Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

chống gian lận xuất xứ hàng hóa ở việt nam - cần giải pháp mạnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.62 KB, 46 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài.
Trở thành thành viên của tổ chức kinh tế thế giới WTO là một mốc vô cùng
quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, khắc phục
được tình trạng bị phân biệt đối xử trong buôn bán quốc tế như đối xử tối huệ
quốc (MFN) không điều kiện, thuế quan thấp cho hàng xuất khẩu của Việt
Nam, cải thiện cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại với các nước, sự đối
xử theo hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập và củng cố cải cách kinh tế Việt
Nam. Một năm sau hội nhập, kinh tế - xã hội Việt Nam đã có những chuyển
biến ngoạn mục mà cả bạn bè quốc tế lẫn các nhà làm chính sách Việt Nam
cũng không khỏi ngạc nhiên.
Tuy nhiên, Việt Nam một năm sau WTO cũng phải đối diện với không ít vấn
đề phát sinh, hệ quả của tăng trưởng nóng và vẫn chưa hết lúng túng khi giải
quyết chúng. Bởi lẽ, so với thế giới, Việt Nam còn là một trong những nước
nghèo với mức GDP đạt 836 USD/người/năm, hệ thống chính sách kinh tế -
xã hội đang trong quá trình hoàn thiện, chưa đồng bộ, trình độ kỹ thuật, trình
độ quản lý… có sự chênh lệch so với các nước phát triển.
Một trong những vấn đề nóng đó là gian lận thương mại ngày càng gia tăng.
Hiện nay, việc gian lận xuất xứ hàng hoá nhằm các mục đích khác nhau diễn
ra hết sức tinh vi, gây ra thất thu thuế lớn cho Ngân sách nhà nước. Việc phát
hiện, ngăn ngừa, đấu tranh chống các hành vi gian lận thương mại, gian lận
xuất xứ có ý nghĩa thiết thực trong việc chống thất thu thuế, đảm bảo thu
đúng, thu đủ nguồn thu lớn cho ngân sách, giúp cán cân thanh toán thu - chi
ngân sách cân bằng, đúng kế hoạch và góp phần tích cực cho việc tích luỹ vốn
để tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn đó, tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Chống gian
lận xuất xứ hàng hóa ở Việt Nam - cần giải pháp mạnh”.
Mục đích nghiên cứu của đề tài.
1
Về lý luận: Đề tài đưa ra những kiến thức cơ bản về xuất xứ và phân loại xuất
xứ của hàng hóa, sự cần thiết phải xác định xuất xứ của hàng hóa và các quy


tắc áp dụng để xác định xuất xứ của hàng hóa gian lận xuất xứ và sự cần thiết
chống gian lận xuất xứ, các hình thức gian lận chủ yếu, dấu hiệu và biện pháp
hạn chế.
Về thực tiễn: Đề tài đánh giá thực trạng và những hạn chế của công tác chống
gian lận thương mại nói chung và chống gian lận xuất xứ hàng hóa nói riêng ở
Việt Nam hiện nay. Từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
của công tác chống gian lận xuất xứ hàng hóa.
Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu.
Đề tài được giới hạn phạm vi và đối tượng nghiên cứu về chống gian lận
xuất xứ của hàng hóa, các quy định pháp luật hiện hành của Nhà nước đang
được áp dụng trong công tác chống gian lận xuất xứ hàng hóa. Xu hướng phát
triển của thương mại quốc tế và ảnh hưởng của các xu hướng này đến tình
hình gian lận xuất xứ, đến công tác chống gian lận xuất xứ trong thời gian tới.
Đưa ra những giải pháp khả thi để nâng cao hiệu quả của công tác chống gian
lận xuất xứ hàng hóa.
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận và những quan điểm
của chủ nghĩa duy vật biện chứng, quan điểm phát triển kinh tế của Đảng kết
hợp vận dụng với các biện pháp như tổng hợp, phân tích, thống kê để tổng
hợp về lý luận, phân tích thực trạng nhằm đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu
quả công tác chống gian lận xuất xứ hàng hóa.
2
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn đề tài nghiên cứu.
Những nghiên cứu của đề tài góp phần hoàn thiện những lí luận chung về
xuất xứ hàng hóa và công tác chống gian lận xuất xứ hàng hóa trong điều kiện
gia nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Đồng thời, về thực tiễn, đề tài kiến nghị
những giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác chống gian lận xuất xứ hàng
hóa.
Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được chia thành 3 phần như sau:
Chương 1: Lí luận chung về xuất xứ hàng hóa và chống gian lận xuất xứ

hàng hóa.
Chương 2: Thực trạng công tác chống gian lận xuất xứ hàng hóa ở Việt Nam
hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả công tác chống
gian lận xuất xứ hàng hóa ở Việt Nam.
3
Chương 1: LÍ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT XỨ HÀNG HOÁ VÀ CHỐNG
GIAN LẬN XUẤT XỨ HÀNG HOÁ
1.1. Xuất xứ hàng hoá và xác định xuất xứ hàng hoá.
1.1.1. Xuất xứ hàng hoá.
Xuất xứ hàng hoá là xuất xứ của một sản phẩm hàng hoá. Theo Phụ lục
chuyên đề K của Công ước quốc tế về hài hoà và đơn giản hoá thủ tục hải
quan (Công ước Kyoto sửa đổi và bổ sung), xuất xứ hàng hoá “là nước tại đó
hàng hoá được chế biến hoặc sản xuất, phù hợp với tiêu chuẩn được áp dụng
trong biểu thuế hải quan, giới hạn về số lượng hoặc các biện pháp khác liên
quan đến thương mại”.
Còn theo Luật Thương mại năm 2005 của Việt Nam, tại Điều 3, xuất xứ
hàng hoá được định nghĩa như sau: “Là nước hoặc vùng lãnh thổ nơi sản xuất
ra toàn bộ hàng hoá hoặc nơi thực hiện công đoạn chế biến cơ bản cuối cùng
đối với hàng hoá trong trường hợp có nhiều nước hoặc vùng lãnh thổ tham gia
vào quá trình sản xuất ra hàng hoá đó”.
Như vậy, tuy có khác nhau trong việc sử dụng từ ngữ, nhưng hai định nghĩa
của quốc tế và quốc gia có cùng nghĩa với nhau. Đó là, xuất xứ hàng hoá là
“quốc tịch” của hàng hoá đó. Nếu việc chuyên môn hoá quốc tế dẫn đến hàng
hoá được sản xuất từ nhiều quốc gia, qua nhiều công đoạn chế biến, thì quốc
tịch của hàng hoá đó được xác định là nơi hàng hoá đó được sản xuất, chế
biến, gia công hay lắp ráp và đáp ứng một số tiêu chuẩn nào đó phù hợp với
các thoả thuận thương mại giữa các nước, khối kinh tế, khu vực hoặc các
vùng lãnh thổ.
1.1.2. Xác định xuất xứ hàng hoá và sự cần thiết xác định xuất xứ hàng

hoá nhập khẩu.
Xuất xứ hàng hóa là căn cứ để xác định nguồn gốc của hàng hóa, áp và
tính thuế xuất, nhập khẩu cũng như các công việc khác có liên quan đến hàng
hóa xuất nhập khẩu
4
I.1.2.1. Xuất xứ hàng hóa đóng một vai trò quan trọng trong việc kiểm soát
hoạt động ngoại thương
Các nước phát triển sử dụng xuất xứ hàng hóa như phương tiện để áp dụng
các biện pháp bảo vệ như hạn ngạch nhập khẩu, đánh thuế đối kháng, chống
bán phá giá để kiểm soát lượng hàng hóa nhập khẩu từ các nước phát triển.
Hiện nay trên thế giới có 3 thị trường lớn đang sử dụng việc cấp hạn ngạch
nhập khẩu như một biện pháp kiểm soát hoạt động ngoại thương đối với các
nước đang phát triển (thực chất đây là biện pháp kiểm soát hoạt động ngoại
thương, bảo vệ thị trường nội địa) là Mỹ, Cộng đồng kinh tế Châu Âu và Nhật
Bản. Hàng hóa có xuất xứ từ các nước đang phát triển nhập vào thị trường
này, nếu nằm trong hạn ngạch được phép thì có thuế nhập khẩu rất thấp,
ngược lại thì phải chịu thuế suất cao. Điều này khẳng định vai trò của xuất xứ
hàng hóa như một phương tiện định vị chính sách kiểm soát hoạt động ngoại
thương đối với một số nước.
I.1.2.2. Tạo thuận lợi cho hàng xuất khẩu được thừa hưởng ưu đãi và quyền
lợi của nước xuất khẩu tại nước nhập khẩu
Hàng hóa xuất khẩu chỉ được hưởng ưu đãi từ các nước có những hiệp định
song phương và đa phương khác nhau. Xác định chính xác xuất xứ sẽ đảm
bảo sự thuận lợi và công bằng của việc hưởng thuế suất ưu đãi của nước nhập
đối với hàng hóa của nước xuất khẩu tại thị trường của nước nhập khẩu.
I.1.2.3. Xuất xứ hàng hóa được sử dụng kết hợp với mã số thuế để xác định
mức thuế suất của thuế nhập khẩu
Ví dụ: Việt Nam đang áp dụng thuế suất ưu đãi đặc biệt đối với hàng hóa
có xuất xứ từ các nước và vùng lãnh thổ đã có thỏa thuận FTA ( khu vực mậu
dịch tự do AFTA) hoặc thuế suất ưu đãi tối huệ quốc (MEN) hoặc ưu đãi đặc

5
biệt khác đối với hàng hóa có xuất xứ từ các nước có quan hệ thương mại với
Việt Nam, danh sách các nước và vùng lãnh thổ được hưởng thuế suất ưu đãi
đặc biệt được Bộ Thương mại cập nhật hàng năm ( ví dụ tại công văn số
0622/BTM-PC ngày 26/01/2007). Như vậy, các nước khác nhau chưa ký thỏa
thuận về đối xử tối huệ quốc và ưu đãi đặc biệt trong quan hệ thương mại với
Việt Nam thì hàng hóa có xuất xứ từ các nước này nhập khẩu vào Việt Nam
được áp dụng theo biểu thuế suất thông thường. Do đó, xuất xứ hàng hóa là
cơ sỡ để áp dụng các chính sách thuế khác nhau của quốc gia trong hoạt động
thương mại.
I.1.2.4. Khẳng định uy tín, trách nhiệm của hàng hóa đối với thị trường,
khách hàng và vị trí của nước xuất trong thương mại quốc tế
Vai trò này thể hiện rất rõ khi hàng hóa xuất khẩu đứng vững trên thị
trường thương mại quốc tế. Uy tín chất lượng của hàng hóa đôi khi gắn liền
với xuất xứ được khách hàng thừa nhận. Chẳng hạn, hàng hóa của hãng
Honda có xuất xứ từ Nhật Bản có mặt hầu hết trên thị trường thế giới. Nó
không những khẳng định chất lượng hàng hóa của hãng Honda mà còn khẳng
định uy tín của Nhật Bản trên thị trường thương mại quốc tế.
I.1.2.5. Vai trò của xuất xứ hàng hóa trong việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng,
bảo vệ lợi ích người tiêu dùng và bảo vệ môi trường
Trong những trường hợp cần thiết, kiểm tra xuất xứ hàng hóa nhằm
xácđịnh hàng hóa có xuất phát từ vùng có nguy cơ mất vệ sinh an toàn thực
phẩm hoặc bệnh dịch. Khi đó, hải quan căn cứ vào xuất xứ để kiểm tra về mặt
dịch tễ, hoặc không cho hàng hóa vi phạm nhập khẩu để ngăn chặn việc lây
lan của dịch bệnh, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng và bảo vệ môi trường. Ví
dụ: trường hợp cấm nhập khẩu thịt bò có xuất xứ từ nước Anh khi có dịch
6
bệnh bò điên, cấm nhập khẩu thit lợn và các sản phẩm chế biến từ thịt lợn có
xuất xứ từ Đài Loan, Hồng Kông sau khi có dịch bệnh lở mồm long móng,
cấm nhập khẩu đối với gia cầm từ nước Trung Quốc và một số nước khi có

dịch bệnh cúm H5N1…
Thông qua xuất xứ hàng hóa các quốc gia có thể kiểm soát cả xuất khẩu,
nhập khẩu các sản phẩm, nguyên liệu phương hại đến lợi ích cộng đồng, an
ninh chính trị và bảo vệ môi sinh. Ví dụ: các Chính phủ không cho nhập khẩu
các sản phẩm có xuất xứ từ các nước có sử dụng lao động khổ sai của trẻ em,
lao dịch tù nhân, các sản phẩm hoặc buôn bán các sản phẩm nhằm tài trợ cho
khủng bố, bạo lực. Chính phủ có thể cấm xuất nhập khẩu các sản phẩm sản
xuất tại một nước không tuân thủ tiêu chuẩn về môi trường hoặc bản thân sản
phẩm tác hại cho môi trường chung như chất CFC (phá hủy tầng Ôzôn).v.v….
I.1.2.6. Vai trò của xuất xứ hàng hóa trong việc thống kê ngoại thương
Xuất xứ hàng hóa là tiêu chí quan trọng và cần thiết để thực hiện thống kê
ngoại thương theo từng nước hoặc từng khu vực. Qua các số liệu thống kê
ngoại thương, các Chính phủ và các tổ chức quốc tế có thể dự báo, hoạch định
chính sách, chiến lược phát triển thương mại phù hợp điều kiện phát triển
kinh tế xã hội của quốc gia hoặc quốc tế.
Đối với Việt Nam, số liệu thống kê hải quan chủ yếu dựa trên các tiêu chí
trên tờ khai hải quan bao gồm tiêu chí xuất xứ của hàng hóa nhập khẩu. Số
liệu thống kê được lập theo tiêu chí xuất xứ giúp cho Chính phủ đưa ra các
biện pháp và chính sách trong việc cân bằng cán cân thương mại đối với từng
nước, từng khu vực trên thế giới, điều hành cơ chế xuất nhập khẩu một cách
kịp thời và chính xác.
7
1.1.3. Các quy tắc xác định xuất xứ hàng hoá.
1.1.3.1. Quy tắc xuất xứ phổ biến.
1.1.3.1.1. Xuất xứ thuần túy ( Wholly obtained - WO )
Các hàng hóa sau được coi là có xuất xứ hàng hóa thuần úy, bao gồm:
- Cây trồng và các sản phảm từ cây trồng được thu hoạch tại quốc gia
hoặc vùng lãnh thổ đó.
- Động vật sống được sinh ra và nuôi dưỡng tại quốc gia hoặc vùng lãnh
thổ đó

- Các sản phẩm từ động vật sống tại quốc gia và vùng lãnh thổ đó
- Các sản phẩm thu được từ săn bắt, đặt bẫy, đánh bắt, nuôi trồng, thu
lượm hoặc săn bắt tại quốc gia hoặc vùng lãnh thổ đó.
- Các khoáng sản và các chất sản sinh tự nhiên, được chiết xuất hoặc lấy
ra từ đất, nước, đáy biển hoặc dưới đáy biển của quốc gia hoặc vùng lãnh thổ
đó.
- Các sản phẩm lấy từ nước, đáy biển hoặc dưới đáy biển bên ngoài lãnh
hải của quốc gia, vùng lãnh thổ, với điều kiện quốc gia, vùng lãnh thổ đó có
quyền khai thác đối với vùng nước, đáy biển và dưới đáy biển theo luật pháp
quốc tế.
- Các sản phẩm đánh bắt và các hải sản khác đánh bắt từ vùng biển cả
bằng tàu được đăng ký với các quốc gia đó và được phép treo cờ của quốc gia
đó.
- Các sản phẩm được chế biến hoặc được sản xuất ngay trên tàu từ các sản
phẩm đánh bắt được ở quốc gia, vùng lãnh thổ đó và tàu được đăng ký với
quốc gia đó, được phép treo cờ của quốc gia, vùng lãnh thổ đó.
- Các vật phẩm có được ở quốc gia, vùng lãnh thổ đó hiện không còn thực
hiện được những chức năng ban đầu và cũng không thể sửa chữa hay khôi
phục được và chỉ có thể vứt bỏ hoặc dùng làm các nguyên liệu, vật liệu thô,
hoặc sử dụng vào mục đích tái chế.
8
- Các hàng hóa có được hoặc được sản xuất từ các sản phẩm nêu trên ở
quốc gia, vùng lãnh thổ
1.1.3.1.2. Xuất xứ không thuần túy(not whollyobtained)
Hàng hóa có xuất xứ không thuần túy là hàng hóa được sản xuất có sử
dụng nguyên vật liệu nhập khẩu của hai hoặc nhiều nước.
Hàng hóa có xuất xứ không thuần túy được công nhận có xuất xứ từ một
quốc gia, vùng lãnh thổ khi quốc gia, vùng lãnh thổ đó thực hiện công đoạn
chế biến cơ bản cuối cùng làm thay đổi cơ bản hàng hóa này. Như vậy, nước
xuất xứ là nước mà nguyên vật liệu, bộ phận hoặc thành phần nhập khẩu hàng

hóa đã được gia công chế biến đủ tại đó.
1.1.3.1.3. Xuất xứ cộng gộp (Accumulation)
Xuất xứ cộng gộp cho phép sử dụng nguyên vật liệu nhập khẩu có xuất xứ
từ một nước được hưởng ưu đãi để sản xuất tại một nước cũng được hưởng
ưu đãi ; không phải đáp ứng yêu cầu chuyển đổi mã số HS (CTC) hoặc gia
công chế biến
Nước xuất xứ của hàng hóa được hưởng ưu đãi theo quy tắc cộng gộp là
nước tham gia sản xuất và xuất khẩu hàng hóa đó sang nước có thỏa thuận
cho hưởng ưu đãi thuế quan (cộng gộp ASEAN, ACFTA, )
1.1.3.1.4. Quy tắc vận tải trực tiếp (Direct consignment)

Quy tắc vận tải trực tiếp hàng hóa, hàng hóa phải được huyển thẳng từ
nước được hưởng đến nước cho hưởng, không qua lãnh thổ một quốc gia nào
khác, có hoặc không chuyển tải hoặc lưu kho tạm thời với điều kiện :
- Quá cảnh là cần thiết vì lý do địa lý hoặc yêu cầu vận tải
- Không được mua bán hoặc tiêu thụ tại đó
- Không xử lý gì trừ việc bốc dỡ, tái xếp hàng nhằm đảm bảo giữ hàng
trong tình trạng tốt
9
1.1.3.2. Quy tắc xuất xứ sản phẩm cụ thể.
1.1.3.2.1. Quy tắc chuyển đổi mã số HS
Chuyển đổi mã số hàng hóa hay chuyển đổi mã số HS là sự thay đổi về
mã số HS (trong Biểu thuế xuất nhập khẩu) của hàng hóa được tạo ra ở một
quốc gia hoặc vùng lãnh thổ trong quá trình sản xuất từ nguyên liệu không có
xuất xứ của quốc gia hay vùng lãnh thổ này.
Quy tắc này được xây dựng phù hợp với hệ thống danh mục hài hòa và
mô tả mã hóa hàng hóa HS (Harmonized System) của tổ chức hải quan thế
giới và thường được dùng làm phụ lục của FTA. Quy tắc này đòi hỏi nguyên
vật liệu tham gia trong quá trình sản xuất phảiđạt được chuyển đổi cơ bản để
hàng hóa được công nhận là có xuất xứ tại nước chuyển đổi cơ bản đó.

Ví dụ: Thịt bò đông lạnh (0202) nhập khẩu từ Úc; gia vị quế, hồi (0906-
0909) nhập từ Trung Quốc; được sử dụng để sản xuất xúc xích thịt bò (1601)
tại Indonesia.
Thịt bò đông lạnh thuộc chương 2 và gia vị chương 9 là nguyên vật liệu
không có xuất xứ đã đáp ứng tiêu chí chuyển đổi mã số HS, do vậy, xúc xích
bò được coi là có xuất xứ tại Indonesia.
Ví dụ: Máy bán đồ uống tự động (8476.21) sản xuất tại Singapore từ các
nguyên vật liệu, bộ phận nhập khẩu. Nguyên vật liệu nhập khẩu được phân
loại theo các bộ phận phụ tùng tương đương với mã số HS (trừ phân nhóm
8476.21 – 8476.89). Bộ phận chỉ được thiết kế để sử dụng cho các loại máy
bán hàng tự động được phân loại vào nhóm 8476.90. Nhà xuất khẩu có thể sử
dụng nguyên vật liệu không có xuất xứ và các bộ phận của máy bán hàng
chuyên dụng (8476.90) để sản xuất máy bán đồ uống tự động (8476.21) để đủ
điều kiện hưởng ưu đãi.
Quá trình sản xuất máy bán đồ uống tự động bao gồm nguyên vật liệu
nhập khẩu của một số nước, được gia công chế biến tại Singapore, đạt được
sự chuyển đổi cơ bản cuối cùng đó là cho ra một sản phẩm mới và khác với
nguyên vật liệu tham gia vào quá trình sản xuất (Phụ lục K, Công ước Kyoto).
10
Do vậy, Singapore được công nhận là nước xuất xứ vì nguyên vật liệu đã trải
qua chuyển đổi cơ bản tại đó để cho ra một sản phẩm mới.
Các điều kiện nhất định phải đáp ứng khi sản phẩm được công nhận là có
xuất xứ:
+ Yêu cầu về nguyên vật liệu đầu vào phải có xuất xứ từ nước được
hưởng. Ví dụ, chế phẩm từ thịt (chương 16), phải sử dụng động vật (chương
1) làm nguyên vật liệu đầu vào. Việc sử dụng thịt lợn nhập khẩu để sản xuất
sữ không được công nhận xuất xứ. Hoặc bánh kẹo (1905.90) được sản xuất từ
bột mì nhập khẩu (chương 11), đáp ứng tiêu chí CTC.
+ Nguyên vật liệu đầu vào không có xuất xứ phải được chế biến ở mức độ
thấp. Ví dụ, sản phẩm may mặc (chương 62), quy định phải sản xuất từ sợi đã

xe, việc sử dụng vải nhập khẩu thì sản phẩm cuối cùng sẽ không được công
nhận xuất xứ.
1.1.3.2.2. Quy tắc tỉ lệ phần trăm
Hàng hóa sẽ được coi là chuyển đổi cơ bản khi một tỉ lệ phần trăm tối đa
trị giá nguyên vật liệu nhập khẩu hoặc không rõ xuất xứ được sử dụng hoặc tỉ
lệ phần trăm tối thiểu trị giá nguyên vật liệu nội địa được sử dụng để sản xuất
sản phẩm xuất khẩu. Tiêu chí này phù hợp với một số mặt hàng không đáp
ứng tiêu chí CTC, đồng thời có thể linh hoạt áp dụng tỉ lệ phần trăm nhất
định, phù hợp năng lực các ngành công nghiệp nội địa và không đòi hỏi công
đoạn gia công chế biến. Tuy nhiên, không rõ ràng và khó dự báo (tỉ giá, công
thức tính toán)
Ví dụ: Sản phẩm được coi là có xuất xứ CEPT/AFTA nếu tổng giá trị
nguyên vật liệu có xuất xứ phải đạt ít nhất 40% hàm lượng ASEAN tính theo
giá FOB.
Quy định của Canada: Sản phẩm được sản xuất tại nước được hưởng từ
nguyên liệu nhập khẩu hoặc không xác định xuất xứ sẽ được coi là có xuất xứ
tại nước được hưởng đó nếu trị giá thành phần nhập khẩu không vượt quá
40% giá xuất xưởng của sản phẩm gửi sang Canada.
11
Theo quy định của Việt Nam thì tỷ lệ phần trăm của giá trị là phần giá trị
gia tăng có được sau khi một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ sản xuất, gia công,
chế biến các nguyên liệu không có xuất xứ từ quốc gia hay lãnh thổ này so
với tổng trị giá của hàng hóa được sản xuất ra. Phần giá trị gia tăng nói trên
phải đạt ít nhất 30% của giá trị hàng hóa được sản xuất ra và được thể hiện
theo công thức sau:
Giá FOB – Giá nguyên liệu không có xuất xứ từ
quốc gia hoặc vùng lãnh thổ sản xuất
_________________________________________________ x 100 ≥ 40%
Giá FOB
Trong đó:

“ Nguyên liệu không có xuất xứ từ một quốc gia hay một vùng lãnh thổ
sản xuất” bao gồm nguyên liệu có xuất xứ từ một quốc gia hay một vùng lãnh
thổ khác và nguyên liệu không rõ xuất xứ;
“ Giá nguyên liệu không có xuất xứ từ quốc gia hay vùng lãnh thổ sản
xuất” là giá CIF của nguyên liệu nhập khẩu trực tiếp (đối với nguyên liệu có
xuất xứ từ một quốc gia hay vùng lãnh thổ khác) hoặc giá tại thời điểm mua
vào ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng (đối với nguyên liệu không rõ xuất xứ)
dùng để sản xuất, gia công, chế biến ra sản phẩm cuối cùng;
“ Giá FOB: là giá ghi trên hợp đồng xuất khẩu và được tính như sau:
Giá FOB = Giá xuất xưởng + Các chi phí khác
Với “Giá xuất xưởng” = Chi phí sản xuất + Lợi nhuận;
“ Chi phí sản xuất” = Chi phí nguyên vật liệu + Chi phí nhân công +
Chi phí phân bổ;
“ Chi phí phân bổ” như, bảo hiểm nhà xưởng, chi phí thuê và thuê mua
nhà máy, khấu hao nhà xưởng, sửa chữa, bảo trì, thuế, lãi cầm cố; Các khoản
thuê mua và trả lãi của nhà máy và thiết bị, an ninh nhà máy; Nghiên cứu,
12
phát triển, thiết kế và chế tạo; Khuôn dập, khuôn đúc, việc trang bị dụng cụ và
khấu hao, bảo trì và sửa chữa của nhà máy và thiết bị; Tiền bản quyền sáng
chế (có liên quan đến những máy móc có bản quyền hoặc quá trình sử dụng
trong việc sản xuất hàng hóa hoặc quyền sản xuất hàng hóa); Kiểm tra và thử
nghiệm nguyên vật liệu và sản phẩm; Các nhân tố chi phí trong việc tính toán
gía trị của nguyên vật liệu, như chi phí cảng và chi phí giải phóng hàng và
thuế nhập khẩu đối với các thành phần phải chịu thuế.
1.1.3.2.3.Quy tắc công đoạn sản xuất, gia công chế biến
Nguyên vật liệu, bộ phận nhập khẩu được coi là sản xuất, gia công chế
biến đủ khi trải qua quá trình gia công cụ thể để tạo nên một thành phẩm cuối
cùng được công nhận xuất xứ. Tiêu chí này rõ ràng, minh bạch, tuy nhiên
không thể có công đoạn gia công cụ thể phù hợp với sự thay đổi về công nghệ
và đa dạng mặt hàng. Tiêu chí này thường được kết hợp với tiêu chí CTC để

xác định xuất xứ.
Ví dụ: Da thuộc nhập khẩu từ Philipin, được cắt thành hình và làm thành
mũ. Những mảnh đã định hình đó được coi là đã thay đổi cơ bản, đáp ứng tiêu
chuẩn gia công chế biến đủ.
Găng tay bằng da thuộc hoặc da tổng hợp (4203.29), được cắt và
may thành hình hoặc được lắp ráp tại lãnh thổ của một nước được công nhận
xuất xứ.
1.2. Gian lận xuất xứ hàng hóa và chống gian lận xuất xứ hàng hóa.
1.2.1. Gian lận xuất xứ hàng hóa.
Gian lận thương mại qua xuất xứ được hiểu là mọi mưu toan vi phạm hay lạm
dụng các quy tắc xuất xứ và/hay các quy định về hải quan trong các thỏa
thuận song phương và đa phương đang có hiệu lực tại một nước hữu quan nào
đó nhằm trốn tránh hoặc cố ý trốn tránh việc nộp thuế Hải quan, đạt được
hoặc cố ý đạt được những lợi thế thương mại bất hợp pháp gây hại cho các
nguyên tắc và tập tục cạnh tranh thương mại chân chính.
13
1.2.1.1. Các hình thức gian lận xuất xứ hàng hóa.
- Cung cấp các tài liệu , chứng từ không đúng sự thật với cơ quan có thẩm
quyền khi xin cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa
- Tự ý tẩy xóa, sửa chữa nội dung Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa được
cấp
- Làm sai hoặc sử dụng Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa giả
- Đưa hàng hóa giả mạo xuất xứ vào lãnh thổ Việt Nam
- Xuất khẩu hàng hóa giả mạo xuất xứ
1.2.1.2. Các dấu hiệu phát hiện gian lận thương mại qua xuất xứ.
Gian lận thương mại ngày càng xảy ra nhiều với nhiều hình thức khác
nhau và tinh xảo hơn. Ví dụ sau đây phần nào cho biết cách thức gian lận
thương mại của các doanh nghiệp trong thời buổi nền kinh tế mở cửa, gia
nhập WTO.
Công ty Sony Việt Nam đã phát hiện trên thị trường đang lưu hành nhiều

loại tivi mang nhãn hiệu Sony nhập khẩu từ Thái Lan vào VN, có nhiều nghi
vấn về xuất xứ hàng hóa. Các chuyên gia của công ty này cho biết, đây là dấu
hiệu của một hành vi gian lận thương mại mới.
Được biết, nhiều mặt hàng điện tử bao gồm các chủng loại khác nhau như
tivi, đầu DVD, máy nghe nhạc được nhập vào nước ta có giấy chứng nhận
xuất xứ hàng hóa mẫu D (C/O Form D), với sự khẳng định hàng đạt 100% giá
trị xuất xứ Thái Lan. Đây là hiện tượng không bình thường. Bằng cách gửi
công văn đến Công ty Sony Technology Thailand để kiểm chứng, điều nghi
vấn của các chuyên gia Sony VN đã được xác nhận: "Sản phẩm của Sony sản
xuất tại Thái Lan không đạt được mức 100%nội địa hóa. Nếu có C/O Form D
chứng nhận điều này thì đó là C/O Form D giả".
Như vậy, thay vì phải chịu mức thuế nhập khẩu thông thường là 50%, các
chủ hàng sử dụng C/O Form D đã được hưởng mức thuế ưu đãi của AFTA (là
14
20% cho năm 2005 và 5% cho năm 2006). Bởi vì, trong khuôn khổ ASEAN-
AFTA, thuế suất hàng nhập khẩu sẽ được áp theo biểu thuế quan ưu đãi có
hiệu lực chung (CEPT). Hiện nay CEPT được duy trì ở mức 0- 5%.
Nhưng, để được hưởng CEPT lại là chuyện không đơn giản. Bởi, trước
hết hàng hóa phải có được giấy chứng nhận xuất xứ mẫu D. Thủ tục cấp C/O
Form D khá phức tạp và tốn kém, vì nhà sản xuất phải chứng minh nguồn gốc
xuất xứ của từng linh kiện trong sản phẩm mà mình đã sản xuất ra. Do đó,
việc sử dụng C/O Form D giả sẽ giúp những đối tượng gian lận thương mại
trốn thuế nhập khẩu.
Được biết, trên cơ sở xác nhận của Công ty Sony Technology Thailand,
Sony VN đã khiếu nại lên Bộ Thương mại Thái Lan và các cơ quan chức
năng của VN.Ngày 1-9-2005, Cục Chống gian lận thương mại Thái Lan đã có
văn bản số 0303.03/3057 xác nhận bản C/O Form D do Công ty Sony VN
phát hiện có dấu hiệu nghi vấn được cấp không đúng.
Tiếp đó, Bộ Thương mại VN cũng đã tổ chức đoàn kiểm tra liên ngành
Thương mại-Hải quan-Quản lý thị trường đến cửa khẩu Cầu Treo, nơi phát

hiện C/O Form D bị nghi vấn để khảo sát thực tế. Ngày 24/10/2005, đoàn
kiểm tra liên ngành đã có công văn số 0988/BTM/XNK kết luận:
- Có 23 lô hàng nhập khẩu tại cửa khẩu Cầu Treo sử dụng C/O Form D,
với chứng nhận 100% giá trị sản phẩm Thái Lan. Hàng hóa gồm nhiều chủng
loại như: tivi, tủ lạnh, nồi cơm điện, lò vi sóng.
- Hàng nhập khẩu đều xuất phát từ một nhà xuất khẩu duy nhất tại Thái Lan
là CHOKCHAIMUKDAHAN IMPORT EXPORT.
15
- Các hàng hóa này đều mang các nhãn hiệu lớn của Nhật Bản như: Sony,
Panasonic, Hitachi, Sharp chỉ tính riêng phần tivi đã lên đến 729.230 USD,
trong đó tivi nhãn hiệu Sony là 556.730 USD.
Qua các công văn trên nhiều chuyên gia quản lý thị trường cho rằng hoàn
toàn có đủ căn cứ để khẳng định đây là một vụ gian lận thương mại quy mô
rất lớn. Vì hàng hóa mang các nhãn hiệu của Nhật Bản sản xuất tại Thái Lan
không có khả năng đạt hàm lượng 100% nội địa hóa. Do vậy, tất cả 23 bộ hồ
sơ có C/O Form D đã được kiểm tra tại cửa khẩu Cầu Treo chỉ có thể là
C/Ogiả.
Khi VN đang hội nhập, thuế nhập khẩu sản phẩm điện tử từ các nước
trong ASEAN được điều chỉnh về mức 0 - 5%, thì việc lợi dụng những quy
định của AFTA (khu vực tự do thương mại ASEAN) để thực hiện hành vi gian
lận dưới hình thức sử dụng C/O Form D, là một loại hình gian lận thương
mại đặc biệt nghiêm trọng. Việc phát hiện của Công ty Sony VN đối với
những lô hàng hóa nhập khẩu nói trên là một lời cảnh báo đối với một hành
vi gian lận thương mại mới. Dư luận đang chờ các cơ quan chức năng làm rõ
và xử lý nghiêm minh sự việc này, nhằm bảo đảm một môi trường cạnh tranh
bình đẳng trong ASEAN. Khi gia nhập AFTA, việc chống gian lận thương mại
sẽ bảo đảm cho các nhà sản xuất trong nước phát triển.
1.2.2. Chống gian lận xuất xứ hàng hóa.
Các hoạt động cơ quan Hải quan thực hiện để chống gian lận xuất xứ bao
gồm tổ chức lực lượng, xây dựng cơ sở dữ liệu, áp dụng các biện pháp nghiệp

vụ cần thiết, thu thập thông tin trong và ngoài nước liên quan đến hoạt động
hải quan và xuất xứ hàng hóa để chủ động phòng, chống gian lận xuất xứ
hàng hóa phối hợp với các cơ quan hữu quan bảo vệ bí mật về người cung cấp
thông tin các vụ gian lận xuất xứ hàng hóa theo quy định của pháp luật.
16
1.2.2.2. Các biện pháp cơ bản hạn chế gian lận xuất xứ hàng hóa.
Để làm tốt công tác kiểm tra xuất xứ hàng hóa xuất nhập khẩu, Hải quan
cần thực hiện tốt các biện pháp sau:
Một là, phối hợp với các Bộ ngành sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới các
văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực xác định, kiểm tra, xác minh và
chống gian lận xuất xứ hàng hóa xuất nhập khẩu cho phù hợp với Hiệp định
về quy tắc xuất xứ và quy định về xuất xứ của công ước Kyoto sửa đổi, xây
dựng và ban hành các văn bản liên quan đến cấp và kiểm tra giấy chứng nhận
xuất xứ điện tử (e-C/O).
Hai là, xây dựng cơ sở dữ liệu cho việc kiểm tra, xác minh và chống gian
lận xuất xứ hàng hóa xuất nhập khẩu, áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro.
Ba là, đào tạo đội ngũ cán bộ, xay dựng mạng lưới tình báo để kiểm tra,
xác minh xuất xứ hàng hóa xuất nhập khẩu.
Bốn là, xây dựng quy trình xác định, xác minh (việc sử dụng các quy tắc
xác định xuất xứ của chương trình hài hòa, xây dựng các quy tắc của Việt
Nam ), kiểm tra (các bước tiến hành kiểm tra xuất xứ trước, trong và sau
thông quan) xuất xứ hàng hóa xuất nhập khẩu phù hợp với các điều khoản của
Hiệp định về quy tắc xuất xứ và quy định về xuất xứ của Công ước Kyoto.
Năm là, hợp tác Hải quan – Hải quan trong lĩnh vực thống nhất chương
trình hài hòa quy tắc xuất xứ không ưu đãi, thống nhất các quy tắc ưu đãi mà
các bên tham gia và phối hợp kiểm tra, xác minh chống gian lận về xuất xứ
hàng hóa.
Hợp tác Hải quan với các Bộ Ngành trong công tác xây dựng quy tắc xuất
xứ, xác định xuất xứ hàng hóa và trong việc kiểm tra, xác minh xuất xứ hàng
hóa.

Hải quan hướng dẫn quy trình xác định, xác minh xuất xứ hàng hóa xuất
nhập khẩu cho các doanh nghiệp, tuyên truyền phổ biến pháp luật, vận động
hướng doanh nghiệp tới sự tuân thủ, tự nguyện trong công tác khai báo xuất
xứ hàng hóa xuất nhập khẩu.
17
Chương 2:THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CHỐNG GIAN LẬN XUẤT XỨ
HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Các quy định pháp lý về chống gian lận xuất xứ hàng hoá ở Việt
Nam.
Từ khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO, Việt Nam đã cam kết
thực hiện các quy định của WTO bao gồm cả Hiệp định Quy tắc xuất xứ, các
quy tắc trong chương trình hài hòa quy tắc xuất xứ, chương trình ưu đãi phổ
cập chung của EU, của Mỹ và Nhật Bản, các Quy tắc xuất xứ của ASEAN và
với một số nước châu Á. Đây là cơ sở quan trọng để Việt Nam xây dựng hệ
thống pháp luật và các quy tắc xuất xứ phục vụ công tác xác định, kiểm tra,
xác minh xuất xứ hàng hóa.
Hiện nay, hệ thống pháp luật của Việt Nam như Luật hải quan 2001, Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hải quan 2005, các văn bản quy phạm
pháp luật chẳng hạn như Nghị định 154/2005/NĐ-CP; nghị định 19/2006/NĐ-
CP; thông tư 112/2005/TT-BTC; thông tư 07/2006/TT-BTM; thông tư
45/2005/TT-BTC; thông tư 14/2006/TT-BTC; thông tư 45/2007/TT-BTC;
quyết định 865/2004/QĐ-BTM; quyết định 12/2007/QĐ-BTM; quyết định
09/2006/QĐ-BTC… là cơ sỡ pháp lý cơ bản phục vụ công tác xác định, kiểm
tra, xác minh xuất xứ hàng hóa. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật này
quy định về vai trò, trách nhiệm của các Bộ ngành trong công tác xây dựng hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến xuất xứ hàng hóa. Các văn
bản quy phạm pháp luật của Việt Nam quy định vai trò, trách nhiệm của Hải
quan trong công tác kiểm tra, xác minh xuất xứ hàng hóa xuất nhập khẩu; vai
trò trách nhiệm của doanh nghiệp trong công tác xác định, khai báo xuất xứ
hàng hóa xuất nhập khẩu. Quy định về công tác quản lý và thẩm quyền cấp

giấy chứng nhận xuất xứ, điều kiện để khu vực được hưởng ưu đãi đặc biệt về
thuế quan….Về cơ bản hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam
đã cụ thể hóa các quy định quốc tế về xuất xứ hàng hóa của Hiệp định Quy
18
tắc xuất xứ và Phụ lục K của công ước Kyoto sửa đổi phù hợp với điều kiện
thực tế tại Việt Nam.
2.2. Thực trạng việc chống gian lận xuất xứ hàng hóa ở Việt Nam hiện
nay.
Việc các C/O (giấy chứng nhận nguồn gốc) giả đang gây ra những hậu quả
rất xấu cho chính các doanh nghiệp Việt Nam trong việc tìm kiếm thị trường
làm ăn, ký kết các hợp đồng và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hình ảnh đất
nước.
Theo báo cáo tình hình khiếu nại của hải quan nước ngoài năm 2008 do
phòng C/O thuộc Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) thống
kê: số thư khiếu nại tăng 72,58% so với năm 2007, số lượng thư C/O bị khiếu
nại năm 2008 là 107. Số lượng thư khiếu nại tăng chủ yếu tập trung vào C/O
giả. Trong tổng số 107 thư khiếu nại có 467 C/O giả tập trung chủ yếu ở mặt
hàng dệt may, 36 C/O sửa chữa chứng từ bao gồm sửa chữa trên hoá đơn
thương mại, tờ khai hải quan hàng hoá. Số lượng thư khiếu nại chủ yếu tập
trung vào các nước Slovakia, Đức, Thổ Nhĩ Kỳ
Năm 2008 số C/O giả ở thị trường Slovakia là 453 trong khi đó, năm 2007
mới chỉ ở mức 17, năm 2006 là 40; Ba Lan năm 2008 là 16, năm 2007 là 70.
Những con số thống kê này chỉ dừng lại ở tháng 10-2008, bộ C/O giả năm
2008 tăng 80% so với năm 2007.
Một vấn đề khác được nhiều đại biểu đề cập tại hội thảo chính là những
phương thức gian lận thương mại đang diễn ra rất phổ biến trong hoạt động
xuất nhập khẩu, đặc biệt là nhập khẩu. Đặc biệt có 4 hình thức gian lận phổ
biến trong hoạt động thương mại: hình thức đao giá, để gian lận về giá tính
thuế; hình thức gian lận thông qua khai báo mã số hàng hoá để trốn thuế; khai
gian lận về số lượng hàng hoá thực tế so với tờ khai hải quan và hợp đồng

thương mại; gian lận về xuất xứ hàng hoá để hưởng các ưu đãi thuế quan.
19
Với hình thức gian lận ngày càng tinh vi, các sản phẩm bị gian lận thương
mại ngày càng phong phú. Có đến 87 bộ C/O giả hàng dệt may sang Hoa Kỳ.
Có 3 loại sản phẩm chính vi phạm gian lận thương mại nhiều nhất: Hàng dệt
may xuất sang EU, Hoa Kỳ; hàng nông sản xuất khẩu sang Đài Loan và một
số sản phẩm khác như mật ong, thuỷ sản, cà phê, vòng khuyên kim loại, bóng
đèn điện chiếu sáng năng lượng.
Các hình thức gian lận thương mại đã làm ảnh hưởng đến các doanh
nghiệp nói chung và nhà nước Việt Nam. Làm giả C/0 đã làm thất thu một
khoản thuế rất lớn của nhà nước; tác động xấu đến sản xuất trong nước lừa
dối người tiêu dùng; cạnh tranh không lành mạnh với các doanh nghiệp làm
ăn không chân chính, cạnh tranh trực tiếp với hàng xuất khẩu Việt Nam.
Để kịp thời ngăn chặn những tình huống gian lận trong thương mại góp
phần thúc đẩy kinh tế phát triển, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam,
kết hợp với Cục phòng chống buôn lậu Tổng Cục hải quan, tham khảo ý kiến
các doanh nghiệp đã thực hiện những biện pháp để ngăn chặn:
- Hoàn thiện văn bản pháp luật để có cơ sở pháp lý đầy đủ, ban hành các
chế tài xử phạt và xử lý nghiêm khắc về mặt hình sự đối với các hành vi gian
lận thương mại giúp cho lực lượng kiểm soát triển khai thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ của mình.
- Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan giữa doanh nghiệp
với Bộ Công thương, Bộ Khoa học Công nghệ, Phòng thương mại và công
nghiệp Việt Nam.
- Tăng cường công tác thu thập phân tích thông tin nhằm kịp thời phát
hiện và triển khai thực hiện các biện pháp đấu tranh, ngăn chặn tình trạng và
những đối tượng, doanh nghiệp có dấu hiệu gian lận trong C/O.
20
- Đẩy mạnh công tác kiểm tra sau thông quan để phát hiện và xử lý các
hành vi gian lận C/O.

- Tăng cường phối hợp trao đổi thông tin giữa các cơ quan quản lý và
thực thi pháp luật để kịp thời điều tra, xác minh, phát hiện các hành vi gian
lận về C/O. Đồng thời tăng cường hơn nữa trong việc hợp tác các cơ quan
quản lý Việt Nam với các tổ chức, cơ quan quản lý cấp C/O của các nước xuất
khẩu.
Năm 2008, đã đạt được những kết quả tích cực trong việc phòng chống
gian lận thương mại. Lượng C/O giả từ các thị trường lớn như Ba Lan, Đài
Loan đã được hạn chế. Hải quan nước ngoài đánh giá cao về việc hợp tác
chống gian lận thương mại. Bộ C/O giả ở thị trường Ba Lan đã giảm từ 70 bộ
(năm 2007) xuống 16 (năm 2008). Bộ C/O giả ở thị trường Đức giảm từ 3 bộ
(năm 2007) xuống 2 bộ (năm 2008).
Khi Việt Nam càng ngày càng gia nhập sâu và hoà vào nền kinh tế thế
giới, tuân thủ các cam kết khi hội nhập kinh tế, tình hình gian lận thương mại
cần phải được ngăn chặn triệt để.
2.2.1. Thuận lợi và khó khăn.
2.2.1.1. Thuận lợi:
Một là, có sự quan tâm của Nhà nước.
Thứ nhất, nhà nước đã có những chính sách nhằm xây dựng và chỉ đạo
thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, phát triển Hải quan Việt Nam.
Thứ hai, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật
về Hải quan.
Thứ ba, hướng dẫn, thực hiện và tuyên truyền pháp luật hải quan;
Thứ tư, đào tạo, bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ công chức hải quan
21
Thứ năm, tổ chức nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, phương
pháp quản lý hải quan hiện đại;
Thứ sáu, thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm
pháp luật về hải quan.
Hai là, xây dựng được đội ngũ cán bộ, công nhân viên đạt chất lượng
khá, số lượng tăng lên nhiều so với những năm trước.

Tháng 8/1994 thủ tướng chính phủ ra chỉ thị về tăng cường xây dựng lực
lượng Hải quan, trong đó yêu cầu “ Tổng cục Hải quan cần có chương trình
và biện pháp cấp bách nhằm đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, nhân vien
Hải quan hiện có theo hình thức thích hợp để số cán bộ này vừa đảm đương
được nhiệm vụ vừa có thể tham gia các lớp về đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước, về đổi mới Nghiệp vụ Hải quan…”
Tháng 9/1995, thủ tướng chính phủ quyết định nâng cấp trường Hải quan
Việt Nam thành trường Cao đẳng Hải quan, nằm trong hệ thống chung các
trường đại học, cao đẳng của Nhà nước. trường có nhiệm vụ “ đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ ngành Hải quan ở trình độ cao đẳng, nghiên cứu khoa học về
các vấn đề liên quan đến công tác Hải quan”.
Biên chế của ngành cũng được tăng lên đáng kể, từ 4.380 người năm
1993, lên tới 7.242 người năm 2002, bình quân hàng năm tăng 330 người
(khoảng 8%). Chất lượng cán bộ, công chức hải quan cũng được chú trọng thể
hiện qua việc triển khai các hoạt động đào tạo, nâng cao nhận thức về đường
lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong từng thời kì, về vị trí, vai trò,
trách nhiệm của hải quan trong sự phát triển của đất nước. Đồng thời ban
hành quy chế dân chủ nhằm phát huy quyền làm chủ của cán bộ, công chức;
đề ra 10 giải pháp xây dựng lực lượng hải quan trong sạch, vững mạnh; kết
hợp tăng cường chế độ kiểm tra, thanh tra, giám sát, xử lý những sai phạm.
Đáng chú ý là tháng 6/2004, Tổng cục trưởng Tổng cục hải quan ký ban hành
Quyết định số 517/QĐ/TCHQ/TCCB về việc áp dụng một số giải pháp để
22
ngăn chặn và chấm dứt tệ phiền hà, sách nhiễu, tiêu cực trong cán bộ công
chức Hải quan; tháng 12/2004 ký Quyết định số 1395/TCHQ/QĐ/TCCB ban
hành “ 10 điều kỷ cương của công chức Hải quan Việt Nam” và tổ chức quán
triệt, triển khai trong toàn Ngành.

Ba là, cơ sở vật chất, trang thiết bị được đầu tư khá cơ bản.
Tại các cảng biển quốc tế, cảng hàng không sân bay quốc tế, các cửa

khẩu đường sắt, đường bộ quốc tế và các khu công nghiệp trọng điểm có lưu
lượng hàng hóa xuất nhập khẩu và khách hàng xuất nhập cảnh lớn được đầu
tư trang thiết bị kỹ thuật hiện đại. Hệ thống làm việc đạt tiêu chuẩn được quy
hoạch hợp lý, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, đồng bộ với hệ thống công nghệ
thông tin trong một quy trình thủ tục hải quan thống nhất tại các cảng biển,
sân bay quốc tế, cửa khẩu đường bộ quốc tế lớn trong đó ưu tiên đầu tư các
trang thiết bị kỹ thuật cao (tàu cao tốc, máy soi, camera giám sát, cân ô tô…),
để nâng cao khả năng kiểm tra, giám sát cho cơ quan hải quan.
Trong sự thành công của việc triển khai mô hình hải quan điện tử, hiệu
quả của việc ứng dụng công nghệ thông tin là một yếu tố có ảnh hưởng quyết
định vì nó luôn luôn được ưu tiên hàng đầu. triển khai ứng dụng công nghệ
thông tin trong hoạt động hải quan được tiến hành một cách đồng bộ, tương
thích với quy trình hải quan điện tử, phục vụ trực tiếp cho việc thực hiện hải
quan điện tử.

Bốn là, sự phối hợp giữa Hải quan các nước trong khu vực và trên thế giới.
Cuối năm 2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO), chính thức tham gia quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế, quan hệ thương mại mở rộng tới nhiều quốc gia thuộc châu Á, châu
Âu, châu Phi và châu Mỹ la tinh. Việt Nam đã ký kết và tham gia nhiều hiệp
định thương mại song phương và đa phương, tham gia vào khu vực mậu dịch
tự do AFTA, được hưởng các chế dộ ưu đãi của các quốc gia khác và ngược
23
lại Việt Nam cũng dành cho nhiều nước được hưởng ưu đãi tối huệ quốc
MFN. Việt Nam đã học tập được những kinh nghiệm của các nước phát triển
trong công tác xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, quy tắc xuất xứ, các
biện pháp kiểm tra xuất xứ hàng hóa xuất nhập khẩu phù hợp với quy định
của luật pháp quốc tế và Việt Nam.
2.2.1.2. Khó khăn:
Một là, khung pháp lý cho hoạt động chống gian lận thương mại qua xuất

xứ hàng hoá còn hạn chế.
Việt Nam đã phát triển kinh tế thị trường nhưng lại thiếu những thể chế hỗ
trợ đi kèm. Đó là trừng phạt những hành vi gian dối, gian lận thương mại.
Nguyên tắc cơ bản nhất về xử phạt của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới là khi
doanh nghiệp vi phạm, gây ra tổn thất thế nào sẽ bị trừng phạt mức tương
ứng.
Ở Việt Nam, những hành vi kinh doanh gian lận lại bị phạt rất nhẹ. Ví dụ
trường hợp trộn bột đá vào kẹo có thể đem đến lợi nhuận tiền tỉ nhưng chỉ bị
phạt vài chục triệu đồng. Vì biện pháp chế tài không đủ răn đe nên những
doanh nghiệp chỉ chạy theo lợi nhuận sẽ tính toán. Họ chấp nhận bị phạt. Tình
trạng doanh nghiệp kinh doanh gian dối không phải bây giờ mới có mà từ lâu
rồi và sẽ tiếp diễn. Vì thế biện pháp trừng phạt của Nhà nước phải nghiêm
minh.
Hệ thống pháp luật của chúng ta cũng thiếu. Phần lớn chỉ phạt hành chính,
sau đó nếu mức độ nghiêm trọng mới chuyển sang hình sự. Ở các nước họ có
ủy ban điều tra. Khi xảy ra sự việc, các ủy ban này sẽ vào cuộc. Nhiệm vụ của
các ủy ban này là xác định có vi phạm hay không, mức độ vi phạm đến đâu,
hệ quả của nó ra sao. Sau đó là khởi kiện ra tòa hoặc điều trần trước quốc
hội
24
Để Hội Bảo vệ người tiêu dùng làm việc hiệu quả, không nên “nhà nước
hóa” mà phải xem là “khu vực dân sự” để đại diện cho lợi ích người tiêu
dùng. Chúng ta có cơ quan quản lý về vệ sinh an toàn thực phẩm với các chức
năng, nhiệm vụ nhưng không rõ về trách nhiệm. Khi sự việc xảy ra, nếu họ
không nhảy vào thì họ cũng chẳng sao cả, chẳng phải chịu trách nhiệm gì cả.
Vấn đề là phải có cách nhìn đúng về khu vực dân sự, khi nó phát triển lên
thì sẽ làm thay Nhà nước một số việc. Nhà nước lùi lại làm những công việc
vĩ mô, chiến lược.
Hai là, bản chất việc xác định xuất xứ hàng hoá và kiểm tra xuất xứ hàng
hoá cũng có những khó khăn nhất định.

Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo chống buôn lậu, hàng giả và gian lận
thương mại Trung ương (BCĐ 127), tại Hội nghị triển khai công tác quản lý
thị trường, chống buôn lậu, hàng gian, hàng giả trong những tháng cuối năm
2009, tổ chức tại TP. Vũng Tàu vào ngày 22-7 vừa qua, 6 tháng đầu năm
2009, các lực lượng chức năng trong cả nước đã kiểm tra, xử lý hơn 78.300
vụ vi phạm pháp luật như buôn bán hàng cấm, hàng giả, trốn lậu thuế và gian
lận thương mại…, tổng số tiền phạt gần 1.140 tỷ đồng.
Con số nêu trên không phải là nhỏ, nhưng cũng tại hội nghị này, BCĐ 127
cho rằng, các lực lượng chức năng làm công tác quản lý thị trường, chống
buôn lậu, hàng gian, hàng giả cũng mới dừng lại ở chỗ giải quyết những vấn
đề nổi cộm trên khâu lưu thông, chưa triển khai được việc kiểm tra kỹ lưỡng,
một cách căn cơ để xử lý bản chất vi phạm của doanh nghiệp làm ăn gian dối.
Lý do được đưa ra để giải thích cho tồn tại này là, lực lượng làm công tác
phòng chống buôn lậu, hàng gian, hàng giả còn quá ít, chưa đủ sức chủ động,
nhạy bén trong việc nắm tình hình thị trường để phát hiện, đề xuất giải pháp
xử lý kịp thời; công tác dự báo chưa mang tính dài hạn; hiệu quả đấu tranh
phòng, chống buôn lậu ở một số đơn vị chưa cao, chưa tương xứng với khả
25

×