Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Cơ chế làm lành vết thương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.23 KB, 4 trang )

Cơ chế làm lành vết thương
Quá trình chữa lành vết thương bao gồm bốn giai đoạn: cầm máu, tiêu
viêm, tăng sinh và tái tạo hoặc phân giải mô (Gosain và DiPietro, 2004)
Ở người trưởng thành, việc chữa lành vết thương tối ưu bao gồm các sự
kiện sau: (1) cầm máu nhanh; (2) giai đoạn viêm; (3) sự biệt hóa, tăng sinh và di
chuyển của tế bào trung mô đến vị trí vết thương; (4) hình thành mạch phù hợp;
(5) tái lập biểu mơ nhanh chóng (tái phát triển mơ biểu mô trên bề mặt vết
thương) và (6) tổng hợp, liên kết ngang và liên kết thích hợp của colagen để
cung cấp vật liệu cho mô lành.

Giai đoạn cầm máu
Giai đoạn đầu là cầm máu bắt đầu ngay sau khi vết thương, với sự co thắt
mạch máu và hình thành cục máu đông fibrin. Cục máu đông và mô xung quanh
vết thương giải phóng các cytokine gây viêm và các yếu tố tăng trưởng như yếu
tố tăng trưởng biến đổi (TGF) -β, yếu tố tăng trưởng có nguồn gốc từ tiểu cầu


(PDGF), yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi (FGF) và yếu tố tăng trưởng biểu bì
(EGF).
Giai đoạn viêm
Một khi tình trạng chảy máu được kiểm soát, các tế bào viêm sẽ di
chuyển vào vết thương (chemotaxis) và thúc đẩy giai đoạn viêm, được đặc trưng
bởi sự xâm nhập tuần tự của bạch cầu trung tính, đại thực bào và tế bào lympho.
Một chức năng quan trọng của bạch cầu trung tính là loại bỏ vi khuẩn xâm nhập
và các mảnh vụn tế bào trong vùng vết thương - những tế bào này sản xuất các
chất như protease và các loại oxy phản ứng (ROS). Các đại thực bào đóng nhiều
vai trò trong việc chữa lành vết thương. Trong vết thương ban đầu, các đại thực
bào giải phóng các cytokine thúc đẩy phản ứng viêm bằng cách tuyển chọn và
kích hoạt bổ sung các bạch cầu. Các đại thực bào cũng chịu trách nhiệm tạo ra
và làm sạch các tế bào apoptotic (bao gồm cả bạch cầu trung tính) mở đường
cho quá trình giải quyết tình trạng viêm. Khi các đại thực bào loại bỏ các tế bào


apoptotic này, chúng sẽ trải qua quá trình chuyển đổi kiểu hình sang trạng thái
thay thế kích thích tế bào sừng, nguyên bào sợi và hình thành mạch để thúc đẩy
tái tạo mơ. Bằng cách này, các đại thực bào thúc đẩy chuyển sang giai đoạn tăng
sinh của quá trình chữa lành.
Tế bào lympho T di chuyển vào vết thương theo sau tế bào viêm và đại
thực bào, và đạt đỉnh điểm trong giai đoạn tăng sinh muộn/tái tạo sớm. Vai trò
của tế bào lympho T vẫn chưa được hiểu rõ và là một lĩnh vực nghiên cứu
chuyên sâu hiện nay. Một số nghiên cứu cho thấy rằng sự thâm nhập chậm của
tế bào T cùng với sự giảm nồng độ tế bào T ở vị trí vết thương có liên quan đến
việc chữa lành vết thương bị suy giảm, trong khi những nghiên cứu khác đã báo
cáo rằng tế bào CD4+ (tế bào T-helper) có vai trị tích cực trong việc chữa lành
vết thương và Tế bào CD8 + (tế bào ức chế T-tế bào gây độc tế bào) đóng vai
trị ức chế trong việc chữa lành vết thương (Swift và cộng sự, 2001; Park và
Barbul, 2004). Điều thú vị là các nghiên cứu gần đây trên chuột thiếu cả tế bào
T và tế bào B đã chỉ ra rằng sự hình thành sẹo giảm khi khơng có tế bào


lympho. Ngoài ra, tế bào T gamma-delta da (DETC) điều chỉnh nhiều khía cạnh
của q trình chữa lành vết thương, bao gồm duy trì tính tồn vẹn của mơ, bảo
vệ chống lại các tác nhân gây bệnh và điều chỉnh viêm. DETC được kích hoạt
bởi các tế bào sừng bị căng thẳng, bị tổn thương hoặc bị biến đổi và tạo ra yếu
tố tăng trưởng nguyên bào sợi 7 (FGF-7), các yếu tố tăng trưởng tế bào sừng và
yếu tố tăng trưởng giống insulin-1, để hỗ trợ tăng sinh tế bào sừng và sự tồn tại
của tế bào. DETC cũng tạo ra các chemokine và cytokine góp phần khởi động
và điều chỉnh phản ứng viêm trong quá trình chữa lành vết thương. Trong khi
trao đổi chéo giữa tế bào T gamma-delta ở da và tế bào sừng góp phần duy trì
làn da bình thường và chữa lành vết thương, những con chuột thiếu hoặc bị
khiếm khuyết trong tế bào T gamma-delta trên da cho thấy sự chậm trễ trong
quá trình đóng vết thương và giảm sự gia tăng của tế bào sừng tại vị trí vết
thương.

Tăng sinh và tái tạo hoặc phân giải mô
Giai đoạn tăng sinh thường theo sau và chồng lên với giai đoạn viêm, và
được đặc trưng bởi sự tăng sinh biểu mô và tái tạo biểu mơ. Trong lớp hạ bì so
sánh, ngun bào sợi và tế bào nội mô hiện diện và hỗ trợ tăng trưởng mao
mạch, hình thành collagen và hình thành mơ hạt tại vị trí tổn thương. Trong vết
thương, nguyên bào sợi sản xuất collagen cũng như glycosaminoglycans và
proteoglycan, là những thành phần chính của chất nền ngoại bào (ECM). Sau
khi tăng sinh mạnh mẽ và tổng hợp ECM, quá trình chữa lành vết thương bước
vào giai đoạn tái tạo cuối cùng. Trong giai đoạn này, nhiều mao mạch mới được
hình thành, do đó mật độ mạch máu của vết thương trở lại bình thường. Một
tính năng quan trọng của giai đoạn tái tạo là tái cấu trúc ECM tương tự với kiến
trúc của mơ bình thường.
Vai trị của tế bào gốc (SC) trong việc chữa lành vết thương trên da và tái
tạo mô là một chủ đề ngày càng được quan tâm nghiên cứu, tập trung vào vai
trò của tế bào gốc trưởng thành như tế bào gốc biểu bì và tế bào gốc từ tủy
xương (BM) (BMDCs). Tế bào gốc biểu bì cư trú ở vùng phồng của nang lơng


và ở lớp đáy của biểu bì và làm phát sinh các tế bào sừng di chuyển và tái biểu
mô hóa vết thương. Da bình thường cũng là cơ quan đích của BMDC. Hai quần
thể tế bào gốc chính có trong tủy xương: SC tạo máu (HSC) và SC trung mơ
(MSC). BM-MSC có thể biệt hố thành nhiều loại tế bào khác nhau, bao gồm tế
bào mỡ, nguyên bào xương, tế bào chondrocytes, nguyên bào sợi và tế bào
sừng. Tế bào tiền thân nội mơ (EPC) có nguồn gốc từ dịng HSC là những tế
bào quan trọng góp phần tạo mạch mới. Cả BM-MSC và EPC đều tham gia vào
quá trình chữa lành vết thương trên da. Tình trạng thiếu oxy do vết thương gây
ra kích thích huy động EPCs của tủy xương để tạo mạch máu, đóng một vai trị
quan trọng trong q trình sinh mạch mới.
Tài liệu tham khảo
S. Guo and L.A. DiPietro (2010), Factor affecting wound healing, University of

Illinois at Chicago, Chicago.



×