan; và lý luận
chủ nghĩa xã hội khoa học chỉ phù hợp ở thời kỳ, ở giai đoạn
mà C. Mác, Ph. Ăng ghen còn sống; ngày nay đã hơn một


3

thế kỷ, lý luận đó đã trở lên lỗi thời, lạc hậu khơng cịn giá trị
gì nữa. Vì vậy, muốn nhận thức được xã hội hiện tại phải thay
bằng học thuyết khác; thứ học thuyết đứng trên góc độ kỹ
thuật được gọi là thuyết kỹ trị; hoặc là học thuyết của nhà
tương lai học người Mỹ Anvin Tofph lơ, được giới tư sản coi
như là bùa hộ mệnh.
Phải chăng chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời không dựa
trên một luận cứ khoa học nào; hay nói cách khác, do chính
Mác, ăng ghen nặn ra từ đầu óc chủ quan của các Ơng. Để
trả lời chính xác cho câu hỏi này, chúng ta hãy đi nghiên cứu
những tiền đề khách quan và nhân tố chủ quan dẫn đến sự
ra đời chủ nghĩa xã hội khoa học.
Nhìn lại lịch sử ở thời điểm đó; vào những năm 30- 40

của thế kỷ thứ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
có những bước phát triển mạnh mẽ, đạt được nhiều thành
tựu quan trọng, nhờ sự tác động của cuộc cách mạng công
nghiệp. Nước Anh đã trở thành cường quốc tư bản chủ nghĩa
lớn nhất với lực lượng công nghiệp hùng mạnh. Cuộc cách
mạng cơng nghiệp ở Pháp đang được hồn thành. ở Đức và


4

một số nước Tây Âu khác, cuộc cách mạng công nghiệp
cũng làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa lớn
nhanh chóng trong lịng xã hội phong kiến. Nhờ vậy, tính hơn
hẳn của chế độ tư bản chủ nghĩa so với chế độ phong kiến
được thể hiện một cách rõ rệt; biểu hiện : nền sản xuất phát
triển nhanh, năng suất lao động tăng lên không ngừng: “ giai
cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đậy một
thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ
sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp
lại”1.
Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, nó cũng
làm cho những mâu thuẫn vốn có của nó ngày càng gay gắt,
đó là : mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất; lực lượng sản xuất phát triển mang tính chất xã hội hố
ngày càng cao ( do tính chất sản xuất cơng nghiệp mang lại),
mâu thuẫn với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu
tư nhân, tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất; như trong
tuyên ngôn của Đảng cộng sản Mác đã viết: “xã hội tư sản
1


C. Mác và Ph. Ăng ghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr 603.


5

hiện đại, với những quan hệ sản xuất và trao đổi tư sản của
nó, với những quan hệ sở hữu tư sản, đã tạo ra những tư liệu
sản xuất và trao đổi hết sức mạnh mẽ như thế, thì giờ đây,
giống như một tay phù thuỷ khơng cịn đủ sức trị những âm
binh mà y đã triệu lên. Từ hàng chục năm nay, lịch sử công
nghiệp và thương nghiệp không phải là cái gì khác hơn là lịch
sử của cuộc nổi dậy của lực lượng sản xuất hiện đại chống
lại quan hệ sản xuất hiện đại, chống lại những quan hệ sở
hữu đang quyết định sự tồn tại và sự thống trị của giai cấp tư
sản”.2
Mâu thuẫn ấy biểu hiện về mặt xã hội, đó là mâu thuẫn
giữa giai cấp vô sản, giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất
hiện đại, giai cấp làm ra mọi của cải cho xã hội; mâu thuẫn
với giai cấp tư sản, giai cấp nắm đa số tư liệu sản xuất, do đó
là giai cấp bóc lột giai cấp vơ sản; áp bức giai cấp tất yếu sẽ
dẫn đến đấu tranh giai cấp và cuộc đấu tranh của giai cấp vô
sản chống lại giai cấp tư sản bắt đầu ngay từ khi họ mới ra
đời, đi từ trình độ đấu tranh tự phát vì những lợi ích riêng tư,
2

C. Mác và Ph. Ăng ghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr 604


6


trước mắt, chưa vì ý thức chính trị; dần dần đến trình độ tự
giác, có tổ chức mang tính chất độc lập của cả giai cấp vì
mục đích đánh đổ giai cấp tư sản, giành chính quyền; lãnh
đạo, tổ chức xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp ấy ngày càng phát triển và
chiếm vị chí hàng đầu trong lịch sử chính trị ở các nước tư
bản phát triển. Cuộc khởi nghĩa của thợ dệt Liơng ( Pháp)
năm 1831 và sau đó lại nổ ra năm 1834 “đã vạch ra một điều
bí mật quan trọng- như một tờ báo chính thức của chính phủ
hồi đó viết- đó là cuộc đấu tranh bên trong, diễn ra trong xã
hội, giữa giai cấp những người có của và giai cấp những
người khơng có gì hết...”3 ; ở Đức là cuộc khởi nghĩa của
công nhân dệt Xilêdi vào năm 1844; đặc biệt là phong trào
Hiến chương của những người lao động ở Anh, phong trào

3

V.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ Mát x cơ va, 1977, t38,tr.365.


7

này kéo dài từ năm 1835 đến năm 1844, là “ phong trào cách
mạng vô sản to lớn đầu tiên, thật sự có tính chất quần chúng
và có hình thức chính trị”4 . Khi đánh giá về phong trào Hiến
chương, Ph. ăngghen viết: “ Về bản chất phong trào hiến
chương là một hiện tượng có tính chất xã hội...tất cả các
cơng nhân cơng nghiệp... đều nhất trí rằng họ là những “
working men” ( cơng nhân)- đó là danh hiệu họ rất tự hào,
danh hiệu phổ biến trong những cuộc hội họp của phái Hiến

chương- , rằng họ họp thành giai cấp độc lập có những lợi ích
và ngun tắc riêng, có thế giới quan riêng, là giai cấp độc
lập với mọi giai cấp có của, đồng thời cũng là giai cấp làm cơ
sở cho sức mạnh và khả năng phát triển sau này của dân
tộc”5 . Tuy những phong trào đó đã thu được những kết quả
đáng kể, nhưng trước sự đàn áp mạnh mẽ của giai cấp tư
sản, các phong trào trên đều đi đến thất bại.
Như vậy, từ sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa, từ thực tiễn xã hội, đặc biệt là thực tiễn cách mạng
4
5

V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ Mát xcơva, 1977, t.38, tr 365
C. Mác và Ph. Ăng ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr 619


8

của giai cấp vô sản là những cơ sở kinh tế, xã hội khách
quan cho sự ra đời chủ nghĩa xã hội khoa học, để thay thế
cho những trào lưu xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa
đã tỏ ra lỗi thời, khơng có khả năng đáp ứng những u cầu
chính trị cấp bách của giai cấp cơng nhân.
Cơ sở kinh tế và cơ cấu xã hội tư bản chủ nghĩa là
mảnh đất hiện thực cho chủ nghĩa xã hội khoa học sinh
thành. Song chưa đủ, để cho chủ nghĩa xã hội khoa học ra
đời nó cịn dựa vào những thành tựu to lớn của khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội.
Cũng trong thời điểm lịch sử này, trên lĩnh vực khoa học
tự nhiên có những bước phát triển hết sức rực rỡ. Tiêu biểu

cho sự phát triển của khoa học tự nhiên trong thời kỳ này là
ba phát minh quan trọng: Thuyết tế bào, mà đại biểu của nó
là hai nhà bác học người Đức, Slaydent và Svank ( 18381839); với phát minh này, đã cho phép khẳng định, thế giới
thống nhất ở tính vật chất, thế giới vật chất là vô cùng vô tận,


9

luôn vận động và phát triển không ngừng và sự vận động đó
thơng qua hạt nhân cơ bản của nó là tế bào. Định luật bảo
tồn và chuyển hố năng lượng, đại biểu của nó là tập thể
các nhà khoa học là Maie Ghincơ và Cônđinh, học thuyết này
đã khẳng định sự vận động và phát triển của tự nhiên là q
trình vơ cùng, vơ tận của sự chuyển hố, của những hình
thức vận động của vật chất với nhau; vận động vật chất được
bảo toàn cả về số lượng và chất lượng. Học thuyết tiến hoá
của Đácuyn, đã khẳng định, sự ra đời, tồn tại, phát triển và
thay thế lẫn nhau giữa các giống, loài của động vật, thực vật
như là một quá trình tự nhiên.
Như vậy, với những phát minh lớn của khoa học tự
nhiên nó đã làm cho “ Quan niệm mới mới về tự nhiên” đã
được hoàn thành trên những nét cơ bản: tất cả cái gì cứng
nhắc đều bị tan ra, tất cả cái gì là cố định đều biến thành mây
khói, và tất cả những gì đặc biệt mà người ta cho là tồn tại
vĩnh cửu thì đã trở thành nhất thời; và người ta đã chứng
minh rằng toàn bộ giới tự nhiên đều vận động theo một dòng


10


và một tuần hoàn vĩnh cửu”6 . Những phát minh này nó đã có
tác dụng trực tiếp phục vụ quá trình chinh phục thiên nhiên,
phát triển sản xuất và tiến bộ xã hội; nó đã dáng một địn sấm
sét, trực diện vào chủ nghĩa duy tâm tôn giáo, đã từng ngự trị
và chói buộc tư tưởng của con người, mở ra một thời kỳ lịch
sử mới cho sự phát triển toàn diện và vươn lên làm chủ tự
nhiên của con người. Đồng thời sự phát triển của khoa học tự
nhiên nó cũng tạo ra cơ sở khách quan cho khoa học xã hội
một hướng phát triển mới, và do đó, nó là tiền đề quan trọng
cho một lý luận mới ra đời; lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học.
Bên cạnh những tiền đề về kinh tế- xã hội và khoa học
tự nhiên, chủ nghĩa Mác nói chung và chủ nghĩa xã hội khoa
học nói riêng cịn là sự phát triển hợp quy luật của lịch sử tư
tưởng nhân loại, nó khơng nảy sinh ở ngồi con đường phát
triển vĩ đại của văn minh thế giới. Học thuyết Mác “ ra đời là

6

C. Mác và Ph. Ăng ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.20, tr 471


11

sự kế thừa thẳng và trực tiếp những học thuyết của các đại
biểu xuất sắc nhất trong triết học, trong kinh tế chính trị học
và trong chủ nghĩa xã hội”7. Trên lĩnh vực triết học ở thời kỳ
này cũng đã đạt được những thành tựu to lớn mà tiêu biểu là
triết học cổ điển Đức, với phép biện chứng của Hê Ghen và
chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc. Mặc dù phép biện chứng
của Hêghen cịn có những hạn chế về mặt khoa học, đó là

phép biện chứng duy tâm, phép biện chứng của những “ ý
niệm tuyệt đối”; chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, với phương
pháp xem xét xã hội là duy tâm, siêu hình; song các ơng cũng
đã để lại cho nhân loại một khối lượng kiến thức đồ sộ về
phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật về tự nhiên; đây cũng
là cơ sở quan trọng để Mác, ăng ghen kế thừa, phát triển cho
sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung và chủ nghĩa xã hội
khoa học nói riêng.
Sự hình thành tư tưởng chủ nghĩa xã hội khoa học diễn
ra trong sự tác động qua lại với q trình Mác, Ăng ghen kế

7

V.I.Lênin: Tồn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva,1980,t23,tr50


12

thừa và cải tạo các lý luận về kinh tế chính trị học. Tiêu biểu
là kinh tế chính trị học cổ điển Anh với các đại biểu là Ricácđơ
và Ađamsmít. Mặc dù các ơng chưa thấy được tính chất tạm
thời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa; chưa thấy
được bộ mặt thật của việc bóc lột giái trị thặng dư; nhưng các
Ông cũng đã xây dựng được một lý luận về giá trị lao động,
và đồng thời cũng đã mơ tả được q trình tái sản xuất xã hội
dưới dạng một hệ thống tương đối hoàn chỉnh; những tư
tưởng ấy có giá trị to lớn, là cơ sở để Mác, Ăng ghen vạch
trần bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, của giai cấp tư
sản với học thuyết giá trị thặng dư; trên cơ sở đó đã phát
hiện ra sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp cơng nhân, để

từ đó đi đến một kết luận khoa học là, sự diệt vong của chủ
nghĩa tư bản và thắng lợi của chủ nghĩa xã hội là tất yếu như
nhau.
Cùng với sự phát triển của những tư tưởng triết học và
kinh tế chính trị học. Trong thời kỳ này những tư tưởng xã hội


13

chủ nghĩa cũng phát triển mạnh mẽ, bên cạnh những mặt
hạn chế của nó, thì những tư tưởng đó cũng có những giá trị
nhất định để sau này Mác, Ăngghen kế thừa hình thành lên
chủ nghĩa xã hội khoa học. Đây là nguồn gốc lý luận trực tiếp
cho sự hình thành chủ nghĩa xã hội khoa học. Điển hình cho
những tư tưởng đó trong thời kỳ này là ba nhà nhà không
tưởng phê phán vĩ đại người Pháp: Hăng ri Xanh Xi Mơng,
Sáclơ Phuriê và Rơbớc Ơoen.
Hăng ri Xanh Xi Mông với thiên tài là đã chỉ ra được
mâu thuẫn trong xã hội tư bản, theo ông “Cuộc cách mạng
Pháp không chỉ là cuộc đấu tranh giữa giai cấp quý tộc và gai
cấp tư sản, mà là cuộc đấu tranh giữa giai cấp quý tộc, giai
cấp tư sản và những người khơng có của”. 8 Theo Ăng ghen,
đây là một phát hiện hết sức thiên tài, làm cơ sở giúp Mác,

8

C. Mác và Ph. Ăng ghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.20, tr 359


14


Ăngghen chỉ ra mâu thuẫn trong lòng phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa, đó là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với
giai cấp tư sản, việc giải quyết mâu thuẫn đó tất yếu sẽ bằng
cách mạng xã hội. Cùng với đó Xanh Xi Mơng cũng đã chỉ ra
một mơ hình của xã hội tương lai, ơng cho rằng sự ra đời của
xã hội mới là tất yếu hợp quy luật của lịch sử, xã hội đó được
xây dựng trên cơ sở nền đại cơng nghiệp có tổ chức khoa
học và có kế hoạch. Ơng cũng đưa ra những quan niệm về
vai trị của chính trị, của nhà nước trong xã hội mới, theo ơng
“ Chính trị chẳng qua chỉ là khoa học của sản xuất và dự báo
trước rằng chính trị sẽ bị kinh tế hồn tồn nuốt mất” 9, đây là
tư tưởng có giá trị to lớn được C. Mác, Ph.Ăng ghen kế thừa,
phát triển thành tư tưởng nhà nước nửa nhà nước, nhà nước
tự tiêu vong sau này.

9

C. Mác và Ph. Ăng ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.19, tr 285


15

Đối với Phuriê; giá trị lớn nhất trong tư tưởng của Ơng
đó là những quan niệm về lịch sử xã hội. Theo Ơng, lịch sử
xã hội lồi người đã vận động, phát triển qua bốn giai đoạn
lịch sử, giai đoạn trước khi có hoạt động sản xuất, đó là thời
kỳ nguyên thuỷ, mông muội; tiếp đến là giai đoạn giã man,
giai đoạn gia trưởng và giai đoạn văn minh. Ông cho rằng giai
đoạn văn minh tương ứng với nền sản xuất lớn tư bản chủ

nghĩa. Đây là những tư tưởng có giá trị to lớn, là tư tưởng để
C. Mác, Ph.Ăng ghen kế thừa trong việc phân chia tiến trình
lịch sử nhân loại qua 5 hình thái kinh tế xã hội. Cùng với tư
tưởng đó,ơng cịn là người đầu tiên đưa ra tư tưởng “ Trong
xã hội nhất định, trình độ giải phóng phụ nữ là cái thước đo tự
nhiên của sự giải phóng chung”10 mà sau này đước C. Mác,
Ph.Ăng ghen kế thừa trong học thuyết của mình.

10

C. Mác và Ph. Ăng ghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.19, tr 286


16

Rơbớc Ơoen; với quan niệm về một xã hội mới, Ông chủ
trương thành lập các công xã lao động- coi đó là đơn vị cơ sở
của xã hội tương lai-; đó là sự kết hợp giữa lao động trí óc
với lao động chân tay, sự phát triển toàn diện của cá nhân,
sự bình đẳng về quyền lợi của mọi người; xã hội tương lai là
xã hội khơng có giai cấp, nó là liên minh tự do của cơng xã tự
quản. Đây là những tư tưởng quan trọng để sau này C. Mác,
Ph.Ăngghen hình thành lên mơ hình của xã hội xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Như vậy,tuy còn có những hạn chế nhất định như Ăng
ghen viết “Hồn cảnh lịch sử ấy đã quyết định quan điểm của
những người sáng tạo ra chủ nghĩa xã hội. Tương ứng với
một nền sản xuất tư bản chủ nghĩa chưa thành thục, với
những quan hệ chưa thành thục thì có những lý luận chưa
thành thục.”11 Nhưng với những tư tưởng hết sức có giá trị

của mình, chủ nghĩa xã hội khơng tưởng nói chung và chủ
nghĩa xã hội khơng tưởng phê phán Pháp nói riêng xứng
đáng là nguồn gốc tư tưởng lý luận trực tiếp của chủ nghĩa
11

Sđd, t19, tr 382


17

xã hội khoa học. Ăng ghen cho rằng: Chủ nghĩa xã hội lý luận
Đức khơng bao giờ qn rằng nó là sự tiếp nối Xanh Xi
Mơng, Phuriê, Ơoen ba nhà tư tưởng- mặc dầu tất cả tính
chất ảo tưởng và không tưởng trong các học thuyết của họthuộc về những trí tuệ vĩ đại nhất...và đã tiên đốn một cách
thiên tài vô số những chân lý mà ngày nay chúng ta đang
chứng minh sự đúng đắn của chúng một cách khoa học...
Tóm lại, chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời dựa trên
những tiền đế khách quan, những đòi hỏi khách quan chứ
không phải do C. Mác, Ph.Ăng ghen tự nặn ra, như một số
các quan điểm của bọn cơ hội xét lại đã rêu rao. Tuy nhiên,
để chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời nếu chỉ có những tiền đế
khách quan thơi thì cũng chưa đủ; trên cơ sở những tiền đề
khách quan đó muốn cho chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời thì
nó cịn có nhân tố chủ quan, đó là vai trị của C. Mác, Ph.Ăng
ghen. Với thiên tài bẩm sinh và hoạt động khoa học, thực tiễn
khơng biết mệt mỏi với một tình bạn vĩ đại, tình u thương
đối với động loại. Hai Ơng đã vượt lên những nhà tư tưởng
đương thời để hình thành lên học thuyết của mình.



18

C. Mác sinh ngày 5-5- 1818. Thời thơ ấu và niên thiếu,
ông sống ở tỉnh Ranh, một vùng khá phát triển cả về kinh tế
và chính trị của nước Đức.
Những ảnh hưởng tốt của gia đình, nhà trường và các
quan hệ xã hội khác đã làm hình thành và phát triển ở Mác
tinh thần nhân đạo chủ nghĩa và xu hướng yêu tự do. Phẩm
chất đạo đức- tinh thần cao đẹp đó khơng ngừng được bồi
dưỡng đã trở thành định huớng cho cuộc đời sinh viên và
đưa Mác đến chủ nghĩa dân chủ cách mạng và chủ nghĩa vô
thần. ở Mác, việc nghiên cứu triết học trở thành niềm say mê
của nhận thức nhằm giải đáp vấn đề giải phóng con người
mà lịch sử đặt ra. Trong luận án tiến sĩ của mình Mác viết: “
Giống như Prơmêtê sau khi đã đánh cắp lửa từ trên trời
xuống, đã bắt đầu xây dựng nhà cửa và và cư trú trên trái
đất, triết học cũng vậy, sau khi bao quát được toàn bộ thế
giới, nó nổi dậy chống lại thế giới các hiện tượng”. Cũng vì
thế, trong tình hình lúc đó, triết học Hê ghen với tinh thần biện
chứng cách mạng của nó được Mác xem là chân lý. Nhưng
triết học Hê ghen lại là chủ nghĩa duy tâm, vì thế đã nảy sinh


19

mâu thuẫn giữa chủ nghĩa duy tâm triết học với tinh thần dân
chủ cách mạng và vô thần trong thế giới quan của Mác. Mâu
thuẫn đó được giải quyết trong quá trình kết hợp chặt chẽ
hoạt động lý luận và thực tiễn của Mác.
Sự chuyển biến của Mác bước đầu diễn ra trong thời

kỳ Mác làm việc ở báo Sông Ranh. Tháng 5-1842, ông bắt
đầu cộng tác với báo Sông Ranh; tháng 10 năm đó, ơng trở
thành biên tập viên và đóng vai trị linh hồn của tờ báo, làm
cho nó trở thành cơ quan của phái dân chủ cách mạng.
Thực tiễn đấu tranh trên báo chí cho tự do dân chủcách mạng ở Mác có nội dung chính xác hơn, đó là đấu tranh
cho lợi ích của “ quần chúng nghèo khổ bất hạnh về chính trị
và xã hội”. ở Mác lúc này tư tưởng cộng sản chủ nghĩa chưa
được hình thành. Bác lời buộc tội báo Sơng Ranh là đã tuyên
truyền chủ nghĩa cộng sản, Mác khẳng định báo Sơng Ranh “
khơng chấp nhận cả tính hiện thực lý luận đằng sau những tư
tưởng cộng sản chủ nghĩa dưới hình thức hiện nay của
chúng, và do đó, lại càng ít muốn thực hiện chúng trên thực
tiễn” . Tuy nhiên, ơng lưu ý: đối với hiện tượng có ý nghĩa


20

châu Âu như vậy, thì khơng thể căn cứ vào ảo tưởng hời hợt
trong chốc lát để phê phán, mà chỉ có thể phê phán sau một
sự nghiên cứu cần cù sâu sắc.Về thế giới quan triết học ,
nhìn chung Mác vẫn đứng trên lập trường duy tâm trong việc
xem xét bản chất nhà nước. Nhưng việc phê phán chính
quyền nhà nước đương thời đã cho Mác thấy rằng, cái quan
hệ khách quan quyết định hoạt động của nhà nước không
phải hiện thân của “tinh thần tuyệt đối” như Hêghen đã tìm
cách chứng minh mà là những lợi ích; cịn chính quyền nhà
nước là cơ quan đại diện cho đẳng cấp của những lợi ích tư
nhân.
Như vậy, qua thực tiễn, nguyện vọng muốn cắt nghĩa
hiện thực, xác lập lý tưởng tự do trong thực tế làm nảy sinh

khuynh hướng duy vật ở Mác, tinh thần dân chủ cách mạng
sâu sắc đã không dung hợp với triết học duy tâm tự biện. Vì
thế sau khi báo Sơng Ranh bị cấm( từ ngày 1-4-1843). Mác
đặt ra cho mình nhiệm vụ duyệt lại một cách có phê phán
quan niệm duy tâm của Hê Ghen về xã hội và nhà nước,
đồng thời phát hiện những động lực thật sự để biến đổi thế


21

giới bằng cách mạng. Trong thời gian ở Croixơnắc ( tháng 5
đến tháng 10 năm 1843) Mác đã tiến hành phê phán triết học
pháp quyền của Hêghen, qua đó phê phán chủ nghĩa duy
tâm nói chung. Song song với việc viết cuốn sách góp phần
phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, ông đã nghiên
cứu lịch sử một cách cơ bản. Trong khi phê phán chủ nghĩa
duy tâm của Hêghen, Mác đã nồng nhiệt tiếp nhận quan điểm
duy vật của triết học duy vật của Phoiơbắc. Song, Mác lại
thấy được những mặt yếu trong triết học của Phoiơbắc, nhất
là việc xa rời những vấn đề chính trị nóng hổi. Sự phê phán
sâu rộng đối với triết học Hêghen và Phoiơbắc đã tăng
cường mạnh mẽ xu hướng duy vật trong quan điểm của Mác.
Cuối tháng 10- 1843, Mác sang Pari. ở đây, khơng khí chính
trị sơi sục và sự tiếp xúc với các đại biểu của giai cấp vô sản
đã dẫn đến bước chuyển dứt khốt của ơng sang chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa cộng sản. Các bài báo của Mác bàn về
vấn đề Do thái và Góp phần phê phán triết học pháp quyền
của Hêghen. Lời nói đầu đăng trên tạp chí Niên giám PhápĐức được xuất bản tháng 2- 1844, đã đánh dấu bước hoàn



22

thành sự chuyển biến đó. Trong các bài báo trên Mác đã
phân tích một cách sâu sắc theo quan điểm duy vật ý nghĩa
lịch sử to lớn và cả mặt hạn chế của cuộc cách mạng tư sản
mà ông gọi là “ sự giải phóng chính trị”, hay” cuộc cách mạng
bộ phận”, đã phác thảo những nét đầu tiên về “ cuộc cách
mạng triệt để” và chỉ ra “ cái khả năng tích cực” của giải
phóng đó “ chính là giai cấp vơ sản”. Tư tưởng về vai trị lịch
sử thế giới của giai cấp vô sản là điểm xuất phát của chủ
nghĩa cộng sản khoa học. Như vậy quá trình hình thành và
phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử động thời là quá trình hình thành chủ nghĩa
cộng sản khoa học, thế giới quan vô sản cách mạng..
Cũng trong thời gian ấy thế giới quan cách mạng của
Ăngghen đã hình thành một cách độc lập với Mác.
Ph.Ăngghen sinh ngày 28-11-1820, trong một gia đình
chủ xưởng sợi ở Bácmên thuộc tỉnh Ranh. Khi còn là học
sinh trường trung học Ăngghen đã căm ghét sự chuyên
quyền độc đoán của bọn quan lại. Việc nghiên cứu triết học
trong thời gian ở Béclin, khi làm nghĩa vụ quân sự, đã dẫn


23

ông đi xa hơn trên con đường khoa học. Song, chỉ thời
gian gần 2 năm sống ở Mansextơ (Anh) từ mùa thu1842,
việc nghiên cứu đời sống kinh tế và sự phát triển chính trị
của nước Anh, nhất là việc trực tiếp tham gia vào phong
trào công nhân mới dẫn đến bước chuyển biến căn bản

trong thế giới quan của ông sang chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa cộng sản.
Niên giám Pháp- Đức cũng đăng các tác phẩm Phác
thảo góp phần phê phán kinh tế chính trị học và Tình cảnh
nước Anh, Tômát Cáclây, Quá khư và hiện tại

của Ăng

ghen gửi đến từ Mansextơ. Các tác phẩm đó cho thấy ở
Ăng ghen, quá trình chuyển biến từ chủ nghĩa duy tâm và
dân chủ- cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và lập trường
của chủ nghĩa xã hội để phê phán kinh tế chính trị học của
A.Xmít và Đ. Ricácđơ, vạch trần quan điểm chính trị phản
động của Cáclây, một người phê phán chủ nghĩa tư bản
trên lập trường của giai cấp quý tộc phong kiến.


24

Cùng với sự chuyển biến lập trường đó là quá trình hoạt
động lý luận và thực tiễn khơng biết mệt mỏi của C. Mác,
Ph.Ăng ghen.
Trên lĩnh vực lý luận từ việc các ông tham gia vào phái
Hêghen trẻ đến việc các ông tham gia biên tập và viết bài cho
báo Sơng Ranh, tạp chí Niên giám Pháp- Đức và một loạt các
tác phẩm các ông viết trong thời gian từ năm 1844- 1848, đã
chứng tỏ hoạt động lý luận không biết mệt mỏi của C. Mác,
Ph.Ăng ghen. Trong các bài viết và các tác phẩm của mình,
đặc biệt tác phẩm tuyên ngôn của đảng cộng sản một mặt C.
Mác, Ph.Ăngghen phê phán các quan điểm sai trái, mặt khác

qua đó các ơng đã hình thành lên những quan điểm của mình
về chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử
và những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học;
lên án chủ nghĩa tư bản và chế độ chiếm hữu tư nhân về tư


25

liệu sản xuất; chỉ ra tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản và
thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa xã hội; chỉ ra sứ mệnh lịch sử
thế giới của giai cấp công nhân, con đường cách mạng và
những điều kiện cơ bản để thực hiện sứ mệnh lịch sử ấy...
Đồng thời với hoạt động lý luận,C. Mác, Ph.Ăng ghen
tích cực hoạt động thực tiễn. Năm 1844 C. Mác, Ph.Ăng ghen
thành lập hội công nhân Đức ở Brúcxen (Bỉ); liên lạc với
những người cách mạng trong phái Hiến chương ở Anh. Năm
1846 các ông tham gia thành lập uỷ ban thông tin cộng sản ở
Brúcxen(Bỉ), ở Luân Đôn (Anh). Từ năm 1846- 1847 Ăngghen
cịn tích cực hoạt động trong phong trào cơng nhân ở Anh,
vạch trần tính chất tiểu tư sản của Pruđông, tuyên truyền tư
tưởng cộng sản vào phong trào công nhân.Qua hoạt động
thực tiễn của C. Mác, Ph.Ăng ghen , uy tín của các ơng ngày
càng tăng, ảnh hưởng mạnh đến phong trào công nhân ở


×