Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

THU HOẠCH sự phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và sự vận DụNG SáNG tạo của ĐảNG TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.36 KB, 36 trang )

1

THU HOẠCH-Sự phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và Sự VậN DụNG SáNG TạO CủA ĐảNG TA

Lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một nội dung rất
cơ bản trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác
- Lênin. Những tư tưởng đó đã được Mác - Ăngghen vạch ra những
nét cơ bản và đã được V.I.Lênin tiếp thu, bảo vệ, vận dụng và phát
triển sáng tạo trong điều kiện lịch sử mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước Nga những năm đầu của thế kỷ XX. Hiện nay trước sự sụp
đổ chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu, các
thế lực phản động, các học giả tư sản ra sức tập trung cơng kích,
chống phá, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và
lý luận về thời kỳ quá độ nói riêng. Vì vậy việc nhận thức và làm
sáng tỏ những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là vấn đề cấp thiết cả về lý luận và
thực tiễn, qua đó góp phần tích cực trong việc đấu tranh, bảo vệ và
phát triển lý luận về thời kỳ quá độ trong giai đoạn cách mạng mới.


2

Trong quá trình hoạt động lý luận và thực tiễn phong phú, sơi
động của mình C.Mác - Ph.Ăngghen đã hình thành những tư tưởng
hết sức cơ bản về thời kỳ quá độ. Do áp dụng triệt để phương pháp
biện chứng vào việc nghiên cứu xã hội. C.Mác - Ph.Ăngghen không
những phân chia lịch sử phát triển của xã hội loài người qua các
hình thái kinh tế - xã hội, mà cịn phân chia mỗi hình thái kinh tế - xã
hội thành các giai đoạn phát triển nhất định. Theo Mác, mỗi một hình
thái kinh tế - xã hội đều có tính chất quá độ và tính chất lịch sử.


Bằng cách phân tích khoa học q trình phát sinh, phát triển và tiêu
vong của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa và những vấn
đề gắn liền với giai đoạn của q trình ấy, các ơng đã chứng minh
chủ nghĩa tư bản phải nhường chỗ cho chủ nghĩa cộng sản đó là
một q trình lịch sử tự nhiên. Các ơng đã nhìn thấy rằng, xã hội
mới phải trải qua nhiều giai đoạn, nhiều thời kỳ trên con đường đi tới xã
hội cộng sản chủ nghĩa.
Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” các ơng đã nói rõ tính khách
quan sự vận động phát triển của lịch sử xã hội loài người tất yếu sẽ
đi lên chủ nghĩa cộng sản: chủ nghĩa cộng sản không phải là trạng


3

thái cần phải tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải
khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một trào lưu hiện
thực, nó xố bỏ trạng thái hiện nay. Trong tác phẩm “phê phán
Cương lĩnh Gô ta” Mác đã đưa ra định nghĩa kinh điển về thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Mác viết: “giữa xã hội tư bản chủ nghĩa
và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ
xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá
độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy khơng phải là cái gì khác
hơn là nền chun chính cách mạng của giai cấp vô sản” 1. Thời kỳ
quá độ “là xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa do đó là
một xã hội, về mọi phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần cịn
mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lịng ra”2. Đó là xã
hội chưa phát triển trên cơ sở của chính nó. C.Mác - Ph.Ăngghen đã
nêu ý tưởng về hai giai đoạn của chủ nghĩa cộng sản, giai đoạn
thấp, Mác gọi là xã hội - xã hội chủ nghĩa, một xã hội vừa thoát thai
từ xã hội cũ, trong xã hội ấy tất yếu còn đấu tranh giai cấp và vì vậy

cịn cần đến nhà nước của giai cấp vơ sản, nó tồn tại đến khi xây
1
2

C.Mác - Ph.Ăngghen toà tập, tập 19, Nxb CTQG. 1995, tr.47.
Sđd, tr.33.


4

dựng xong cơ sở vật chất cho chủ nghĩa cộng sản, hay nói cách
khác là bảo đảm cho chủ nghĩa cộng sản phát triển trên cơ sở của
chính nó. Giai đoạn cao là chủ nghĩa cộng sản, xã hội không cịn
phân cơng lao động, khơng cịn phân biệt giữa lao động trí óc và lao
động chân tay, làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu. Như vậy thời
kỳ quá độ là thời kỳ sinh đẻ lâu dài và đau đớn để loại bỏ dần cái cũ,
xây dựng và củng cố dần những cái mới, là thời kỳ tạo ra những tiền
đề vật chất và tinh thần để hình thành một xã hội mới cao hơn xã hội
tư bản.
Kế thừa và phát triển toàn diện tư tưởng của C.Mác Ph.Ăngghen về phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội, về thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới, giai đoạn chủ nghĩa tư bản
phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, cách mạng xã hội chủ nghĩa đã
trở thành vấn đề trực tiếp. Lênin đã đề cập đến khả năng giành
thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một số nước, kể cả
những nước tư bản chủ nghĩa phát triển trung bình, thậm chí cịn lạc
hậu nhiều mặt. Cuộc cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, cùng
với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga đã để lại nhiều


5


bài học kinh nghiệm quý báu về vấn đề lý luận và thực tiễn của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, làm cho lý luận về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn. Trong tác phẩm “Nhà nước
và cách mạng” Lênin đã phân chia hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa qua ba giai đoạn: Giai đoạn một: “những cơn đau đẻ
kéo dài”, gọi là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Giai đoan hai:
“giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa”, gọi là chủ nghĩa xã
hội; Giai đoạn ba: “giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa” gọi
là chủ nghĩa cộng sản. Qua sự phân kỳ của Lênin, thời kỳ quá độ có
vị trí độc lập tương đối, khơng nằm trong giai đoạn đầu của xã hội
cộng sản chủ nghĩa, chỉ có nhận thức như vậy về thời kỳ quá độ thì
mới xác định được vị trí, phạm vi, đặc điểm, tính chất giới hạn của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa Mác Lênin còn chỉ
rõ: “những thời kỳ của lịch sử xã hội cũng giống như những thời kỳ
của lịch sử trái đất đều khơng có ranh giới trìu tượng nào thật rành
mạch cả”1. Hoặc “dĩ nhiên là những cách phân giới hạn đó, cũng
giống như những cách phân giới hạn trong giới tự nhiên hoặc trong
1

C.Mác - Ph.Ăngghen toà tập, tập 23, Nxb CTQG, H, 1995, tr. 537.


6

xã hội, đều chỉ có tính chất quy ước và không cố định, đều là tương
đối chứ không phải là tuyệt đối.”2. Qua đó ta thấy rằng tư tưởng của
C.Mác - Ph.Ăngghen và Lênin là rất biện chứng, thống nhất, khi
chúng ta nhận biết được vị trí, giới hạn của thời kỳ q độ, thì ngay
trong vị trí, giới hạn đó cịn hàm chứa cả những đặc điểm, nội dung

của thời kỳ quá độ và còn của cả giai đoạn XHCN.
Như vậy, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin là thời kỳ chuyển biến cách mạng từ xã
hội cũ sang xã hội mới xã hội - xã hội chủ nghĩa, được bắt đầu khi
giai cấp vơ sản giành chính quyền, thiết lập chun chính vơ sản,
kết thúc khi xây dựng xong cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội. Trong thời kỳ quá độ thì đặc điểm kinh tế là biểu hiện rõ nét
nhất, đó là quan hệ về sỏ hữu, về phân phối sản phẩm lao động.
Theo quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen, trong thời kỳ quá độ,
chính quyền tư bản chủ nghĩa đã bị đánh bại nhưng chế độ tư hữu
vẫn còn tồn tại, việc cải tạo và đi đến xoá bỏ phải tiến hành dần dần,
đó là q trình mà giai cấp vơ sản phải tạo ra được khối lượng tư
2

Lênin toàn tập, Nxb tiến bộ , M, 1978, tập 23, tr 175.


7

liệu sản xuất cần thiết, thì lúc đó mới xố bỏ được chế độ tư hữu.
Về quan hệ phân phối cịn chưa thể bình đẳng được. Tóm lại trong
thời kỳ q độ khơng riêng gì lĩnh vực kinh tế mà các lĩnh vực khác
của đời sống xã hội còn mang những tàn dư, dấu vết của xã hội cũ
chưa thể xoá bỏ ngay lập tức. Trong thời kỳ quá độ còn nhà nước,
còn giai cấp, còn đấu tranh giai cấp là tất yếu.
Kế thừa quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen, Lênin đã chỉ ra đặc
điểm thời kỳ quá độ, theo Lênin: Đặc điểm phổ quát của thời kỳ quá
độ là sự cùng tồn tại, vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau của
những yếu tố, những thuộc tính của cả xã hội cũ và xã hội mới, là
thời kỳ đan xen, thâm nhập vào nhau giữa chủ nghĩa tư bản và chủ

nghĩa xã hội, là thời kỳ mà cái cũ cịn tồn tại và thậm chí cịn phát
triển lấn áp những mầm mống của cái mới, là thời kỳ mà trên nhiều
phương diện đều có thể phát triển tự phát tiểu tư sản, là thời kỳ
chứa đựng mâu thuẫn không thể dung hồ được giữa tính kỷ luật
nghiêm ngặt của giai cấp vơ sản với tính vơ chính phủ, vơ kỷ luật tự
phát của tầng lớp tiểu tư sản. Thời kỳ q độ cịn là thời kỳ lâu dài
khó khăn, phức tạp, để vượt qua những khó khăn phức tạp ấy giai


8

cấp vơ sản phải sẵn sàng đón đợi và phải trải qua nhiều lần thử
nghiệm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, có như vậy mới tìm ra được
hướng đi đúng đắn, hiệu quả. Lênin viết: “Thời kỳ đó khơng thể
khơng bao gồm những đặc điểm hoặc đặc trưng của cả hai kết cấu
kinh tế xã hội ấy. Gọi là thời kỳ quá độ ấy không thể nào lại không
phải là thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang giãy chết và
chủ nghĩa cộng sản đang phát sinh, hay nói một cách khác, giữa
chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn và chủ
nghĩa cộng sản đã phát sinh nhưng vẫn còn rất non yếu” 1. Người
còn khẳng định thêm: về phương diện kinh tế, gọi là thời kỳ quá độ
tồn tại những thành phần, những bộ phận của cả chủ nghĩa tư bản
và chủ nghĩa xã hội, các thành phần kinh tế cùng tồn tại đan xen vào
nhau, thâm nhập lẫn nhau, vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau; về
chính trị - xã hội đây là thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đã bị
đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt tận góc, chủ nghĩa xã hội đã phát
sinh nhưng cịn non yếu, do đó nhất thiết phải thiết lập chun chính
vơ sản, cũng cố nền dân chủ của nhân dân; thời kỳ quá độ lên chủ
1


V.I.Lênin, toàn tập, tập 39 Nxb tiến bộ, M 1979, tr 309 - 310


9

nghĩa xã hội còn tồn tại cơ cấu giai cấp xã hội phức tạp, với các giai
cấp và tầng lớp xã hội khác nhau, những giai cấp, những bộ phận
mà lợi ích cơ bản của họ khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Mặt
khác các thế lực phản động bên ngồi ln ln tìm cách móc nối
phá hoại cơng cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy
thời kỳ quá độ là thời kỳ đấu tranh giai cấp, dân tộc diễn ra gay go
phức tạp, nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ
diễn ra trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố xã hội, hình
thức phong phú đa dạng.
Khi lý giải về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cịn đề cập đến con đường phát
triển khơng qua tư bản chủ nghĩa ở các nước chậm phát triển, tức là
quá độ từ xã hội tiền tư bản lên chủ nghĩa xã hội. C.Mác Ph.Ăngghen cho rằng: với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản đã chiến
thắng, các dân tộc lạc hậu có thể rút ngắn được rất nhiều quá trình
phát triển của mình để tiến lên chủ nghĩa cộng sản. “Một xã hội,
ngay cả khi đã phát hiện được quy luật tự nhiên của sự vận động
của nó, cũng khơng thể nào nhảy qua các giai đoạn phát triển tự


10

nhiên hay dùng sắc lệnh để xoá bỏ những giai đoạn đó. Nhưng nó
có thể rút ngắn và làm dịu bớt được những cơn đau đẻ” 1. Như vậy,
các nước tiền tư bản chủ nghĩa đều có thể đi lên chủ nghĩa cộng
sản bằng còn đường bỏ qua sự phát triển tư bản chủ nghĩa với

những điều kiện tiên quyết nhất định, một trong những số đó là các
nước tiền tư bản phải được sự giúp đỡ của các giai cấp vô sản ở
các nước tiên tiến.
Trong điều kiện lịch sử mới được hình thành sau cách mạng
tháng Mười vĩ đại, Lênin đã khẳng định: “với sự giúp đỡ của giai cấp
vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến lên tới chế
độ Xơ viết, và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ
nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa”1. Lênin đã đưa ra quan điểm về hai hình thức quá độ lên chủ
nghĩa xã hội đó là quá độ trực tiếp và quá độ gián tiếp. Theo Lênin,
những nước có chủ nghĩa tư bản phát triển cao, giai cấp cơng nhân
đã trưởng thành mới có đủ những tiền đề xã hội, kinh tế và chính trị
cho sự chuyển tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Trái lại, những nước lạc
1
1

C.Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H, 1993, t.23, tr21.
V.I.Lênin. Sđd, 1977, t.41, tr. 295.


11

hậu chỉ có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bằng quá độ gián tiếp, điều
kiện để quá độ gián tiếp theo Lênin là, Đảng cộng sản phải giữ vị trí
lãnh đạo xã hội, ln ln được cũng cố vững mạnh; chính quyền
cơng nơng đủ điều kiện để làm nhiệm vụ chun chính vơ sản; liên
minh cơng nơng bền vững làm cơ sở xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân; phải có sự giúp đỡ của giai cấp vơ sản ở các nước tiên
tiến. Lênin viết: “tính quy luật chung của sự phát triển trong lịch sử
toàn thế giới đã khơng loại trừ mà trái lại, cịn bao hàm một số giai

đoạn phát triển mang những đặc điểm hoặc về hình thức hoặc về
trình tự của sự phát triển đó”2 Lênin còn chỉ rõ, đối với những nước
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa phải trải qua
những bước trung gian, quá độ, mới có thể xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội. “Chúng ta phải hiểu đường lối, thể thức, thủ đoạn
và phương sách trung gian cần thiết để chuyển từ quan hệ tiền tư
bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội. Đó là mấu chốt vấn đề”3.
Tóm lại, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến
cách mạng sâu sắc, toàn diện trên tất cả các mặt của đời sống xã
2
3

V.I.Lênin. Sđd, 1978, t.45, tr.431.
V.I.Lênin. Sđd, 1978, t43, tr. 274.


12

hội, nhằm cải tạo xã hội cũ, tạo ra những tiền đề vật chất tinh thần
của xã hội mới, xã hội – xã hội chủ nghĩa. Đó là q trình đấu tranh
để giải quyết vấn đề ai thắng ai giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa
xã hội. Mọi biểu hiện chủ quan duy ý chí, nóng vội hoặc trì trệ bảo
thủ, thụ động đều gây hậu quả tiêu cực, ngăn cản quá trình đi lên
chủ nghĩa xã hội.
Lý luận thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đề cập đến một cách sâu sắc
toàn diện, vận dụng sáng tạo lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tế cách mạng Việt
Nam, Chủ tịch Hồ chí Minh và Đảng ta khẳng định: Con đường cách
mạng Việt Nam là tiến hành giải phóng dân tộc, hồn thành cách

mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Theo quan niệm của Đảng, sau khi cơ
bản hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân, dưới sự
lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân, dựa trên nền nền tảng
liên minh cơng nhân, nơng dân và trí thức đã được củng cố vững
chắc, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn


13

quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa. Vận dung một cách sáng tạo vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam, trong điều kiện miền bắc hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ, miền nam cịn bị ách đơ hộ của đế quốc Mỹ, chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng chủ trương, đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược: tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đưa
miền bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa, miền nam tiếp tục hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân. Hai cuộc cách mạng này có quan hệ chặt chẽ
thống nhất với nhau là điều kiện tiền đề thúc đẩy cách mạng Việt
Nam phát triển. Theo đánh giá của nhiều nhà lý luận nước ngoài,
cách làm vừa kháng chiến vừa kiến quốc, xây dựng chủ nghĩa xã
hội trong hồn cảnh có chiến tranh là một sáng tạo độc đáo của Hồ
Chí Minh và của Đảng ta, phản ánh đúng thực chất quy luật phát
triển của cách mạng Việt Nam: độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Tuy nhiên Hồ Chủ Tịch cũng Đưa ra những nhận định
khó khăn phức tạp mà cách mạng Việt Nam phải trải qua. Người
viết: Về phương diện kinh tế. “miền Bắc nhất định tiến lên chủ nghĩa



14

xã hội. Mà đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là một nước
nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” 1, mặt khác chúng ta xây
dựng chủ nghĩa xã hội vừa có hồ bình, vừa có chiến tranh, trong
điều kiện bối cảnh quốc tế vừa có thuận lợi vừa có khó khăn, thuận
lợi là chủ nghĩa xã hội đã xuất hiện ở một loạt nước, chúng ta nhận
được sự hỗ trợ, hợp tác mạnh mẽ từ bên ngoài, theo tinh thần quốc
tế vơ sản chân chính; khó khăn của chúng ta là, ln ln bị chủ
nghĩa đế quốc tìm cách phá hoại cơng cuộc hồ bình xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Điều đó buộc chúng ta phải có ý thức độc lập, tự chủ,
tự lực, tự cường, tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi, hạn chế
những khó khăn để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Đảng ta
chỉ rõ, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một q trình dần
dần, khó khăn phức tạp và lâu dài. Q trình đó bao gồm hai mặt cải
tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ
chốt, lâu dài. Đồng thời Đảng nhất mạnh đến tính chất tuần tự, dần
dần của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, và tính chất phức tạp
1

Hồ Chí Minh tồn tập, tập10, tr. 13.


15

khó khăn của nó được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, xã hội. Đảng chỉ rõ:
Thứ nhất, đây thực sự là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi
mặt đời sống xã hội, cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả

cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Nó đặt ra và đòi hỏi đồng
thời giải quyết hàng loạt mâu thuẫn khác nhau.
Thứ hai, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp
mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta chưa có kinh nghiệm, là cơng
việc hết sức mới mẻ, vừa làm vừa học, có thể sẽ vấp váp và thiếu
sót. Xây dựng xã hội mới bao giờ cũng khó khăn, phức tạp hơn
đánh đổ xã hội cũ đã lỗi thời.
Thứ ba, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội luôn luôn bị các
thế lực phản động trong và ngồi nước tìm mọi cách chống phá. Vì
vậy địi hỏi trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng phải
thận trọng, tránh nơn nóng, chủ quan, đốt cháy giai đoạn. Vấn đề cơ
bản là phải xác định đúng bước đi và hình thức phù hợp với trình độ
của lực lượng sản xuất, biết kết hợp các khâu trung gian, quá độ, tuần
tự từng bước, từ thấp đến cao.


16

Năm 1975 cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân
ta giành thắng lợi, đất nước thống nhất, cách mạng Việt Nam bước
sang một giai đoạn mới, giai đoạn cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua tư bả chủ nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV
năm 1976 đã xác định đường lối chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã
hội là: “Nắm vững chun chính vơ sản, phát huy quyền làm chủ tập
thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng:
cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách
mạng tư tưởng văn hoá, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là
then chốt; đẩy mạnh cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ
trung tâm của cả thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng
chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn

xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, con người mới xã hội
chủ nghĩa ”1. Bên cạnh đó Đảng cũng lường trước những khó khăn
thách thức trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chúng ta đi
lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, điểm
xuất phát thấp, nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, lại bỏ qua một
1

. Đảng cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của BCHTƯ Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IV Nxb. ST H, 1997, tr 67.


17

hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa một nấc thang tiến bộ
trong tiến trình vận động và phát triển của lịch sử xã hội loài người;
bên cạnh đó đất nước lại trải qua hai cuộc chiến tranh hậu quả để
lại hết sức nặng nề, vì vậy thời kỳ quá độ là một quá trình đấu tranh
giai cấp phức tạp lâu dài, phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ
chiến lược, xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, trong đó nhiệm vụ xây dựng là nhiệm vụ quan trọng
được đặt lên hàng đầu. Những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX,
do duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nóng vội chủ
quan duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản, muốn xố bỏ
nhanh các thành phần kinh tế khơng cơ bản trong thời kỳ quá độ,
không tôn trọng quy luật khách quan, áp dụng xơ cứng máy móc mơ
hình chủ nghĩa xã hội… dẫn đến nước ta rơi vào tình trạng khủng
hoảng kinh tế, xã hội. Đánh giá đúng thực trạng thuận lợi và khó
khăn, trên cơ sở nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đại
hội VI của Đảng đã tổng kết những thành tựu đạt được, chỉ ra
những mặt còn hạn chế, yếu kém cần phải khắc phục sửa chữa,

đồng thời đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực


18

hiện đúng hơn, có hiệu quả hơn cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Chủ trương của Đảng là tiến hành mỡ cửa đổi mới toàn diện,
trước hết là đổi mới tư duy, tư duy về kinh tế, tư duy về chính trị, chú
trọng đổi mới kinh tế làm cơ sở tiền đề để từng bước đổi mới hồn
thiện chính trị. Đảng ta xác định, đây là đổi mới theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, đổi mới phải trên cơ sở kiên định mục tiêu con đường
xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường vừa mới phát sinh hiện nay
là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ
sở đó đai hội dưa ra những nhận thức mới về cơ cấu kinh tế, về
công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng dường đầu tiên, thừa
nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá và thị trường,
phê phán triệt để cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp, khẳng định
chuyển hẳn sang hạch tốn kinh doanh, coi trọng lợi ích cá nhân và
tập thể, chăm lo phát triển nhân tố con người, đổi mới cơ chế chính
sách xã hội. Đại hội VI là một cột móc đánh dấu bước chuyển nhận
thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Trước đây ta nhấn mạnh tới cách mạng quan hệ sản
xuất, ngày nay trong đổi mới, chúng ta đặt vấn đề một cách thực tế


19

hơn, nói rõ tư tưởng căn bản của đổi mới là giải phóng lực lượng
sản xuất, tạo bước tạo lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phù
hợp với tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII với một tư duy lý luận mới,
trên cơ sở lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ
nghĩa Mác - Lênin (những cơn đau đẻ kéo dài), trong điều kiện các
nước xã hội chủ nghĩa ở Đông âu sụp đổ và Liên xô đã đi chệch
hướng cải tổ đang có nguy cơ đi đến tan rã, kiên định với mục tiêu
con đường đã chọn Đảng ta khẳng định: Dẫu sự phát triển xã hội
đang trải qua những bước quanh co, phức tạp với những thăng trầm
lịch sử, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã
hội, vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử. Đại hội đã nêu lên những
đặc trưng cơ bản của xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng:
Chế độ xã hội do nhân dân lao động làm chủ; có nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiên đại và chế độ công hữu
về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hố tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất
cơng, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no,


20

tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện cá nhân; các dân
tộc trong nước bình đẳng, đồn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến
bộ; có mối quan hệ hữu nghị hợp tác với nhân dân tất cả các nước
trên thế giới. Đồng thời Đại hội xác định rõ phương hướng mục tiêu
nhiệm vụ của chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là “thông qua đổi
mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế
phát triển nhanh ở chặng sau”1; phải xây dựng nhà nước xã hội chủ
nghĩa thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm
nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo; đẩy mạnh cơng nghiệp hố
hiện đại hố là nhiệm vụ trung tâm nhằm phát triển lực lượng sản

xuất; thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp
đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu, phù hợp với tính chất
trình độ của lực lượng sản xuất; tiến hành cách mạng trên lĩnh vực
tư tưởng văn hố; thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc; kết
hợp chặt chẻ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa; thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng
1

Đảng cộng sản Việt Nam cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, Nxbst, H, 1991.tr.11


21

trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm
với nhiệm vụ cách mạng. Việc xác định phương hướng mục tiêu
nhiệm vụ chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
thể hiện tư duy mới của Đảng về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, đưa nước ta thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo
cơ sở, tiền đề để chúng ta bước vào chặng đường tiếp theo. Trên
cơ sở đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ đại hội Đảng VII, đại
hội Đảng VIII nhận định “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta ngày càng được xác định rõ hơn; xét trên tổng thể, việc hoạch
định và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua về cơ bản là
đúng đắn, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa”1. Nước ta đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế – xã hội, cơ bản hoàn thành nhiệm vụ của
chặng đường đầu của thời kỳ quá độ.
Như vậy, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản phải
trải qua một thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan, việc xác định
độ dài của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ lâu dài và

phải trải qua nhiều chặng đường, bởi vì điểm xuất phát của chúng ta
1

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. CTQG, H, 1996, tr. 68.


22

thấp, tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và hết
sức khó khăn, đó là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện,
triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả lực lượng
sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng, đó là thời kỳ
đấu tranh giai cấp gay go, quyết liệt và phức tạp, đấu tranh giữa hai
con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội nhằm giải quyết vấn đề ai thắng ai giữa chủ
nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Việc xác định đúng bước đi chặng
đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã đưa nước ta
vượt ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo điều kiện để chúng ta
bước vào chặng đường tiếp theo.
Bước sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định:
Chúng ta nhận thức ngày càng rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta, Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất
nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ
nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội nhấn mạnh:


23


“Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị
trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản
chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã
đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và
công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền
kinh tế hiện đại”1. Theo quan điểm Đại hội Đảng IX “bỏ qua”, đối với
Việt Nam, trong bản chất của nó là Đảng cộng sản cầm quyền, bằng
con đường với hệ thống phương thức và bước đi phù hợp với quá
trình lịch sử tự nhiên tiến lên chủ nghĩa xã hội, thông qua sự rút
ngắn các giai đoạn bước diễn tiến của nền văn minh loài người (về
giới han, nấc thang) dựa trên nền tảng tăng trưởng vượt bậc của
nền sản xuất xã hội. Bỏ qua ở đây là bỏ qua việc xác lập vị trí thống
trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa,
nghĩa là chúng ta không thiết lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất
và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa với tư cách giữ vai trò
thống trị xã hội, Việt Nam bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ
1

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001. tr.21.


24

nghĩa xã hội theo cách riêng của mình hợp với quy luật phổ biến,
bảo đảm phù hợp với đặc thù của dân tộc và xu thế phát triển của
thời đại. Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng phải tơn trọng q
trình lịch sử tự nhiên, nhất là q trình phát triển kinh tế, khơng thể
nóng vội chủ quan, duy ý chí đối với q trình này, có thể hiểu đó là
sự phát triển đứt đoạn trong liên tục, tuần tự kết hợp với nhảy vọt

biện chứng. Bỏ qua bằng cách thơng qua những khâu trung gian,
những hình thức q độ, bỏ qua nhưng khơng thể bỏ qua những
tính quy luật chung của nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn,
không thể bỏ qua những khâu trung gian của nền sản xuất hàng
hoá. Bỏ qua nhưng phải kế thừa và phát triển những thành quả tích
cực của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là khoa học kỹ thuật cơng nghệ.
Đồng thời phải từng bước xây dựng và hồn thiện quan hệ sản xuất
phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chống tư tưởng duy lực
lượng sản xuất, chủ nghĩa kỹ tri. Trên cơ sở đó Đại hội hội IX đã đề
ra chiến lược phát triển kinh tế - xã hội: Đẩy mạnh sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng
kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của


25

nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản là một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại”2.
Tóm lại qua từng giai cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam và
chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo tư tưởng của Mác Ăngghen, Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, góp phần bổ
sung, phát triển, làm phong phú thêm kho tàng lý luận Chủ nghĩa
Mác - Lênin về thời kỳ quá độ. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã
chứng minh sau 20 năm đổi mới chúng ta đã thu được những thành
tựu vô cùng to lớn: kinh tế tăng trưởng khá, đời sống nhân dân
được cải thiện, dân chủ được phát huy, chính trị an ninh được giữ
vững, quốc phịng được cũng cố, vị thế của ta trên trường quốc tế
ngày càng có uy tính. Đó là một thực tế sinh động minh chứng cho
tính đúng đắn của những tư tưởng C.Mác - Ph.Ăngghen, Lênin về
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cũng như sự vận dụng năng
động sáng tạo những tư tưởng đó của Đảng ta vào thực tiễn cách

mạng Việt Nam. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, về tốc độ, bước đi và những hình thức tổ chức
2


×