Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

điểm khác biệt của bhxh tự nguyện so với bhxh bắt buộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.47 KB, 21 trang )

Mục lục
A. Lời mở đầu.
B. Giải quyết vấn đề.
I. BHXH là gì?
II. Nội dung cơ bản của BHXH tự nguyện.
1. Đối tượng áp dụng.
2. Nguyên tắc BHXH tự nguyện.
3. Quyền và trách nhiệm của người tham gia BHXH tự nguyện.
4. Phương thức đóng và mức đóng BHXH tự nguyện.
5. Các chế độ BHXH tự nguyện
III. Điểm khác biệt của BHXH tự nguyện so với BHXH bắt buộc.
IV. Ưu điểm và những khó khăn khi thực hiện BHXH tự nguyện cho người
nông dân và lao động tự do.
1. Ưu điểm.
2. Những khó khăn khi thực hiện BHXH tự nguyện cho người nông dân và
lao động tự do.
V. Các biện pháp triển khai BHXH tự nguyện.
VI. Tính khả thi của chế độ BHXH tự nguyện.
VII. Ý kiến đóng góp về BHXH tự nguyện.
1. Không nên quy định mức “trần”
2. Tránh tình trạng mất công bằng.
3. Nên nâng mức lợi nhuận trong BHXH tự nguyện
4. Nên có những quy định rõ ràng hơn
5. BHXH “tự nguyện” nhưng vẫn còn ràng buộc.
6. Cách đóng phí bảo hiểm là quá “dễ dãi”.
C. Kết luận.
1
Lời mở đầu
Cả nước hiện có trên 44 triệu người lao động trong độ tuổi, trong đó
trên 11 triệu là những người làm công ăn lương, chiếm 25,6%, số còn lại
khoảng 38 triệu người thuộc khu vực “phi chính thức” như nông dân, tiểu


thương, người làm thuê, người làm trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ, lao
động trong các làng nghề Hiện nay BHXH mới thu được BHXH trên 8
triệu lao động thuộc diện bắt buộc và như vậy cũng chỉ có 8 triệu người sẽ
có lương hưu khi về già. Mơ ước của người nông dân bao đời nay vẫn là làm
thế nào để đến lúc về già không làm việc nữa mà vẫn có thóc gạo để duy trì
cuộc sống. Chỉ đơn giản như vậy nhưng họ vẫn chưa nhận được 1 chính sách
thích hợp về đóng BH từ nhà nước. Luật BHXH trước nay ở VN có ghi nhận
khả năng thiết lập chế độ BHXH tự nguyện đối với tất cả những người lao
động nào không thuộc diện bắt buộc. Tuy nhiên nó chỉ mang tính giải pháp
nguyên tắc, chưa có một lộ trình pháp lý cụ thể nào được vạch ra cho phép
một người chưa từng biết đến BHXH như nông dân và lao động tự do ở
thành thị tiếp cận với các thiết chế BH để xác lập quan hệ kết ước tự nguyện.
Nhìn vào cách chi tiêu, có thể tin rằng người nông dân và người lao
động tự do ở thành thị nước ta không thể có thu nhập cao hơn một công nhân
trung bình tại một doanh nghiệp nhà nước hoặc một nhân viên trung bình tại
một cơ quan hành chính. Điều đó cũng có nghĩa khả năng tích lũy tài sản từ
thu nhập thường xuyên của những người này rất ít.
Người nông dân và người lao động tự do ở thành thị đến nay vẫn phải
tự mình quần quật với bài toán mưu sinh trong thời hạn không được xác
định. Nguyên tắc là muốn có cái ăn, cái mặc họ buộc phải làm việc. Bởi vậy,
đến lúc không còn đủ sức lực để lao động, họ chỉ biết dựa vào con cái hoặc
người thân để sống. Nếu không có con, người thân hoặc có nhưng vì lý do
nào đó mà những người này không nuôi, họ có nguy cơ kết thúc kiếp người
trong đói lạnh.
Ở nhiều nước, tất cả các nghề hợp pháp, trên nguyên tắc, đều có thể
tham gia bảo hiểm xã hội, trong đó có nghề nông và các nghề lao động tự
do. Bảo hiểm xã hội thật sự là "chiếc phao" cho người lao động lúc về già,
đặc biệt là người làm những việc nặng nhọc mà chỉ có thu nhập thấp, sau
thời gian dài đương đầu với những thách thức khốc liệt của cuộc mưu sinh.
Đến lúc nào đó, người lao động có thể yên tâm sống quãng đời còn lại một

cách thanh nhàn bằng lương hưu; còn lao động, đối với họ, chỉ để tạo niềm
vui.
Và Nghị định số 190/2007/NĐ-CP, hướng dẫn một số điều của Luật
Bảo hiểm xã hội về BHXH tự nguyện (có hiệu lực từ 1-1-2008) đã mở ra
một cơ hội mới cho người nông dân và lao động tự do.
2
Giải quyết vấn đề
I. BHXH là gì?
BHXH là sự tổ chức bảo đảm bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập
cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp do bị
giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc sức lao động không được sử dụng,
thông qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tài chính chung do sự đóng
góp của các bên tham gia BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác, nhằm góp
phần đảm bảo an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ; đồng thời
góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
BHXH có hai loại hình là bắt buộc hoặc tự nguyện.
II. Nội dung cơ bản của BHXH tự nguyện.
1. Đối tượng áp dụng:
Đối tượng áp dụng BHXH theo loại hình BHXH tự nguyện quy định
tại Điều 2 Nghị định số 190/2007/NĐ-CP và hướng dẫn tại Phần I Thông tư
số 02/2008/TT-BLĐTBXH là công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi đến đủ 60
tuổi đối với nam và từ đủ 15 tuổi đến đủ 55 tuổi đối với nữ, không thuộc
diện áp dụng của pháp luật về BHXH bắt buộc, bao gồm:
- Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn dưới 3
tháng;
- Cán bộ không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn và tổ dân phố;
- Người tham gia các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ;
- Xã viên không hưởng tiền lương, tiền công làm việc trong hợp tác
xã, liên hiệp hợp tác xã;
- Người lao động tự tạo việc làm bao gồm những người tự tổ chức

hoạt động lao động để có thu nhập cho bản thân;
- Người lao động làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó chưa
tham gia BHXH bắt buộc hoặc tham gia BHXH bắt buộc nhưng đã nhận
BHXH một lần;
- Người tham gia khác.
2. Nguyên tắc BHXH tự nguyện:
- Người tham gia trên cơ sở tự nguyện và được lựa chọn mức đóng và
phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình.
- Mức thu nhập tháng làm căn cứ đóng BHXH thấp nhất bằng mức
lương tối thiểu chung và cao nhất bằng 20 tháng lương tối thiểu chung.
3
- Mức hưởng BHXH tự nguyện được tính trên cơ sở mức đóng, thời
gian đóng BHXH và có chia sẻ giữa những người tham gia BHXH tự
nguyện.
- Người vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thời gian đóng
BHXH tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở
tổng thời gian đã đóng BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện.
- Quỹ BHXH tự nguyện được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai,
minh bạch; được sử dụng đúng mục đích và hạch toán độc lập.
- Việc thực hiện BHXH tự nguyện phải đơn giản, thuận tiện, bảo đảm
kịp thời và đầy đủ.
3. Quyền và trách nhiệm của người tham gia BHXH tự nguyện:
3.1. Người tham gia BHXH tự nguyện có các quyền: Được cấp sổ
BHXH; nhận lương hưu hoặc trợ cấp BHXH tự nguyện đầy đủ, kịp thời,
thuận tiện theo quy định; hưởng BHYT khi đang hưởng lương hưu; yêu cầu
tổ chức BHXH cung cấp thông tin về việc đóng, quyền được hưởng chế độ,
thủ tục thực hiện BHXH; khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà nước, cá nhân có
thẩm quyền khi quyền lợi hợp pháp của mình bị vi phạm hoặc tổ chức, cá
nhân thực hiện BHXH tự nguyện có hành vi vi phạm pháp luật về BHXH;
ủy quyền cho người khác nhận lương hưu và trợ cấp BHXH tự nguyện.

3.2. Người tham gia BHXH tự nguyện có trách nhiệm: Đóng BHXH
tự nguyện theo phương thức và mức đóng theo quy định; thực hiện quy định
về việc lập hồ sơ BHXH tự nguyện; bảo quản sổ BHXH theo đúng quy định.
4. Phương thức đóng và mức đóng BHXH tự nguyện:
4.1. Phương thức đóng: Người tham gia BHXH tự nguyện được đăng
ký với tổ chức BHXH theo một trong 3 phương thức là: Đóng hàng tháng;
đóng hàng quý; đóng 6 tháng một lần. Trường hợp đóng hàng tháng thì đóng
trong thời hạn của 15 ngày đầu; đóng hàng quý thì đóng trong thời hạn của
45 ngày đầu và đóng 6 tháng một lần thì đóng trong thời hạn của 3 tháng
đầu.
4.2. Mức đóng BHXH tự nguyện hàng tháng (cho mỗi tháng):
Mức đóng hàng tháng = Tỷ lệ phần trăm đóng BHXH tự nguyện x Mức thu
nhập tháng người tham gia BHXH tự nguyện lựa chọn
Trong đó:
a)
- Lmin: mức lương tối thiểu chung;
- m = 0, 1, 2, … n
Mức thu nhập tháng người tham gia BHXH tự nguyện lựa chọn thấp
nhất bằng mức lương tối thiểu chung, cao nhất bằng 20 tháng lương tối thiểu
chung.
4
b) Tỷ lệ phần trăm đóng BHXH tự nguyện: Từ tháng 01/2008 đến
tháng 12/2009 bằng 16%; từ tháng 01/2010 đến tháng 12/2011 bằng 18%; từ
tháng 01/2012 đến tháng 12/2013 bằng 20% và từ tháng 01/2014 trở đi bằng
22%.
4.3. Đăng ký lại phương thức đóng BHXH tự nguyện: Người tham gia
BHXH tự nguyện được đăng ký lại phương thức đóng hoặc mức thu nhập
tháng làm căn cứ đóng BHXH với tổ chức BHXH nhưng ít nhất là sau 6
tháng kể từ lần đăng ký trước.
4.4. Tạm dừng đóng BHXH tự nguyện: Người tham gia BHXH tự

nguyện được coi là tạm dừng đóng khi không tiếp tục đóng BHXH và không
có yêu cầu nhận BHXH một lần, trường hợp nếu tiếp tục đóng BHXH tự
nguyện thì phải đăng ký lại phương thức đóng và mức thu nhập tháng làm
căn cứ đóng BHXH với tổ chức BHXH ít nhất là sau 3 tháng kể từ tháng
người tham gia BHXH tự nguyện dừng đóng.
5. Các chế độ BHXH tự nguyện:
5.1. Chế độ hưu trí:
5.1.1. Điều kiện hưởng lương hưu hàng tháng:
Người tham gia BHXH tự nguyện được hưởng lương hưu hàng tháng
thuộc một trong các trường hợp sau:
a) Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi và có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên
(kể cả thời gian đã đóng BHXH bắt buộc được bảo lưu, nếu có).
b) Trường hợp người tham gia BHXH tự nguyện mà trước đó đã có
tổng thời gian đóng BHXH bắt buộc đang được bảo lưu đủ 20 năm trở lên,
trong đó có đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy
hiểm hoặc có đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên
thì được hưởng lương hưu khi nam từ đủ 55 tuổi đến đủ 60 tuổi, nữ từ đủ 50
tuổi đến đủ 55 tuổi nếu trước đó thuộc đối tượng quy định tại Nghị định số
152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 hoặc nam từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi,
nữ từ đủ 45 tuổi đến đủ 50 tuổi nếu trước đó thuộc đối tượng quy định tại
Nghị định số 68/2007/NĐ-CP ngày 19/4/2007.
c) Trường hợp người tham gia BHXH tự nguyện mà trước đó đã có
tổng thời gian đóng BHXH bắt buộc đang được bảo lưu đủ 20 năm trở lên,
bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên, được hưởng lương hưu với
mức thấp hơn khi nam đủ 50 tuổi trở lên, nữ đủ 45 tuổi trở lên hoặc có đủ 15
năm trở lên làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm
(không kể tuổi đời).
d) Trường hợp nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi nhưng thời gian đóng
BHXH còn thiếu không quá 5 năm mới đủ 20 năm, kể cả những người đã có
từ đủ 15 năm đóng BHXH bắt buộc trở lên mà chưa nhận BHXH một lần có

5
nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện thì được đóng tiếp cho đến khi đủ 20
năm để hưởng lương hưu.
Việc xác định điều kiện về thời gian đóng BHXH để tính hưởng chế
độ hưu trí thì một năm phải tính đủ 12 tháng.
5.1.2. Mức lương hưu hàng tháng:
a) Tỷ lệ hưởng lương hưu hàng tháng: Tỷ lệ hưởng lương hưu hàng
tháng được tính bằng 45% tương ứng với 15 năm đóng BHXH, sau đó cứ
thêm mỗi năm đóng BHXH thì tính thêm 2% đối với nam, 3% đối với nữ;
mức tối đa bằng 75%.
Khi tính lương hưu hàng tháng, trợ cấp một lần khi nghỉ hưu, BHXH
một lần và tiền tuất một lần, nếu thời gian đóng BHXH có tháng lẻ dưới 3
tháng thì không tính; từ đủ 3 tháng đến đủ 6 tháng tính là nửa năm; từ trên 6
tháng đến 12 tháng tính là một năm.
Trường hợp người hưởng lương hưu quy định tại tiết c điểm 5.1.1
khoản 5.1 trên, tỷ lệ lương hưu được tính như nêu trên nhưng cứ mỗi năm
(đủ 12 tháng) nghỉ hưu trước tuổi theo quy định bị giảm đi 1% mức lương
hưu (mốc tuổi nghỉ hưu làm căn cứ để tính giảm tỷ lệ lương hưu của từng
đối tượng cụ thể theo Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 và
Nghị định số 68/2007/NĐ-CP ngày 19/4/2007).
b) Mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH; mức bình quân tiền
lương, tiền công và thu nhập tháng đóng BHXH làm căn cứ tính lương hưu
hàng tháng, trợ cấp một lần khi nghỉ hưu, BHXH một lần và trợ cấp tuất một
lần được tính như sau:
* Đối với trường hợp có toàn bộ thời gian tham gia BHXH hội tự
nguyện thì mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH tính như sau:
Mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH (Mbqtn) = Tổng các mức thu
nhập tháng đóng BHXH/Tổng số tháng đóng BHXH
Mức thu nhập tháng đóng BHXH từng giai đoạn để làm căn cứ tính
mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH được điều chỉnh trên cơ sở chỉ

số giá sinh hoạt của từng thời kỳ theo quy định của Chính phủ.
* Đối với trường hợp người tham gia BHXH tự nguyện mà trước đó
có thời gian đóng BHXH bắt buộc (đang được bảo lưu) thì mức bình quân
tiền lương, tiền công và thu nhập tháng đóng BHXH hội tính như sau:
Mức bình quân tiền lương, tiền công và thu nhập tháng đóng BHXH
(Mbqtl,tn) = [(Mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH bắt
buộc x Tổng số tháng đóng BHXH bắt buộc) + Tổng số tháng đóng BHXH
bắt buộc]/ (Tổng các mức thu nhập tháng đóng BHXH tự nguyện + Tổng số
tháng đóng BHXH tự nguyện)
Trong đó:
6
Mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH bắt buộc
được tính theo quy định tại Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006
hoặc Nghị định số 68/2007/NĐ-CP ngày 19/4/2007 của Chính phủ và các
văn bản hướng dẫn thực hiện chế độ BHXH bắt buộc hiện hành.
Mức tiền lương, tiền công đối với đối tượng thực hiện chế độ tiền
lương do người sử dụng lao động quyết định và thu nhập tháng đóng BHXH
tự nguyện từng giai đoạn để làm căn cứ tính mức bình quân thu nhập tháng
đóng BHXH được điều chỉnh trên cơ sở chỉ số giá sinh hoạt của từng thời kỳ
theo quy định của Chính phủ.
c) Mức lương hưu hàng tháng: Mức lương hưu hàng tháng được tính
bằng tích số của tỷ lệ hưởng lương hưu hàng tháng với mức bình quân thu
nhập tháng đóng BHXH hoặc mức bình quân tiền lương, tiền công và thu
nhập tháng đóng BHXH.
Người tham gia BHXH mà trước đó có tổng thời gian đóng BHXH
bắt buộc đủ 20 năm trở lên, nếu mức lương hưu hàng tháng sau khi tính mà
thấp hơn mức lương tối thiểu chung thì được điều chỉnh bằng mức lương tối
thiểu chung.
5.1.3. Trợ cấp một lần khi nghỉ hưu:
Người đủ điều kiện hưởng lương hưu nêu tại điểm 5.1.1 khoản 5.1

trên, nếu đóng BHXH trên 30 năm đối với nam, trên 25 năm đối với nữ, thì
khi nghỉ hưu, ngoài lương hưu còn được hưởng trợ cấp một lần. Mức trợ cấp
một lần được tính theo số năm đóng BHXH kể từ năm thứ 31 trở đi đối với
nam và năm thứ 26 trở đi đối với nữ, cứ mỗi năm đóng BHXH được tính
bằng 0,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng hoặc mức bình quân tiền
lương, tiền công và thu nhập tháng đóng BHXH nêu tại tiết b điểm 5.1.2
khoản 5.1 trên (nếu có tháng lẻ thì làm tròn theo quy định).
5.1.4. Thời điểm hưởng lương hưu:
Người tham gia BHXH tự nguyện khi đủ điều kiện hưởng lương hưu
thì thời điểm hưởng lương hưu được tính kể từ tháng liền kề sau tháng tổ
chức BHXH nhận đủ hồ sơ hợp lệ theo quy định từ người tham gia bảo
BHXH tự nguyện.
5.1.5. Người tham gia BHXH tự nguyện đang hưởng lương hưu hàng
tháng được hưởng BHYT do quỹ BHXH tự nguyện bảo đảm.
5.1.6. Tạm dừng hưởng lương hưu hàng tháng:
a) Người tham gia BHXH tự nguyện đang hưởng lương hưu hàng
tháng bị tạm dừng hưởng lương hưu khi chấp hành hình phạt tù nhưng
không được hưởng án treo, hoặc khi xuất cảnh trái phép, hoặc khi bị Toà án
tuyên bố là mất tích.
Thời điểm tạm dừng hưởng lương hưu hàng tháng được tính từ tháng
liền kề với tháng người hưởng lương hưu hàng tháng chấp hành hình phạt tù
7
nhưng không được hưởng án treo hoặc xuất cảnh trái phép hoặc bị toà án
tuyên bố là mất tích.
b) Lương hưu hàng tháng được tiếp tục thực hiện kể từ tháng liền kề
khi người bị phạt tù đã chấp hành xong hình phạt tù hoặc khi người được
Toà án tuyên bố là mất tích trở về hoặc người xuất cảnh trở về định cư hợp
pháp. Trường hợp nếu Toà án có kết luận bị oan thì được truy hoàn tiền
lương hưu trong thời gian bị tạm dừng.
5.1.7. BHXH một lần đối với người không đủ điều kiện hưởng lương

hưu:
a) Điều kiện hưởng:
Người tham gia BHXH tự nguyện được hưởng BHXH một lần khi
thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi có dưới 15 năm đóng BHXH.
- Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi có từ đủ 15 năm đến dưới 20 năm
đóng BHXH mà không tiếp tục đóng BHXH.
- Ra nước ngoài để định cư.
- Chưa đủ 20 năm đóng BHXH mà không tiếp tục đóng BHXH và có
yêu cầu nhận BHXH một lần (Trường hợp người vừa có thời gian tham gia
BHXH bắt buộc vừa có thời gian tham gia BHXH tự nguyện thì có thêm
điều kiện sau 12 tháng kể từ khi dừng đóng BHXH bắt buộc).
b) Mức hưởng BHXH một lần:
- Mức hưởng BHXH một lần được tính theo số năm đã đóng BHXH,
cứ mỗi năm (đủ 12 tháng) tính bằng 1,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng
hoặc mức bình quân tiền lương, tiền công và thu nhập tháng đóng BHXH
nêu tại tiết b điểm 5.1.2 khoản 5.1 trên (nếu có tháng lẻ thì làm tròn theo quy
định).
- Người tham gia BHXH tự nguyện có thời gian đóng BHXH chưa đủ
một năm thì mức hưởng BHXH bằng số tiền đã đóng; mức tối đa bằng 1,5
tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH nêu tại tiết b điểm 5.1.2
khoản 5.1 trên.
5.2. Chế độ tử tuất
Người tham gia BHXH tự nguyện khi chết thì thân nhân được hưởng
chế độ tử như sau:
5.2.1. Trợ cấp mai táng:
a. Đối tượng và điều kiện hưởng: Các đối tượng sau đây khi chết bị
hoặc Toà án tuyên bố là đã chết thì người lo mai táng được nhận trợ cấp mai
táng:
- Người tham gia BHXH tự nguyện có ít nhất 05 năm đóng BHXH tự

nguyện;
8
- Người tham gia BHXH tự nguyện mà trước đó có thời gian đóng
BHXH bắt buộc;
- Người đang hưởng lương hưu.
b. Mức trợ cấp mai táng: Mức trợ cấp mai táng bằng 10 tháng lương
tối thiểu chung tại tháng đối tượng nêu trên chết hoặc Tòa án có quyết định
tuyên bố là đã chết.
5.2.2. Trợ cấp tuất một lần:
a. Đối tượng: Các đối tượng sau đây khi chết thì thân nhân được
hưởng trợ cấp tuất một lần:
- Người đang đóng BHXH tự nguyện;
- Người đang bảo lưu thời gian đóng BHXH tự nguyện;
- Người đang hưởng lương hưu.
b. Mức trợ cấp tuất một lần:
* Mức trợ cấp tuất một lần đối với thân nhân người đang đóng, người
đang bảo lưu thời gian đóng BHXH tự nguyện:
- Trường hợp có toàn bộ thời gian đóng BHXH tự nguyện và thời gian
đã đóng từ đủ 1 năm trở lên: Mức trợ cấp tuất một lần được tính theo số năm
đã đóng BHXH, cứ mỗi năm (đủ 12 tháng) tính bằng 1,5 tháng mức bình
quân thu nhập tháng đóng BHXH (nếu có tháng lẻ thì làm tròn theo quy
định).
- Trường hợp có toàn bộ thời gian đóng BHXH tự nguyện nhưng thời
gian đã đóng chưa đủ 1 năm: Mức trợ cấp tuất một lần được tính bằng số
tiền đã đóng, nhưng mức tối đa chỉ bằng 1,5 tháng mức bình quân thu nhập
tháng đóng BHXH.
- Trường hợp vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thời gian
đóng BHXH tự nguyện mà thời gian đóng BHXH bắt buộc dưới 15 năm
hoặc từ đủ 15 năm trở lên mà không có thân nhân đủ điều kiện hưởng trợ
cấp tuất hàng tháng: Mức trợ cấp tuất một lần được tính theo số năm đã đóng

BHXH, cứ mỗi năm (đủ 12 tháng) tính bằng 1,5 tháng mức bình quân tiền
lương, tiền công và thu nhập tháng đóng BHXH (nếu có tháng lẻ thì làm tròn
theo quy định). Mức trợ cấp tuất một lần thấp nhất bằng 3 tháng mức bình
quân tiền lương, tiền công và thu nhập tháng đóng BHXH (trường hợp có
thời gian đóng BHXH dưới 3 tháng thì chưa thuộc diện được tính mức
hưởng trợ cấp tiền tuất một lần).
* Mức trợ cấp tuất một lần đối với thân nhân của người đang hưởng
lương hưu có toàn bộ thời gian đóng BHXH tự nguyện chết được tính theo
thời gian đã hưởng lương hưu, nếu chết trong hai tháng đầu hưởng lương
hưu thì tính bằng 48 tháng lương hưu đang hưởng; nếu chết vào những tháng
sau đó, cứ hưởng thêm một tháng lương hưu thì mức trợ cấp giảm đi 0,5
tháng lương hưu.
9
Trường hợp người đang hưởng lương hưu có thời gian đóng BHXH
bắt buộc dưới 15 năm hoặc có từ đủ 15 năm trở lên nhưng không có thân
nhân thuộc diện hưởng tiền tuất hàng tháng thì khi chết, thân nhân được
hưởng trợ cấp tuất một lần với cách tính hưởng như nêu trên, nhưng mức
thấp nhất bằng 3 tháng lương hưu đang hưởng trước khi chết.
5.2.3. Trợ cấp tuất hàng tháng:
a. Đối tượng: Người đã có thời gian đóng BHXH bắt buộc từ đủ 15
năm trở lên (bao gồm người đang đóng BHXH tự nguyện; người đang bảo
lưu thời gian đóng BHXH tự nguyện và người đang hưởng lương hưu), khi
chết thì thân nhân sau được hưởng trợ cấp tuất hàng tháng:
- Con chưa đủ 15 tuổi (bao gồm con đẻ, con nuôi hợp pháp, con ngoài
giá thú được pháp luật công nhận, con đẻ mà khi người chồng chết người vợ
đang mang thai); con chưa đủ 18 tuổi nếu còn đi học; con từ đủ 15 tuổi trở
lên nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.
- Vợ từ đủ 55 tuổi trở lên hoặc chồng từ đủ 60 tuổi trở lên; vợ dưới 55
tuổi, chồng dưới 60 tuổi nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên
và không có thu nhập hoặc có thu nhập hàng tháng nhưng thấp hơn mức

lương tối thiểu chung.
- Cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ hoặc cha chồng, mẹ vợ hoặc mẹ chồng, người
khác mà đối tượng này có trách nhiệm nuôi dưỡng nếu từ đủ 60 tuổi trở lên
đối với nam, từ đủ 55 tuổi trở lên đối với nữ không có thu nhập hoặc có thu
nhập hàng tháng thấp hơn mức lương tối thiểu chung; Cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ
hoặc cha chồng, mẹ vợ hoặc mẹ chồng, người khác mà đối tượng này có
trách nhiệm nuôi dưỡng nếu dưới 60 tuổi đối với nam, dưới 55 tuổi đối với
nữ bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên và không có thu nhập hoặc
có thu nhập hàng tháng nhưng thấp hơn mức lương tối thiểu chung.
b. Mức trợ cấp tuất hàng tháng đối với mỗi thân nhân bằng 50% mức
lương tối thiểu chung. Trường hợp thân nhân không có người trực tiếp nuôi
dưỡng thì mức trợ cấp tuất hàng tháng bằng 70% mức lương tối thiểu chung.
c. Số thân nhân được hưởng trợ cấp tuất hàng tháng không quá 4
người đối với 1 người chết. Trường hợp có từ 2 người chết trở lên thì thân
nhân của những người này được hưởng 2 lần mức trợ cấp hàng tháng.
d. Thời điểm thân nhân được hưởng trợ cấp tuất hàng tháng kể từ
tháng liền kề sau tháng mà người tham gia BHXH tự nguyện chết.
III. Điểm khác biệt của BHXH tự nguyện so với BHXH bắt buộc.
Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc liên thông giữa BHXH bắt buộc và
BHXH tự nguyện, chính sách BHXH tự nguyện đã được quy định cơ bản
giống như chính sách đối với BHXH bắt buộc về đóng BHXH (tỷ lệ % đóng
10
BHXH; mức thu nhập tối thiểu và tối đa làm căn cứ đóng BHXH; điều chỉnh
mức thu nhập đã đóng BHXH); về hưởng BHXH (điều kiện tuổi đời và thời
gian đóng BHXH hưởng chế độ hưu trí; mức hưởng lương hưu, trợ cấp một
lần khi nghỉ hưu, trợ cấp BHXH một lần, trợ cấp tử tuất; điều chỉnh lương
hưu trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá sinh hoạt và tăng trưởng kinh tế;
hưởng BHYT từ quỹ BHXH khi nghỉ hưu ). Tuy nhiên, do đặc điểm riêng
của BHXH tự nguyện, nên giữa BHXH tự nguyện và BHXH bắt buộc có
một số nội dung khác nhau về quy định của chính sách và thực hiện, cụ thể

như sau:
1. Để đảm bảo cho những người ở độ tuổi trung niên (40- 45 tuổi), khi
có khả năng về kinh tế để tham gia BHXH đủ thời gian tối thiểu đóng
BHXH được hưởng chế độ hưu trí (20 năm) và một số người lao động tham
gia BHXH bắt buộc khi hết tuổi lao động (nam 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi) nghỉ
việc nhưng thời gian đóng BHXH còn thiếu không nhiều mới đủ để hưởng
chế độ hưu trí hàng tháng. Vì vậy, chính sách BHXH tự nguyện quy định đối
tượng tham gia BHXH đối với trường hợp nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi
nhưng thời gian đóng BHXH còn thiếu không quá 5 năm (kể cả những người
đã có từ đủ 15 năm đóng BHXH bắt buộc trở lên mà chưa nhận BHXH một
lần) thì được đóng tiếp cho đến khi đủ 20 năm để hưởng lương hưu hàng
tháng.
2. Quá trình tham gia thực hiện BHXH tự nguyện chỉ gồm có người
tham gia BHXH và tổ chức BHXH, nên người tham gia BHXH tự nguyện
hoặc thân nhân phải trực tiếp thực hiện: Việc đóng BHXH cho cơ quan
BHXH với mức đóng theo quy định; lập thủ tục tham gia BHXH và tự quản
lý sổ BHXH, hóa đơn nộp BHXH trong suốt quá trình tham gia BHXH; lập
thủ tục hưởng chế độ BHXH khi đủ điều kiện theo quy định.
3. Tùy thuộc vào khả năng kinh tế và thu nhập trong từng thời gian
(nhất là những sản phẩm thu hoạch theo thời vụ) của từng người, BHXH tự
nguyện quy định người tham gia được lựa chọn và thay đổi:
- Mức thu nhập làm căn cứ đóng BHXH với mức thấp nhất bằng mức
lương tối thiểu chung, sau đó cứ mỗi mức tiếp theo tăng thêm 50.000đ và
mức thu nhập làm căn cứ đóng BHXH cao nhất bằng 20 lần mức lương tối
thiểu chung;
- Phương thức đóng BHXH theo hàng tháng, hàng quý hoặc 6 tháng
một lần.
Ngoài ra, người tham gia BHXH tự nguyện được tạm dừng đóng
BHXH tự nguyện mà không cần nêu lý do.
11

4. Do đối tượng tham gia BHXH tự nguyện không phải là người có
quan hệ lao động (làm công, ăn lương) và không nhất thiết phải là người có
khả năng lao động do vậy BHXH tự nguyện quy định người tham gia chỉ
đóng góp vào quỹ hưu trí và tử tuất để hưởng 2 chế độ BHXH là chế độ hưu
trí và chế độ tử tuất (không thực hiện chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ-BNN).
5. Để đảm bảo mối tương quan trong tham gia BHXH với nguyên tắc
liên thông giữa BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện, chế độ hưu trí và tử
tuất được quy định cụ thể cho phù hợp:
a) Đối với người có toàn bộ thời gian tham gia BHXH tự nguyện:
- Về chế độ hưu trí: Tuổi nghỉ hưu phải đủ 60 tuổi đối với nam, đủ 55
tuổi đối với nữ trở lên (không có quy định nghỉ hưu trước tuổi) và lương hưu
nếu thấp hơn tiền lương tối thiểu chung thì không bù cho bằng tiền lương tối
thiểu chung.
- Về chế độ tử tuất: Người đang đóng và bảo lưu thời gian đóng
BHXH chết, khi đã đóng BHXH từ đủ 5 năm trở lên thì thân nhân mới được
hưởng trợ cấp mai táng; người đang đóng và bảo lưu thời gian đóng BHXH,
người đang hưởng lương hưu chết thì thân nhân chỉ được hưởng trợ cấp tuất
1 lần theo quy định (đối với trường hợp đóng BHXH dưới 01 năm thì được
hưởng bằng số tiền đã đóng BHXH nhưng không cao hơn mức 1,5 tháng
bình quân tiền đóng BHXH; đối với người đang hưởng lương hưu chết, nếu
trừ thời gian đã hưởng lương hưu theo quy định mà hết thời gian được
hưởng trợ cấp tuất thì không còn tiền trợ cấp tuất 1 lần).
- Mức lương tháng tính lương hưu, trợ cấp tuất là mức bình quân thu
nhập tháng đóng BHXH của cả quá trình tham gia.
b) Đối với người tham gia BHXH tự nguyện mà trước đó có thời gian
đóng BHXH bắt buộc:
- Về chế độ hưu trí: Trường hợp đã có đủ 20 năm đóng BHXH bắt
buộc trở lên thì điều kiện hưởng chế độ hưu trí hàng tháng được thực hiện
như đối với người đang tham gia BHXH bắt buộc (có 15 năm làm nghề hoặc
công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc có đủ 15 năm làm việc ở nơi

có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên được giảm 5 tuổi; có 15 năm làm nghề
hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm mà bị suy giảm khả
năng lao động từ 61% trở lên được hưởng lương hưu với mức thấp hơn mà
không phụ thuộc vào tuổi đời; đủ 50 tuổi trở lên đối với nam, đủ 45 tuổi trở
lên đối với nữ, bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên thì được hưởng
lương hưu với mức thấp hơn) và lương hưu nếu thấp hơn tiền lương tối thiểu
chung thì được bù cho bằng tiền lương tối thiểu chung. Trường hợp đã đóng
12
BHXH bắt buộc dưới 20 năm thì chế độ hưu trí thực hiện như đối với người
có toàn bộ thời gian tham gia BHXH tự nguyện.
- Về chế độ tử tuất: Đối với người đã có đủ 15 năm đóng BHXH bắt
buộc trở lên (kể cả người đang hưởng lương hưu) chết, thì nhân ngoài hưởng
trợ cấp mai táng còn được hưởng trợ cấp tuất hàng tháng nếu có đủ điều kiện
theo quy định và mức hưởng như quy định đối với BHXH bắt buộc. Người
có dưới 15 năm đóng BHXH bắt buộc (kể cả người đang hưởng lương hưu)
chết hoặc người có đủ 15 năm đóng BHXH bắt buộc trở lên chết mà không
có thân nhân hưởng trợ cấp tuất hàng tháng, thì thân nhân được hưởng trợ
cấp mai táng và trợ cấp tuất một lần theo quy định như đối với BHXH bắt
buộc (mức thấp nhất bằng 3 tháng bình quân tiền lương, tiền công và thu
nhập tháng đóng BHXH hoặc 3 tháng lương hưu).
- Mức tiền lương, tiền công và thu nhập tháng làm căn cứ tính hưởng
BHXH là mức bình quân tháng tính theo thời gian đóng BHXH của 2 loại
hình bắt buộc và tự nguyện.
6. Về hồ sơ và quy trình giải quyết hưởng BHXH: Người tham gia
BHXH tự nguyện khi đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí, ngoài sổ BHXH
phải lập tờ khai cá nhân (có xác nhận của chính quyền địa phương nơi cư
trú); Người tham gia BHXH hoặc thân nhân trực tiếp nộp và nhận hồ sơ
hưởng lương hưu, trợ cấp tử tuất tại BHXH cấp huyện nơi đang đóng BHXH
hoặc nơi cư trú (đối với trường hợp bảo lưu) hoặc nơi chi trả lương hưu.
Thời hạn giải quyết chế độ BHXH đối với người tham gia BHXH tự nguyện

là 20 ngày đối với hồ sơ hưởng hưu trí hàng tháng, 10 ngày đối với hồ sơ
hưởng trợ cấp BHXH 1 lần và trợ cấp tử tuất.
IV. Ưu điểm và những khó khăn khi thực hiện BHXH tự nguyện cho
người nông dân và lao động tự do.
1. Ưu điểm :
- Đầu tiên, một trong những ưu việt lớn nhất của BHXH tự nguyện là
không bị phá sản. Người dân luôn luôn yên tâm rằng mình đóng góp vào đó
thì đã nhận được sự bảo hộ của Nhà nước, kể cả khi đồng tiền có sự thay
đổi, có biến động thì Nhà nước vẫn sẽ có trách nhiệm với người tham gia.
- Thứ hai, bảo hiểm xã hội tự nguyện có một phương thức đóng góp
rất cơ động. Không như những loại hình bảo hiểm khác, bảo hiểm xã hội tự
nguyện phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện kinh tế và điều kiện lao động của
người tham gia bảo hiểm. Vì thế mức phí sẽ rất phù hợp với khả năng đóng
góp và nguyện vọng thụ hưởng sau này của người tham gia. Trong đó, tổng
số tiền đóng trong quá trình tham gia BHXH tự nguyện cho đến khi 60 tuổi
13
sẽ được cộng toàn bộ cùng với tiền lãi, rồi chia ngược trở lại cho số năm dự
kiến được hưởng (xác định dựa trên tuổi thọ bình quân của người VN, loại
trừ những người tử vong sớm do tai nạn, bệnh tật ) để tính ra số lương hưu
hằng tháng.
- Thứ ba, BHXH tự nguyện có sự khác biệt so với BHXH bắt buộc là
người tham gia BHXH bắt buộc khi nghỉ hưu sẽ được hưởng 75% lương cho
đến khi mất, nhưng có người chưa kịp cầm sổ, hoặc mới được hưởng lương
hưu vài năm đã mất thì gia đình chỉ được trợ cấp tiền tuất. Nhưng với
BHXH tự nguyện, những trường hợp này gia đình sẽ được trả lại toàn bộ số
tiền đã đóng.
-Thứ tư, thuận lợi của loại hình BHXH tự nguyện là tự nguyện
tham gia! Loại hình BHXH tự nguyện này rất ''mở'' đối với những người có
hoàn cảnh kinh tế khó khăn như nông dân, thợ thủ công. Đó là các mức đóng
góp ''nhẹ nhàng'', người tham gia như nông dân không quá ngại trước các

mức 20.000 đồng/tháng, 30.000 đồng/tháng, 50.000 đồng/tháng, 70.000
đồng/tháng, 100.000 đồng/tháng. Theo tinh thần của Nghị định, người tham
gia BHXH tự nguyện được lựa chọn mức đóng phụ hợp với thu nhập của
mình và có thể thay đổi mức đóng từ mức thấp lên mức cao hơn hoặc ngược
lại. Một trong những thuận lợi nữa cho khách hàng tham gia BHXH tự
nguyện là trong trường hợp rủi ro, bị giảm thu nhập thì người tham gia
BHXH tự nguyện có thể tạm ngừng đóng BHXH, sau đó được đóng bù.
- Thứ năm, khi nhận sổ hưu, người tham gia BHXH tự nguyện sẽ
được nhận luôn thẻ bảo hiểm y tế miễn phí và được hưởng các chính sách
tương tự như những người hưu trí hiện nay.
- Thứ sáu, có sự liên thông giữa BHXH bắt buộc và BHXH tự
nguyện.NLĐ trước đây tham gia BHXH bắt buộc, vì lý do nào đó phải nghỉ
việc, nếu sau đó chuyển sang tham gia BHXH tự nguyện, hoặc đối với
trường hợp chuyển từ BHXH tự nguyện sang BHXH bắt buộc thì được bảo
lưu thời gian đã đóng để làm cơ sở tính hưởng chế độ BHXH. Với sự phát
triển của thị trường lao động, việc di chuyển lao động từ khu vực này sang
khu vực khác là một tất yếu, cách tính trên sẽ đáp ứng được tình hình chu
chuyển lao động và đảm bảo quyền lợi của NLĐ tham gia BHXH.
2. Những khó khăn khi thực hiện BHXH tự nguyện.
- Hiện thu nhập của người lao động là rất khác nhau nên BHXH tự
nguyện khó triển khai hơn so với BHXH bắt buộc. Vì BHXH bắt buộc có
thể thu tại cơ quan, doanh nghiệp còn bảo hiểm xã hội tự nguyện là phải thu
của từng người một. Và nếu triển khai như vậy thì chi phí cho hoạt động của
bộ máy sẽ rất lớn.
14
- Người tham gia BHXH tự nguyện chưa nắm được chính sách ưu việt
của loại hình này. Cùng với đó, điều kiện kinh tế của các hộ gia đình đại đa
số còn ở mức độ thấp, trình độ dân trí không đồng đều, do vậy bước đầu
chưa thấy hết được những lợi ích to lớn khi tham gia BHXH tự nguyện.
-Người tham gia BHXH tự nguyện sẽ được hưởng chế độ lương hưu

tối thiểu 15 năm sau khi hết tuổi lao động. Nếu chết trước thời hạn này thì
được trả phần lương hưu còn lại. Ngoài ra người lao động còn được cấp thẻ
bảo hiểm y tế. Song theo tính toán, với quy định này, mức chi trả có thể sẽ
vượt quá đầu vào của quỹ bảo hiểm.
- BHXH tự nguyện khác với các loại hình bảo hiểm kinh doanh khác
là nó không được phá sản. Và Nhà nước sẽ phải bảo đảm hoạt động cho quỹ
BHXH tự nguyện và có thể phải hỗ trợ những khi cần thiết.
- Để triển khai được chính sách BHXH tự nguyện, ngân sách Nhà
nước sẽ phải “gánh” thêm một phần không nhỏ trong khi đó ngân sách Nhà
nước hiện đang rất khó khăn.
- Khi thực hiện BHXH bắt buộc cho NLĐ chỉ triển khai tới từng đơn
vị, bây giờ triển khai BHXH tự nguyện tới từng NLĐ thì phải xây dựng
được một quy trình quản lý mới. Quy trình này phải vừa quản lý quỹ chặt
chẽ, vừa đơn giản, thuận lợi, linh hoạt, chính xác cho người tham gia, bởi vì
những người tham gia hôm nay, nhưng đến tận 20 năm sau hoặc hơn nữa họ
mới thụ hưởng. Hơn nữa, quy trình phải mang tính khoa học, chặt chẽ để
phòng khi có nhiều người đang bảo lưu chế độ BHXH bắt buộc chuyển sang
tham gia BHXH tự nguyện vẫn được thực hiện liên thông và thanh toán đầy
đủ, thuận tiện (2 quỹ này đang hoạt động độc lập với nhau).
V. Các biện pháp triển khai BHXH tự nguyện.

- BHXH tỉnh,huyện phải phối hợp với các ngành chức năng, cơ quan
báo chí, tuyên truyền của tỉnh, huyện làm tốt công tác thông tin tuyên truyền
để mọi người hiểu và tham gia BHXH tự nguyện, vì đối tượng của BHXH tự
nguyện rất đa dạng, phần lớn trong số đó chưa từng tham gia BHXH bao
giờ. Đặc biệt là phải vận động được nhiều người thay đổi thói quen “tới đâu
hay tới đó”, xem nhẹ việc tham gia BHXH để lúc khó khăn sẽ được cơ quan
BHXH trợ cấp.
- Đối với cơ quan BHXH cố gắng vận dụng được phương thức vận
động các nhóm đối tượng theo yêú tố thuận lợi và có số đối tượng tham gia

BHXH tự nguyện nhiều nhất. Cụ thể, tuỳ thuộc vào yếu tố: Về nhận thức,
nhu cầu, sự mong muốn tham gia của từng nhóm đối tượng mà lần lượt triển
khai thực hiện. Theo nguyên tắc dễ trước- khó sau. Điển hình như: Đối
15
tượng cán bộ, xã, phường, thị trấn không chuyên trách hiện nay thể hiện rõ
yếu tố thuận lợi: Nắm bắt, nhận thức vễ BHXH tự nguyện nhanh chóng và
có ý thức cao trong việc chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước. Nếu chúng ta biết cách tranh thủ sự chỉ đạo với cấp uỷ, chính
quyền, đoàn thể cấp xã, phường, thị trấn vận động tốt thì có khả năng nhóm
đối tượng này đăng ký tham gia rất cao. Tương tự, lần lượt với các nhóm:
Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, người lao động nghỉ việc đủ tuổi nghỉ
hưu mà chưa đủ năm đóng BHXH; thân nhân của cán bộ, viên chức; hội
viên các đoàn thể; xã viên hợp tác xã hoặc những người lao động có nguồn
thu nhập ổn định, nông dân và những lao động tự tạo việc làm Những đối
tượng này cần có kế hoạch thống kê, xác định số lượng để phối hợp với các
đoàn thể, hợp tác xã triển khai vận động. Xây dựng được một hệ thống tổ
chức quản lý thực hiện có năng lực, và một hệ thống chính sách BHXH đồng
bộ đối với người dân trên phạm vi cả nước.
- Đại lý là cánh tay nối dài giữa cơ quan BHXH với người dân, cơ chế
thông qua đại lý thu BHXH tự nguyện ở xã, phường, thị trấn để vận động,
thu phí BHXH tự nguyện. Có như vậy thì mới giảm được áp lực cho bộ máy
BHXH.
- Xây dựng được một hệ thống tổ chức quản lý thực hiện có năng lực,
và một hệ thống chính sách BHXH đồng bộ đối với người dân trên phạm vi
cả nước.
- Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ ban đầu cho hệ thống
BHXH người nông dân. Kinh nghiệm cho thấy, ngay ở các nước phát triển,
như Cộng hoà liên bang Đức, hàng năm Ngân sách nhà nước cũng phải hỗ
trợ chi trả từ 75-80% cho BHXH cho nông dân.
VI. Tính khả thi của chế độ BHXH tự nguyện.


BHXH tự nguyện được triển khai sẽ đem lại nhiều lợi ích. Bởi hiện
nay, nhiều người vẫn mang nặng tâm lý muốn có chế độ ổn định khi hết tuổi
lao động (lương hưu). Vì vậy, một khi mọi người lao động đều được hưởng
lương hưu, chắc chắn, áp lực về công việc trong khối doanh nghiệp Nhà
nước sẽ được giảm đáng kể. Người lao động cũng sẽ yên tâm làm việc ở mọi
thành phần kinh tế, kể cả kinh tế hộ gia đình. Riêng đối với BHXH Việt
Nam, khi triển khai BHXH tự nguyện, quỹ BHXH tự nguyện sẽ có nguồn
thu rất lớn và là nguồn tài chính quan trọng, bổ sung nguồn vốn cho đầu tư
phát triển kinh tế đất nước.
Hơn nữa việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) sẽ tác động mạnh mẽ vào lĩnh vực lao động,
việc làm. Đặc biệt, nhu cầu về việc làm của thị trường lao động sẽ tăng lên
16
do nhiều người tự chuyển đổi hoặc bắt buộc phải chuyển đổi vị trí làm việc.
Yếu tố này sẽ ảnh hưởng tới đối tượng tham gia BHXH, BHYT và từ đó ảnh
hưởng tới quỹ BHXH cũng như việc giải quyết chính sách. Và để lấp được
khoảng trống này, chỉ có BHXH tự nguyện mới có thể đáp ứng và bảo vệ
quyền lợi người lao động khi họ thất nghiệp hoặc tạm thời mất việc làm. Vì
vậy, sự ra đời của BHXH tự nguyện hoàn toàn thích ứng với quá trình hội
nhập.
Cũng theo một nghiên cứu về khả năng tham gia BHXH tự nguyện
của người dân trong quá trình xây dựng Luật, Viện Khoa học LĐTB&XH,
Bộ LĐTB&XH, đã đưa ra con số 41% số người trong độ tuổi lao động thuộc
khu vực phi chính thức cho biết, họ sẽ tham gia BHXH tự nguyện. Đây là
con số có nhiều ý nghĩa, bởi nếu làm tốt công tác tuyên truyền, cộng với
hiệu ứng dây chuyền, BHXH tự nguyện ở nước ta sẽ thành công trong triển
khai.
Tuy nhiên trong thời gian đầu triển khai vẫn chưa thu hút được đông
đảo người dân tham gia, cụ thể như sau 1 tháng triển khai, theo BHXH thành

phố HCM trên toàn TP mới có 67 người tham gia BHXH tự nguyện với tổng
thu trên 153 triệu đồng, hầu hết là những người đã có quá trình đóng BHXH
bắt buộc chỉ có 3 đối tượng tham gia mới.
Phần lớn người nông dân còn chưa tham gia vào lĩnh vực này bởi hai
nguyên nhân cơ bản:
-Thứ nhất, đó là thu nhập thực tế của người nông dân còn thấp, họ
phải sử dụng nguồn tài chính hạn hẹp của mình cho các nhu cầu được coi là
cấp thiết đối với cuộc sống hàng ngày của gia đình, và một phần để tích trữ
cho các chi tiêu đột xuất.
-Thứ hai, nhận biết của người dân về các dịch vụ BHXH tự nguyện
còn chưa đầy đủ. Như khi tham gia BHYT nhưng không bị ốm đau và không
cần sử dụng dịch vụ BHYT, người nông dân cho rằng như vậy là tham gia
BHYT không có lợi và họ không tham gia tiếp.
VII. Ý kiến đóng góp về BHXH tự nguyện.
1. Không nên quy định mức "trần"
BHXH tự nguyện chỉ nên gọi là bảo hiểm hưu trí tự nguyện vì người
đóng loại bảo hiểm này thật ra chỉ nhận lại số tiền họ đã tích luỹ trong thời
hạn 20 năm hoặc lâu hơn. Mức đóng được quy định trong dự thảo là quá
thấp. Đã là tự nguyện thì không nên quy định mức "trần". Tại điều 13 của dự
thảo quy định mức hưởng BH chia cho 180 tháng sẽ gặp nhiều bất cập, vì
hiện nay tuổi thọ trung bình của người dân ngày càng cao, nếu người thụ
17
hưởng BHTN sống quá 75 tuổi thì phải lấy nguồn nào để chi trả bù vào mức
đóng?
2. Tránh tình trạng mất công bằng
Dự thảo cần quy định rõ thời gian đóng BHXH, vì nếu như theo điều
7, nếu thiếu 10 năm trong khi đã đủ 60 tuổi thì sẽ được đóng "một cục" để từ
đó hưởng lương hưu. Như vậy, đương nhiên sẽ có lợi hơn những người
khác, vì mọi người phải mất những 20 năm để đóng. Thời gian khiến đồng
tiền có những giá trị khác nhau (do trượt giá) nên sẽ xảy ra tình trạng mất

công bằng và mất hợp lý trong công tác thu bảo hiểm. Mặt khác, BHXH tự
nguyện cũng chưa thật sự khuyến khích người trẻ tuổi vì nếu họ đã đóng đủ
tiền bảo hiểm trong 20 năm nhưng chưa đủ 60 tuổi họ sẽ phải "đợi" đến mức
tuổi quy định. Trong khi đó, tại BHXH bắt buộc quy định rõ ràng nam 60
tuổi, nữ 55 tuổi (có thời gian đóng BHXH đầy đủ) sẽ được hưởng chế độ
hưu trí theo luật định. Phải chăng, trong BHXH tự nguyện cũng phải theo
chế định này, có như vậy mới tránh được tình trạng phân biệt giữa hai loại
hình bảo hiểm.
3. Nên nâng mức lợi nhuận trong BHXH tự nguyện
Quỹ BHXH tự nguyện nên giao cho ai phụ trách là hợp lý nhất còn là
vấn đề cần được đưa ra thảo luận. Ngoài ra, người tham gia BHXH tự
nguyện chỉ được hưởng lợi nhuận bằng lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn (chưa
trừ chi phí quản lý) là chưa hợp lý. Điều 20 quy định: "Tiền nhàn rỗi của quỹ
BHTN được gửi vào Ngân hàng; mua trái phiếu Chính phủ, tín phiếu Kho
bạc Nhà nước, dự án có hiệu quả cao, không rủi ro". Như vậy ở đây toàn là
mức gửi dài hạn lại không bị tính thuế tại sao chỉ trả cho người tham gia BH
mức lợi nhuận thấp nhất. Phải chăng nên tăng mức đó theo kỳ hạn 1 năm vì
BHXH tự nguyện không phải loại hình BH mang tính chất kinh doanh.
4. Nên có những quy định rõ ràng hơn.
Việc quy định người bị tù giam không được đóng BHTN là đúng vì
lúc đó họ đang là người có tội, bị mất quyền công dân nhưng nếu như trong
thời gian tạm giam ( có thể kéo dài tới 6 tháng hoặc lâu hơn) thì sao? Theo
nguyên tắc, họ chưa bị coi là có tội vì thế nên ghi rõ những người bị Toà án
xét xử là có tội, đang thụ án phạt giam sẽ không được đóng BHXH tự
nguyện.
5. BHXH “tự nguyện” nhưng vẫn còn ràng buộc.
Những người rất muốn đóng BHXH tự nguyện nhưng không đủ điều
kiện về thời gian tham gia BHXH bắt buộc hoặc có đóng cũng không thể
được hưởng lương hưu. Như trường hợp một phụ nữ 56 tuổi, đã nghỉ hưu và
tham gia BHXH bắt buộc được 14 năm 9 tháng, bà rất muốn đóng tiếp để đủ

điều kiện hưởng hưu trí. Tuy nhiên, người đã hết tuổi LĐ phải đóng BHXH
bắt buộc đủ 15 năm trở lên mới được đóng tiếp cho đủ 20 năm để hưởng
18
lương hưu. Vì vậy, những đối tượng hết tuổi LĐ nhưng chưa đóng đủ 15
năm BHXH (dù chỉ thiếu một vài tháng) cũng không được tham gia nối tiếp
BHXH tự nguyện.
Còn điều kiện về thời gian đóng khi đã đến tuổi hưu trí. Nếu người
tham gia BHXH tự nguyện đủ 60 tuổi đối với nam (đủ 55 tuổi đối với nữ) có
thời gian tham gia BHXH chưa đủ 15 năm thì chỉ được giải quyết trợ cấp 1
lần, không được tiếp tục đóng BHXH tự nguyện. Trong khi người tham gia
BHXH bắt buộc thuộc trường hợp trên vẫn được đóng tiếp.
Quy định trên sẽ khiến người thuộc lứa tuổi trên 45 tuổi với nam và
trên 40 với nữ mới tham gia BHXH tự nguyện không có cơ hội hưởng lương
hưu. Đã là BHXH mang tính chất tự nguyện thì không nên có điều kiện ràng
buộc như trên, nên để người dân được lựa chọn và tham gia theo khả năng
của mình.
6. Cách đóng phí bảo hiểm là quá “dễ dãi”.
Nên đóng phí đều đặn để đảm bảo tính luân chuyển và đầu tư có hiệu
quả, nhưng theo quy định thì người tham gia bảo hiểm tự nguyện được đóng
dồn 3-6 tháng, thậm chí vài năm một lần. như thế sẽ có người về già đóng
phí bảo hiểm một cục để hưởng lương hưu. Như vậy là trái nguyên tắc bảo
hiểm.
19
Kết luận
BHXH tự nguyện là nhu cầu, nguyện vọng của đông đảo người lao
động, nhất là nông dân, người lao động tự do và cũng phù hợp với chủ
trương của Đảng và Nhà nước. So với các hình thức bảo hiểm kinh doanh,
thì BHXH tự nguyện có tính ưu việt và hấp dẫn riêng. Có thể nói đây là một
chính sách hết sức nhân văn quan tâm đến đời sống người dân lao động, nhu
cầu được chăm lo cuộc sống khi hết tuổi lao động là cần thiết đối với tất cả

mọi người không phân biệt giới tính, dân tộc, và nơi cư trú, đối với những
người có thu nhập trung bình và thấp thì nhu cầu này là tối cần thiết. Tuy
nhiên sẽ có những khó khăn khi triển khai loại hình BHXH này, và cũng còn
nhiều lo ngại về tính khả thi của nó. Do vậy cần phải có những biện pháp
hữu hiệu để khắc phục khó khăn, cũng như nhanh chóng hoàn thiện các quy
định về chế độ BHXH tự nguyện cho hợp lý hơn.
Chính sách BHXH tự nguyện đã mở ra một cơ hội mới cho số đông
NLĐ và rất phù hợp với cơ chế thị trường. Và dự thảo Luật BHXH đã nhóm
lên những tia hy vọng về một tương lai “làm ngoài, ăn lương hưu nhà nước”
cho những người nông dân, lao động tự do có thu nhập không ổn định
20
Tài liệu tham khảo
1. Dự thảo luật BHXH về chế độ BHXH tự nguyện.
2. Thạc sĩ Mai Ngọc Anh, Đói nghèo và tách biệt xã hội ở VN hiện
nay, Tạp chí Kinh tế và dự báo tháng 3.2006, số 395.
3. PGS.TS. Nguyễn Văn Định, Chính sách Bảo hiểm xã hội đối với
nông dân VN ( Kỷ yếu Hội thảo khoa học: “Một số vấn đề về chính
sách xã hội nông thôn VN”).
4. TS. Nguyễn Hữu Dũng, Đánh giá hệ thống chính sách xã hội nông
thôn ở nước ta hiện nay và khuyến nghị phương hướng hoàn thiện
những năm tới ( Kỷ yếu Hội thảo khoa học: “Một số vấn đề về chính
sách xã hội nông thôn VN”)
5. Báo Vietnamnet.com.vn.
6. Web bao hiem.
21

×