Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

THU HOẠCH lý luận về thời kỳ quá độ lên CNXH ý nghĩa của vấn đề đối với con đường đi lên cnxh ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.26 KB, 27 trang )

1

THU HOẠCH-Lý luận về thời kỳ quá độ lên CNXH-ý
nghĩa của vấn đề đối với con đường đi lên cnxh ở nước
ta hiện nay
Trong dòng chảy lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa, thì
sự phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
một trong những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa
học. Bởi lẽ chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội
khơng có sẵn trong lịch sử, để có được chế độ ưu việt ấy giai
cấp vơ sản phải trải qua q trình đấu tranh lâu dài, bền bỉ,
gian khổ, phức tạp và phải trải qua nhiều giai đoạn, nhiều “lần
thử” mới đi tới mục tiêu cuối cùng. Những tư tưởng lý luận về
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là những “cẩm nang” cho
các Đảng Cộng sản công nhân quốc tế vận dụng một cách
linh hoạt, sáng tạo vào điều kiện cụ thể của quốc gia, dân tộc
mình tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa giành thắng lợi
và cuối cùng là xây dựng chủ nghĩa xã hội thành cơng trên
tồn thế giới.
Hiện nay chủ nghĩa xã hội khơng cịn là một hệ thống,
đặc biệt sau sự đổ vỡ của Liên Xô và Đông Âu, các học giả
tư sản phương tây cho rằng học thuyết Mác – Lênin đã hết
thời, lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học vẫn chỉ là “không
tưởng” chứ không phải là khoa học và cách mạng. Nghiên
cứu từ bài học sự đổ vỡ ở Liên Xô và Đông Âu, bài học 20
năm thực hiện sự nghiệp đổi mới của Đảng ta, trước bối cảnh


2

tình hình quốc tế hiện nay, vấn đề có tính chất sống còn đặt


ra cho Đảng ta là phải tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, làm rõ
những vấn đề về chủ nghĩa xã hội đặc biệt là con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là cơ sở để Đảng ta
hoạch định đường lối đúng đắn phù hợp với xu thế phát triển
của thời đại, nâng cao niềm tin của nhân dân vào mục tiêu,
con đường và chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng, nhà nước
và nhân dân ta đang tiến hành.
I. Tư tưởng của Mác, Ăngghen và Lênin về thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1. Những cống hiến của Mác và Ăngghen
Thời kỳ Mác, Ăngghen gắn với điều kiện lịch sử đó là
chủ nghĩa tư bản đang trên đà phát triển, phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa đang hưng thịnh, giai cấp tư sản vẫn
thể hiện được vai trò lịch sử của nó, chúng chưa bộc lộ đầy
đủ bản chất tàn bạo và phản động, giai cấp vô sản ngày một
trưởng thành thông qua các cuộc đấu tranh cách mạng ở
châu Âu. Nghiên cứu sự vận động của phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa, nhất là quy luật quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất Mác, Ăngghen đã có những dự báo thiên tài
về sự thay thế của các hình thái kinh tế xã hội là một quá
trình lịch sử tự nhiên và hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ
nghĩa ắt sẽ ra đời thay thế hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Quá trình hoạt động thực tiễn, sáng tạo lý luận; Mác và
Ăngghen đã vận dụng triệt để quan điểm thực tiễn lịch sử vào


3

nghiên cứu đời sống xã hội thơng qua đó xây dựng nên học
thuyết hình thái kinh tế xã hội trong đó có hình thái kinh tế xã

hội cộng sản chủ nghĩa. Sự ra đời học thuyết này là một cuộc
cách mạng trong quan niệm về lịch sử xã hội, vì lần đầu tiên
Mác đã đề cập đến tư tưởng về hình thái kinh tế xã hội và
các giai đoạn phát triển của nó. Những tư tưởng đó được
Mác đề cập chủ yếu trong tác phẩm “phê phán cương lĩnh Gô
Ta” (tháng 4/1975). Trong tác phẩm ấy, Mác đã vạch rõ bản
chất cơ hội, phản động theo đuôi giai cấp tư sản của chủ
nghĩa Lát-Xan, đồng thời chính thơng qua phê phán Cương
lĩnh Gơ Ta, Mác đã trình bày những ngun lý, lý luận về hình
thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa, những đặc trưng cơ bản của
nó nhất là những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa cộng sản
giai đoạn thấp (hoặc giai đoạn đầu) là chủ nghĩa xã hội. Đó là
“một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thốt thai từ xã hội tư
bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội về mọi phương diện kinh
tế, đạo đức, tinh thần còn mang những dấu vết của xã hội cũ
mà nó đã lọt lịng ra”1. Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là
làm theo năng lực, hưởng theo lao động. Giai đoạn cao là
một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ
sở của chính nó, mà đặc trưng cơ bản là làm theo năng lực
hưởng theo nhu cầu. Thông qua phê phán “Cương lĩnh Gơ
Ta”, Mác đã phê phán tính chất phản động, thoả hiệp của chủ
nghĩa Lát- Xan, xuyên tạc tuyên ngôn, xa rời những nguyên lý
1

C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, tập19, Nxb Chính trị quốc gia sự thật , Hà Nội, 1995,
tr. 33


4


của chủ nghĩa xã hội khoa học. Trong tác phẩm này Mác đã
chỉ ra để tiến tới hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa
đòi hỏi phải trải qua một thời kỳ quá độ “Giữa xã hội tư bản
chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải
biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia, thích ứng với
thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị. Và nhà nước của
thời kỳ ấy khơng thể là cái gì khác hơn là nền chun chính
cách mạng của giai cấp vơ sản”2
Về định nghĩa và tính tất yếu của thời kỳ quá độ, theo tư
tưởng của Mác, đó là thời kỳ “quá độ chính trị”, tức là để tiến
lên hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa thì giai cấp vơ
sản phải lập ra chính đảng của mình và thiết lập chun
chính vơ sản-một hình thức chính trị tất yếu phục vụ cho cuộc
đấu tranh giai cấp cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Xã
hội của thời kỳ quá độ là một xã hội vừa thoát thai từ xã hội
tư bản mà ra; là thời kỳ cải biến cách mạng, do vậy về kinh
tế, đạo đức, tinh thần cịn mang những dấu vết của xã hội cũ.
Cơng cụ để thực hiện sự cải biến đó là nhà nước chun
chính vơ sản. Mác đã phân tích sâu sắc đặc điểm thời kỳ quá
độ, trú trọng phân tích đặc điểm kinh tế, tập trung quan hệ sở
hữu. Mác, Ăngghen luôn nhấn mạnh là sau khi chế độ tư bản
chủ nghĩa sụp đổ, nhưng chế độ tư hữu vẫn còn tồn tại, cho
nên việc cải tạo để đi đến xoá bỏ chế độ tư hữu là một quá
trình dần dần. Mác đã khẳng định “Giai đoạn đầu của xã hội
cộng sản chủ nghĩa, lúc nó vừa mới lọt lịng từ xã hội tư bản
2

C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, tập19, Nxb Chính trị quốc gia sự thật , Hà Nội, 1995, tr. 47



5

chủ nghĩa ra, sau những cơn đau đẻ dài. Chính quyền không
bao giờ ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển
văn hoá của xã hội do chế độ kinh tế quyết định”1.
Về phương diện chính trị xã hội thời kỳ quá độ là thời kỳ
đấu tranh quyết liệt giữa chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại
nhưng chưa bị tiêu diệt tận gốc với chủ nghĩa xã hội đã được
hình thành nhưng vẫn cịn non yếu. Cho nên mục đích của
chủ nghĩa cộng sản về chính trị là xố bỏ nhà nước, cơ sở để
xố bỏ nhà nước là xoá bỏ chế độ tư hữu, song khơng phải
một lúc mà là một q trình. Mác và Ăngghen đã chỉ rõ nhiệm
vụ của thời kỳ quá độ là sau khi giành chính quyền, giai cấp
vơ sản phải dùng chế độ dân chủ làm phương tiện để thi
hành các biện pháp, trực tiếp đánh vào chế độ tư hữu, cải
tạo, thủ tiêu các quan hệ bóc lột, thiết lập các quan hệ sản
xuất mới công bằng. Và đó là một q trình dần dần, khơng
thể nóng vội. Mặt khác sau khi giành chính quyền giai cấp vơ
sản phải sử dụng quyền lực chính trị một cách triệt để vừa
cưỡng bức, tước đoạt bọn áp bức, bóc lột, nhưng vừa phải
nêu gương giúp đỡ nhân dân xây dựng xã hội mới “Khi
chúng ta nắm được chính quyền, chúng ta sẽ không nghĩ đến
dùng bạo lực để tước đoạt tiểu nông, như chúng ta buộc phải
tước đoạt của bọn địa chủ nhiệm vụ của chúng ta đối với tiểu
nông, trước hết phải hướng nền kinh doanh cá thể và sở hữu
của họ vào con đường kinh doanh hợp tác khơng phải bằng
1
2

C. Mác và Ph. Ăngghen tồn tập, tập19, Nxb Chính trị quốc gia sự thật , Hà Nội, 1995, tr. 36

C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, tập 22, Nxb Chính trị quốc gia sự thật , Hà Nội, 1995, tr. 736


6

bạo lực mà là bằng những tấm gương và sự giúp đỡ của xã
hội.2 Điều đó nói lên rằng giai cấp vơ sản sử dụng quyền lực
chính trị để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới thì phải
mềm dẻo, linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm của thời
kỳ cải biến cách mạng.
Cũng chính từ những đặc điểm của thời kỳ cải biến cách
mạng Mác và Ăngghen đã chỉ ra rằng trong suốt thời kỳ quá
độ các giai cấp vẫn cịn tồn tại, địa vị, tính chất, vai trò của
các giai cấp sẽ thay đổ trong quá trình chủ nghĩa xã hội, vì
thế đấu tranh giai cấp trong thời kỳ này sẽ vẫn diễn ra. Thực
chất đấu tranh giai cấp trong thời kỳ này là để giải quyết vấn
đề “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khi
mà cơ cấu xã hội giai cấp vẫn còn tồn tại đan xen, phức tạp.
Những giai cấp , những bộ phận mà lợi ích cơ bản của họ
khác nhau, thậm trí đối lập nhau, do vậy cuộc đấu tranh giai
cấp này nó diễn ra gay go, quyết liệt, phức tạp diễn ra trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Mác và Ăngghen cũng
đưa ra những hình thức đấu tranh giai cấp với giai cấp tư sản
và các tầng lớp tiểu tư sản khác. Đó là đấu tranh bằng tước
đoạt và bằng bạo lực để thủ tiêu chế độ tư bản và khơng thể
tránh khỏi việc xố bỏ giai cấp tư sản bằng phương pháp hồ
bình là điều mong muốn của giai cấp công nhân.
Vào những năm 80 – 90 của thế kỷ XIX, một trong
những cống hiến rất lớn lao của Ăngghen đối với sự phát
triển lý luận về thời kỳ quá độ đó là luận điểm về con đường

2


7

phát triển “rút ngắn” không qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở
các nước lạc hậu, chậm phát triển. Cống hiến lý luận của
Ăngghen đối với sự hình thành và phát triển chủ nghĩa Mác là
hết sức lớn lao. Lênin đã khẳng định, “muốn đánh giá đúng
đắn những quan điểm của Mác, tuyệt đối phải đọc những tác
phẩm của người cùng tư tưởng và người cộng tác gần gũi
nhất của Mác là Phri-đrích Ăngghen” và hơn thế, chúng ta sẽ
khơng thể nào hiểu được chủ nghĩa Mác và trình bày đầy đủ
được chủ nghĩa Mác, nếu không chú ý đến toàn bộ tác phẩm
của Ăngghen”1. Sau khi mác qua đời, Ăngghen đã đem hết
nghị lực sục sơi, trí tuệ sáng suốt và trái tim nồng cháy của
mình để tiếp tục sự nghiệp cách mạng mà ông và C. Mác đã
theo đuổi suốt đời: phát triển và hoàn thiện học thuyết về chủ
nghĩa xã hội khoa học; phát triển, điều chỉnh, đề xuất đường
lối chiến lược, sách lược và phương pháp đấu tranh cách
mạng mới cho chính đảng của giai cấp công nhân. Những tác
phẩm của Ăngghen thể hiện trong hàng loạt bài viết, thư từ
và được coi như là sự bổ sung, cụ thể hoá những tư tưởng
mà C. Mác đã đưa ra trong “Phê phán Cương lĩnh Gô-ta”,
cũng như những tư tưởng mà bản thân ông đã đưa ra trong
“Chống Đuy-rinh”, “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư
hữu và của nhà nước”.
Nói về thời kỳ quá độ, nhất là vấn đề xác định “những
giai đoạn quá độ lên xã hội cộng sản”, trong thư gửi Cơn-rat
Smít (1863 – 1932) – nhà kinh tế học, nhà triết học Đức,

1

V. I. Lênin Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ M, 1981, tr. 110


8

người mà khi đó tán thành học thuyết Mác, ngày 1/7/1891
Ăngghen khẳng định, chúng ta “cần phải suy nghĩ kỹ”, khơng
được nơn nóng, khơng được phép kết luận vội vàng, bởi đây
là vấn đề khó nhất trong tất cả những vấn đề còn tồn tại ở
một thời kỳ mà “các điều kiện không ngừng thay đổi”. Tuy
luôn nhắc đi, nhắc lại rằng, nhiều việc diễn biến của tình hình
khơng phép đưa ra một chương trình hành động cụ thể cho
mọi trường hợp có thể xảy ra nhưng Ăngghen vẫn cố gắng
vạch ra những nét cơ bản nhất, những quy luật chung nhất
về thời kỳ quá độ. Trong quan niệm của ông, thời kỳ quá độ
là thời kỳ luôn “gắn với một số thiếu thốn nào đó” bởi đây là
“thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia” và
“về mọi phương diện kinh tế đạo đức, tinh thần còn mang dấu
vết của xã hội cũ mà nó lọt lịng ra như Mác đã nói trong “phê
phán cương lĩnh Gô -ta”.
Khi phát triển quan niệm về thời kỳ q độ, Ăngghen đã
nói đến tính tất yếu của phương thức quá độ “rút ngắn” đối
với đất nước đang ở giai đoạn phát triển tiền tư bản chủ
nghĩa hoặc chưa từng trải qua con đường phát triển tư bản
chủ nghĩa. Trong lời bạt viết cho tác phẩm “về vấn đề xã hội
ở Nga” Ăngghen khẳng định không chỉ với nước Nga mà còn
với tất cả các nước đang trong giai đoạn phát triển tiền tư
bản chủ nghĩa đều “không những có thể mà cịn chắc chắn

rút ngắn một cách đáng kể quá trình phát triển của mình lên
xã hội xã hội chủ nghĩa và có thể tránh được phần lớn những


9

đau khổ và những cuộc đấu tranh ở Tây Âu phải trải qua”1.
Khi nhận thấy trước một khả năng có thể xảy ra trong thời kỳ
quá độ lên CNXH ở các nước lạc hậu, chậm phát triển, kẻ thù
và những lực lượng chống đối giai cấp cơng nhân và chính
Đảng của nó có thể liên kết lại xung quanh khẩu hiệu “nền
dân chủ thuần tuý” để chống phá công cuộc xây dựng xã hội
mới.
Để khắc phục những nhận thức mơ hồ về CNXH và thời
kỳ quá độ vẫn còn khá phổ biến trong phong trào công nhân
quốc tế, Ăngghen đã nói rõ quan niệm của ơng về sự khác
nhau căn bản giữa CNXH và CNTB. Ông viết “cái gọi là “xã
hội xã hội chủ nghĩa” theo ý kiến tôi, không phải là cái gì đó
nhất thành bất biến, mà cũng như mọi chế độ xã hội khác nó
cần phải được xem xét như một xã hội được thay đổi và cải
tạo thường xun. Sự khác biệt có tính chất quyết định của
nó so với chế độ hiện nay dĩ nhiên là ở việc tổ chức sản xuất
trên cơ sở sở hữu chung trước hết của từng dân tộc đối với
các tư liệu sản xuất”2.
Những cống hiến mới của Ăngghen trong việc phát triển
một cách sáng tạo học thuyết về CNXH khoa học gắn liền với
điều kiện lịch sử luôn biến đổi. CNTB đang trong giai đoạn
chuyển từ thời kỳ tự do cạnh tranh sang CNTB độc quyền
1


C. Mác và Ph. Ăngghen tồn tập, tập 22, Nxb Chính trị quốc gia sự thật , Hà Nội,
1977, tr. 632
2

C. Mác và Ph. Ăngghen tồn tập, tập 37, Nxb Chính trị quốc gia sự thật , Hà Nội, tr.
617 - 618


10

nhà nước (chủ nghĩa đế quốc phong trào cộng sản cơng
nhân quốc tế đã có sự phát triển và có kinh nghiệm đấu tranh
cách mạng, tính chất bóc lột phản động của CNTB đang dần
bộc lộ. Mặt khác, sự phát triển không đều của chủ nghĩa đế
quốc, các nước lạc hậu chậm phát triển không thể thực hiện
một cách tuần tự theo sự phát triển hình thái kinh tế xã hội.
Đây là dự báo rất thiên tài về tương lai của cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, Mác và Ăngghen đưa ra những tư tưởng rất
quan trọng về sự phân kỳ hình thái kinh tế xã hội cộng sản
chủ nghĩa, những dự báo rất quan trọng về nội dung, tính
chất, đặc điểm của thời kỳ quá độ và đặc biệt là luận điểm về
con đường phát triển “rút ngắn” ở các nước lạc hậu, chậm
phát triển là rất bổ ích và cần thiết cho sự phát triển lý luận
thời kỳ quá độ sau này.
2. Lênin đấu tranh bảo vệ, phát triển lý luận thời kỳ
quá độ trong điều kiện lịch sử mới.
Sau khi Mác và Ăngghen qua đời, Lênin đã bảo vệ phát
triển chủ nghĩa Mác một cách sáng tạo làm phong phú chủ
nghĩa Mác trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Người bảo vệ

phát triển chủ nghĩa Mác cả ba bộ phận cấu thành của nó là
triết học, kinh tế chính trị và CNXH khoa học chống lại mọi
trào lưu cơ hội, xét lại chủ nghĩa Mác nhưng khơng rơi vào
chủ nghĩa giáo điều, dập khn máy móc. Trong đấu tranh


11

bảo vệ phát triển lý luận CNXH khoa học thì lý luận về thời kỳ
quá độ là một trong những cống hiến rất đặc sắc của Lênin.
Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa, Lênin đã đưa ra nhiều quan điểm mới. Trong giai
đoạn này, CNTB đã trở thành một hệ thống thế giới bao gồm
cả các nước thuộc địa và phụ thuộc dưới ách thống trị của
chủ nghĩa tư bản. Lênin thấy rõ mối quan hệ khăng khít giữa
cách mạng vơ sản ở chính quốc và cách mạng giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa. Vì vậy, cách mạng giải phóng
dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản thế
giới. Điểm nổi bật của Lênin là nhận thức mới của Người về
CNXH và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước tư bản kém
phát triển. Lênin cho rằng, Mác và Ăngghen mới chỉ nêu lên
những nét đại thể về chủ nghĩa xã hội trên cơ sở các nước tư
bản công nghiệp phát triển lúc bấy giờ. Còn đối với nước
Nga, một nước tư bản kém phát triển, nền kinh tế tiểu nơng
cịn phổ biến lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, nên cần phải
có một nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở nước Nga.
Trên cơ sở tiếp thu tư tưởng của Mác và Ăngghen khi
xác định vị trí của thời kỳ q độ trong q trình hình thành
hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa, Lênin chỉ ra sự phân kỳ:

thời kỳ thứ nhất là những cơn đau đẻ kéo dài; thời kỳ thứ hai
là giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa; thời kỳ thứ
ba là giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Lênin chỉ


12

rõ đặc điểm cụ thể của từng thời kỳ, từng giai đoạn của hình
thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa, thấy hết tính chất
phức tạp từng giai đoạn của nó. Lênin khẳng định: “trong giai
đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, là xã hội vừa thoát
thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa sau những cơn đau đẻ kéo
dài. Pháp quyền khơng bao giờ có thể cao hơn chế độ kinh tế
và trình độ phát triển văn hoá của xã hội do chế độ kinh tế
quyết định”1. Trong giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ
nghĩa, sau khi tình trạng phụ thuộc vào sự phân cơng lao
động - một sự lệ thuộc nơ dịch hố con người mất đi, khi mà
cùng với nó, sự đối lập giữa lao động trí óc và lao động chân
tay mất đi, khi mà lao động chỉ còn là phương tiện sinh sống
mà bản thân nó trở thành một nhu cầu bậc nhất của cuộc
sống, khi mà cùng với sự phát triển tồn diện của những cá
nhân thì cả những lực lượng sản xuất cũng phát triển và tất
cả nguồn của cải xã hội tuân ra tràn đầy, chỉ lúc ấy mới có thể
hồn tồn khắc phục được hồn tồn cái giới hạn chật hẹp
cảu pháp quyền tư sản, và xã hội mới có thể viết trên lá cờ
của mình: “làm hết năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
Việc đưa ra các gia đoạn phát triển của hình thái kinh tế
xã hội cộng sản chủ nghĩa là cơ sở để khẳng định tính chất,
đặc điểm, nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng này được hình thành gắn liền với tư tưởng chun

chính vơ sản, gắn liền với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa .
1
2

V. I. Lênin Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ M, 1976, tr. 223
V. I. Lênin Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ M, 1978, tr. 362


13

Lênin đã cụ thể hoá và phát triển làm phong phú hơn về thời
kỳ quá độ. Trước hết về định nghĩa thời kỳ quá độ: “danh từ
“quá độ” có nghĩa là gì? vận dụng vào kinh tế có phải nó có
nghĩa là trong chế độ hiện nay, có nhiều thành phần, nhiều bộ
phận, nhiều mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã
hội khơng”2. Đó là một thời kỳ lịch sử lâu dài, thời kỳ đó cịn
đan xen giữa cái cũ và cái mới của cả chủ nghĩa tư bản và
chủ nghĩa xã hội, cái cũ chưa hẳn mất đi, cái mới đang được
hình thành và từng bước khẳng định. Dựa trên phương pháp
duy vật lịch sử mác xít, Lênin khẳng định tính tất yếu phải trải
qua thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
và Lênin là người đầu tiên đưa ra khái niệm thời kỳ quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, vị trí của thời kỳ quá
độ chỉ là tương đối chứ không phải tuyệt đối “các tác phẩm lý
luận của ta đã nhấn mạnh một cách rõ ràng: tất yếu phải có
một thời kỳ quá độ lâu dài và phức tạp từ xã hội tư bản chủ
nghĩa ( xã hội đó càng ít phát triển thì thời kỳ đó càng dài)
q độ thơng qua việc thực hiện kiểm kê, kiểm soát xã hội
cộng sản chủ nghĩa song dù chỉ là một trong những bước đầu
tiên để tiến lên xã hội cộng sản chủ nghĩa” 1. Lênin đã chỉ ra

tính chất, đặc điểm của thời kỳ quá độ, đây là những luận
điểm rất quan trọng, nó phù hợp với đặc điểm, điều kiện lịch
sử lúc đó ở nước Nga, cũng như các nước lạc hậu chậm
2
1
2

V. I. Lênin Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ M, 1978, tr. 197
V. I. Lênin Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ M, 1978, tr. 505


14

phát triển khác trên thế giới. Lênin đã ví chủ nghĩa xã hội như
một ngọn núi cao, nơi chưa có dấu chân người, cho nên
muốn leo lên được nó phải trải qua nhiều bậc thang khó
khăn, gian khổ, thậm trí phải thử nghiệm nhiều lần thì mới có
thể đi đến đích “cịn chúng ta thì biết rằng việc chuyển từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh vơ
cùng khó khăn, nhưng chúng ta sẵn sàng chịu đựng hàng
nghìn khó khăn, thực hiện hàng nghìn lần thử, và khi chúng
ta đã thực hiện được một nghìn lần thử rồi, thì chúng ta sẽ
thực hiện cái lần thử một nghìn lẻ một” 2. Để trải qua những
nấc thang của thời kỳ quá độ đó, giai cấp vơ sản thơng qua
chính Đảng của mình khơng thể tránh khỏi những vấp váp,
sai lầm, nếu khơng có sự linh hoạt, sáng tạo, kịp thời đổi mới,
cải cách thì thậm trí đổ vỡ. Vì thời kỳ đó khơng thể khơng bao
gồm những đặc điểm hoặc đặc trưng của hai kết cấu kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ giai
đoạn ấy không thể nào lại không phải là một thời kỳ đấu tranh
giữa chủ nghĩa tư bản đang dãy chết và chủ nghĩa cộng sản

đang phát sinh. Hay nói một cách khác, giữa chủ nghĩa tư
bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn, và chủ nghĩa
cộng sản đã phát sinh nhưng cịn no yếu. Đó là một thời kỳ
mọi phương diện đều có sự phát triển tính tự phát tiểu tư
sản chứa đựng những mâu thuẫn khơng thể dung hồ, giữa
tính kỷ luật với tính vơ chính phủ. Lênin chỉ rõ: “Dưới chính
quyền Xơ Viết một mẩu nhỏ chủ nghĩa tư bản và một mẩu
2


15

nhỏ chủ nghĩa xã hội tồn tại cạnh nhau chủ nghĩa tư bản nhà
nước đó cịn cao hơn những tàn dư của các tâm trạng và các
điều kiện sinh hoạt kinh tế và tập quán của những kẻ tiểu tư
hữu, những tàn dư đó cịn rất nhiều”


16

Đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội là đổi mới
phương pháp tư duy, khắc phục lối tư duy kinh nghiệm, giáo
điều, chủ quan, siêu hình về chủ nghĩa xã hội; là loại bỏ
những quan điểm, nhận thức sai trái, khắc phục những quan
niệm, nhận thức không đúng, lạc hậu, lỗi thời; đó cịn là sự
đổi mới những kiến thức, tri thức của chúng ta về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa ở nước ta. Đổi mới tư
duy lý luận về chủ nghĩa xã hội không phải là phủ định chủ
nghĩa Mác - Lênin, thay đổi những nguyên lý cơ bản về chủ
nghĩa xã hội, mà là nhận thức lại sâu sắc hơn, đúng đắn hơn,

để trở về với tư duy khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Và
do đó, đổi mới tư lý luận về chủ nghĩa xã hội không phải là
thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa, không phải là hồi nghi
tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, mà là làm cho mục tiêu ấy
được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng
đắn, bằng những bước đi thích hợp. Đổi mới tư duy lý luận
về chủ nghĩa xã hội còn là sự phát triển, bổ sung chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những thành tựu lý luận
của Đảng ta trong điều kiện đổi mới.
1.2.2. Tính tất yếu của việc đổi mới tư duy lý luận về chủ
nghĩa xã hội


17

Từ cuối những năm 1970, nền kinh tế nước ta đứng
trước những mất cân đối nghiêm trọng đã đẫn đến một cuộc
khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài. Biểu hiện rõ nhất là sản
xuất xã hội trì trệ, lạm phát tăng nhanh, lòng tin của nhân dân
đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành quản lý của
Nhà nước giảm sút. Cuộc khủng hoảng này thật sự là một
thách thức lớn đối với cả dân tộc ta.
Nguyên nhân sâu xa, cơ bản dẫn đến khủng hoảng do
chúng ta đã nhận thức sai, vận dụng không đúng chủ nghĩa
Mác - Lênin, nhất là lý luận về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ
quá độ, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cũng như quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Những vấn đề cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin như học thuyết về hình thái
kinh tế - xã hội, về đấu tranh giai cấp, về quy luật quan hệ
sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của

lực lượng sản xuất, quy luật kiến trúc thượng tầng phải phù
hợp với hạ tầng cơ sở, những quy luật của thời kỳ quá độ...
bị hiểu và giải thích sai lệch. Những sai lầm này đã dẫn đến
sai lầm lớn nhất trong việc xác lập, xây dựng mơ hình chủ
nghĩa xã hội - đó là mơ hình chủ nghĩa xã hội nhà nước.
Trong nhiều thập kỷ, quan niệm của chúng ta về chủ
nghĩa xã hội còn đơn giản và chưa rõ ràng, chúng ta chưa
hình dung được một xã hội xã hội chủ nghĩa phù hợp với đặc
điểm của nước ta. Đối với chủ nghĩa tư bản, chúng ta cũng
chưa có sự nghiên cứu đầy đủ và tồn diện, khách quan với


18

tư cách là một hình thái kinh tế - xã hội, chưa thấy rõ những
mặt tiêu cực cần phủ định và những mặt tích cực cần phải
chọn lọc để kế thừa. Do đó, khi đề ra quan điểm bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa, chúng ta chưa xác định rõ là bỏ qua cái
gì, cái gì là quá trình phát triển lịch sử - tự nhiên không thể bỏ
qua. Chúng ta đã chủ quan duy ý chí, nóng vội muốn tiến
nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội, vi phạm quá trình
phát triển lịch sử - tự nhiên. Chúng ta đề ra quan điểm về thời
kỳ quá độ, nhưng chưa hình dung rõ nội dung phong phú, đa
dạng của nó, chưa phân biệt rõ kiểu quá độ trực tiếp và kiểu
quá độ gián tiếp. Đại hội lần thứ IV đưa ra thời gian thực hiện
thời kỳ quá độ là 20 năm mà khơng tính hết những khó khăn
của một nước nông nghiệp lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá
đi lên chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi phải trải qua một thời gian dài,
bao gồm nhiều bước quá độ trung gian. Do đó, đã dẫn đến
nhiều sai lầm trong cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông

nghiệp, công thương nghiệp tư bản tư doanh. Chúng ta đã
đồng nhất hợp tác hoá với tập thể hoá ruộng đất, nên đã
nhanh chóng xố bỏ ngay kinh tế hộ nơng dân, đưa ruộng đất
vào hợp tác xã, điều này làm cho trong quan hệ sở hữu và
quản lý, người nông dân khơng gắn bó với ruộng đất, khơng
gắn bó với hợp tác xã, do đó tính ưu việt của tập thể hố
ngày càng giảm sút. Trong các lĩnh vực cơng nghiệp, thương
nghiệp, dịch vụ cũng đã tồn tại nhận thức cho rằng, càng có
nhiều thành phần quốc doanh, tập thể thì càng có nhiều chủ


19

nghĩa xã hội, nên chúng ta đã áp dụng nhiều biện pháp cải
tạo chủ quan, duy ý chí. Từ những nhận thức mơ hồ ấy dẫn
đến phủ nhận kinh tế hàng hoá và rơi vào ảo tưởng về khả
năng xuất hiện một thứ chủ nghĩa xã hội thuần khiết, nhanh
chóng ra đời, một chế độ sở hữu thuần nhất chỉ với kinh tế
quốc doanh và tập thể. Sai lầm đó làm mai một nhiều tiềm
năng kinh tế của xã hội, gạt bỏ một cách trái tự nhiên sự tồn
tại của nhiều thành phần kinh tế, trói buộc và kìm hãm sự
phát triển của lực lượng sản xuất, kéo dài sự non yếu, tính
hình thức của quan hệ sản xuất.
Về vấn đề cơng nghiệp hố, chúng ta cũng có những
quan niệm chưa đúng như, chưa xác định đặc điểm cơng
nghiệp hố, chưa nhận thức đúng đắn xuất phát điểm của
quá trình cơng nghiệp hố ở nước ta, trong văn kiện có nói
kết hợp cơng nghiệp với nơng nghiệp, nhưng trên thực tế
chưa kết hợp ngay từ đầu công nghiệp với nông nghiệp,
chúng ta đã đồng nhất cơng nghiệp hố với việc xây dựng

những xí nghiệp cơng nghiệp có quy mơ lớn, hiện đại, thiên
về phát triển công nghiệp nặng, chưa gắn cơng nghiệp hố
với q trình hiện đại hố, thị trường hố, nhằm tạo điều
kiện đồng bộ cho cơng nghiệp phát triển.
Về cơ chế quản lý, đã kéo dài quá lâu cơ chế quản lý
tập trung quan liêu, bao cấp. Với mơ hình kinh tế hiện vật, với
phương thức quản lý tập trung và kế hoạch bị áp đặt từ bên
trên đã dẫn đến sự phát triển chủ nghĩa quan liêu trong bộ


20

máy Nhà nước và trong các tổ chức kinh tế. Nền sản xuất xã
hội và hoạt động kinh tế vừa cứng nhắc vừa thụ động, hiệu
quả kinh tế giảm, lợi ích cá nhân của người lao động và lợi
ích xã hội bị tổn hại. Phương thức quản lý tập trung quan liêu,
hành chính mệnh lệnh với cơ chế bao cấp và bình quân đã
làm biến dạng các quan hệ xã hội, làm triệt tiêu các động lực
phát triển xã hội. Về hệ thống chính trị, chưa xác định rõ vị trí,
vai trị của các bộ phận trong hệ thống chính trị, trong đó có
mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý, lý
luận về xây dựng nhà nước trong điều kiện xây dựng chủ
nghĩa xã hội...
Điều đáng tiếc là những quan niệm, nhận thức không
đúng trên đây lại chậm được đổi mới, chậm khắc phục sửa
chữa dẫn đến những khủng hoảng kinh tế - xã hội gay gắt ở
nước ta từ cuối những năm 1970.
Với tinh thần tự phê bình và đổi mới, Đại hội lần thứ VI
của Đảng đã chỉ rõ: “Những sai lầm và khuyết điểm trong
lãnh đạo kinh tế, xã hội, bắt nguồn từ những khuyết điểm

trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của
Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân” [19, tr.27].
Những khuyết điểm trong lĩnh vực tư tưởng chính là sự lạc
hậu về tư duy, sự bất cập về nhận thức, và dó là lý do phải
đặt ra yêu cầu về đổi mới tư duy. Đổi mới tư duy thực chất là
xây dựng cơ sở lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, là trang bị


21

vũ khí lý luận và tư tưởng cho sự nghiệp đổi mới của nhân
dân ta. Chính trên ý nghĩa đó mà một trong những bài học
quan trọng nhất mà Đại hội lần thứ VI đã tổng kết là “Đảng
phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động
theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng.” [19, tr.30].
Thực trạng nước ta từ cuối những năm 1970 đã bước
vào một cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng và kéo
dài, đó là thách thức lớn nhất đối với cả dân tộc ta và cũng là
nguyên nhân quan trọng nhất đòi hỏi Đảng ta phải nhận thức,
đổi mới tư duy lý luận trong xây dựng đường lối, chủ trương,
chính sách, trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Một nguyên nhân quan trọng cũng cần đề cập ở đây, đó
là thực trạng của “chủ thể tư duy”. Đảng ta đã thừa nhận
những lạc hậu, yếu kém về tư duy lý luận của cán bộ, đảng
viên. Điều này thể hiện ở sự hạn chế về trình độ, ở năng lực
phân tích, tổng hợp, khái quát, tổng kết thực tiễn, ở khả năng

dự báo khoa học. Sự hạn chế, yếu kém này đã dẫn đến tình
hình chung là, đối với cán bộ lãnh đạo là bệnh chủ quan, duy
ý chí; đối với cán bộ làm cơng tác thực tiễn là mắc bệnh kinh
nghiệm chủ nghĩa, giản đơn; đối với cán bộ nghiên cứu lý
luận là bệnh giáo điều, kinh viện, sao chép sách vở, ít sáng
tạo. Thực trạng tư duy lý luận như vậy đã ảnh hưởng trực


22

tiếp đến việc hoạch định, xây dựng và tổ chức thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến thực trạng kinh tế - xã hội
nước ta đã trình bày ở trên. Do đó, Đảng ta đã xác định, đổi
mới nhận thức, đổi mới tư duy là yêu cầu đầu tiên khi bước
vào công tác đổi mới.
Mặt khác, từ cuối những năm 1970 - đầu những năm
1980, xu thế đổi mới, cải cách đã diễn ra khá mạnh mẽ trên
thế giới. Đó cũng là nhân tố tác động đến q trình đổi mới tư
duy lý luận ở nước ta và đòi hỏi chúng ta phải đổi mới kịp
thời. Những nhân tố tác động ấy là:
- Tình hình đổi mới, cải cách, cải tổ của các nước xã hội
chủ nghĩa trên thế giới. Có thể nói chủ nghĩa xã hội thực hiện
đã trải qua một chặng đường dài khai phá, thử nghiệm và đã
có những cống hiến có ý nghĩa lịch sử đối với sự tồn tại và
phát triển của loài người tiến bộ. Nhưng bên cạnh những
thành tựu, những ưu việt, chủ nghĩa xã hội thực hiện đã bộc
lộ những yếu kém, hạn chế, không theo kịp yêu cầu phát
triển. Những hạn chế của các nước xã hội chủ nghĩa đều bắt
nguồn từ những sai lầm trong nhận thức lý luận về chủ nghĩa

xã hội. Đó là sai lầm muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản một cách nhanh chóng, khơng cần những
bước trung gian, những giai đoạn quá độ; muốn xây dựng
một kiểu chủ nghĩa xã hội với một hệ thống chính trị tập
trung, quan liêu. Tình hình trên đây đã đặt chủ nghĩa xã hội


23

trước thử thách hết sức gay gắt và các đảng cộng sản ở hầu
hết các nước xã hội chủ nghĩa với các mức độ khác nhau đã
nhận thức được sự tất yếu phải đổi mới, cải cách, cải tổ chủ
nghĩa xã hội. Có thể nói, những tư tưởng, chủ trương của
quá trình cải tổ, cải cách ở các nước xã hội chủ nghĩa thời
gian đầu những năm 1980 đã có tác động tích cực đối với
cơng cuộc đổi mới ở nước ta, trong đó những cải cách ở
Trung Quốc đã gợi mở nhiều vấn đề có ý nghĩa tham khảo tốt
cho chúng ta.
- Vào thời gian đó, cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ đã và đang diễn ra mạnh mẽ và đạt được nhiều thành
tựu kỳ diệu trong mọi lĩnh vực. Những thành tựu của cuộc
cách mạng khoa học và cơng nghệ đã làm cho lực lượng sản
xuất có bước phát triển mới, làm thay đổi cơ cấu kinh tế thế
giới. Những thành tựu và sự phát triển mạnh mẽ và khoa học
và công nghệ không chỉ đem lại sự đổi mới và nâng cao nhận
thức về nhiều vấn đề, về nhiều lĩnh vực mà đã tác động sâu
sắc đến tư duy chính trị, tư duy triết học, tư duy kinh tế. Nó
đã thực sự trở thành một nhân tố mới, một động lực mới tác
động đến sự phát triển của tất cả các lĩnh vực, trong đó có
nhận thức tư duy của chúng ta. Cuộc cách mạng khoa học và

công nghệ cũng đã thức đẩy xu thế quốc tế hoá đời sống kinh
tế thế giới, làm gia tăng mối quan hệ, sự tuỳ thuộc với nhau
giữa các nền kinh tế trên thế giới. Những vấn đề trên đây đã
tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã


24

hội, địi hỏi chúng ta phải có những đổi mới căn bản về tư
duy lý luận để phát định rõ chiến lược phát triển đất nước và
giải đáp câu hỏi: nước ta có khả năng đi lên chủ nghĩa xã hội
bằng con đường phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
hay không?
Cuối cùng, chủ nghĩa xã hội với tư cách là một khoa học
cần phải được đối xử như một khoa học. Các nhà sáng lập
chủ nghĩa xã hội khoa học cho rằng học thuyết của các ông
chỉ là những điểm xuất phát, là phương pháp của sự tìm tịi,
là kim chỉ nam của hành động. Các nhà kinh điển mới chỉ dựa
ra mơ hình lý luận chung của những xu hưởng phát triển xã
hội làm định hướng để nhận thức và cải tạo xã hội, còn về
cấu trúc của xã hội mới, các ông chỉ mới đề cập đến những
nguyên tắc cơ bản của nó. Sức sống, sự bền vững của chủ
nghĩa Mác - Lênin là sáng tạo, là phát triển khơng ngừng.
Tinh thần sáng tạo địi hỏi phải bám sát thực tiễn, từ thực tiễn
mới mà khái quát, bổ sung chủ nghĩa Mác - Lênin bằng
những kết luận mới. Trước những đổi mới phong phú, đa
dạng và nhanh chóng trên nhiều phương diện, chủ nghĩa xã
hội khoa học, với bản chất khoa học và sáng tạo cần phải
được tiếp tục bổ sung và nâng cao không ngừng bằng kiến
thức mới, kinh nghiệm mới và những kết luận mới được rút

ra từ chính thực tiễn. Điều đó cũng có ý nghĩa là chúng ta cần
nhận thức lại chủ nghĩa xã hội khoa học, chống chủ nghĩa
giáo điều, kinh viện, chống lối tư duy xơ cứng, rập khuôn.


25

Yêu cầu nhận thức lại để trên cơ sở đó bảo vệ và phát
triển chủ nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa Mác - Lênin trở
thành một yêu cầu cấp bách của cuộc sống. Muốn vậy, chúng
ta phải làm một cuộc tổng duyệt tất cả các tri thức, quan
điểm, lý luận, phương pháp luận trong chủ nghĩa xã hội khoa
học, chủ nghĩa Mác - Lênin, cần đánh giá lại và làm rõ;
Những giá trị đích thực, căn bản, có tính định hướng và chỉ
đường; những nhận thức phiến diện, sai lầm; những nhận
thức cũ đã trở nên lạc hậu so với thời đại hiện nay, là lực cản
đối với tư duy mới, tiếp tục phát triển chủ nghĩa xã hội khoa
học, chủ nghĩa Mác -Lênin; những tri thức mới của thời đại
cần được tiếp tục bổ sung, làm phong phú chủ nghĩa xã hội
khoa học, chủ nghĩa Mác - Lênin .
Phạm vi các vấn đề đặt ra liên quan đến hầu hết các nội
dung lý luận cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học, chủ
nghĩa Mác - Lênin, nội dung thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội... Danh mục những
vấn đề lý luận rất nhiều và thực tiễn cách mạng địi hỏi sớm
phải có những câu trả lời đúng đắn, thiết thực .
Từ nhận thức các vấn đề như thế về tình huống của chủ
nghĩa xã hội thế giới và ở nước ta trước thời kỳ đổi mới đã
cho chúng ta nhận rõ tính tất yếu khách quan của việc đổi
mới tư duy lý luận của Đảng ta có một tầm quan trọng như

thế nào. Là tất yếu khách quan vì nó phản ánh đúng u cầu
khách quan của thực tiễn nước ta lúc bấy giờ, và nó thuận


×