1
THU HOẠCH-Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa
học-ý nghĩa đối với cách mạng nước ta hiện nay
Trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, đã
và sẽ khơng có một học thuyết nào là tuyệt đối, bất biến với
thời gian. Học thuyết Mác từ khi ra đời cho đến nay cũng đã
gây khơng ít những cuộc tranh luận, những bất đồng thậm
chí ngay trong hàng ngũ những người cộng sản. Tuy nhiên,
mỗi lần vượt qua thử thách, học thuyết Mác đã chứng tỏ sức
sống mãnh liệt của mình. Cố nhiên sự vững vàng của một
học thuyết nằm ngay trong nội dung khoa học của nó. Bằng
hai phát kiến vĩ đại, chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết
giá trị thặng dư C.Mác- Ph. Ăngghen đã lần đầu tiên trong
lịch sử khoa học nhân loại, biến chủ nghĩa xã hội từ không
tưởng trở thành khoa học, tạo ra bước ngoặt vĩ đại trong lĩnh
vực lịch sử tư tưởng xã hội lồi người, là vũ khí lý luận sắc
bén cho giai cấp công nhân trên con đường đấu tranh thực
hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Là bộ phận hợp thành chủ
2
nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học thể hiện tập
chung nhất tính chính trị thực tiễn sinh động của nó. Sự ra
đời chủ nghĩa Mác nói chung và chủ nghĩa xã hội khoa học
nói riêng là một bước ngoặt cách mạng trong lĩnh vực tư
tưởng của nhân loại. Từ đây giai cấp cơng nhân đã có một lý
luận cách mạng khoa học dẫn lối, đưa đường. Với sự ra đời
chủ nghĩa Mác nói chung và chủ nghĩa xã hội khoa học nói
riêng đã giúp giai cấp cơng nhân hiểu được sứ mệnh lịch sử
của mình, và làm thế nào để thực hiện được sứ mệnh lịch sử
đó. Thực tiễn lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế đã chứng minh vai trò, sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa
xã hội khoa học.
Từ khi ra đời cho đến nay, chủ nghĩa xã hội khoa học
luôn bị các thế lực thù địch xem như là “bóng ma cộng sản”
cần phải xoá bỏ. Đặc biệt, mỗi khi phong trào lâm vào khủng
hoảng, thối trào thì sự chống phá đó càng quyết liệt hơn bao
giờ hết.
Ngày nay, trước sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xô và Đông Âu, chủ nghĩa xã hội hiện thực tạm thời lâm vào
3
khủng hoảng, thoái trào; chủ nghĩa cơ hội xét lại, chủ nghĩa
chống cộng lại được một lần nữa điên cuồng chống phá chủ
nghĩa xã hội cả trên lĩnh vực lý luận cũng như trên thực tiễn;
chúng ngang nhiên rêu rao tuyên bố rằng: chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản là do chính bản thân C.Mác, Ph.
Ăngghen tự nặn ra từ trong đầu óc chủ quan của bản thân,
chứ khơng dựa trên một luận cứ khoa học nào; và chủ nghĩa
xã hội hiện thực nếu có thì đó chẳng qua chỉ là một bào thai,
một ung nhọt của lịch sử, chứ nó khơng nằm trong tiến trình
phát triển của lịch sử xã hội loài người; cái bào thai, cái ung
nhọt đó đã đến thời kỳ tự nó thối rữa ra; sự sụp đổ chủ nghĩa
xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là tất yếu khách quan; và lý luận
chủ nghĩa xã hội khoa học chỉ phù hợp ở thời kỳ, ở giai đoạn
mà C. Mác, Ph. Ăng ghen còn sống; ngày nay đã hơn một
thế kỷ, lý luận đó đã trở lên lỗi thời, lạc hậu khơng cịn giá trị
gì nữa. Vì vậy, muốn nhận thức được xã hội hiện tại phải thay
bằng học thuyết khác; thứ học thuyết đứng trên góc độ kỹ
thuật được gọi là thuyết kỹ trị; hoặc là học thuyết của nhà
4
tương lai học người Mỹ Anvin Tofphlơ, được giới tư sản coi
như là bùa hộ mệnh.
Phải chăng chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời không dựa
trên một luận cứ khoa học nào; hay nói cách khác, do chính
Mác, ăngghen nặn ra từ đầu óc chủ quan của các Ơng. Để
trả lời chính xác cho câu hỏi này, chúng ta hãy đi nghiên cứu
những tiền đề khách quan và nhân tố chủ quan dẫn đến sự
ra đời chủ nghĩa xã hội khoa học.
Nhìn lại lịch sử ở thời điểm đó; vào những năm 30- 40
của thế kỷ thứ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
có những bước phát triển mạnh mẽ, đạt được nhiều thành
tựu quan trọng, nhờ sự tác động của cuộc cách mạng công
nghiệp. Nước Anh đã trở thành cường quốc tư bản chủ nghĩa
lớn nhất với lực lượng công nghiệp hùng mạnh. Cuộc cách
mạng công nghiệp ở Pháp đang được hoàn thành. ở Đức và
một số nước Tây Âu khác, cuộc cách mạng công nghiệp
cũng làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa lớn
nhanh chóng trong lịng xã hội phong kiến. Nhờ vậy, tính hơn
hẳn của chế độ tư bản chủ nghĩa so với chế độ phong kiến
5
được thể hiện một cách rõ rệt; biểu hiện: nền sản xuất phát
triển nhanh, năng suất lao động tăng lên khơng ngừng: “giai
cấp tư sản, trong q trình thống trị giai cấp chưa đầy một
thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ
sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia
gộp lại”1.
Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, nó cũng
làm cho những mâu thuẫn vốn có của nó ngày càng gay gắt,
đó là: mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất; lực lượng sản xuất phát triển mang tính chất xã hội hố
ngày càng cao (do tính chất sản xuất cơng nghiệp mang lại),
mâu thuẫn với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu
tư nhân, tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất; như trong
tuyên ngôn của Đảng cộng sản Mác đã viết: “xã hội tư sản
hiện đại, với những quan hệ sản xuất và trao đổi tư sản của
nó, với những quan hệ sở hữu tư sản, đã tạo ra những tư liệu
sản xuất và trao đổi hết sức mạnh mẽ như thế, thì giờ đây,
giống như một tay phù thuỷ khơng cịn đủ sức trị những âm
1
C. Mác và Ph. Ăng ghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr 603
6
binh mà y đã triệu lên. Từ hàng chục năm nay, lịch sử công
nghiệp và thương nghiệp không phải là cái gì khác hơn là lịch
sử của cuộc nổi dậy của lực lượng sản xuất hiện đại chống
lại quan hệ sản xuất hiện đại, chống lại những quan hệ sở
hữu đang quyết định sự tồn tại và sự thống trị của giai cấp tư
sản”1.
Mâu thuẫn ấy biểu hiện về mặt xã hội, đó là mâu thuẫn
giữa giai cấp vơ sản, giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất
hiện đại, giai cấp làm ra mọi của cải cho xã hội; mâu thuẫn
với giai cấp tư sản, giai cấp nắm đa số tư liệu sản xuất, do đó
là giai cấp bóc lột giai cấp vô sản; áp bức giai cấp tất yếu sẽ
dẫn đến đấu tranh giai cấp và cuộc đấu tranh của giai cấp vô
sản chống lại giai cấp tư sản bắt đầu ngay từ khi nó mới ra
đời, đi từ trình độ đấu tranh tự phát vì những lợi ích riêng tư,
trước mắt, chưa vì lợi ích chính trị; dần dần đến trình độ tự
giác, có tổ chức mang tính chất độc lập của cả giai cấp vì
mục đích đánh đổ giai cấp tư sản, giành chính quyền; lãnh
đạo, tổ chức xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
1
C. Mác và Ph. Ăng ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr 604
7
Cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp ấy ngày càng phát triển và
chiếm vị chí hàng đầu trong lịch sử chính trị ở các nước tư
bản phát triển. Cuộc khởi nghĩa của thợ dệt Liông ( Pháp)
năm 1831 và sau đó lại nổ ra năm 1834 “đã vạch ra một điều
bí mật quan trọng- như một tờ báo chính thức của chính phủ
hồi đó viết- đó là cuộc đấu tranh bên trong, diễn ra trong xã
hội, giữa giai cấp những người có của và giai cấp những
người khơng có gì hết...”1 ; ở Đức là cuộc khởi nghĩa của
công nhân dệt Xilêdi vào năm 1844; đặc biệt là phong trào
Hiến chương của những người lao động ở Anh, phong trào
này kéo dài từ năm 1835 đến năm 1848, là “phong trào cách
mạng vô sản to lớn đầu tiên, thật sự có tính chất quần chúng
và có hình thức chính trị”2 . Khi đánh giá về phong trào Hiến
chương, Ph. Ăngghen viết: “ Về bản chất phong trào hiến
chương là một hiện tượng có tính chất xã hội...tất cả các
cơng nhân cơng nghiệp... đều nhất trí rằng họ là những “
working men” ( cơng nhân)- đó là danh hiệu họ rất tự hào,
danh hiệu phổ biến trong những cuộc hội họp của phái Hiến
1
2
V.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ Mát x cơ va, 1977, t38,tr.365.
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ Mát xcơva, 1977, t.38, tr 365
8
chương, rằng họ họp thành giai cấp độc lập có những lợi ích
và ngun tắc riêng, có thế giới quan riêng, là giai cấp độc
lập với mọi giai cấp có của, đồng thời cũng là giai cấp làm cơ
sở cho sức mạnh và khả năng phát triển sau này của dân
tộc”1. Tuy những phong trào đó đã thu được những kết quả
đáng kể, nhưng trước sự đàn áp mạnh mẽ của giai cấp tư
sản, các phong trào trên đều đi đến thất bại.
Như vậy, từ sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa, từ thực tiễn xã hội, đặc biệt là thực tiễn cách mạng
của giai cấp vô sản là những cơ sở kinh tế, xã hội khách
quan cho sự ra đời chủ nghĩa xã hội khoa học, để thay thế
cho những trào lưu xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa
đã tỏ ra lỗi thời, không có khả năng đáp ứng những u cầu
chính trị cấp bách của giai cấp công nhân.
Cơ sở kinh tế và cơ cấu xã hội tư bản chủ nghĩa là
mảnh đất hiện thực cho chủ nghĩa xã hội khoa học sinh
thành. Song chưa đủ, để cho chủ nghĩa xã hội khoa học ra
1
C. Mác và Ph. Ăng ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr 619
9
đời nó cịn dựa vào những thành tựu to lớn của khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội.
Cũng trong thời điểm lịch sử này, trên lĩnh vực khoa học
tự nhiên có những bước phát triển hết sức rực rỡ. Tiêu biểu
cho sự phát triển của khoa học tự nhiên trong thời kỳ này là
ba phát minh quan trọng: Thuyết tế bào, mà đại biểu của nó
là hai nhà bác học người Đức, Slaydent và Svank ( 18381839); với phát minh này, đã cho phép khẳng định, thế giới
thống nhất ở tính vật chất, thế giới vật chất là vơ cùng vô tận,
luôn vận động và phát triển không ngừng và sự vận động đó
thơng qua hạt nhân cơ bản của nó là tế bào. Định luật bảo
tồn và chuyển hố năng lượng, đại biểu của nó là tập thể
các nhà khoa học là Maie Ghincơ và Cônđinh, học thuyết này
đã khẳng định sự vận động và phát triển của tự nhiên là q
trình vơ cùng, vơ tận của sự chuyển hố, của những hình
thức vận động của vật chất với nhau; vận động vật chất được
bảo toàn cả về số lượng và chất lượng. Học thuyết tiến hoá
của Đácuyn, đã khẳng định, sự ra đời, tồn tại, phát triển và
10
thay thế lẫn nhau giữa các giống, loài của động vật, thực vật
như là một quá trình tự nhiên.
Như vậy, với những phát minh lớn của khoa học tự
nhiên nó đã làm cho “ Quan niệm mới về tự nhiên” đã được
hoàn thành trên những nét cơ bản: tất cả cái gì cứng nhắc
đều bị tan ra, tất cả cái gì là cố định đều biến thành mây khói,
và tất cả những gì đặc biệt mà người ta cho là tồn tại vĩnh
cửu thì đã trở thành nhất thời; và người ta đã chứng minh
rằng toàn bộ giới tự nhiên đều vận động theo một dịng và
một tuần hồn vĩnh cửu”1. Những phát minh này nó đã có tác
dụng trực tiếp phục vụ quá trình chinh phục thiên nhiên, phát
triển sản xuất và tiến bộ xã hội; nó đã dáng một đòn sấm sét,
trực diện vào chủ nghĩa duy tâm tơn giáo, đã từng ngự trị và
chói buộc tư tưởng của con người, mở ra một thời kỳ lịch sử
mới cho sự phát triển toàn diện và vươn lên làm chủ tự nhiên
của con người. Đồng thời sự phát triển của khoa học tự nhiên
nó cũng tạo ra cơ sở khách quan cho khoa học xã hội một
1
C. Mác và Ph. Ăng ghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.20, tr 471
11
hướng phát triển mới, và do đó, nó là tiền đề quan trọng cho
một lý luận mới ra đời; lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học.
Bên cạnh những tiền đề về kinh tế- xã hội và khoa học
tự nhiên, chủ nghĩa Mác nói chung và chủ nghĩa xã hội khoa
học nói riêng cịn là sự phát triển hợp quy luật của lịch sử tư
tưởng nhân loại, nó khơng nảy sinh ở ngoài con đường phát
triển vĩ đại của văn minh thế giới. Học thuyết Mác “ ra đời là
sự kế thừa thẳng và trực tiếp những học thuyết của các đại
biểu xuất sắc nhất trong triết học, trong kinh tế chính trị học
và trong chủ nghĩa xã hội”1. Trên lĩnh vực triết học ở thời kỳ
này cũng đã đạt được những thành tựu to lớn mà tiêu biểu là
triết học cổ điển Đức, với phép biện chứng của Hêghen và
chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc. Mặc dù phép biện
chứng của Hêghen cịn có những hạn chế về mặt khoa học,
đó là phép biện chứng duy tâm, phép biện chứng của những
“ ý niệm tuyệt đối”; chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, với
phương pháp xem xét xã hội là duy tâm, siêu hình; song các
ơng cũng đã để lại cho nhân loại một khối lượng kiến thức đồ
1
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva,1980,t23,tr50
12
sộ về phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật về tự nhiên; đây
cũng là cơ sở quan trọng để Mác, Ăngghen kế thừa, phát
triển cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung và chủ
nghĩa xã hội khoa học nói riêng.
Sự hình thành tư tưởng chủ nghĩa xã hội khoa học diễn
ra trong sự tác động qua lại với quá trình Mác, Ăngghen kế
thừa và cải tạo các lý luận về kinh tế chính trị học. Tiêu biểu
là kinh tế chính trị học cổ điển Anh với các đại biểu là Ricácđơ
và Ađamsmít. Mặc dù các ơng chưa thấy được tính chất tạm
thời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa; chưa thấy
được bộ mặt thật của việc bóc lột giá trị thặng dư; nhưng các
Ơng cũng đã xây dựng được một lý luận về giá trị lao động,
và đồng thời cũng đã mô tả được quá trình tái sản xuất xã hội
dưới dạng một hệ thống tương đối hồn chỉnh; những tư
tưởng ấy có giá trị to lớn, là cơ sở để Mác, Ăngghen vạch
trần bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, của giai cấp tư
sản với học thuyết giá trị thặng dư; trên cơ sở đó đã phát
hiện ra sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp cơng nhân, để
từ đó đi đến một kết luận khoa học là, sự diệt vong của chủ
13
nghĩa tư bản và thắng lợi của chủ nghĩa xã hội là tất yếu như
nhau.
Cùng với sự phát triển của những tư tưởng triết học và
kinh tế chính trị học. Trong thời kỳ này những tư tưởng xã hội
chủ nghĩa cũng phát triển mạnh mẽ, bên cạnh những mặt
hạn chế của nó, thì những tư tưởng đó cũng có những giá trị
nhất định để sau này Mác, Ăngghen kế thừa hình thành lên
chủ nghĩa xã hội khoa học. Đây là nguồn gốc lý luận trực tiếp
cho sự hình thành chủ nghĩa xã hội khoa học. Điển hình cho
những tư tưởng đó trong thời kỳ này là ba nhà khơng tưởng
phê phán vĩ đại người Pháp: Hăng ri Xanh Xi Mông, Sáclơ
Phuriê và Rơbớc Ơoen.
Hăng ri Xanh Xi Mơng với thiên tài là đã chỉ ra được
mâu thuẫn trong xã hội tư bản, theo ông “Cuộc cách mạng
Pháp không chỉ là cuộc đấu tranh giữa giai cấp quý tộc và
giai cấp tư sản, mà là cuộc đấu tranh giữa giai cấp q tộc,
giai cấp tư sản và những người khơng có của”1. Theo
Ăngghen, đây là một phát hiện hết sức thiên tài, làm cơ sở
1
C. Mác và Ph. Ăng ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.20, tr 359
14
giúp Mác, Ăngghen chỉ ra mâu thuẫn trong lòng phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa, đó là mâu thuẫn giữa giai cấp vô
sản với giai cấp tư sản, việc giải quyết mâu thuẫn đó tất yếu
sẽ phải bằng cách mạng xã hội. Cùng với đó Xanh Xi Mơng
cũng đã chỉ ra một mơ hình của xã hội tương lai, ông cho
rằng sự ra đời của xã hội mới là tất yếu hợp quy luật của lịch
sử, xã hội đó được xây dựng trên cơ sở nền đại cơng nghiệp
có tổ chức khoa học và có kế hoạch. Ơng cũng đưa ra những
quan niệm về vai trị của chính trị, của nhà nước trong xã hội
mới, theo ơng “ Chính trị chẳng qua chỉ là khoa học của sản
xuất và dự báo trước rằng chính trị sẽ bị kinh tế hồn tồn
nuốt mất”1, đây là tư tưởng có giá trị to lớn được C. Mác,
Ph.Ăngghen kế thừa, phát triển thành tư tưởng nhà nước
nửa nhà nước, nhà nước tự tiêu vong sau này.
Đối với Phuriê; giá trị lớn nhất trong tư tưởng của Ơng
đó là những quan niệm về lịch sử xã hội. Theo Ơng, lịch sử
xã hội lồi người đã vận động, phát triển qua bốn giai đoạn
lịch sử, giai đoạn trước khi có hoạt động sản xuất, đó là thời
1
C. Mác và Ph. Ăng ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.19, tr 285
15
kỳ nguyên thuỷ, mông muội; tiếp đến là giai đoạn giã man,
giai đoạn gia trưởng và giai đoạn văn minh. Ông cho rằng giai
đoạn văn minh tương ứng với nền sản xuất lớn tư bản chủ
nghĩa. Đây là những tư tưởng có giá trị to lớn, là tư tưởng để
C. Mác, Ph.Ăngghen kế thừa trong việc phân chia tiến trình
lịch sử nhân loại qua 5 hình thái kinh tế xã hội. Cùng với tư
tưởng đó, ơng cịn là người đầu tiên đưa ra tư tưởng “ Trong
xã hội nhất định, trình độ giải phóng phụ nữ là cái thước đo
tự nhiên của sự giải phóng chung” 1 mà sau này được C. Mác,
Ph.Ăngghen kế thừa trong học thuyết của mình.
Rơbớc Ôoen; với quan niệm về một xã hội mới, Ông chủ
trương thành lập các cơng xã lao động- coi đó là đơn vị cơ sở
của xã hội tương lai; đó là sự kết hợp giữa lao động trí óc với
lao động chân tay, sự phát triển toàn diện của cá nhân, sự
bình đẳng về quyền lợi của mọi người; xã hội tương lai là xã
hội khơng có giai cấp, nó là liên minh tự do của công xã tự
quản. Đây là những tư tưởng quan trọng để sau này C. Mác,
1
C. Mác và Ph. Ăng ghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.19, tr 286
16
Ph.Ăngghen hình thành lên mơ hình của xã hội xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Như vậy, tuy còn có những hạn chế nhất định như
Ăngghen viết “Hồn cảnh lịch sử ấy đã quyết định quan điểm
của những người sáng tạo ra chủ nghĩa xã hội. Tương ứng
với một nền sản xuất tư bản chủ nghĩa chưa thành thục, với
những quan hệ giai cấp chưa thành thục thì có những lý luận
chưa thành thục.”1 Nhưng với những tư tưởng hết sức có giá
trị của mình, chủ nghĩa xã hội khơng tưởng nói chung và chủ
nghĩa xã hội khơng tưởng phê phán Pháp nói riêng xứng
đáng là nguồn gốc tư tưởng lý luận trực tiếp của chủ nghĩa
xã hội khoa học. Ăngghen cho rằng: Chủ nghĩa xã hội lý luận
Đức khơng bao giờ qn rằng nó là sự tiếp nối Xanh Xi
Mơng, Phuriê, Ơoen ba nhà tư tưởng- mặc dầu tất cả tính
chất ảo tưởng và khơng tưởng trong các học thuyết của họthuộc về những trí tuệ vĩ đại nhất...và đã tiên đốn một cách
thiên tài vơ số những chân lý mà ngày nay chúng ta đang
chứng minh sự đúng đắn của chúng một cách khoa học...
1
Sđd, t19, tr 382
17
Tóm lại, chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời dựa trên
những tiền đề khách quan, những đòi hỏi khách quan chứ
không phải do C. Mác, Ph.Ăngghen tự nặn ra, như một số
các quan điểm của bọn cơ hội xét lại đã rêu rao. Tuy nhiên,
để chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời nếu chỉ có những tiền đế
khách quan thơi thì cũng chưa đủ; trên cơ sở những tiền đề
khách quan đó muốn cho chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời thì
nó cịn có nhân tố chủ quan, đó là vai trị của C. Mác,
Ph.Ăngghen. Với thiên tài bẩm sinh và hoạt động khoa học,
thực tiễn không biết mệt mỏi với một tình bạn vĩ đại, tình yêu
thương đối với động loại. Hai Ông đã vượt lên những nhà tư
tưởng đương thời để hình thành lên học thuyết của mình.
C. Mác sinh ngày 5-5- 1818. Thời thơ ấu và niên thiếu,
ông sống ở tỉnh Ranh, một vùng khá phát triển cả về kinh tế
và chính trị của nước Đức.
Những ảnh hưởng tốt của gia đình, nhà trường và các
quan hệ xã hội khác đã làm hình thành và phát triển ở Mác
tinh thần nhân đạo chủ nghĩa và xu hướng yêu tự do. Phẩm
chất đạo đức- tinh thần cao đẹp đó khơng ngừng được bồi
18
dưỡng đã trở thành định huớng cho cuộc đời sinh viên và
đưa Mác đến chủ nghĩa dân chủ cách mạng và chủ nghĩa vô
thần. ở Mác, việc nghiên cứu triết học trở thành niềm say mê
của nhận thức nhằm giải đáp vấn đề giải phóng con người
mà lịch sử đặt ra. Trong luận án tiến sĩ của mình Mác viết: “
Giống như Prômêtê sau khi đã đánh cắp lửa từ trên trời
xuống, đã bắt đầu xây dựng nhà cửa và cư trú trên trái đất,
triết học cũng vậy, sau khi bao qt được tồn bộ thế giới, nó
nổi dậy chống lại thế giới các hiện tượng”. Cũng vì thế, trong
tình hình lúc đó, triết học Hêghen với tinh thần biện chứng
cách mạng của nó được Mác xem là chân lý. Nhưng triết học
Hêghen lại là chủ nghĩa duy tâm, vì thế đã nảy sinh mâu
thuẫn giữa chủ nghĩa duy tâm triết học với tinh thần dân chủ
cách mạng và vô thần trong thế giới quan của Mác. Mâu
thuẫn đó được giải quyết trong quá trình kết hợp chặt chẽ
hoạt động lý luận và thực tiễn của Mác.
Sự chuyển biến của Mác bước đầu diễn ra trong thời kỳ
Mác làm việc ở báo Sơng Ranh. Tháng 5-1842, Ơng bắt đầu
cộng tác với báo Sơng Ranh; tháng 10 năm đó, ơng trở thành
19
biên tập viên và đóng vai trị linh hồn của tờ báo, làm cho nó
trở thành cơ quan của phái dân chủ cách mạng.
Thực tiễn đấu tranh trên báo chí cho tự do dân chủcách mạng - chính xác hơn, đó là đấu tranh cho lợi ích của “
quần chúng nghèo khổ bất hạnh về chính trị và xã hội”. ở
Mác lúc này tư tưởng cộng sản chủ nghĩa chưa được hình
thành. Bác lời buộc tội báo Sơng Ranh là đã tuyên truyền chủ
nghĩa cộng sản, Mác khẳng định báo Sơng Ranh “khơng
chấp nhận cả tính hiện thực lý luận đằng sau những tư tưởng
cộng sản chủ nghĩa dưới hình thức hiện nay của chúng, và
do đó, lại càng ít muốn thực hiện chúng trên thực tiễn”. Tuy
nhiên, Ông lưu ý: đối với hiện tượng có ý nghĩa châu Âu như
vậy, thì khơng thể căn cứ vào ảo tưởng hời hợt trong chốc lát
để phê phán, mà chỉ có thể phê phán sau một sự nghiên cứu
cần cù sâu sắc.Về thế giới quan triết học, nhìn chung Mác
vẫn đứng trên lập trường duy tâm trong việc xem xét bản
chất nhà nước. Nhưng việc phê phán chính quyền nhà nước
đương thời đã cho Mác thấy rằng, cái quan hệ khách quan
quyết định hoạt động của nhà nước không phải hiện thân của
20
“tinh thần tuyệt đối” như Hêghen đã tìm cách chứng minh mà
là những lợi ích; cịn chính quyền nhà nước là cơ quan đại
diện cho đẳng cấp của những lợi ích tư nhân.
Như vậy, qua thực tiễn, nguyện vọng muốn cắt nghĩa
hiện thực, xác lập lý tưởng tự do trong thực tế làm nảy sinh
khuynh hướng duy vật ở Mác, tinh thần dân chủ cách mạng
sâu sắc đã không dung hợp với triết học duy tâm tự biện. Vì
thế sau khi báo Sông Ranh bị cấm( từ ngày 1-4-1843). Mác
đặt ra cho mình nhiệm vụ duyệt lại một cách có phê phán
quan niệm duy tâm của Hêghen về xã hội và nhà nước, đồng
thời phát hiện những động lực thật sự để biến đổi thế giới
bằng cách mạng. Trong thời gian ở Croixơnắc (tháng 5 đến
tháng 10 năm 1843) Mác đã tiến hành phê phán triết học
pháp quyền của Hêghen, qua đó phê phán chủ nghĩa duy
tâm nói chung. Song song với việc viết cuốn sách góp phần
phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, ông đã nghiên
cứu lịch sử một cách cơ bản. Trong khi phê phán chủ nghĩa
duy tâm của Hêghen, Mác đã nồng nhiệt tiếp nhận quan điểm
duy vật của triết học Phoiơbắc. Song, Mác lại thấy được
21
những mặt yếu trong triết học của Phoiơbắc, nhất là việc xa
rời những vấn đề chính trị nóng hổi. Sự phê phán sâu rộng
đối với triết học Hêghen và Phoiơbắc đã tăng cường mạnh
mẽ xu hướng duy vật trong quan điểm của Mác. Cuối tháng
10- 1843, Mác sang Pari. ở đây, khơng khí chính trị sơi sục và
sự tiếp xúc với các đại biểu của giai cấp vô sản đã dẫn đến
bước chuyển dứt khốt của ơng sang chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa cộng sản. Các bài báo của Mác bàn về vấn đề Do
thái
và
Góp phần phê phán triết học pháp quyền của
Hêghen. Lời nói đầu đăng trên tạp chí Niên giám Pháp- Đức
được xuất bản tháng 2- 1844, đã đánh dấu bước hồn thành
sự chuyển biến đó. Trong các bài báo trên Mác đã phân tích
một cách sâu sắc theo quan điểm duy vật ý nghĩa lịch sử to
lớn và cả mặt hạn chế của cuộc cách mạng tư sản mà ơng
gọi là “sự giải phóng chính trị”, hay “cuộc cách mạng bộ
phận”, đã phác thảo những nét đầu tiên về “ cuộc cách mạng
triệt để” và chỉ ra “cái khả năng tích cực” của giải phóng đó
“chính là giai cấp vơ sản”. Tư tưởng về vai trị lịch sử thế giới
của giai cấp vô sản là điểm xuất phát của chủ nghĩa cộng sản
22
khoa học. Như vậy quá trình hình thành và phát triển chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng
thời là quá trình hình thành chủ nghĩa cộng sản khoa học, thế
giới quan vô sản cách mạng… Cũng trong thời gian ấy thế
giới quan cách mạng của Ăngghen đã hình thành một cách
độc lập với Mác.
Ph.Ăngghen sinh ngày 28-11-1820, trong một gia đình
chủ xưởng sợi ở Bácmen thuộc tỉnh Ranh. Khi còn là học
sinh trường trung học Ăngghen đã căm ghét sự chuyên
quyền độc đoán của bọn quan lại. Việc nghiên cứu triết học
trong thời gian ở Béclin, khi làm nghĩa vụ quân sự, đã dẫn
ông đi xa hơn trên con đường khoa học. Song, chỉ thời gian
gần 2 năm sống ở Mansextơ (Anh) từ mùa thu1842, việc
nghiên cứu đời sống kinh tế và sự phát triển chính trị của
nước Anh, nhất là việc trực tiếp tham gia vào phong trào công
nhân mới dẫn đến bước chuyển biến căn bản trong thế giới
quan của ông sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản.
Niên giám Pháp- Đức cũng đăng các tác phẩm Phác
thảo góp phần phê phán kinh tế chính trị học và Tình cảnh
23
nước Anh, Tômát Cáclây, Quá khư và hiện tại của Ăng ghen
gửi đến từ Mansextơ. Các tác phẩm đó cho thấy ở Ăngghen,
quá trình chuyển biến từ chủ nghĩa duy tâm và dân chủ- cách
mạng sang chủ nghĩa duy vật và lập trường của chủ nghĩa xã
hội để phê phán kinh tế chính trị học của Ađam.Xmít và Đ.
Ricácđơ, vạch trần quan điểm chính trị phản động của
Cáclây, một người phê phán chủ nghĩa tư bản trên lập trường
của giai cấp quý tộc phong kiến.
Cùng với sự chuyển biến lập trường đó là q trình hoạt
động lý luận và thực tiễn không biết mệt mỏi của C. Mác,
Ph.Ăngghen.
Trên lĩnh vực lý luận từ việc các ông tham gia vào phái
Hêghen trẻ đến việc các ông tham gia biên tập và viết bài cho
báo Sơng Ranh, tạp chí Niên giám Pháp- Đức và một loạt các
tác phẩm các ông viết trong thời gian từ năm 1844- 1848, đã
chứng tỏ hoạt động lý luận không biết mệt mỏi của C. Mác,
Ph.Ăng ghen. Trong các bài viết và các tác phẩm của mình,
đặc biệt tác phẩm tuyên ngôn của đảng cộng sản một mặt C.
Mác, Ph.Ăngghen phê phán các quan điểm sai trái, mặt khác
24
qua đó các ơng đã hình thành lên những quan điểm của mình
về chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử
và những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học;
lên án chủ nghĩa tư bản và chế độ chiếm hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất; chỉ ra sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản
và thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa xã hội; chỉ ra sứ mệnh lịch
sử thế giới của giai cấp công nhân, con đường cách mạng và
những điều kiện cơ bản để thực hiện sứ mệnh lịch sử ấy...
Đồng thời với hoạt động lý luận, C. Mác, Ph.Ăngghen
tích cực trong các hoạt động thực tiễn. Năm 1844 C. Mác,
Ph.Ăngghen thành lập hội công nhân Đức ở Brúcxen (Bỉ); liên
lạc với những người cách mạng trong phái Hiến chương ở
Anh. Năm 1846 các ông tham gia thành lập uỷ ban thông tin
cộng sản ở Brúcxen(Bỉ), ở Luân Đơn (Anh). Từ năm 18461847 Ăngghen cịn tích cực hoạt động trong phong trào cơng
nhân ở Anh, vạch trần tính chất tiểu tư sản của Pruđông,
tuyên truyền tư tưởng cộng sản vào phong trào công nhân.
Qua hoạt động thực tiễn của C. Mác, Ph.Ăngghen, uy tín của
các ơng ngày càng tăng, ảnh hưởng mạnh đến phong trào
25
công nhân ở Anh, Pháp, Đức thể hiện: C. Mác, Ph.Ăng ghen
được tham gia cải tổ đồng minh những người chính nghĩa và
được giao viết tun ngơn của đảng cộng sản.
Như vậy, sự ra đời chủ nghĩa xã hội khoa học gắn liền
với quá trình hoạt động lý luận và thực tiễn không biết mệt
mỏi của C. Mác, Ph.Ăngghen, . Sau khi tuyên ngôn của đảng
cộng sản ra đời, từ thực tiễn C. Mác, Ph.Ăngghen tiếp tục bổ
sung, hoàn thiện lý luận của mình.
Tóm lại, chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời là tất yếu
khách quan, nó do chính thực tiễn quy định chứ không phải
do C. Mác, Ph.Ăng ghen tự nặn ra, tự nghĩ ra như bọn cơ hội
chủ nghĩa từng rêu rao. Tuy nhiên, để chủ nghĩa xã hội khoa
học ra đời không thể không kể đến cơng lao của C. Mác,
Ph.Ăngghen; chính C. Mác, Ph.Ăngghen với trí tuệ thiên tài,
cùng với q trình hoạt động thực tiễn, lý luận khơng biết mệt
mỏi của mình, đã nắm bắt được quy luật của tự nhiên, xã hội
cũng như những đòi hỏi của thực tiễn với hai phát kiến vĩ đại
là chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư,
cùng với việc tìm ra sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp