Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Phân tích, chứng minh đảng cộng sản việt nam ra đời 3/2/1930 là tất yếu khách quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.9 MB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

BÁO CÁO
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP GIỮA KỲ NHĨM 1

MƠN HỌC:

LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

GIẢNG VIÊN: ĐINH THỊ ĐIỀU

TP. HỒ CHÍ MINH, 07 - 2021


Mục lục
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam .................................................................. 3

I.

1. Tình hình thế giới và trong nước cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX .................. 3

II.

1.1

Tình hình thế giới (tính khách quan) ......................................................... 3

1.2

Hồn cảnh trong nước (tính chủ quan) ..................................................... 4


Các nhân tố tác động đến sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam ............................ 8

1. Chủ nghĩa Mác – Lênin...................................................................................... 8
2. Chủ nghĩa phong trào công nhân ...................................................................... 9
3. Phong trào yêu nước ........................................................................................ 10
3.1

Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến ........................... 10

3.2

Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ..................... 11

3.3

Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản ................................... 11

4. Sự ra đời của các tổ chức Cộng sản ở Việt Nam ........................................... 13
III.

Vai trò của Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện để thành lập Đảng ........... 14

1. Sự lựa chọn con đường cứu nước, cứu dân .................................................... 14
2. Q trình Nguyễn Ái Quốc tích cực chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ
chức ........................................................................................................................... 16
IV.

Quan điểm của anh/chị về ý kiến cho rằng ở Việt nam cần thực hiện chế độ đa

đảng lãnh đạo? Vì sao? ................................................................................................. 18

Tài liệu tham khảo ........................................................................................................ 23

2|Trang


Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam

I.
1.
1.1

1.1.1

Tình hình thế giới và trong nước cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
Tình hình thế giới (tính khách quan)
Chuyển biến của chủ nghĩa tư bản và hậu quả
Từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển từ giai đoạn tự do

cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa), dẫn tới chiến tranh
xâm lược các quốc gia phong kiến phương Đông, biến các quốc gia này thành thị trường
tiêu thụ sản phẩm và mua bán nguyên vật liệu, khai thác sức lao động và xuất khẩu tư
bản của các nước đế quốc. Sự áp bức và thơn tính dân tộc của chủ nghĩa đế quốc càng
tăng thì mâu thuẫn giữa dân tộc thuộc địa thực dân càng gay gắt, sự phản ứng dân tộc
của nhân dân các thuộc địa càng quyết liệt.
Chính bản thân chủ nghĩa đế quốc xâm lược đã tạo cho các dân tộc nước thuộc
địa những phương tiện và phương pháp để tự giải phóng. Sự thức tỉnh về ý thức dân tộc
để tự giải phóng khỏi ách thực dân, lập lại các quốc gia độc lập trên thế giới chịu tác
động sâu sắc của chính sách xâm lược và thống trị của chủ nghĩa đế quốc thực dân.

1.1.2


Sự ra đời của chủ nghĩa Mác-lênin
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ngày càng lan rộng, phát triển tự

phát tới tự giác, từ đấu tranh kinh tế tới đấu tranh chính trị, cần có lý luận khoa học và
cách mạng dẫn dắt, soi đường. Trên thế giới lúc đó cũng đã xuất hiện những tiền đề về
kinh tế - xã hội khoa học và lý luận, v.v… dẫn tới sự ra đời của chủ nghĩa Mác Lê nin.
Các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác- Lênin đã xây dựng nên học thuyết lý luận cách
mạng không ngừng, với nội dung cơ bản: Giai cấp công nhân, sau khi đã trưởng thành
về trình độ giác ngộ, trình độ tổ chức, có đủ khả năng và điều kiện lãnh đạo cuộc cách
mạng dân chủ tư sản trên cơ sở liên minh với giai cấp nông dân đấu tranh chống lại chế
độ chuyên chế phong kiến.
Dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, sự liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân trở thành lực lượng chủ yếu đánh đổ chế độ chuyên chế phong
kiến, thành lập nhà nước chun chính cách mạng của giai cấp cơng nhân và giai cấp
nông dân.
3|Trang


Chủ nghĩa Mác ra đời là thành tựu trí tuệ của loài người, phản ánh thực tiễn xã
hội, nhất là cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, đáp ứng yêu cầu phát triển của cách
mạng thế giới, là một tất yếu khách quan trong tiến trình phát triển lịch sử của tư tưởng
nhân loại.

1.1.3

Cách mạng tháng mười Nga và quốc tế cộng sản
Đầu thế kỷ XX, trên phạm vi quốc tế, sự thức tỉnh của các dân tộc Châu Á cùng

với phong trào dân chủ tư sản ở Đông Âu bắt đầu từ Cách mạng 1905 Nga. Năm 1917,

Cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Đối với nước Nga, đó là cuộc cách mạng vơ
sản, nhưng đối với các dân tộc thuộc địa trong đế quốc Nga thì đó cịn là một cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc, bởi vì trước cách mạng "nước Nga là nhà tù của các dân tộc".
Cách mạng Tháng Mười đã làm cho phong trào cách mạng vô sản ở các nước tư
bản chủ nghĩa phương Tây và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa
phương Đơng có quan hệ mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung
là chủ nghĩa đế quốc. Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập. Tại Đại hội II
của Quốc tế Cộng sản (1920), Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc
và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin được công bố. Luận cương nổi tiếng này đã chỉ ra
phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức. Với thắng lợi của Cách mạng
Tháng Mười Nga và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản, nhiều đảng cộng sản trên thế giới
đã được thành lập. Tình hình thế giới đầy biến động đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến Việt
Nam.

1.2
1.2.1

Hoàn cảnh trong nước (tính chủ quan)
Xã hội Việt Nam dưới sự thống trị của thực dân Pháp.
Sau khi đánh chiếm được nước ta, thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực

dân và tiến hành những cuộc khai thác nhằm cướp đoạt tài ngun, bóc lột nhân cơng
rẻ mạt và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa.
Do sự du nhập của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tình hình kinh tế Việt
Nam có sự biến đổi: quan hệ kinh tế nơng thơn bị phá vỡ, hình thành nên những đô thị
mới, những trung tâm kinh tế và tụ điểm cư dân mới. Thực dân Pháp không du nhập
một cách hoàn chỉnh phương thức tư bản chủ nghĩa vào nước ta, mà vẫn duy trì hai
phương thức bóc lột tư bản và phong kiến để thu lợi nhuận siêu ngạch. Vì vậy, nước
4|Trang



Việt Nam không thể phát triển lên chủ nghĩa tư bản một cách bình thường, bị kìm hãm
trong vịng lạc hậu và phụ thuộc nặng nề vào Pháp.
Về chính trị, chúng tiếp tục thi hành chính sách đàn áp nặng nề. Mọi quyền hành
đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người Pháp, biến vua quan Nam triều thành
bù nhìn, tay sai. Chúng thẳng tay đàn áp các cuộc đấu tranh của dân ta, thi hành chính
sách chia để trị rất thâm độc và lập ra liên bang Đơng Dương thuộc Pháp nhằm xóa tên
nước ta trên bản đồ thế giới. Chúng gây chia rẽ và thù hận giữa Bắc, Trung, Nam, giữa
các tôn giáo, các dân tộc, giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc trên bán đảo Đơng
Dương.
Về văn hóa, chúng thi hành triệt để chính sách văn hóa nơ dịch, gây tâm lý tự ti,
vong bản, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, đồi phong bại tục. Mọi hoạt động
yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn
hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách ngu dân để dễ bề thống
trị.
Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình
hình xã hội Việt Nam. Sự phân hoá giai cấp diễn ra ngày càng sâu sắc hơn. Do chính
sách kinh tế và chính trị phản động của thực dân Pháp, giai cấp địa chủ càng bị phân
hóa thành ba bộ phận khá rõ rệt: tiểu, trung và đại địa chủ. Một số địa chủ bị phá sản có
mâu thuẫn với đế quốc về quyền lợi dân tộc nên đã tham gia đấu tranh chống thực dân
và bọn phản động tay sai.
Giai cấp nông dân bị đế quốc, phong kiến địa chủ và tư sản áp bức, bóc lột rất
nặng nề. Ruộng đất bị chiếm đoạt. Chính sách độc quyền kinh tế, mua rẻ bán đắt, tô
cao, thuế nặng, chế độ cho vay nặng lãi... của đế quốc và phong kiến đã đẩy nơng dân
vào con đường bần cùng hóa khơng lối thốt. Một số ít bán sức lao động, làm thuê trong
các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền hoặc bị bắt đi làm phu tại các thuộc địa khác của đế
quốc Pháp.
➢ Người lao động gánh chịu sự bóc lột vơ cùng nặng nề ngay trên mảnh đất mà
trước đây là sở hữu của chính họ. Sự khai thác và bóc lột thuộc địa của thực dân Pháp
đã làm gay gắt thêm các mâu thuẫn cơ bản trong lòng xã hội Việt Nam.


5|Trang


1.2.2

Sự chuyển biến trong xã hội Việt Nam
Vì bị mất nước và mất ruộng đất nên nơng dân có mâu thuẫn với đế quốc và

phong kiến. Họ vừa có yêu cầu độc lập dân tộc, lại vừa có yêu cầu ruộng đất, song yêu
cầu về độc lập dân tộc là bức thiết nhất.
Giai cấp nơng dân có truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất là lực lượng
to lớn nhất, một động lực cách mạng mạnh mẽ. Giai cấp nông dân khi được tổ chức lại
và có sự lãnh đạo của một đội tiên phong cách mạng, sẽ phát huy vai trị cực kỳ quan
trọng của mình trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc Việt Nam.
Giai cấp tư sản hình thành trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp.
Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, tư sản Việt Nam mới chỉ là một tầng lớp nhỏ bé.
Sau chiến tranh, tư sản Việt Nam đã hình thành giai cấp rõ rệt. Ra đời trong điều kiện
bị tư bản Pháp chèn ép, cạnh tranh rất gay gắt, nên số lượng tư sản Việt Nam không
nhiều, thế lực kinh tế nhỏ bé, thế lực chính trị yếu đuối.

1.2.3

Sự biến đổi giai cấp
Trong q trình phát triển, giai cấp tư sản Việt Nam phân thành hai bộ phận:

-

Tư sản mại bản là những tư sản lớn, hợp tác kinh doanh với đế quốc, bao thầu


những cơng trình xây dựng của chúng ở nước ta. Nhiều tư sản mại bản có đồn điền lớn
hoặc có nhiều ruộng đất cho phát canh, thu tơ. Vì có quyền lợi kinh tế và chính trị gắn
liền với đế quốc thực dân, nên tư sản mại bản là tầng lớp đối lập với dân tộc.
-

Tư sản dân tộc là bộ phận đông nhất trong giai cấp tư sản, bao gồm những tư sản

loại vừa và nhỏ, thường hoạt động trong các ngành thương nghiệp, công nghiệp và cả
tiểu thủ công nghiệp. Họ muốn phát triển chủ nghĩa tư bản của dân tộc Việt Nam, nhưng
do chính sách độc quyền và chèn ép của tư bản Pháp nên không thể phát triển được. Xét
về mặt quan hệ với đế quốc Pháp, tư sản dân tộc phải chịu số phận mất nước, có mâu
thuẫn về quyền lợi với bọn đế quốc thực dân và phong kiến, nên họ có tinh thần chống
đế quốc và phong kiến. Giai cấp tư sản dân tộc là một lực lượng cách mạng không thể
thiếu trong phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Giai cấp tiểu tư sản bao gồm
nhiều bộ phận khác nhau: tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ cơng, viên chức, trí thức, học
sinh, sinh viên và những người làm nghề tự do. Giữa những bộ phận đó có sự khác nhau
về kinh tế và cách sinh hoạt, nhưng nhìn chung, địa vị kinh tế của họ rất bấp bênh, luôn
luôn bị đe dọa phá sản, thất nghiệp.
6|Trang


Họ có tinh thần yêu nước nồng nàn, lại bị đế quốc và phong kiến áp bức, bóc lột
và khinh rẻ nên rất hăng hái cách mạng. Đặc biệt là tầng lớp trí thức là tầng lớp rất nhạy
cảm với thời cuộc, dễ tiếp xúc với những tư tưởng tiến bộ và canh tân đất nước, tha thiết
bảo vệ những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc. Khi phong trào quần chúng
công nông đã thức tỉnh, họ bước vào trận chiến đấu giải phóng dân tộc ngày một đơng
đảo và đóng một vai trị quan trọng trong phong trào đấu tranh của quần chúng, nhất là
ở đô thị.
Giai cấp tiểu tư sản là một lực lượng cách mạng quan trọng trong cuộc đấu tranh
vì độc lập tự do của dân tộc. Giai cấp công nhân là sản phẩm trực tiếp của chính sách

khai thác thuộc địa của Pháp và nằm trong những mạch máu kinh tế quan trọng do
chúng nắm giữ. Lớp công nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân
Pháp xây dựng một số cơ sở công nghiệp và thành phố phục vụ cho việc xâm lược và
bình định của chúng ở nước ta. Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của đế quốc
Pháp, giai cấp cơng nhân đã hình thành. Đến cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, giai
cấp cơng nhân đã phát triển nhanh chóng về số lượng, từ 10 vạn (năm 1914) tăng lên
hơn 22 vạn (năm 1929), trong đó có hơn 53.000 cơng nhân mỏ (60% là công nhân mỏ
than), và 81.200 công nhân đồn điền. Giai cấp cơng nhân Việt Nam tuy cịn non trẻ, số
lượng chỉ chiếm khoảng 1% số dân, trình độ học vấn, kỹ thuật thấp, nhưng sống khá tập
trung tại các thành phố, các trung tâm công nghiệp và các đồn điền.Giai cấp cơng nhân
Việt Nam có những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế, đồng thời cịn có
những điểm riêng của mình như: phải chịu ba tầng lớp áp bức bóc lột (đế quốc, phong
kiến và tư sản bản xứ); phần lớn vừa mới từ nông dân bị bần cùng hóa mà ra, nên có
mối quan hệ gần gũi nhiều mặt với nông dân. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước
giai cấp tư sản dân tộc, nên nội bộ thuần nhất, không bị phân tán về lực lượng và sức
mạnh.
Sinh ra và lớn lên ở một đất nước có nhiều truyền thống văn hóa tốt đẹp, nhất là
truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, sớm tiếp thu được tinh hoa văn hóa tiên tiến
trong trào lưu tư tưởng của thời đại cách mạng vô sản để bồi dưỡng bản chất cách mạng
của mình. Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội tiên tiến, đại diện cho
phương thức sản xuất mới, tiến bộ, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có tinh thần cách mạng
triệt để, lại mang bản chất quốc tế. Họ là một động lực cách mạng mạnh mẽ và khi liên
7|Trang


minh được với giai cấp nông dân và tiểu tư sản sẽ trở thành cơ sở vững chắc cho khối
đại đồn kết dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do. Khi được tổ chức lại và hình
thành được một đảng tiên phong cách mạng được vũ trang bằng một học thuyết cách
mạng triệt để là chủ nghĩa Mác - Lênin thì giai cấp cơng nhân trở thành người lãnh đạo
cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc.


Các nhân tố tác động đến sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam

II.
1.

Chủ nghĩa Mác – Lênin
Vào giữa thế kỉ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh,

đặt ra yêu cầu bức thiết phải có hệ thống lý luận khoa học với tư cách là vũ khí tư tưởng
của giai cấp cơng nhân trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Trong hồn cảnh
đó, chủ nghĩa Mác ra đời, về sau được Lênin phát triển trở thành chủ nghĩa Mác – Lê
nin.
Chủ nghĩa Mác – Lê nin chỉ rõ, muốn giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh
thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp cơng nhân phải lập ra đảng cộng sản. Sự
ra đời đảng cộng sản là yêu cầu khách quan đáp ứng cuộc đấu tranh của giai cấp cơng
nhân chống áp bức, bóc lột.
Tun ngơn của Đảng cộng sản (1848) xác định: những người cộng sản ln ln
đại biểu cho lợi ích của tồn bộ phong trào. Những nhiệm vụ chủ yếu có tính quy luật
mà chính đảng của giai cấp cơng nhân để thực hiện mục đích giành lấy chính quyền và
xây dựng xã hội mới. Đảng phải ln đứng trên lập trường lợi ích của giai cấp công
nhân và đại biểu cho quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động


Chủ nghĩa Mác – Lênin đã lôi cuốn quần chúng nhân dân và cả những phần tử

ưu tú, tích cực ở các nước thuộc địa vào phong trào cộng sản.
Kể từ khi chủ nghĩa Mác -Lênin được truyền bá vào Việt Nam, phong trào yêu
nước và phong trào công nhân phát triển theo hướng cách mạng vô sản, dẫn tới sự ra
đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng và phát triển

sáng tạo chủ nghĩa Mác -Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, sáng lập ra Đảng
Cộng sản Việt Nam.

8|Trang


➢ Nguyễn Ái Quốc thực hiện công cuộc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt
Nam, chuẩn bị về chính trị , tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam.

Chủ nghĩa phong trào công nhân

2.
-

Năm 1917, cách mạng tháng Mười Nga giành được thắng lợi. Nhà nước Xô Viết

dựa trên nền tảng liên minh công – nông dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvich Nga ra
đời. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, chủ nghĩa Mác – Lênin từ lý luận đã
trở thành hiện thực và mở đầu một thời đại mới “thời đại cách mạng chống đế quốc,
thời đại giải phóng dân tộc”. Cuộc cách mạng này cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân, nhân dân các nước và là một trong những động lực thúc
đẩy sự ra đời nhiều đảng cộng sản: Đảng Cộng sản Đức, Đảng cộng sản Hungary (năm
1918), Đảng Cộng sản Pháp (năm 1919)…
-

Đối với các dân tộc thuộc địa, Cách mạng Tháng Mười là tấm gương trong giải

phóng các dân tộc bị áp bức. Về ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười, Nguyễn Ái Quốc
khẳng định: Cách mạng Tháng Mười như tiếng sét đã đánh thức nhân dân châu Á tỉnh

giấc mê hàng thế kỉ nay. Và “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách
mệnh thành cơng thì phải dân chúng làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền
gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư
và Lênin”.
-

Sau chiến tranh đế quốc (1914 - 1918) và Cách mạng tháng Mười

Nga thắng lợi, những điều kiện thành lập Quốc tế cộng sản đã chín muồi. Tháng 3/1919,
Quốc tế Cộng sản được thành lập. Ý nghĩa về sự ra đời này thúc đẩy sự phát triển mạnh
mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương
về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được công bố tại Đại hội II Quốc tế
cộng sản vào năm 1920 đã chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc
địa, mở ra con đường giải phóng các dân tộc bị áp bức trên lập trường cách mạng vô
sản, cũng như chỉ ra sự phối hợp hành động giữa phong trào công nhân quốc tế và
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Đó là bước ngoặt to lớn trong nghệ thuật lãnh đạo
chính trị của những người cộng sản, làm cho Quốc tế Cộng sản trở thành người lãnh
đạo, lãnh tụ của giai cấp vơ sản và các dân tộc bị áp bức tồn thế giới.

9|Trang


Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá

-

chủ nghĩa Mác – Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc không
những đánh giá cao sự kiện ra đời Quốc tế Cộng sản đối với phong trào cách mạng thế
giới, mà còn nhấn mạnh vai trò của tổ chức này đối với cách mạng Việt Nam “An Nam
muốn cách mệnh thành cơng, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế”.


Phong trào yêu nước

3.

Mặc dù triều đình nhà Nguyễn đã kí hiệp ước đầu hàng vơ điều kiện với thực
dân Pháp và công nhận sự thống trị của chúng trên đất nước ta. Tuy nhiên, các phong
trào đấu tranh vẫn diễn ra trên đất nước ta với sự lãnh đạo của các vua quan phong kiến
nhưng trước những ảnh hưởng của các luồng văn hoá tư sản tiến bộ trên thế giới du
nhập vào nước ta một số nhà nho yêu nước đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các luồng
văn hố này do đó đã hình thành nên con đường đấu tranh theo khuynh hướng dân chủ
tư sản.

Phong kiến
Dân chủ tư sản

Thất bại

Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến

3.1
-

Mục đích:
+ Giành lại độc lập tự do cho dân tộc
+ Khôi phục chế độ phong kiến, quân chủ chuyên chế

-

Phong trào chống Pháp ở Nam Kì


-

Phong trào Cần Vương (1885-1896):
+ Lãnh đạo: vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết.
+ Địa bàn: Bắc Kỳ và Trung Kỳ
+ Khởi nghĩa Ba Đình (1881-1887): do Phạm Bành và Đinh Cơng Tráng lãnh
đạo diễn ra ở Thanh Hoá.
+ Khởi nghĩa Bãi Sậy (1883-1892): do Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo diễn ra ở
các tỉnh Hải Dương, Hải Phịng, Hưng n, Thái Bình.
+ Khởi nghĩa Hương Khê (1885-1896): do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh
đạo diễn ra ở địa bàn Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Bình, Hà Tĩnh.
10 | T r a n g


-

Cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế - Bắc Giang (1885-1913): do Hoàng Hoa
Thám và Lương Văn Nắm lãnh đạo.
➢ Thất bại của phong trào Cần Vương chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong

kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc do lịch sử đặt ra. Do đó các
nhà yêu nước tiến bộ chủ trương một khuynh hướng đấu tranh mới đó là khuynh hướng
dân chủ tư sản.

Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản

3.2

Cuối thế kỉ XX các nhà yêu nước của ta được tiếp nhận với luồng văn hố dân

chủ tư sản. Ngồi ra cịn chịu ảnh hưởng tư tưởng của Khang Hữu Vi và Lương Khải
Siêu và cách mạng Minh Trị. Khuynh hướng yêu nước dân chủ tư sản được chia làm
hai giai đoạn:
+ Trước chiến tranh thế giới thứ nhất: phong trào Đông Du của Phan Bội Châu
và phong trào Duy Tân của Phan Chu Trinh
+ Sau chiến tranh thế giới thứ nhất: Nhiều phong trào đấu tranh của tư sản và địa
chủ diễn ra Phong trào yêu nước dân chủ công khai (1925-1926) của tiểu tư sản thành
thị và tư sản lớp dưới. Họ lập ra nhiều tổ chức chính trị Việt Nam nghĩa đồn, Phục
Việt, Hưng Nam… thành lập nhiều tờ báo như Cường học thư xã, Quan hải tùng thư,
Người nhà quê, Chuông rạn… với nhiều phong trào đấu tranh chính trị gây tiếng vang
khá lớn như Phong trào cách mạng quốc gia tư sản (1927-1930)
Các phong trào theo khuynh hướng tư sản diễn ra rất sôi nổi, anh dũng nhưng
kết quả cuối cùng đều thất bại.
➢ Thất bại do khuynh hướng không phù hợp với thời đại mới; diễn ra lẻ tẻ nên
dễ bị thực dân Pháp đàn áp; quá phụ thuộc vào người lãnh đạo; chỉ hô hào mà không
kêu gọi quần chúng, khơng xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang.

Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản

3.3
-

Các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân có sự thay đổi qua từng giai đoạn.
+ Giai đoạn tự phát (trước năm 1925)
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20

thường có quy mơ nhỏ hẹp trong các nhà máy, xí nghiệp, đồn điền do sự yếu thế của
giai cấp cơng nhân và chưa có chủ trương cách mạng đúng đắn. Mục đích chủ yếu tập
trung vào nội dung kinh tế và hầu hết các phong trào đều diễn ra tự phát, chỉ có duy
11 | T r a n g



nhất 1/25 cuộc đấu tranh là có lãnh đạo, tổ chức chặt chẽ, ví dụ như cuộc đấu tranh của
cơng nhân Ba Son 8/1925.
+ Giai đoạn tự giác (sau 1925)
Từ năm 1925 trở đi, nhờ những điều kiện thuận lợi đã thúc đẩy phong trào cách
mạng Việt Nam nói chung và phong trào cơng nhân nói riêng
• Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V đã ban hành các nghị quyết quan trọng góp
phần lớn trong các phong trào cách mạng dân tộc
• Ở trong nước, nhờ vào tổ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (06/1925), báo
Thanh Niên, tác phẩm “Đường Kách Mệnh” và phong trào “Vô sản hóa” (19251929), lý luận cách mạng Chủ nghĩa Mác Lê nin đã được truyền bá rộng rãi ở
nước ta
Các phong trào chống Pháp theo khuynh hướng vô sản như: Trong năm 1926, hàng
loạt cuộc đấu tranh của công nhân đã nổ ra mạnh mẽ. Có thể kể tên các phong trào yêu
nước theo khuynh hướng vô sản ở giai đoạn này như: cuộc bãi công của công nhân ở
nhà máy sợi Nam Định, xi măng Hải Phòng, … đặc biệt là 2 cuộc đấu tranh với quy mô
lớn như các đồn điền Cam Tiêm, Phú Riềng ở phía Nam.
• Năm 1927, phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản nở rộ khắp cả nước.
Số lượng các cuộc đấu tranh của giai cấp cơng nhân từ 1926-1927 là 27 cuộc.
• Năm 1928-1929 là giai đoạn đỉnh cao của các phong trào yêu nước theo khuynh
hướng vô sản. Với hơn 40 cuộc đấu tranh có quy mơ và chất lượng đã đem đến
một kết quả là ba tổ chức cộng sản đầu tiên của Việt nam ra đời trong năm 1929:
Đông Dương Cộng sản Đảng (6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (07/1929), Đơng
Dương Cộng sản Liên đồn (9/1929).
• Cũng vào thời gian này phong trào nông dân diễn ra ở nhiều nơi trong cả nước,
dân cày cũng đã tỉnh dậy, chống đế quốc và địa chủ rất kịch liệt.
➢ Hình thức đấu tranh ở giai đoạn này chủ yếu là bãi cơng, mục đích đấu tranh
về cả kinh tế và chính trị chứ khơng đơn thuần vì lợi ích kinh tế như giai đoạn trước.
Quy mơ rộng khắp cả nước, có sự lãnh đạo và đoàn kết của quần chúng nhân dân. Từ
đó, sức mạnh của các phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản lại tăng lên gấp

bội.

12 | T r a n g


4.

Sự ra đời của các tổ chức Cộng sản ở Việt Nam
Tại Đại hội lần thứ nhất của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (5/1929) đã xảy

ra bất đồng giữa các đoàn đại biểu về vấn đề thành lập đảng Cộng sản, mà thực chất là
sự khác nhau giữa những đại biểu muốn thành lập ngay một đảng cộng sản và giải thể
tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, với những đại biểu cũng muốn thành lập
đảng cộng sản, nhưng “không muốn tổ chức đảng ở giữa Đại hội thanh niên và cũng
không muốn phá thanh niên trước khi lập được đảng”. Trong bối cảnh đó, các tổ chức
cộng sản ở Việt Nam ra đời.
+ Đông Dương Cộng sản Đảng: Ngày 17/6/1929, tại 312 Khâm Thiên - Hà Nội,
đại biểu các tổ chức cộng sản ở Bắc Kỳ họp Đại hội quyết định thành lập Đông Dương
Cộng sản Đảng. Tuyên ngôn của Đảng nêu rõ: “Đảng Cộng sản Đông dương tổ chức
đại đa số và thực hành cơng nơng liên hiệp mục đích để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa;
đánh đổ tư bản chủ nghĩa; diệt trừ chế độ phong kiến; giải phóng cơng nơng; thực
hiện xã hội bình đẳng, tự do, bác ái, tức là hội cộng sản.”
+ An Nam Cộng sản Đảng: để đáp ứng yêu cầu của phong trào cách mạng, mùa
thu năm 1929, các đồng chí trong Hội Việt Nam cách mạng thanh niên hoạt động ở
Trung Quốc và Nam Kỳ đã thành lập An Nam Cộng sản Đảng về điều kiện kết nạp đảng
viên, Điều lệ của Đảng viết “Ai tin theo chương trình của Quốc tế Cộng sản, hăng
hái phấn đấu trong một bộ phận đảng, phục tùng mệnh lệnh đảng và góp nguyệt phí,
có thể cho vào đảng được”.
+ Đơng Dương Cộng sản Liên đồn: Việc ra đời của Đơng Dương Cộng sản Đảng
và An Nam Cộng sản Đảng đã làm cho nội bộ Đảng Tân Việt phân hóa mạnh mẽ, những

đảng viên tiên tiến của Tân Việt đã thành lập Đơng Dương Cộng sản Liên đồn. Tun
đạt của Đơng Dương Cộng sản Liên đồn (9/1929), nêu rõ: “Đơng Dương Cộng sản
Liên Đoàn lấy chủ nghĩa Cộng sản làm nền móng, lấy cơng, nơng, binh liên hiệp làm
đối tượng vận động cách mệnh cộng sản trong xứ Đông Dương, làm cho xứ sở của
chúng ta hồn tồn độc lập, xóa nạn bóc lột áp bức người, xây dựng chế độ cộng sản
chủ nghĩa trong tồn xứ Đơng Dương”.
Dù giương cao ngọn cờ chống đế quốc, phong kiến, xây dựng chủ nghĩa cộng sản
Việt Nam, nhưng ba tổ chức cộng sản trên đây hoạt động riêng biệt, chia rẽ đã ảnh
hưởng xấu đến phong trào cách mạng ở Việt Nam lúc này. Vì vậy, việc khắc phục giữa
13 | T r a n g


các tổ chức cộng sản là yêu cầu khẩn thiết của cách mạng nước ta, là nhiệm vụ cấp bách
trước mắt của tất cả những người cộng sản Việt Nam
➢ Đảng Cộng sản ra đời.

III.

Vai trò của Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện để thành lập
Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một bước ngoặt lịch sử vĩ đại của Cách mạng

Việt Nam. Chính Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp và quyết định đến sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc được thể hiện qua quá trình
chuẩn bị các điều kiện thành lập Đảng

1.

Sự lựa chọn con đường cứu nước, cứu dân
Các phong trào đấu tranh chống Pháp, dù theo khuynh hướng phong kiến hay theo


khuynh hướng dân chủ tư sản, cuối cùng đều đi đến bế tắc. Trước yêu cầu cấp bách,
phải tìm một con đường cứu nước mới. Bằng thiên tài trí tuệ và nhãn quan chính trị sắc
bén, năm 1911, Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước với tên gọi
Văn Ba. Người đã qua nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là các nước tư bản phát triển
như Pháp, Anh. Trong quá trình tìm đường cứu nước, người đã tìm hiểu kỹ các cuộc
cách mạng điển hình trên thế giới như: Cách mạng Mỹ - 1776, Cách mạng Pháp – 1789.
Người khâm phục tinh thần đấu tranh của 2 cuộc cách mạng, nhưng nhận thức rõ những
hạn chế của các cuộc cách mạng Tư sản. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường
cách mạng tư sản không thể đưa lại độc lập và hạnh phúc cho nhân dân các nước nói
chung, nhân dân Việt Nam nói riêng.
Năm 1917, Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm tìm hiểu thắng lợi của Cách mạng
Tháng Mười Nga. Người rút ra kết luận: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh
Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái
hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, các nước đế quốc thắng trận họp Hội nghị
Véc-xay (năm 1919) để phân chia quyền lợi. Thay mặt những người Việt Nam yêu nước
sống ở Pháp, Người lấy tên là Nguyễn Ái Quốc đưa đến Hội nghị này là bản yêu sách
đòi các quyền tự do dân chủ và bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Bản u sách đó khơng
được Hội nghị Véc xay chú ý đến, nhưng được báo chí tiến bộ Pháo công bố rộng rãi
14 | T r a n g


và gây ảnh hưởng chính trị vang dội. Đó là địn tấn cơng trực diện đầu tiên của Nguyễn
Ái Quốc vào bọn trùm đế quốc. Kết luận quan trọng mà Nguyễn Ái Quốc rút ra là:
“Những lời tuyên bố dân tộc tự quyết của bọn đế quốc chỉ là trò bịp bợm; các dân
tộc bị áp bức muốn được độc lập tự do thực sự, trước hết phải dựa vào lực lượng của
bản thân mình, phải tự mình giải phóng cho mình.”
Vào tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê-nin. Bản luận cương đó đã

đáp ứng đúng nguyện vọng tha thiết mà Nguyễn Ái Quốc đang ấp ủ, độc lập cho Tổ
quốc, tự do cho đồng bào. Sau này, Người viết: “Luận cương của Lê-nin làm cho tôi
rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc
lên. Ngồi một mình trong buồng mà tơi nói to lên như đang nói trước quần chúng
đơng đảo: ‘Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây
là con đường giải phóng chúng ta!’ .”
Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12 năm 1920) Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu
tán thành việc gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp.
Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người: từ
người yêu nước trở thành người cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn.
“Muốn cứu nước phải giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản”.
Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc rời Pháp đi Mát-xcơ-va để tham dự Hội nghị
Quốc tế nông dân, đồng thời trực tiếp học tập nghiên cứu kinh nghiệm Cách mạng
Tháng Mười và chủ nghĩa Lê-nin. Người viết nhiều bài cho báo Sự thật của Đảng Cộng
sản Liên Xơ và tạp chí “Thư tín quốc tế” của Quốc tế Cộng sản. Năm 1924, Người tham
gia Đại hội V của Quốc tế Cộng sản và các đại hội của Quốc tế Công hội đỏ, Quốc tế
Phụ nữ, Quốc tế Thanh niên, Quốc tế Cứu tế đỏ. Đây cũng là sự kiện mở ra cho cách
mạng giải phóng dân tộc Việt Nam một giai đoạn mới “giai đoạn gắn phong trào cách
mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi theo
con đường mà chính người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa
Mác Lê-nin”.

15 | T r a n g


Q trình Nguyễn Ái Quốc tích cực chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và

2.


tổ chức
Từ khi trở thành người cộng sản, cùng với việc thực hiện những nhiệm vụ đối với
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến mạnh mẽ việc
nghiên cứu lý luận giải phóng dân tộc theo học thuyết cách mạng vô sản của chủ nghĩa
Mác Lê-nin để truyền bá vào nước ta, từng bước chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ
chức cho việc thành lập chính đảng cộng sản ở Việt Nam
-

Về mặt tư tưởng
Vừa nghiên cứu lý luận, vừa tham gia hoạt động thực tiễn trong phong trào cộng

sản và công nhân quốc tế, dưới nhiều phương thức phong phú, Nguyễn Ái Quốc đã tích
cực tố cáo tội ác thực dân đối với nhân dân các thuộc địa, đồng thời tiến hành tuyên
truyền tư tưởng Mác Lê-nin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng sản
và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Từ giữa năm 1921 - tại Pháp, cùng một số nhà cách mạng của các nước thuộc
địa khác - Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Hội liên hiệp thuộc địa, sau đó sáng lập
tờ báo Le Paria (Người cùng khổ). Người viết nhiều bài báo nhân đạo, Đời sống cơng
nhân, Tạp chí Cộng sản…
Năm 1922, Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp thành lập,
Nguyễn Ái Quốc được cử làm Trưởng Tiểu ban Nghiên cứu về Đông Dương
Năm 1925, cuốn sách Bản án chế độ thực dân Pháp được xuất bản lần đầu ở
Paris, đã tố cáo, kết tội chế độ bóc lột, cai trị của thực dân Pháp đối với các nước thuộc
địa, thức tỉnh nhân dân các dân tộc bị áp bức nói chung và nhân dân Việt Nam nói riêng.
-

Về mặt chính trị
+ Đối với các dân tộc thuộc địa: Nguyễn Ái Quốc đưa ra những luận điểm quan

trọng về cách mạng giải phóng dân tộc. Người khẳng định rằng, con đường cách mạng

của các dân tộc bị áp bức là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, cả 2 cuộc giải phóng
này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản. Nguyễn Ái Quốc xác định cách
mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, là một bộ phận của cách mạng vô sản
thế giới, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa với cách mạng vơ sản
ở “chính quốc” có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đối với các dân tộc thuộc địa, Nguyễn

16 | T r a n g


Ái Quốc chỉ rõ: “công nông là gốc của cách mệnh; cịn học trị là nhà bn nhỏ,
điền chủ nhỏ … là bầu bạn cách mệnh của công nông”
+ Đối với Đảng Cộng sản: Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Cách mạng trước hết
phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc
với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành
cơng, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Phong trào “vơ sản hóa” do
Kỳ bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên phát động từ ngày 29-9-1928 đã
góp phần truyền bá tư tưởng vơ sản, rèn luyện cán bộ và xây dựng phát triển tổ chức
của công nhân.
-

Về mặt tổ chức
Tháng 11-1924: Nguyễn Ái Quốc sang Quảng Châu (Trung Quốc). Sau khi tiếp

xúc với Tâm tâm xã – một tổ chức yêu nước của thanh niên Việt Nam và nhận thấy họ
khơng hiểu gì về lý luận, lại càng không biết việc tổ chức, Nguyễn Ái Quốc lựa chọn
một số người tích cực và giác ngộ họ, lập ra Cộng sản đoàn (tháng 2-1925), gồm Lê
Hồng Phong, Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lưu Quốc Long, Trương Văn Lĩnh, Lê
Quảng Đạt và Lâm Đức Thụ
Tháng 6-1925 Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
với cơ quan tuyên truyền là tuần báo Thanh niên. Hội cơng bố tun ngơn, nêu rõ mục

đích tổ chức và lãnh đạo quần chúng đoàn kết, tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
Pháp và tay sai để tự cứu lấy mình. Để đào tạo một đội ngũ cán bộ cách mạng, sau khi
đến Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc mở nhiều lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu.
Phần lớn học viên là thanh niên, học sinh, trí thức Việt Nam yêu nước. Họ học làm cách
mạng, học cách hoạt động bí mật. Một số được chọn đi học ở trường Đại học Phương
Đông của Quốc tế Cộng sản, một số khác được cử đi học trường qn sự Hồng Phố,
cịn phần lớn bí mật về nước để “truyền bá lý luận giải phóng dân tộc và tổ chức nhân
dân”.
Từ năm 1925-1927, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã mở các lớp huấn
luyện chính trị cho cán bộ cách mạng Việt Nam. Hội đã xây dựng được nhiều cơ sở ở
các trung tâm kinh tế, chính trị trong nước. Năm 1928, Hội thực hiện chủ trương “vơ
sản hóa”, đưa hội viên vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để rèn luyện lập trường, quan

17 | T r a n g


điểm giai cấp công nhân; để truyền bá chủ nghĩa Mác Lê-nin và lý luận giải phóng dân
tộc nhằm thúc đẩy sự phát triển của phong trào cách mạng Việt Nam.
Cùng với việc đào tạo cán bộ, Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức ra các tờ báo Thanh
niên, Công nông, Lính cách mệnh, Tiền phong nhằm truyền bá Chủ nghĩa Mác Lê-nin
và Việt Nam. Quan điểm cách mạng của Nguyễn Ái Quốc đã thức tỉnh và giác ngộ quần
chúng, thúc đẩy phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân phát triển theo con đường
cách mạng vô sản.
Năm 1927, Bộ Tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản tác
phẩm Đường cách mệnh. Tác phẩm đó đã đề cập những vấn đề cơ bản của một cương
lĩnh chính trị, chuẩn bị về tư tưởng chính trị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam, Đường Cách mệnh có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với cách mạng Việt
Nam.

IV.


Quan điểm của anh/chị về ý kiến cho rằng ở Việt nam cần thực hiện
chế độ đa đảng lãnh đạo? Vì sao?
Xét trên bình dựa cơ sở khoa học cả về lý luận và thực tiễn, nhóm tác giả khẳng
định dứt khốt rằng: Ở Việt Nam hiện nay không cần và không chấp nhận chế độ đa
đảng.
Đầu tiên, dưới góc độ lý luận:
Trong lịch sử, chế độ đa nguyên, đa đảng đã sớm xuất hiện vào đầu thế kỷ XVIII.
Cơ sở lý luận cho việc thực hiện đa nguyên, đa đảng chính là chủ nghĩa đa nguyên một trường phái triết học xã hội tư sản do nhà triết học Đức Christian Wolff (16791754) đề xuất vào đầu thế kỷ XVIII. Chủ nghĩa đa nguyên phủ định tính thống nhất của
thế giới, cường điệu cái riêng; phủ nhận sự phân chia xã hội thành giai cấp, phủ nhận
đấu tranh giai cấp; chủ trương xây dựng một cơ chế quản lý xã hội theo nguyên tắc đa
lực lượng, đa đảng phái và các tổ chức đảng phái này quan hệ với nhau theo nguyên tắc
hiệp thương.
Trong các quốc gia có thể chế chính trị đa đảng, một đảng nào đó chiếm được đa
số (sau thắng lợi bầu cử), nhưng chưa đạt đến mức độ tuyệt đối thì phải liên minh với
một số đảng khác tạo thành một liên minh cầm quyền. Khi đó giữa các đảng có sự dàn
xếp với nhau, điều hịa về các vị trí chủ chốt trong nội các, điều hịa về chính sách và
18 | T r a n g


quyền lực. Đảng nào chiếm số lượng cử tri đông nhất thì đảng đó có nhiều đại biểu
trong quốc hội, có nhiều ghế trong chính phủ, chiếm nhiều vị trí chủ chốt trong chính
quyền nhà nước.
Trong các nước thực hiện chế độ một đảng, tính chất quyết định và sự nắm quyền,
cũng như sự chi phối của đảng đối với đời sống xã hội thể hiện rõ và tuyệt đối hơn trên
toàn bộ các yếu tố cấu thành nội dung của đảng cầm quyền. Đảng đó là lực lượng duy
nhất nắm chính quyền nhà nước, khơng chia sẻ bất kỳ cho ai, cho bất kỳ một lực lượng
xã hội nào.
Từ những vấn đề trên, có thể thấy chế độ đa đảng đây là một học thuyết phi mác
xít. Nếu áp dụng quan điểm này vào chủ nghĩa xã hội sẽ dẫn tới hạ thấp vai trò của Đảng

Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân thành một tổ chức tầm thường và
nguy cơ phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đồng thời, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã, đang và sẽ vẫn mãi xác định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng. Chính điều đó đã, đang
và sẽ mãi bảo đảm cho Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng chính trị duy nhất tồn tại, vững
mạnh, hồn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Do vậy, ở Việt Nam không cần
sự tồn tại của chủ nghĩa đa nguyên - một thứ cơ sở lý luận cho việc thực hiện chế độ đa
đảng
Thứ hai, trên bình diện thực tiễn:
Từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam ln là đội tiền phong, lãnh
tụ chính trị của giai cấp cơng nhân và tồn thể dân tộc Việt Nam, là người lãnh đạo và
tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Qua sự “sàng lọc” dữ dội của lịch sử
những thập kỷ đầu thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã lựa chọn Đảng
Cộng sản Việt Nam là người dẫn dắt mình đi đến tương lai hạnh phúc.
Trong thời kỳ 1930 - 1945, lịch sử Việt Nam đã chứng minh, chỉ có Đảng Cộng sản
Việt Nam chứ không cần thêm bất cứ một tổ chức, đảng phái chính trị nào khác lãnh
đạo cách mạng Việt Nam. Thắng lợi của công cuộc đấu tranh giành chính quyền mà
đỉnh cao là Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dẫn tới sự ra đời của Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà, đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc
lập, tự do, hạnh phúc và đi lên chủ nghĩa xã hội - đó chính là cơng lao to lớn của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
19 | T r a n g


Trong cuộc trường chinh 30 năm (1945-1975) kháng chiến giải phóng dân tộc
khỏi ách xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, một lần nữa lịch sử và nhân dân
lại lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất có sứ mệnh lãnh
đạo cách mạng Việt Nam. Trong thời kỳ này, bên cạnh Đảng Cộng sản Việt Nam cũng
tồn tại hai đảng khác là Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam. Tuy nhiên,
cả hai đảng này chưa bao giờ đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam, mà đều ủng hộ,

thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sau này hoàn toàn tự nguyện
giải tán. Cũng trong thời gian này, cịn có những đảng phái thân Pháp, thân Mỹ đối lập
với Đảng Cộng sản Việt Nam, đi ngược lại quyền lợi của dân tộc và lợi ích của nhân
dân lao động, nên cũng đã bị chính nhân dân ta đấu tranh loại bỏ.
Từ sau năm 1975 đến nay, nền chính trị nhất nguyên, với vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng được củng cố, phát triển toàn diện, đã một lần nữa
khẳng định tính tất yếu khách quan: Đảng Cộng sản Việt Nam độc tôn lãnh đạo sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà không cần sự tồn tại của nhiều đảng. Với bản
lĩnh, trí tuệ, “là đạo đức, là văn minh”, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân cả
nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đưa nước ta từ một nước nghèo nàn, lạc
hậu, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, vượt qua khủng hoảng gay gắt về kinh tế - xã
hội, trở thành một quốc gia đang phát triển hết sức năng động. Chính thực tiễn này đã
khẳng định, ở Việt Nam hiện nay không cần đa đảng và cũng đúng với nhận định của
đồng chí Nguyễn Phú Trọng: “Ở Việt Nam chưa thấy sự cần thiết khách quan phải
có chế độ đa đảng, ít nhất cho đến bây giờ”.
Tồn bộ quá trình cách mạng Việt Nam và hoạt động của Nhà nước Việt Nam
mới là do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nền chính trị của nước ta vẫn là nền chính
trị nhất ngun. Chế độ chính trị đó là do nhân dân ta lựa chọn từ chính những trải
nghiệm trong q trình lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, kháng chiến chống xâm
lược và trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Một trong những luận điệu tuyên truyền được các thế lực thù địch tập trung tung
hô, cổ suý nhiều nhất ở Việt Nam hiện nay là đa ngun chính trị, đa đảng đối lập để
“có dân chủ và phát triển”. Họ cho rằng: “Đa đảng là dân chủ, độc đảng là độc tài”; Việt
Nam phải đa đảng đối lập để có dân chủ “thực sự”; “muốn thực sự có dân chủ cho người
dân và phát triển xã hội phải thực hiện “đa nguyên, đa đảng” ... Chúng ta đều biết rằng,
20 | T r a n g


dân chủ là phạm trù lịch sử, xuất hiện khi có nhà nước và mỗi nền dân chủ phải gắn với
một nhà nước nhất định, được pháp luật quy định. Dân chủ tuỳ thuộc vào sự phát triển

kinh tế, văn hoá, xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Về điều này, C.Mác đã
chỉ rõ: “Quyền không bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát
triển văn hoá của xã hội do chế độ kinh tế xã hội đó quyết định”. Hãy xem chính
người Mỹ nói về nước Mỹ, một nước thực hiện chế độ đa đảng, thực chất là thế nào.
Họ nói rằng, nước Mỹ là một nước tự do, người dân tự do biểu tình, chửi bới, báo chí
tự do phanh phui những chuyện nhạy cảm, xuyên tạc, bôi xấu lẫn nhau vì sự cạnh tranh
của các đảng phái này nhằm hạ uy tín của đảng phái kia. Nhưng điều đó khơng phải là
bản chất thực sự của dân chủ. Nói Báo chí Mỹ tự do nhưng khi chúng ta thuê các kênh
truyền hình của Mỹ phát các hình ảnh về hậu quả của chất độc da cam ở Việt Nam thì
tất cả đều từ chối. Khi Chính phủ Mỹ giải tán vụ biểu tình ở phố Wall họ xem đó là việc
làm bình thường nhưng ở Việt Nam thì họ cho là đàn áp, mất dân chủ, rồi khẩu hiệu tại
phố Wall… “Khi người giàu ăn cắp của người nghèo, họ gọi đó là kinh doanh. Khi
người nghèo đứng lên tự vệ, họ gọi đó là bạo động” … Ở Mỹ, thực chất chỉ là một
đảng, đó là đảng của chủ nghĩa tư bản, dù là đảng Cộng hịa hay Dân chủ; Chỉ có hai
đảng này thay nhau cầm quyền và đều bảo vệ giai cấp tư sản Mỹ. Chúng ta nghe nói
Mỹ có hàng trăm đảng phái nhưng thực tế có đảng nào cầm quyền trong hàng trăm năm
qua ngồi Đảng Cộng Hịa và Đảng Dân Chủ.
Các thế lực thù địch “khuyên” chúng ta thực hiện đa đảng thì sẽ được dân chủ
hơn, đất nước sẽ phát triển hơn, đời sống nhân dân sẽ được tốt đẹp hơn. Cần nhớ lại một
bài học đau xót và thấm thía về thực thi dân chủ sai nguyên tắc ở Liên Xô trong thời
gian cải tổ. Những đơn thuốc “công khai hố”, “dân chủ hố”, “đa ngun chính trị”
đưa ra nhằm cải tổ chủ nghĩa xã hội lại tạo thời cơ, điều kiện thuận lợi cho các thế lực
thù địch ráo riết hơn, quyết liệt hơn trong mưu đồ chống phá và dẫn đến làm tan rã, đổ
vỡ chế độ xô viết.
Ở Việt Nam không thực hiện chế độ đa đảng khơng phải vì chúng ta bảo thủ, mất
dân chủ như các thế lực thù địch cố tình xuyên tạc, mà đó là u cầu khách quan, là vì
sự ổn định và phát triển của đất nước, vì sự phát triển của nền dân chủ và hạnh phúc
của nhân dân, để thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh
21 | T r a n g



Thực chất luận điệu đòi thiết lập “chế độ dân chủ đa nguyên, đa đảng”, là nhằm
hướng lái nền chính trị nước ta sang chính trị tư sản. Điều tệ hại dẫn đến sẽ là: Đất nước
diễn ra cảnh hỗn loạn, mất ổn định, đổ vỡ nền kinh tế, rơi vào thảm họa như đã từng
xảy ra ở một số nước. Thảm họa đó chắc chắn sẽ giáng cả lên đầu nhân dân. Và nhân
dân chỉ là cái cớ cho sự tranh giành quyền lực giữa các phe phái. Từ đó, chắc chắn hậu
quả đối với đất nước sẽ vơ cùng lớn, chế độ xã hội chủ nghĩa sẽ đứng trước nguy cơ bị
sụp đổ, thành quả cách mạng bao nhiêu năm có được sẽ tan vỡ; người dân khơng những
không được dân chủ, mà xã hội cũng rơi vào rối loạn, khủng hoảng, trì trệ, khơng phát
triển được.
Phải là người Việt Nam yêu nước thực sự mới thấm thía hết được giá trị của
những thành quả mà nhân dân ta đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam gần chín thập kỷ qua, mới có thể nhận thức được chế độ một đảng lãnh đạo là chân
lý đích thực của đất nước và quyết tâm phấn đấu theo chân lý đó./.

22 | T r a n g


Tài liệu tham khảo
[1] Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Hệ chuyên Lý luận chính trị), 2019.
[2] Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Hệ khơng chun Lý luận chính trị),
2019.

23 | T r a n g



×