Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

mối quan hệ giữa đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (958.33 KB, 48 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
LỜI MỞ ĐẦU 4
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG, ĐẦU TƯ CHIỀU SÂU
VÀ MỐI QUAN HỆ ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG, ĐẦU TƯ CHIỀU SÂU 5
I.NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ VÀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN 5
1.Khái niệm và phân loại 5
1.1Khái niệm đầu tư 5
1.2Khái niệm đầu tư phát triển 5
1.3Phân loại đầu tư 5
1.4Đặc điểm của đầu tư phát triển 6
2.Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư 7
2.1Thu nhập 7
2.2Chi phí 7
2.3Môi trường đầu tư 8
II.NỘI DUNG CỦA ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG, ĐẦU TƯ CHIỀU SÂU VÀ MỐI QUAN
HỆ ĐTCR VÀ ĐTCS 9
1.Đầu tư chiều rộng 9
1.1Khái niệm 9
1.2Nội dung của đầu tư chiều rộng 9
1.3Ưu, nhược điểm: 9
1.3.1.Ưu điểm 9
1.3.2.Nhược điểm 10
1.4Vai trò của đầu tư theo chiều rộng 10
2.Đầu tư theo chiều sâu 10
2.1Khái niệm: 10
2.2Nội dung và đặc điểm của đầu tư theo chiều sâu: 11
2.2.1.Nội dung đầu tư theo chiều sâu 11
2.2.2.Đặc điểm của đầu tư theo chiều sâu: 12
2.3Sự cần thiết khách quan phải có đầu tư theo chiều sâu: 13
3.Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu 14


3.1.ĐTCR là nền cơ sở, là bước đi đầu tiên để đầu tư chiều sâu 14
3.2.Đầu tư chiều sâu tiếp tục tạo tiền đề để đầu tư chiều rộng ở những phương diện mới 15
3.3.Đầu tư chiều sâu và đầu tư chiều rộng không tách rời nhau, đan xen và bổ sung lẫn
nhau trong quá trình thực hiện chiến lược đầu tư phát triển của doanh nghiệp và đầu tư
chiều sâu là chiến lược lâu dài của doanh nghiệp 16
4.Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu 17
4.1.Sự tác động từ yếu tố cung cầu thị trường 17
4.2.Đặc tính sản phẩm 18
4.2.1.Vòng đời của sản phẩm 18
4.2.2.Chu kỳ sống của sản phẩm 18
4.3.Môi trường vĩ mô 19
4.3.1.Môi trường tự nhiên 19
4.3.2.Môi trường kinh tế xã hội văn hoá 19
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG, CHIỀU SÂU VÀ MỐI QUAN
HỆ GIỮA ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG, ĐẦU TƯ CHIỀU SÂU 21
I.THỰC TRẠNG VỀ ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG, CHIỀU SÂU 21
1.Đầu tư theo chiều rộng 21
1.1Thành tựu của đầu tư theo chiều rộng 21
1.2Hạn chế của đầu tư theo chiều rộng 25

2.Thực trạng của đầu tư theo chiều sâu 26
2.1.Thành tựu 26
2.2.Hạn chế 28
II.THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ KẾT HỢP ĐẦU TƯ THEO CHIỀU RỘNG VÀ ĐẦU TƯ
THEO CHIỀU SÂU 30
1.Tình hình kết hợp đầu tư chiều rộng và chiều sâu ở nước ta hiện nay 31
2.Tình hình kết hợp đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu trong các doanh
nghiệp ở nước ta hiện nay 34
3.Những vấn đề tồn tại cần khắc phục để sự phối kết hợp đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều
sâu để đạt hiệu qủa cao 36

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP KẾT HỢP HÀI HÒA GIỮA ĐẦU TƯ CHIỀU SÂU
VÀ ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG 41
I.PHƯƠNG HƯỚNG NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG VÀ ĐẦU TƯ
CHIỀU SÂU TRONG DOANH NGHIỆP 41
1.Phương hướng nâng cao hiệu quả đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu trong doanh
nghiệp 41
1.1.Lựa chọn lĩnh vực đầu tư phù hợp với định hướng tổ chức, sắp xếp lại các doanh
nghiệp 41
1.2.Triệt để khai thác các nguồn lực xã hội, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư nhằm nâng cao
hiệu quả đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu trong các doanh nghiệp 42
II.MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KẾT HỢP ĐẦU TƯ CHIỀU
RỘNG VÀ ĐẦU TƯ CHIỀU SÂU TRONG DOANH NGHIỆP 42
1.Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư chiều rộng, đầu tư chiều sâu 42
Để đưa ra các giải pháp và thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư chiều rộng và đầu tư
chiều sâu thì cần có sự nỗ lực từ hai phía, đó là nhà nước và các doanh nghiệp. Với chức
năng của mình nhà nước sẽ tạo mọi điều kiện cho doanh nghiệp phát triển, bên cạnh đó các
doanh nghiệp cần phải nỗ lực hết mình nâng cao hiệu quả đầu tư 42
1.1.Về phía nhà nước 42
Nâng cao chất lượng trong công tác xây dựng chiến lược, qui hoạch, kế hoạch phát triển
lâu dài trong cả nước, ngành, vùng. Việc nâng cao công tác xây dựng chiến lược, qui
hoạch, kế hoạch phát triển lâu dài sẽ tạo phương hướng đúng đắn cho hoạt động đầu tư
trong doanh nghiệp 43
Hoàn thiện quản lý nhà nước về đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu cho các doanh
nghiệp, các tổ chức quản lý nhà nước về đầu tư, thực hiện dự án đầu tư 43
Tổ chức quản lý sau dự án đầu tư. Hoàn thiện quản lý chất lượng xây dựng cơ bản trong
quá trình đầu tư 43
Hoàn thiện cơ chế quản lý dự án đầu tư trong doanh nghiệp 43
Củng cố và phát triển các thị trường, nâng cao hiệu quả đầu tư chiều sâu và đầu tư chiều
rộng 43
1.2. Về phía doanh nghiệp 44

2.Kết hợp hài hòa mối quan hệ giữa đầu tư chiều sâu và đầu tư chiều rộng trong doanh
nghiệp 45
Trên thực tế, trong chiến lược đầu tư của doanh nghiệp thường kết hợp hai hình thức đầu
tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải có các giải pháp nhằm
tăng cường kết hợp hai hình thức đầu tư này một cách hiệu quả 45
Bên cạnh những biện pháp nhằm đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu riêng rẽ theo
hướng hiệu quả hơn ở trên thì ta cần phải kết hợp hai hình thức đầu tư này một cách hợp lý
để tăng cường ưu điểm của từng hình thức đầu tư 45
III.MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM KẾT HỢP ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG VÀ ĐẦU TƯ
CHIỀU SÂU ĐẠT ĐƯỢC HIỆU QUẢ CAO TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 46
KẾT LUẬN 47
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 49
2

LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2007 là năm đất nước ta đã đón chào nhiều sự kiện nổi bật và cùng với nó là
nhiều con số rất đáng tự hào. Đặc biệt, trong lĩnh vực đầu tư, lượng vốn đầu tư nước ngoài
thu hút được đã đạt mức cao nhất 20,3 tỷ USD, lượng kiều hối 5 tỷ đạt mức cao nhất…Đây
quả là những dấu hiệu tốt, những điều kiện tiền đề vô cùng quan trọng đối với nước ta, một
nước đang phát triển rất cần vốn cho hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng…Tuy nhiên, có
được vốn rồi thì một vấn đề không kém phần quan trọng là sử dụng vốn sao cho có hiệu
quả. Đây không chỉ là mối quan tâm hàng đầu của Nhà nước mà cũng là của các doanh
nghiệp. Đầu tư như thế nào để đem lại tăng trưởng kinh tế cho đất nước, lợi nhuận cao cho
doanh nghiệp?
Như chúng ta đã biết, xu hướng đầu tư hiện nay ở đất nước ta cũng như trên thế giới
chính là đầu tư chiều sâu kết hợp với đầu tư chiều rộng, mở rộng sản xuất. Tuy vậy, không
phải lúc nào hai hình thức này cũng được kết hợp một cách có hiệu quả trong nền kinh tế
và trong cả doanh nghiệp. Vậy thực trạng hai hình thức này ở Việt Nam ra sao? Thành tựu
mà chúng ta đạt được là gì? Làm thế nào để khắc phục được những hạn chế còn tồn tại?
Đây là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng, nó quyết định chất lượng, sự phát triển bền vững

của nền kinh tế và sự tồn tại, phát triển của mỗi doanh nghiệp. Do đó, chúng tôi, những
sinh viên của chuyên ngành đầu tư đã chọn nghiên cứu đề tài: “Mối quan hệ giữa đầu tư
chiều rộng và đầu tư chiều sâu”.
Đề tài gồm ba phần chính:
Phần 1: Những vấn đề lý luận chung về đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều
sâu và mối quan hệ giữa đầu tư chiều rộng, chiều sâu.
Phần 2: Thực trạng hoạt động đầu tư theo chiều rộng, đầu tư theo chiều sâu và mối
quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
Phần 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả mối quan hệ đầu tư
theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
Chúng em xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Từ Quang Phương đã giúp đỡ chúng em
hoàn thành bài thảo luận này.

3

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG, ĐẦU TƯ CHIỀU
SÂU VÀ MỐI QUAN HỆ ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG, ĐẦU TƯ CHIỀU SÂU
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ VÀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
1. Khái niệm và phân loại
1.1 Khái niệm đầu tư
Đầu tư theo nghĩa rộng là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt
động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn
các nguồn lực đã bỏ để đạt được kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư
là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải
gánh chịu khi tiến hành đầu tư.
Nguồn lực đó có thể là tiền, TNTN, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đó có
thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản vật chất và nguồn nhân lực có đủ điều kiện
để làm việc với năng suất cao.
Đầu tư là việc sử dụng phối hợp các nguồn lực vào một hoạt động nào đó nhằm thu
về mục đích và mục tiêu cho chủ đầu tư trong tương lai.

Theo phương diện tài chính: Đầu tư là một chuỗi hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư
nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn và sinh lời.
Theo phương diện tiêu dùng: Đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện tại để thu
về một mức tiêu dùng cao hơn trong tương lai.
1.2 Khái niệm đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là một phương thức của đầu tư trực tiếp. Hoạt động đầu tư này
nhằm duy trì và tạo ra năng lực mới trong sản xuất kinh doanh dịch vụ và sinh hoạt đời
sống của xã hội.
Đây là hình thức đầu tư trực tiếp tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, đơn vị sản xuất
và cung ứng dịch vụ. Hình thức đầu tư này đóng vai trò rất quan trọng đối với tăng trưởng
và phát triển của nền kinh tế tại mỗi quốc gia.
1.3 Phân loại đầu tư
Theo bản chất của đối tượng đầu tư: Đầu tư cho các đối tượng vật chất, Đầu tư cho
các đối tượng tài chính, đầu tư cho các đối tượng phi vật chất.
Theo cơ cấu tái sản xuất: Đầu tư chiều rộng, đầu tư chiều sâu.
Theo phân cấp quản lý: Tuỳ theo tính chất và quy mô đầu tư của dự án mà phân
thành dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A, B và C, trong đó, dự án quan trọng quốc
4

gia do Quốc hội quyết định, dự án nhóm A do Thủ tướng Chính phủ quyết định, nhóm B
và C do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc chính phủ, UBND
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định.
Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư: Đầu tư phát triển sản
xuất kinh doanh, Đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.
Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư: Đầu tư cơ bản, đầu tư vận hành.
Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội:
Đầu tư lĩnh vực lưu thông dịch vụ, đầu tư sản xuất.
Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi vốn đã bỏ ra của các kết
quả đầu tư: Đầu tư ngắn hạn, đầu tư trung hạn và đầu tư dài hạn.
Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư: Đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp.

Theo nguồn vốn: Vốn huy động trong nước, vốn huy động từ nước ngoài.
Theo vùng lãnh thổ: cách phân loại này phản ánh tình hình đầu tư của từng tỉnh, từng
vùng kinh tế và ảnh hưởng của đầu tư đối với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của từng
địa phương
1.4 Đặc điểm của đầu tư phát triển
Hoạt động đầu tư phát triển có những đặc điểm chủ yếu sau:
• Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường
rất lớn. Vốn đầu tư lớn và nằm khê đọng trong suốt qúa trình thực hiện đầu tư, đây là
cái giá phải trả khá lớn của ĐTPT. Lao động cần sử dụng cho các dự án rất nhiều
nhất là các dự án trọng điểm quốc gia.
• Thời kỳ đầu tư kéo dài: Thời kỳ đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện dự án đến khi
dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động.
• Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài: Các công trình đầu tư phát triển có
giá trị sử dụng lâu dài, có khi hàng trăm, hàng ngàn năm và thậm chí tồn tại vĩnh
viễn như các công trình kiến trúc nổi tiếng thế giới (Kim Tự Tháp cổ Ai Cập, nhà thờ
La Mã ở Rôm, Vạn lý trường thành ở Trung Quốc…). Đây là những thành tựu to lớn
của đầu tư phát triển.
• Các thành quả của các hoạt động ĐTPT sẽ là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở
ngay nơi mà nó được tạo dựng nên, do đó, các điều kiện về địa lý, địa hình, tập quán
sinh hoạt có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình thực hiện đầu tư, vận hành các kết quả
đầu tư của dự án.
• Đầu tư phát triển có rủi ro cao: Do quy mô vốn lớn, thời kỳ đầu tư kéo dài và thời
gian vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài… nên mức độ rủi ro của hoạt động
5

đầu tư thường cao. Như vậy, để hoạt động đầu tư có hiệu quả cần thực hiện các biện
pháp quản lý rủi ro như: nhận diện rủi ro, đánh giá mức độ rủi ro, xây dựng biện
pháp phòng chống rủi ro.
2. Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư
Hiệu quả của đầu tư chịu nhiều ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố tác động qua lại, đan

xen lẫn nhau. Thực chất, hiệu quả của đầu tư là lợi nhuận do hoạt động đầu tư mang lại.
Hay nói cách khác, các doanh nghiệp chỉ đầu tư khi dự kiến rằng hoạt động đầu tư (xây
dựng một nhà máy mới, mua một nhà máy mới, hay thay thế một dây chuyền công
nghệ… ) sẽ tạo ra cho họ lợi nhuận, nghĩa là họ sẽ thu về được một số tiền lớn hơn số tiền
do họ bỏ ra đầu tư. Điều đó chứng tỏ, hiệu quả của hoạt động đầu tư phụ thuộc vào 3 yếu
tố cơ bản là thu nhập, chi phí và môi trường đầu tư.
2.1 Thu nhập
Ở góc độ vĩ mô (phạm vi toàn bộ nền kinh tế): khi số lượng hàng bán ra tăng lên hay
số “đầu ra” có xu hướng tăng lên sẽ làm tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và tăng
trưởng kinh tế, mặt khác theo nguyên tắc gia tốc thì những thay đổi về sản lượng có thể
biến thành những thay đổi lớn hơn về đầu tư và như vậy sẽ làm tăng tỷ lệ đầu tư phát triển
trên GDP tức hiệu quả của đầu tư tăng.
Ở góc độ vi mô: sản phẩm bán được nhiều khiến cho doanh thu bán hàng tăng, khi
đó chi phí cố định không thay đổi mang lại lợi nhuận (lãi ròng) trực tiếp cho doanh nghiệp.
Theo đó, hiệu quả của đầu tư tăng lên tương ứng, tăng vòng quay vốn, rút ngắn thời gian
hoàn vốn, tăng đáng kể các chỉ tiêu NPV, B/C… ngược lại, sau đầu tư mà sản phẩm của
doanh nghiệp bán ra không tăng hoặc tăng chậm, doanh thu bán hàng không cao tức là đầu
tư không hiệu quả.
2.2 Chi phí
Chi phí đầu tư sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động
sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp chi ra để tiến hành hoạt động sản xuất trong
một chu kỳ kinh doanh nhất định.
Chi phí đầu tư sản xuất có nội dung rất phức tạp với nhiều phương pháp tính khác
nhau,nó có mối quan hệ chặt chẽ với chỉ tiêu kinh tế_kỹ thuật khác, ảnh hưởng đến các chỉ
tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư sản xuất:
Lãi suất: trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư ngoài các nội dung về thị trường, công
nghệ, quy mô… thì nội dung quan trọng và có ý nghĩa quyết định thực hiện dự án là khả
năng huy động vốn đầu tư. Cung về nguồn vốn đầu tư cho thấy nguồn vốn trong nước có
6


vai trò quyết định, vốn đầu tư nước ngoài là quan trọng, trong đó lãi suất là cầu nối giữa
cung và cầu vốn đầu tư. Có nghĩa là dù nhu cầu vốn đầu tư lớn nhưng lãi suất quá cao thì
khả năng cung cấp vốn đầu tư bị hạn chế, không thoả mãn được nhu cầu về vốn đầu tư.
Thuế: một yếu tố chi phí quan trọng khác ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế đầu tư đó
là thuế. Trong những năm gần đây, thực hiện đổi mới nền kinh tế, chính sách thuế của Việt
Nam thể hiện rõ quan điểm ưu tiên cho hoạt động đầu tư, miễn giảm 50% thuế doanh thu
từ 1-2 năm, thuế lợi tức doanh nghiệp từ 2-4 năm đối với những cơ sở mới thành lập và đi
vào sản xuất. Đặc biệt là đối với việc đầu tư nhằm đồng bộ hoá dây chuyền công nghệ và
hiện đại hoá máy móc thiết bị. Thể hiện, giảm 100% thuế nhập khẩu đối với nhập khẩu
máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ trọn bộ (không tính thuế doanh thu đối với thiết bị
trọn bộ đi liền với công trình xây dựng căn bản …). Điều đó đã thực sự mang lại hiệu quả
cho các nhà đầu tư, đồng thời khuyến khích đầu tư, đổi mới công nghệ, áp dụng những
thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất kinh doanh.
2.3 Môi trường đầu tư
- Ổn định về chính trị xã hội: chế độ chính trị xã hội của một quốc gia ổn định trong một
thời gian dài sẽ tạo lòng tin cho các nhà đầu tư, đây là điều kiện tiên quyết cho mọi ý
định và hành vi đầu tư. An toàn về vốn đòi hỏi môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, không
gặp rủi ro do các yếu tố chính trị xã hội hay môi trường pháp lý.
- Chế độ chính sách quản lý đầu tư: nó có thể gây ra nhiều thất thoát, lãng phí lớn khi
đồng vốn đầu tư bỏ ra không tương xứng với giá trị đầu tư làm cho đầu tư kém hiệu
quả. Nó tác động trực tiếp đến chất lượng công trình xây dựng cơ bản, làm giảm tuổi
thọ của các dự án, không đáp ứng đầy đủ chỉ tiêu hiệu quả đầu tư. Đồng thời cũng tác
động trực tiếp lên môi sinh, môi trường (có những dự án đầu tư mang lại hiệu quả kinh
tế nhưng làm tác hại lớn đến môi trường: chất thải, khí độc…)
- Chính sách đổi mới công nghệ: nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả đầu tư chiều sâu,
nếu không có chính sách công nghệ quốc gia phù hợp thì sẽ bị lệ thuộc về công nghệ,
gây lãng phí vốn…
- Hệ thống thông tin: hệ thống thông tin giúp các nhà đầu tư nắm bắt được nhu cầu của
sản phẩm và các sự phát triển của khoa học công nghệ trên thế giới … để các nhà đàu tư
có quyết định hiệu quả và chính xác.

Tóm lại, hiệu quả đầu tư chịu tác động của nhiều nhân tố. Muốn nâng cao hiệu quả
đầu tư trước hết ta cần phải nhận thức đầy đủ và đúng đắn về thực chất của các nhân tố tác
động để từ đó có những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế tối đa những ảnh hưởng tiêu
7

cực, thúc đẩy những ảnh hưởng tích cực, mang lại hiệu quả đầu tư tối ưu cho doanh
nghiệp…
II. NỘI DUNG CỦA ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG, ĐẦU TƯ CHIỀU SÂU VÀ MỐI
QUAN HỆ ĐTCR VÀ ĐTCS
1. Đầu tư chiều rộng
1.1 Khái niệm
Đầu tư chiều rộng là hình thức đầu tư trên cơ sở cải tạo và mở rộng cơ sở vật chất
kỹ thuật hiện có, xây dựng mới nhưng với kỹ thuật công nghệ không đổi.
1.2 Nội dung của đầu tư chiều rộng
Đầu tư chiều rộng là đầu tư xây dựng mới nhà cửa, cấu trúc hạ tầng theo thiết kế
được phê duyệt lần đầu làm tăng thêm lượng tài sản vật chất tham gia vào quá trình sản
xuất kinh doanh. Tuy vậy tính kỹ thuật của các công trình tài sản đó vẫn dựa trên những
thiết kế có sẵn chưa được cải tạo và hiện đại hoá.
Đầu tư chiều rộng là hoạt động mua sắm máy móc thiết bị để đổi mới thay thế cho
những thiết bị cũ theo một dây chuyền công nghệ đã có từ trước.
Đầu tư chiều rộng là mở rộng quy mô sản xuất mà không làm tăng năng suất lao
động. Đó là đầu tư cho cả bốn yếu tố của đầu vào là lao động, vốn, công nghệ và tài
nguyên một cách tương xứng như nhau, theo một tỷ lệ như cũ để sản xuất theo công nghệ
hiện tại.
Như vậy thực chất của đầu tư chiều rộng là để mở rộng quy mô sản xuất nhằm sản
xuất một khối lượng sản phẩm lớn hơn nữa trên cơ sở xây dựng mới thêm các hạng mục
công trình như nhà xưởng sản xuất, thuê thêm nhiều nhân công để đáp ứng khối lượng yêu
cầu tăng thêm của sản xuất và đào tạo cơ bản cho họ
có thể đáp ứng được công việc.
1.3 Ưu, nhược điểm:

1.3.1.Ưu điểm
• Đầu tư chiều rộng thành công tạo ra sự tăng nhanh về số lượng sản phẩm
• Dựa trên cơ sở khoa học công nghệ ban đầu, đầu tư theo chiều rộng không cần
tiến hành nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ mới, giảm được chi phí về
thời gian và tiền bạc.
8

• Đầu tư theo chiều rộng góp phần mở rộng quy mô nhà xưởng của doanh nghiệp ở
nhiều vùng địa phương, góp phần mở rộng thị trường tiêu thụ cũng như tăng khả
năng tiếp cận nguồn nguyên liệu đầu vào.
• Đầu tư theo chiều rộng tạo ra cho nền kinh tế hệ thống công trình xây dựng hoạt
động trong nhiều năm, tăng việc làm, giảm thất nghiệp.
1.3.2.Nhược điểm
• Đầu tư theo chiều rộng có thời gian dài, vốn nằm khê đọng lâu trong suốt quá
trình thực hiện đầu tư, nên chậm thu hồi vốn, độ rủi ro cao.
• Đầu tư theo chiều rộng làm gia tăng số lượng sản phẩm nhưng không làm tăng
khả năng cạnh tranh của sản phẩm, không làm tăng năng suất lao động.
• Lợi nhuận thu được từ đầu tư theo chiều rộng chủ yếu nhờ tăng số lao động sống
do vậy doanh nghiệp phải tuyển thêm nhiều lao động.
• Nếu chỉ đầu tư theo chiều rộng thì nền kinh tế khó có thể có được sự tăng tốc và
khó đạt hiệu quả cao.
1.4 Vai trò của đầu tư theo chiều rộng
Đầu tư theo chiều rộng có vai trò hết sức quan trọng.
Đối với toàn bộ nền kinh tế: Đầu tư theo chiều rộng là nhân tố làm tăng quy mô của
nền kinh tế, tạo đà cho nền kinh tế tăng trưởng với quy mô lớn hơn trước trên cơ sở xây
dựng mới và mở rộng nhiều vùng kinh tế, nhiều khu, cụm công nghiệp trên khắp cả nước.
Do đó nó còn thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế, thúc đẩy, tạo điều kiện
và hỗ trợ các vùng kinh tế chậm phát triển, vùng sâu vùng xa được tham gia vào quá trình
phát triển kinh tế của đất nước một cách tích cực hơn, mạnh mẽ hơn.
Đối với các doanh nghiệp: Đầu tư chiều rộng đi cùng với việc có thêm nhiều cơ sở

sản xuất kinh doanh được xây dựng thêm khiến cho quy mô sản xuất của các doanh nghiệp
được mở rộng, đưa năng suất tăng lên cho phép khai thác hiệu quả theo quy mô. Nó còn
góp phần tạo ra nhiều việc làm mới, giải quyêt công ăn việc làm cho người lao động ở các
địa phương; làm tăng doanh thu của các doanh nghiệp, góp phần làm tăng ngân sách nhà
nước, đóng góp vào đà tăng trưởng chung của nền kinh tế. Đầu tư chiều rộng có hiệu quả
càng nhiều thì doanh nghiệp càng có điều kiện về vốn, lao động tài nguyên, công nghệ để
phát triển sản xuất.
2. Đầu tư theo chiều sâu
2.1 Khái niệm:
9

Đầu tư theo chiều sâu là hình thức đầu tư cải tạo, mở rộng, nâng cấp thiết bị hoặc
đầu tư đổi mới dây truyền công nghệ trên cơ sở kỹ thuật công nghệ hiện đại nhằm nâng cao
năng suất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả đầu tư.
2.2 Nội dung và đặc điểm của đầu tư theo chiều sâu:
2.2.1.Nội dung đầu tư theo chiều sâu
Đầu tư chiều sâu nhằm làm tăng năng suất lao động. Đó là việc cải tạo nâng cấp,
đồng bộ hoá, hiện đại hoá dây chuyền công nghệ hiện có thay thế dây chuyền công nghệ
cũ. Đầu tư theo chiều sâu là hình thức đầu tư vào các yếu tố sau: đầu tư nguồn nhân lực,
đào tạo công nhân nâng cao trình độ để họ có thể thích ứng với công nghệ mới( có thể đào
tạo trực tiếp tại các doanh nghiệp hoặc liên kết đào tạo với các trung tâm dạy nghề, các
trường kỹ thuật); trang bị thêm máy móc; sử dụng thêm các loại nguyên liệu đầu vào mới
hay công nghệ mới để tăng sản lượng, giảm chi phí sản xuất với đội ngũ công nhân hiện
tại.
Thật vậy, với sự hội nhập và toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay, các doanh nghiệp
phải cạnh tranh với nhau để chiếm lĩnh được các thị trường, thị phần trong nước và quốc
tế. Tức là sản phẩm của họ phải được người tiêu dùng chấp nhận hơn các sản phẩm cùng
loại khác trên thị truờng. Để làm được điều đó các doanh nghiệp không còn cách nào khác
là phải tăng cường cải tạo, nâng cấp, đổi mới dây truyền công nghệ hiện có. Chỉ có thay
đổi công nghệ hiện đại mới làm cho năng suất lao động tăng, hạ giá thành sản phẩm, cải

tạo được mẫu mã sản phẩm, thu hút được người tiêu dùng, tăng đuợc doanh thu và nâng
cao được hiệu quả đầu tư.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực:Đầu tư chiều sâu bao gồm hoạt động phát triển
nguồn nhân lực và đầu tư để tổ chức lại bộ máy quản lý, phương pháp quản lý. Chất lượng
nguồn nhân lực và hiệu quả của bộ máy quản lý là một nhân tố hết sức quan trọng, quyết
định cho hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nếu một doanh nghiệp có đội ngũ nhân viên có
trình độ chuyên môn cao và dây truyền công nghệ hiện đại thì doanh nghiệp sản xuất được
sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu nguời tiêu dùng và thu đuợc lợi nhuận cao.
Nhưng nếu trình độ chuyên môn thấp sẽ không thể tiếp nhận công nghệ hiện đại dẫn tới
làm thất thoát lãng phí vốn đầu tư. Do đó, thành công thực sự của một doanh nghiệp là
phải biết kết hợp chặt chẽ giữa trình độ năng lực của nhân viên và dây truyền công nghệ
hiện có.
Đầu tư phát triển bộ máy quản lý và phương pháp quản lý là cách tốt nhất để hạn
chế
10

thất thoát lãng phí trong đầu tư nhất là đầu tư bằng vốn ngân sách nhà nước. Thật vậy, với
lợi thế của đội ngũ gần 300.000 doanh nghiệp đủ mọi thành phần, một nền kinh tế có tốc
độ tăng trưởng đứng vào hàng cao nhất thế giới, với đội ngũ nhân lực trẻ, nhiều tiềm năng
về khoáng sản, dịch vụ, vận tải…là những lợi thế cần khai thác. Mặt khác, khi Việt Nam
đã là thành viên của WTO và muốn duy trì tốc độ phát triển nhanh, bền vững chúng ta cần
một hệ thống luật pháp chặt chẽ, minh bạch, ổn định, tôn trọng và bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của người kinh doanh.
2.2.2.Đặc điểm của đầu tư theo chiều sâu:
Đầu tư theo chiều sâu phải gắn với công nghệ và đổi mới công nghệ. Hay nói một
cách khác nội dung chủ yếu của đầu tư chiều sâu là đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ
sử dụng máy móc, thiết bị, công nghệ mới. Tuy nhiên không thể đồng nhất được hai khái
niệm đó mà chỉ có thể hiểu đầu tư chiều sâu và đổi mới công nghệ có quan hệ mật thiết,
hữu cơ và luôn luôn đi liền với nhau. Đặt vấn đề đầu tư chiều sâu nhằm mục đích tạo ra
năng lực sản xuất mới bằng cách áp dụng biện pháp và quy trình tiến bộ hơn, nâng cao chất

lượng sản phẩm hay đầu tư vào khâu trọng yếu trong quá trình sản xuất ra sản phẩm… tất
cả những điều đó đều là kết quả cụ thể của đổi mới công nghệ. Đầu tư chiều sâu là nhân tố
quyết định đổi mới công nghệ, tạo điều kiện và khả năng cho đổi mới công nghệ. Đổi mới
công nghệ là nội dung, phương thức tiến hành hoạt động đầu tư chiều sâu có hiệu quả.
Với đầu tư chiều sâu thì tốc độ tăng vốn lớn hơn tốc độ tăng về lao động trong điều
kiện nước ta và các đang phát triển trên thế giới thì sức ép về lao động lại là vấn đề cấp
bách. Đặc điểm này đòi hỏi phải lựa chọn phương án đầu tư sao cho vừa kết hợp được
công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại vừa giải quyết công ăn việc làm cho người
lao động và tăng trưởng kinh tế.
Đầu tư chiều sâu làm giảm chi phí sản xuất tăng năng suất lao động và nâng cao hiệu
quả đầu tư
- Thông thường đầu tư chiều sâu được thực hiện theo trọng điểm, do đó chỉ tập trung
vào một số yếu tố nhất định như đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động, trang bị
thêm máy móc, thay thế các nguyên liệu đầu vào mới hay áp dụng công nghệ mới.
- Thời gian thực hiện đầu tư chiều sâu tương đối ngắn so với đầu tư chiều rộng do
khối lượng công việc ít đa dạng hơn. Do đó hình thức đầu tư theo chiều sâu ít mạo hiểm
hơn và có độ rủi ro thấp hơn so với đầu tư theo chiều rộng.
- Do chỉ tập trung đầu tư cho một số hạng mục công trình cho nên hình thức này sẽ
thuận lợi hơn cho việc quản lý; tuy nhiên do công việc có tính phức tạp về mặt công nghệ
cho nên đòi hỏi phải thi công với kỹ thuật cao.
11

- Đầu tư theo chiều sâu thu hồi vốn nhanh: Thông thường trong quá trình thực hiện
đầu tư việc sản suất vẫn có thể song song, thêm vào đó do khối lượng vốn đầu tư tương đối
nhỏ khiến cho việc thu hồi vốn diễn ra nhanh chóng.
2.3 Sự cần thiết khách quan phải có đầu tư theo chiều sâu:
Tiến bộ công nghệ là yếu tố cần thiết khách quan cho tăng trưởng bền vững hay
tăng chất lượng của tăng trưởng kinh tế. Đó là do tiến bộ công nghệ làm tăng hiệu quả sử
dụng các loại tài sản vốn và qua đó làm tăng năng suất lao động. Đối với các nước nghèo,
sản phẩm sản xuất ra sẽ không có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước

nếu như sử dụng công nghệ trình độ lạc hậu.
Trước xu hướng toàn cầu hoá các nước đang phát triển, nhất là nước nghèo, có
nhiều cơ hội để nhập công nghệ từ các nước phát triển, đặc biệt là thông qua con đường
đầu tư trực tiếp nước ngoài và tự do hoá thương mại. Quá trình toàn cầu hoá cũng làm cho
các nền kinh tế ngày càng phụ thuộc lẫn nhau hơn, thúc đẩy sự hình thành các liên minh
chiến lược, gia tăng xu hướng hợp nhất và mua đứt của các công ty xuyên quốc gia. Các
tập đoàn lớn đó đóng vai trò then chốt trong truyền bá kiến thức, thông tin, và chuyển giao
công nghệ trên thế giới. Tuy nhiên tốc độ phổ biến và chuyển giao công nghệ sẽ nhanh hơn
nếu như trình độ lao động hay vốn con người cũng tăng cả về số lượng và chất lượng. Đó
là một thách thức lớn đối với các nước nghèo nếu như các nước này không có khả năng
tiếp thu kiến thức và tiến bộ công nghệ mới và điều đó sẽ bất lợi cho tăng trưởng dài hạn
của các nước nghèo. Như vậy đầu tư chiều sâu để phát triển kinh tế của Việt Nam là vô
cùng quan trọng và cấp thiết vì nó quyết định sự tăng trưởng trong dài hạn của đất nước.
Hiện nay một chiến lược quan trọng trong quá trình CNH-HĐH đất nước là chú
trọng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng trong quá trình thực hiện có vấn đề
tồn tại: thị trường hạn hẹp, không ổn định, vốn ít, kỹ thuật công nghệ lạc hậu. Ngược lại do
vốn ít nên không có khả năng thay thế công nghệ mới, do đó sản phẩm không có khả năng
cạnh tranh trên thị trường và cũng không có thị trường. Bởi vậy cần thiết phải đầu tư theo
chiều sâu, phát triển năng lực sản xuất nhằm nâng cao năng xuất, hạ giá thành sản phẩm để
sản phẩm có thể chiếm được cảm tình của người tiêu dùng trên thị trường và có thể chiến
thắng được trong cạnh tranh.
Đường lối phát triển kinh tế của nước ta là tiến hành CNH-HĐH với phương châm
lấy khoa học công nghệ làm nền tảng, lấy hiệu quả KT-XH làm tiêu chuẩn cơ bản để xác
định phương hướng phát triển. Do đó cần thiết phải đầu tư theo chiều sâu, coi đó là động
lực trực tiếp thúc đẩy CNH-HĐH.
12

ĐTCS nhằm khai thác tối đa khả năng hiện có của doanh nghiệp, rút ngắn khoảng
cách tiến tới kỹ thuật sản xuất tiên tiến, công nghệ hiện đại, đạt hiệu quả KT-XH cao nhất,
tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý của nền sản xuất hiện đại phù hợp yêu cầu về trình độ tăng

trưởng trong những năm tiếp. Đầu tư theo chiều sâu là chiến lược tồn tại, phát triển lâu dài
của doanh nghiệp. Sau một thời gian mở rộng sản xuất kinh doanh nhằm chiếm lĩnh một
thị phần lớn hơn của sản phẩm trên thị trường, hay sau nhiều chu kì kinh doanh máy móc
thiết bị của doanh nghiệp đã bị hao mòn thì các doanh nghiệp đều cần phải tiến hành đầu tư
chiều sâu nhằm đổi mới lại thiết bị, tăng cường hàm lượng công nghệ, kỹ thuật cho các yếu
tố đầu vào. Có như thế sản phẩm của doanh nghiệp làm ra mới luôn luôn được đổi mới và
nâng cao về chất lượng, qua đó mới có thể cạnh trạnh được với các đối thủ và có được chỗ
đứng vững chắc trên thị trường.
Nhờ đầu tư chiều sâu thì doanh nghiệp có thể nâng cao năng suất lao động, nâng
cao chất lượng sản phẩm, do đó có điều kiện giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm
nhờ đó nâng cao được khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thương trường.
3. Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
3.1. ĐTCR là nền cơ sở, là bước đi đầu tiên để đầu tư chiều sâu.
Để có thể đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì bất kỳ doanh nghiệp nào cũng
cần có được một nền tảng cơ bản. Nền tảng cơ bản đó bao gồm hệ thống nhà xưởng, cơ sở
hạ tầng, máy móc trang thiết bị, công nhân lao động, đội ngũ cán bộ quản lý điều hành…
Những hoạt động này đòi hỏi một lượng vốn đầu tư ban đầu lớn. Do đó các doanh nghiệp
trong thời gian đâu thành lập thường có quy mô vừa và nhỏ. Trong quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh, doanh nghiệp sẽ tích luỹ để có vốn tiếp tục đầu tư. Lúc này, doanh nghiệp
cần tiến hành đầu tư chiều rộng để mở rộng hoạt động sản xuất của mình, củng cố vị trí của
mình trên thị trường. Sau khi đã có được một nền tảng vững chắc, một vị thế tốt trên thị
trường thì việc nâng cao hiệu quả sản xuất là rất cần thiết. Trên nền tảng có được thông
qua hoạt động đầu tư theo chiều rộng, doanh nghiệp sẽ tiến hành đầu tư theo chiều sâu như
hiện đại hoá, đổi mới công nghệ, áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến, đào tạo nâng cao
trình độ tay nghề cũng như trình độ quản lý điều hành…Những hoạt động này chỉ có thể
tiến hành khi đã có được một nền tảng vững chắc. Vì vậy, đầu tư chiều rộng đóng một vai
trò rất lớn đối với hoạt động đầu tư chiều sâu, nó là nền tảng, là cơ sở để hoạt động đầu tư
chiều sâu có hiệu quả.
Nếu xét cụ thể đối với một doanh nghiệp trẻ, mới thành lập thì đầu tư chiều rộng
chiếm chủ yếu bởi doanh nghiệp cần chú trọng xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cơ bản để

có thể tiến hành sản xuất. Tuy nhiên không phải vì thế mà sản phẩm của các doanh nghiệp
13

trẻ kém tính cạnh tranh hơn, bởi họ là những người đi sau có cơ hội áp dụng những công
nghệ tiên tiến hơn, xây dựng cơ sở ban đầu hoàn thiện và đồng bộ hơn. Chính vì vậy, lợi
thế này sẽ giúp các doanh nghiệp trẻ sau này tiến hành đầu tư chiều rộng có hiệu quả hơn.
Đối với một doanh nghiệp đã có vị thế trên thị trường thì việc kết hợp giữa đầu tư
theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu một cách hợp lý sẽ đem lại hiệu quả cao cho hoạt
động của mình. Quá trình hoạt động lâu dài sẽ khiến máy móc trang thiết bị của doanh
nghiệp bị hao mòn vô hình và hữu hình. Điều này là không thể tránh khỏi. Vì vậy, doanh
nghiệp cần bỏ vốn đầu tư thay thế máy móc, thiết bị cũ, tu sửa, cải tạo nhà xưởng…Sự tiến
bộ của khoa học công nghệ cùng sự tăng lên của thu nhập người tiêu dùng đòi hỏi sản
phẩm làm ra phải cải tiến về mẫu mã cũng như chất lượng và giá cả. Do đó việc duy trì
một công nghệ quá lâu sẽ khiến sản phẩm của doanh nghiệp không thể đáp ứng được yêu
cầu ngày càng cao của khách hàng, khó cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị
trường của các doanh nghiệp mới có công nghệ tiên tiến. Tình hình cạnh tranh ngày càng
gay gắt đó của thị trường buộc doanh nghiệp phải có sự thay đổi trong công nghệ cũng như
trong quản lý hay nâng cao trình độ công nhân…để từ đó có khả năng tăng năng suất lao
động, hạ giá thành sản phẩm. Tóm lại, doanh nghiệp phải kết hợp một cách khoa học và
khéo léo đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu để đem lại lợi ích lâu dài cho
doanh nghiệp.
3.2. Đầu tư chiều sâu tiếp tục tạo tiền đề để đầu tư chiều rộng ở những phương diện
mới.
Đầu tư chiều sâu là động lực thúc đẩy doanh nghiệp tiếp tục sản xuất, tiến hành đầu
tư theo chiều rộng. Khi doanh nghiệp đầu tư theo chiều sâu thành công, doanh nghiệp sẽ
bắt kịp về trình độ khoa học công nghệ hiện đại, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá
thành cũng như hoàn thiện hơn công tác quản lý trong doanh nghiệp góp phần tăng khả
năng cạnh tranh trên thị trường. Một nền tảng mới được thiết lập đòi hỏi doanh nghiệp có
sự củng cố, mở rộng hơn nữa những gì đã làm được. Vì vậy lúc này đến lượt đầu tư chiều
rộng cần được tiến hành.

Với nền tảng mới do đầu tư chiều sâu tạo ra, đầu tư chiều rộng sẽ được tiến hành
trên những phương diện mới, đưa doanh nghiệp lên vị thế mới với trình độ cao hơn. Đầu tư
theo chiều sâu có hiệu quả sẽ tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp có thể đầu tư nghiên
cứu và sản xuất các sản phẩm mới hoặc các lĩnh vực kinh doanh có tiềm năng; tạo đà cho
doanh nghiệp có thể chuyển từ đơn sản phẩm thành đa sản phẩm hay từ đơn lĩnh vực thành
đa lĩnh vực, qua đó doanh nghiệp lại tiếp tục đầu tư theo chiều rộng trên những phương
diện mới. Và từ đó, doanh nghiệp có thể khẳng định được vị thế của mình trên thị trường,
14

duy trì tốc độ tăng trưởng, đồng thời không ngừng phát triển cả về chiều sâu lẫn chiều
rộng. Nhu cầu của thị trường là rất đa dạng, biến động, yêu cầu ngày càng cao về mọi mặt
nên đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn linh hoạt trong vấn đề phối kết hợp đầu tư theo chiều
rộng và theo chiều sâu.
3.3. Đầu tư chiều sâu và đầu tư chiều rộng không tách rời nhau, đan xen và bổ sung
lẫn nhau trong quá trình thực hiện chiến lược đầu tư phát triển của doanh nghiệp
và đầu tư chiều sâu là chiến lược lâu dài của doanh nghiệp.
Đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu có mối quan hệ tác động qua lại, hỗ trợ nhau.
Đầu tư theo chiều rộng sẽ tạo ra cơ sở nền tảng để tiến hành đầu tư chiều sâu. Đến lượt
mình thì đầu tư chiều sâu lại thúc đẩy hoạt động đầu tư chiều rộng. Hai hoạt động này
không thể tách rời nhau được. Nếu không có hoạt động đầu tư chiều rộng tiến hành trước
để tạo ra cơ sở vật chất cũng như nền tảng ban đầu cho doanh nghiệp thì không thể nào có
được hoạt động đầu tư chiều sâu. Và nếu chỉ tiến hành hoạt động đầu tư chiều rộng thì
lượng sản phẩm sản xuất ra quá lớn mà không có sự thay đổi để đáp ứng tốt hơn nữa yêu
cầu của khách hàng thì sẽ khó tiêu thụ sản phẩm, gây ứ đọng vốn.
Không ngừng bổ sung và hoàn thiện cho nhau nhưng hai hoạt động này cũng có tác
động kiềm chế lẫn nhau. Không phải lúc nào đầu tư theo chiều rộng cũng có tác dụng là
động lực thúc đẩy đầu tư theo chiều sâu. Đầu tư theo chiều rộng không hợp lý, tràn lan thì
lại hạn chế hiệu quả của hoạt động đầu tư theo chiều sâu của doanh nghiệp.
Nếu đầu tư theo chiều rộng tạo ra một cơ sở vật chất không phù hợp và đồng bộ như
nhà xưởng không đúng quy cách, hay dây chuyền máy móc nhập lúc đầu quá lạc hậu hoặc

quá tiên tiến, sự chênh lệch về trình độ công nghệ quá lớn giữa các bộ phận sản xuất… sẽ
dẫn đến tình trạng làm đầu tư chiều sâu không phát huy được hiệu quả, gây lãng phí, thất
thoát. Doanh nghiệp không thể phát triển lên được nếu đứng trên một nền tảng không vững
vàng như vậy.
Hơn nữa tiềm lực của mỗi doanh nghiệp là có hạn, do đó, đầu tư theo chiều rộng
một cách tràn lan, không đồng bộ, không có trọng tâm, trọng điểm sẽ làm hạn chế vốn và
nguồn lực của doanh nghiệp khi đầu tư theo chiều sâu. Bởi một trong những đặc điểm của
hoạt động đầu tư theo chiều rộng là cần lượng vốn lớn, thời gian khê đọng vốn dài nên khi
đã đầu tư thì sẽ rất khó rút lại. Nếu tiến hành hoạt động đầu tư chiều rộng trong điều kiện
nhu cầu hàng hoá trên thị trường đang bắt đầu bão hoà, hay tiến bộ khoa học công nghệ
đang tạo ra một loại sản phẩm mới chất lượng cao hơn thì sau khi tiến hành đầu tư chiều
rộng xong khối lượng sản phẩm làm ra là rất lớn nhưng khả năng tiêu thụ đã giảm. Do đó
doanh nghiệp sẽ khó thu hồi vốn, hiệu quả đầu tư tạo ra là không cao.
15

Ngược lại, đầu tư theo chiều sâu không hiệu quả sẽ làm cho doanh nghiệp không có
đủ điều kiện để tiếp tục đầu tư chiều rộng mở rộng sản xuất. Trong bối cảnh hiện nay, khoa
học công nghệ đang hết sức phát triển do đó rất nhiều loại máy móc trang thiết bị hiện đại
đắt tiền được tạo ra. Nhưng những công nghệ đó khi đưa vào sử dụng ở nước ta thì không
phải lúc nào cũng phù hợp. So với thế giới, thu nhập và trình độ chung của nước ta còn
chưa cao. Nếu tiến hành đầu tư theo chiều sâu với những trang thiết bị hiện đại nhập từ
nước ngoài về thì chi phí sản xuất sản phẩm sẽ là rất cao, dẫn đến sản phẩm sẽ có giá thành
cao. Hoặc máy móc quá hiện đại tạo ra những sản phẩm cũng hiện đại không kém nhưng
người tiêu dùng thì không thể sử dụng hết các tính năng của nó. Dù trong trường hợp nào
thì sản phẩm của doanh nghiệp cũng trở nên khó tiêu thụ. Do đó, hiệu quả đầu tư là không
có, không thu hồi được vốn, gây lãng phí vốn đầu tư. Hơn nữa, không thu được lợi nhuận,
thậm chí thất thu làm giảm khả năng tích lũy của doanh nghiệp. Điều này làm hạn chế khả
năng mở rộng sản xuất của doanh nghiệp.
Tóm lại, đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu có mối quan hệ vô cùng
mật thiết. Hoạt động này góp phần làm tăng hiệu quả của hoạt động kia và ngược lại. Đồng

thời, sự kém hiệu quả của hoạt động này cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động
kia. Do đó, để thực hiện đầu tư có hiệu quả thì doanh nghiệp cần xem xét đầy đủ, nghiên
cứu kỹ lưỡng để phối kết hợp một cách hợp lý hai hình thức đầu tư này, tạo nên sức cạnh
tranh và chỗ đứng vững chắc trên thị trường.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu
Kết hợp đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu là không thể thiếu trong sự
phát triển của mỗi nền kinh tế. Việc xem xét chúng có thể đứng trên nhiều góc độ khác
nhau song để vấn đề được làm sáng tỏ hơn ở đây trong bài viết này xem xét dưới góc độ
của doanh nghiệp.
4.1. Sự tác động từ yếu tố cung cầu thị trường
Cung cầu là hai yếu tố mật thiết có tác động đan xen, chi phối quá trình đầu tư.
Trong đó, cầu thị trường là yếu tố cần có, chi phối việc ra quyết định đầu tư. Khi cầu về
sản phẩm cao, sản lượng không đáp ứng đủ nhu cầu thị trường thì doanh nghiệp nên tiến
hành đầu tư theo chiều rộng (mở rộng quy mô các yếu tố đầu vào như nguyên liệu, lao
động…) nhằm tận dụng lợi thế theo quy mô đáp ứng nhu cầu thị trường. Ngược lại, nếu
cầu sản phẩm thấp, dây chuyền công nghệ lạc hậu doanh nghiệp nên bắt đầu từ việc cải
tiến công nghệ, tăng chất lượng sản phẩm, mẫu mã hoặc tìm ra sản phẩm mới đáp ứng nhu
cầu mới của khách hàng.
16

Tương tự như cầu, cung cũng có tác động trực tiếp đến việc quyết định đầu tư. Việc
đầu tư theo chiều rộng sẽ được áp dụng khi các nhà sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu
trên thị trường. Còn ngược lại, khi cung thị trường quá cao đòi hỏi các nhà cung ứng đầu tư
theo chiều sâu.
Cung và cầu là hai yếu tố quan trọng để nhà đầu tư ra quyết định đầu tư theo chiều
rộng hay chiều sâu. Do đó, trước khi ra quyết định đầu tư doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ
cung cầu trên thị trường và đánh giá đúng khả năng của mình.
4.2. Đặc tính sản phẩm
4.2.1.Vòng đời của sản phẩm
Đối với những loại hàng hóa, dịch vụ có tuổi thọ ngắn như lương thực thực phẩm,

vật dụng sinh hoạt, các sản phẩm công nghiệp chế biến… việc thay đổi mẫu mã, chất
lượng sản phẩm phải được tiến hành một cách thường xuyên. Vì nếu không thay đổi thì các
sản phẩm nhanh bị đào thải, lãng quên trên thị trường. Trong trường hợp này cần tiến hành
đầu tư cải tiến công nghệ, làm chất lượng sản phẩm được nâng cao, mẫu mã phong phú.
Ngược lại, với những mặt hàng mang tính chất lâu bền và có giá trị lớn thì các hãng
thường cạnh tranh với nhau về chất lượng sản phẩm. Do đó với những sản phẩm này nên
đầu tư theo chiều sâu.
4.2.2.Chu kỳ sống của sản phẩm
Chu kì sống của sản phẩm là khoảng thời gian kể từ khi hàng hóa được tung ra cho
đến khi nó phải rút lui khỏi thị trường. Các nhà đầu tư đều muốn kéo dài chu kỳ sống của
sản phẩm nhằm đạt được hiệu quả cao nhất so với nguồn lực đã bỏ ra. Muốn vậy, doanh
nghiệp phải nắm được diễn biến của chu kỳ sống, đặc điểm của sản phẩm để điều chỉnh
chiến lược đầu tư cho thích hợp. Chu kì sống sản phẩm thường được chia làm bốn giai
đoạn, mỗi giai đoạn có những cách thức gia nhập thị trường khác nhau, có quyết định đầu
tư khác nhau để đạt hiệu quả cao nhất :
- Giai đoạn hình thành sản phẩm : Ở giai đoạn này, sản phẩm vừa được tung ra thị
trường, khách hàng bắt đầu làm quen với sản phẩm, chưa có nhiều nhà cung cấp. Khi đó,
đầu tư sản xuất sản phẩm này chủ yếu sử dụng những công nghệ sẵn có chưa cần thiết phải
đổi mới, cần tập trung vào quảng bá sản phẩm.
- Giai đoạn phát triển : Sau một thời gian, đã có nhiều người sử dụng và ưa thích sản
phẩm, cầu sản phẩm tăng do đó ta nên cần tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất . Bên cạnh đó
cũng cần có sự nghiên cứu nhằm cải tiến kỹ thuật để có thể đáp ứng với số lượng lớn hơn,
sản phẩm có chất lượng tốt hơn.
17

- Giai đoạn bão hòa: Lúc này sản phẩm đã tràn ngập thị trường, khách hàng có nhu
cầu thay đổi nhu cầu do đó muốn cần thức đầu tư theo chiều sâu. Việc đổi mới công nghệ,
nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã để đưa ra sản phẩm mới có khả năng cạnh tranh trên
thị trường.
- Giai đoạn suy thoái: Đây là giai đoạn mà mức tiêu thụ sản phẩm bắt đầu giảm sút rõ

rệt. Vì thế vấn đề đặt ra trong hoạt động đầu tư lúc này là làm sao kết hợp hài hòa các hình
thức đầu tư. Việc đổi mới, cải tiến công nghệ để tìm ra sản phẩm mới có khả năng được thị
trường chấp nhận. Đồng thời thu hẹp dần quy mô của sản phẩm cũ và mở rộng quy mô của
sản phẩm mới nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường.
4.3. Môi trường vĩ mô
Môi trường vĩ mô bao gồm rất nhiều yếu tố như môi trường tự nhiên, kinh tế, chính
trị, văn hóa… tất cả đều có tác động trực tiếp hay gián tiếp đến giai đoạn chuẩn bị, thực
hiện và vận dụng các kết quả đầu tư .
4.3.1.Môi trường tự nhiên
Môi trường tự nhiên bao gồm các yếu tố tự nhiên ảnh hưởng nhiều mặt tới các nguồn
lực đầu vào của hoạt động sản xuất kinh doanh. Đặc biệt là những ngành phụ thuộc chặt
chẽ vào môi trường tự nhiên như ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, khai thác chế biến thủy
hải sản …thì việc mở rộng, phát triển các ngành này luôn phải gắn liền với việc nghiên cứu
môi trường tự nhiên. Ngoài ra môi trường tự nhiên là điều kiện tiên quyết để đánh giá cơ
hội đầu tư. Tài nguyên thiên nhiên khoáng sản, nguyên liệu là yếu tố đầu vào không thể
thiếu cho rất nhiều ngành nhất là ngành công nghiệp khai khoáng. Do đó cần đánh giá kỹ
số lượng, chất lượng các nguồn tài nguyên trước khi ra quyết định đầu tư. Tránh tình trạng
sử dụng lãng phí các nguồn tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường.
4.3.2.Môi trường kinh tế xã hội văn hoá
- Môi trường kinh tế trước hết phản ánh ở tốc độ tăng trưởng kinh tế của cả nước. Từ
đó có thể xác định được nhu cầu thị trường khi tốc độ tăng trưởng đang ở mức cao và có
biện pháp kích cầu khi nền kinh tế đang suy thoái.
- Môi trường chính trị: Sự ổn định về chính trị cũng như những đảm bảo về mặt pháp
lý liên quan đến quyền sở hữu và tài sản có ý nghĩa quan trọng ảnh hưởng rất lớn đến ý
định và hành vi của nhà đầu tư. Theo đánh giá của WB năm 2005 thì mức độ tin tưởng của
doanh nghiệp vào tương lai- kể cả độ tin cậy trong chính sách của nhà nước, sẽ quyết định
việc doanh nghiệp có đầu tư hay không và đầu tư như thế nào.
18

- Môi trường văn hóa: Văn hóa là một vấn đề khó nhận biết và hiểu một cách thấu

đáo, mặc dù nó tồn tại ở khắp mọi nơi và thường xuyên tới toàn bộ quá trình chuẩn bị, tiến
hành đầu tư. Văn hóa tác động trực tiếp đến những người thực hiện hoạt động đầu tư và
sau đó tác động đến việc lựa chọn những người tiêu dùng sản phẩm đầu tư đó .
- Lực lượng lao động: Là yếu tố tác động trực tiếp đến quá trình đầu tư, khi nguồn
lao động ở một vùng hay một ngành phù hợp và đáp ứng được những yêu cầu sẽ kích thích
được hoạt động đầu tư của ngành đó, vùng đó. Với vai trò như vậy việc đầu tư vào lực
lượng lao động là lĩnh vực đầu tư không thể thiếu trong mỗi doanh nghiệp.
19

CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG, CHIỀU SÂU VÀ MỐI
QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG, ĐẦU TƯ CHIỀU SÂU
I. THỰC TRẠNG VỀ ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG, CHIỀU SÂU
Năm 2007, năm đầu tiên gia nhập WTO, kinh tế Việt Nam có những thành tựu nổi
bật trong nhiều lĩnh vực với những con số ấn tượng. Tăng trưởng kinh tế đạt 8.5%, mức
tăng cao nhất trong 10 năm qua. kỷ lục thu hút FDI, ODA, kiều hối: tổng vốn FDI năm
2007 đã đạt mức kỷ lục 20,3 tỷ USD. Lượng kiều hối của kiều bào ở nước ngoài chuyển về
qua các dịch vụ ngân hàng cũng tăng đột biến, đạt mức 6 tỉ USD. Bất ngờ không kém là
lượng vốn ODA. Tại hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (CG2007), cộng
đồng tài trợ quốc tế cũng cam kết viện trợ cho Việt Nam hơn 5,4 tỉ USD, mở ra nhiều kênh
ODA mới giúp Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình vào năm 2010.
1. Đầu tư theo chiều rộng
1.1 Thành tựu của đầu tư theo chiều rộng
Thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 – 2010, nền kinh tế Việt Nam
đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Nổi bật là nước ta đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế
tương đối cao, trung bình 7,5 %/ năm. Chất lượng cuộc sống cả về vật chất lẫn tinh thần
được tăng lên rõ rệt. Đời sống của đại bộ phận dân được cải thiện không ngừng.
GDP/người tăng từ khoảng 290 USD năm 1995 lên khoảng 630 USD năm 2005.
Quy mô vốn đầu tư xã hội của Việt nam không ngừng tăng qua các năm, trung bình
năm trong thời kì 1996-2004 đạt khoảng 13% riêng năm 2004 và 2005, mức tăng này đạt
khoảng 17%.

Bảng 1: Tốc độ tăng vốn đầu tư
Năm
Tốc độ tăng vốn đầu tư (%)
2000 15.3
2001 12.5
2002 14.4
2003 12.9
2004 11.6
Nguồn: Tổng cục Thống Kê: Niên giám thống kê, nhà xuất bản thông kê Hà Nội 2004
20

Biểu đồ 1: Tốc độ tăng vốn đầu tư
Trong những năm qua, nhờ mở rộng sản xuất, nhiều doanh nghiệp mới được thành
lập trên mọi lĩnh vực của nền kinh tế, giúp giải quyết công ăn việc làm cho người lao động,
nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho người lao động. Thị trường ngày càng được mở
rộng, phát triển, sản phẩm sản xuất ra ngày càng nhiều và đa dạng hơn, đáp ứng tốt hơn
nhu cầu ngày càng cao của dân cư. Trong 3 năm kể từ 2001 – 2003, khu vực doanh nghiệp
đã thu hút thêm 1464 nghìn lao động, thu nhập của lao động khu vực doanh nghiệp, bình
quân 1.25 triệu đồng / tháng cao hơn nhiều so với khu vực cá thể và hộ gia đình.
Việc thi hành Luật doanh nghiệp mới từ năm 2000, đã tạo xung lực mới cho sự
phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp ngoài nhà nước. Số lượng doanh nghiệp ngoài
nhà nước đăng ký hàng năm tăng lên nhanh chóng. Nếu năm 2001, có 19773 doanh nghiệp
đăng ký với số vốn 25.610 tỷ đồng, thì năm 2005, có 45.162 doanh nghiệp với số vốn lên
tới 108.800 tỷ đồng. Năm 1996, các doanh nghiệp công nghiệp ngoài nhà nước trong nước
chiếm 23,5% tổng giá trị sản xuất công nghiệp, đến năm 2005, tỷ trọng này có thể lên đến
gần 28%. Sự phát triển mạnh mẽ của khu vực kinh tế này đã thu hút được lượng vốn lớn
sẵn có trong nước vào đầu tư phát triển và đóng góp vào xuất khẩu. Nếu năm 2001, vốn
đầu tư của dân cư và tư nhân (tính theo giá cố định năm 2000) mới là 37,8 ngàn tỷ đồng,
chiếm 23,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, thì năm 2005 vốn đầu tư của khu vực này đã lên
tới 65,9 ngàn tỷ đồng, tăng 1,7 lần, chiếm 27,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.

Cùng với đó, khu vực tư nhân cũng tăng lên đáng kể về số lượng và quy mô của
các doanh nghiệp. Kể từ năm 2000, số lượng doanh nghiệp của tư nhân mới đăng ký liên
21

tục tăng nhanh. Năm 2000, số doanh nghiệp được đăng ký là 14413, đến năm 2004, con số
này là 36.795. Theo ước tính của bộ KH- ĐT, trong 5 năm (2001-2005) có 152.004 doanh
nghiệp của tư nhân đăng ký kinh doanh, đưa tổng số doanh nghiệp tư nhân của nước ta đến
năm 2005 lên khoảng 20 vạn. Theo báo cáo của UBND các tỉnh, thành phố, có khoảng 80
– 85 % số doanh nghiệp đăng ký đang hoạt động.
Cũng trong 5 năm từ năm 2001 -2005, cả nước đã tăng thêm được 65 khu công
nghiệp với diện tích 10.005 ha. Số khu công nghiệp được thành lập thời kỳ này đã chiếm
tới 1/2 tổng số khu công nghiệp được thành lập từ 1991 đến nay. Các khu công nghiệp
được phát triển rộng rãi trên các vùng lãnh thổ của đất nước, trong đó miền bắc chiếm hơn
1/4, miền nam chiếm gần 1/2 tổng số các khu công nghiệp.
Bảng 2: Tình hình phát triển các KCN thời kỳ 2001- 2005
Năm Số KCN được cấp
giấy phép
Tổng số KCN
luỹ kế
Diện tích KCN mới &
MR(ha)
2001 3 68 390
2002 10 78 2836
2003 21 99 3622
2004 15 114 4020
2005 16 130 3387
Nguồn:Vụ quản lý KCN, Bộ KH và ĐT, 2005.
Trong thời kỳ này, giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp trong KCN&
khu chế xuất đạt khoảng 44 tỷ $, tăng bình quân 32%/năm, giá trị xuất khẩu đạt trên 21 tỷ
$, tăng bình quân 32%/năm. Riêng năm 2005, tổng kinh ngạch xuất nhập khẩu của doanh

nghiệp trong khu công nghiệp và khu chế xuất đạt 14,4 tỷ $, bằng 21,5 % tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu của cả nước.
Nhìn chung, tốc độ phát triển đầu tư và sản xuất công nghiệp trong khu công
nghiệp đều cao hơn tốc độ phát triển chung của toàn bộ công nghiệp. Cùng với sự hình
thành các khu công nghiệp tập chung, nhiều địa phương đã xác định các khu công nghiệp
vừa và nhỏ với diện tích từ 10 ha đến 30 ha để giải quyết khó khăn về mặt sản xuất, khắc
phục tình trạng ô nhiễm môi trường trong phát triển công nghiệp nông thôn, đặc biệt là
phát triển các làng nghề truyền thống.
Xét theo đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực trong nền kinh tế, đầu tư chiều rộng
cũng đạt nhiều thành tựu đáng kể. Trước hết, về công nghiệp và xây dựng, tốc độ tăng
trưởng giá trị gia tăng bình quân tăng trong 5 năm (2001 – 2005) là 10,3% cao hơn nhiều
so với tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của nền kinh tế và được coi là đầu tầu tăng trưởng
của toàn bộ nền kinh tế. Nhờ đẩy mạnh đầu tư chiều rộng, năng lực sản xuất của nhiều
ngành công nghiệp tăng đáng kể đáp ứng nhu cầu thiết yếu của đời sống kinh tế và đóng
22

góp lớn cho xuất khẩu. Giá trị công nghiệp xuất khẩu trong 5 năm (2001 – 2005) hơn 79
tỷ$, chiếm 73% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Những sản phẩm đạt giá trị xuất
khẩu của cả nước. Những sản phẩm đạt giá trị xuất khẩu lớn năm 2005 là dầu thô 7378
triệu $, dệt may 4806 triệu $, giầy dép 3005 triệu $, điện tử là 1442 triệu $, sản lượng một
số ngành công nghiệp không nhừng tăng qua các năm:
Bảng 3: Sản lượng của một số ngành công nghiệp
Tên sản phẩm Đơn vị 1995 2000 2005
Than sạch triệu tấn 8.3 11.6 32.6
Dầu thô triệu tấn 7.6 16.3 18.5
Sữa triệu hộp 173 227 365
Vải lụa triệu mét 263 356 499
Giấy bìa Nghìn tấn 216 408 897
Phân hoá học nghìn tấn 931 1210 2182
Xi măng triệu tấn 5.8 13.3 27.8

Thép nghìn tấn 470 1583 3655
Động cơ điện nghìn cái 29.7 45.8 104.5
Ti vi lắp ráp nghìn cái 770 1013 2353
Ô tô lắp ráp nghìn cái 3.5 13.5 64.6
Điện phát ra tỷ kwh 14.6 26.6 53.3
Nguồn: Thời báo kinh tế, kinh tế Việt Nam & Thế giới, năm 2001 – 2005
Giá trị Công nghiệp liên tục trong 15 năm qua (1991 – 2005) tăng trưởng 2 chữ số,
riêng giai đoạn 2001 – 2005, tăng bình quân 15.7% cao hơn so với mức 13.9 % cuả giai
đoạn 1996 – 2000, mức 13.7% giai đoạn 1991- 1995, 5.5%của giai đoạn 1986-1990.
Bên cạnh đó, lĩnh vực nông nghiệp cũng có rất nhiều thành tựu đáng kể, vốn đầu tư
cho nông, lâm thuỷ sản liên tục tăng, mặc dù tỷ lệ này có xu hướng giảm.
Bảng 4: Vốn đầu tư phát triển dành cho nông lâm - thuỷ sản
Năm 1995 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Tổng số (tỷ
đồng)
72447 15118
3
17049
6
199104.
5
131616.
2
27500 324000
Cho NLTS (tỷ
đồng)
9614.3 20933 16414 17448.1 19575.5 23300 …
Tỷ lệ % 13.3 13.8 9.5 8.8 8.5 8.3 …
Nguồn: Niên giám thống kê
Với lượng vốn đầu tư nêu trên, nhà nước đã tập trung cao cho đầu tư thuỷ lợi.

Trong 5 năm qua, vốn đầu tư cho thuỷ lợi đạt 25.511 tỷ đồng ( chưa kể 896 tỷ đồng chi cho
tu bổ đê điều). Trong đó, vốn do Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn quản lí là 8974 tỷ
và vốn do địa phương quản lí là 11637 tỷ đồng để thực hiện 244 công trình trong đó có 256
công trình hoàn thành và đã được đưa vào sử dụng, làm tăng thêm diện tích được tưới
23

94000 ha, tiêu 146 ngàn ha, ngăn mặn 226 ngàn ha, tạo nguồn 206 ngàn ha, tăng chất
lượng cấp nước 1038 ngàn ha.
1.2 Hạn chế của đầu tư theo chiều rộng
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, đầu tư theo chiều rộng còn có một số nhược
điểm.
Sản phẩm nếu chỉ được đầu tư theo chiều rộng thì sẽ cho chất lượng không cao,
không đủ sức cạnh tranh trên thị trường, khả năng thu hồi vốn của các dự án đầu tư theo
chiều rộng thấp, độ mạo hiểm cao. Khả năng cạnh tranh, của doanh nghiệp trên thị trường
dẫn tới lợi nhuận kém.
Vốn đầu tư tổng xã hội chưa tập trung cho việc hình thành các sản phẩm chủ lực
cũng như hình thành các nguồn vốn và lĩnh vực tạo thế và lực cho sự phát triển lâu dài, bền
vững và có hiệu quả.
Cơ cấu hàng xuất khẩu chủ yếu chuyển dịch theo chiều rộng. Nhờ vào đó giá trị
xuất khẩu tăng qua các năm. Gia tăng xuất khẩu của cả nước ta trong thời gian qua chủ yếu
nhờ vào gia tăng nhu cầu của thị trường thế giới hơn là do các yếu tố nâng cao năng lực
cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ nước ta.
Dệt may được coi là một trong những ngành trọng điểm của nền công nghiệp Việt
Nam thời kì đầy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Ngành dệt may hiện nay
đang được xem là ngành sản xuất mũi nhọn và có tiềm lực phát triển mạnh. Với những lợi
thế riêng biệt như vốn đầu tư không lớn, thời gian thu hồi vốn nhanh, thu hút nhiều lao
động và có điều kiện mở rộng thị trường trong và ngoài nước với sự tham gia của nhiều
thành phần kinh tế khác nhau. Tuy vậy, trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế,,
ngành dệt may đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, cạnh tranh ngang bằng với các
cường quốc xuất khẩu lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonexia, Pakixtan, Hàn Quốc…Việt

Nam hiện có hơn 1000 nhà máy dệt may thu hút trên 50 vạn lao động, chiếm đến 22% tổng
số lao động trong toàn ngành công nghiệp. Sản lượng sản xuất hàng năm tăng trên 10%
nhưng quy mô còn nhỏ bé, thiết bị và công nghệ khâu kéo sợi và dệt vải lạc hậu, không
cung cấp được vải cho khâu may xuất khẩu. Những năm qua tuy bổ sung thay thế 1500
máy dệt không thoi hiện đại để nâng cấp mặt hàng dệt trên tổng số máy hiện có là 10500
máy, thì cũng chỉ đáp ứng khoảng 15% công suất dệt. Ngành may tuy liên tục đầu tư mở
rộng sản xuất nhưng cũng chưa đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu ngày càng cao…
Nền kinh tế nước ta cũng như bất kì nền kinh tế nào khác, không thể tăng trưởng
mãi theo chiều rộng bằng cách tăng vô hạn độ vốn đầu tư, đất đai, lao động, tài nguyên vì
các nguồn lực này đều có hạn. Để đạt được tăng trưởng bền vững và phát triển lên các nấc
thang cao hơn, nền kinh tế phải vận hành theo những thước đo và chính sách thích hợp để
24

chuyển sang đầu tư phát triển theo chiều sâu, nâng cao năng suất, hiệu quả, giá trị gia tăng
trên mỗi đơn vị tiền vốn, lao động, năng lượng.
2. Thực trạng của đầu tư theo chiều sâu
2.1. Thành tựu
Những năm gần đây việc đầu tư vào nghiên cứu và triển khai khoa hoc công nghệ ở
nước ta trên tất cả các lĩnh vực đã đạt được những thành tựu đáng kể.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, hoạt động này đã tạo ra nhiều kết quả thiết thực phục vụ
đắc lực cho sự nghiệp phát triển nông nghiệp và nông thôn. Đặc biệt là công nghệ nuôi cấy
tế bào, hàng năm một số loại cây trồng như chuối, khoai tây, mía, dứa… cây ăn quả, cây
lâm nghiệp, cây dược liệu, cây cảnh được nhân giống. Nhiều công nghệ sản xuất giống các
loại rau, củ, quả đã được chuyển giao. Giống cà chua lai L1, C95 đã được trồng hơn 300 ha
tại Nam Định, Hải Dương, Hà Nam và Hải Phòng cho năng suất 45- 47 tấn/ha. Phục vụ
cho nhà máy chế biến cà chua, giúp tăng thu nhập cho nhân dân thêm 20 triệu/ha. Giống
khoại tây PO3 tăng năng suất tới 200%, có chất lượng khá cao. Công nghệ phôi vô tính
thực vật cũng đựơc nghiên cứu và đạt được một số kết quả nhất định. Mô hình làng nghề
sản xuất nấm ở 3 tỉnh Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Ninh Bình, Sản xuất từ 200– 300 tấn nấm/
năm đem lại thu nhập 3000triệu đồng/ năm.

Thật vậy, nhờ các kết quả nghiên cứu và triển khai cùng với áp dụng những tiến bộ
khoa học công nghệ trên tất cả các lĩnh vực. Chúng ta đã đạt được những bước đầu có
những thành công. Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, rau quả và cây công
nghiệp đã bước đầu phát triển mạnh mẽ. Tỷ trọng hàng nông, lâm thủy sản xuất khẩu tăng
cao cả về mặt lượng và giá trị. Tổng kinh ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thuỷ
sản đạt mức kỷ lục,trên 10 tỷ USD. Điều đáng chú ý là không để xảy ra tình trạng được
mùa mất giá. Chất lượng xuất khẩu nông sản được nâng cao, giá gạo xuất khẩu của Việt
Nam đã bằng giá xuất khẩu gạo của Thái Lan. Được thể hiện thông qua bảng số liệu sau:
Bảng 5: So sánh giá gạo của Việt Nam và thế giới:
Năm 2000 2001 2002 2003 2004
FOB Bangkok, 5% tấm 207 178 243 199 237
Giá xuất khẩu trung bình của Việt Nam 182 165 224 188 230
Giá xuất khẩu Việt nam quy ra 5% tấm 190 173 230 190 225
Chênh lệch 17 5 4 9 12
Nguồn: FOA.
25

×