Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường chứng khoán ( TTCK) là một kênh huy động vốn trung, dài hạn
rất có hiệu quả của một nền kinh tế hiện đại. Vì vậy sự ra đời và phát triển của
TTCK ở một đất nước như đất nước ta là rất cần thiết và là yếu tố quan trọng cho sự
phát triển nền kinh tế của đất nước trong tương lai, để đạt được sự phát triển đó các
công ty chứng khoán ( CTCK) có một vai trò rất quan trọng cho sự phát triển của cả
TTCK. Thông qua các nghiệp vụ của các CTCK như hoạt động mối giới chứng
khoán, nghiệp vụ tự doanh chứng khoán, nghiệp vụ bảo lãnh phát hành, nghiệp vụ
quản lý danh mục đầu tư, nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán và các nghiệp vụ
khác… các CTCK đã tạo ra cơ chế huy động vốn linh hoạt giữa những người sử
dụng vốn và những người có tiền nhàn rỗi, cung cấp cơ chế giá cả cho giao dịch, tao
ra tính thanh khoản cao cho chứng khoán, góp phần điều tiết và bình ổn thị trường.
Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nhà Hà Nội
được thành lập vào năm 2005, chính thức đi vào hoạt động vào T4/ 2006. Ra đời
vào thời kỳ chứng khoán Việt Nam bắt đầu phát triển mạnh. Tuy là công ty có quy
mô trung bình nhưng công ty đã phát triển không ngừng và đạt được những thành
tựu đáng kể, dần dần khẳng định được vai trò của mình trên TTCK Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được công ty còn có những mặt
hạn chế cần khắc phục. Vấn đề đặt ra là cần phải tìm hiểu, phân tích những hạn chế,
tìm ra nguyên nhân để từ đó đưa ra các giải pháp khắc phục những hạn chế và phát
triển công ty trong tương lại.
Với mục đích đó, trong thời gian thực tập tại công ty TNHH chứng khoán
Ngân hàng thương mại Cổ phần Nhà Hà Nội, em chọn đề tài : “ Một số giải pháp
phát triển thị trường cho công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Thương mại
Cổ phần Nhà Hà Nội”
Bố cục đề tài gồm ba chương, cụ thể:
Chương I. Những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động của CTCK.
Chương II. Thực trạng TTCK của Công ty TNHH chứng khoán Ngân
hàng Thương mại Cổ phần Nhà Hà Nội (HBBS).
Chương III. Một số giải pháp triển rhij trường cho công ty TNHH chứng
khoán Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nhà Hà Nội.
1
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Nhằm đối chiếu những kiến thức đã học với thực tế, bài viết của em được
nghiên cứu theo phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp quy nạp, cùng với
các đồ thị, bảng biểu… Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu sẽ không thể tránh
khỏi các thiếu sót, hạn chế. Vì vây, kính mong thầy cô giáo đóng góp ý kiến để bài
làm được hoàn chỉnh hơn.
Trước khi đi vào nội dung của bài viết em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo
tận tình của giáo viên hướng dẫn PGS.TS NGUYỄN TIẾN DŨNG và các anh chị
ở Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nhà Hà Nội.
2
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG
CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
I. Tổng quan về quan về CTCK
1. Sự hình thành và phát triển
Sự ra đời và phát triển của CTCK gắn liền với sự hình thành và phát triển
của TTCK. Lịch sử hình thành và phát triển TTCK cho thấy, khi nhu cầu mua bán
chứng khoán xuất hiện sẽ tạo nên những tụ điểm mua bán chứng khoán sơ khai và
sau đó hình thành nên một TTCK. Cũng như các thị trường khác, lúc đầu những
người mua và người bán chứng khoán là những cá nhân sở hữu chứng khoán, họ
tiến hành mua bán trực tiếp với nhau. Về sau, khi thị trường phát triển, khối lượng
vốn luân chuyển ngày càng lớn, những người mua bán chứng khoán cũng tăng lên,
đòi hỏi cần phải có những người trung gian đứng ra giúp cho việc mua bán được
thuận tiện hơn. Họ được biết đến như là những nhà môi giới cho việc mua bán
chứng khoán cho những người cần mua và những người cần bán.
Tuy nhiên, thời gian đầu những người môi giới chứng khoán hoạt động đơn
độc và chưa hình thành rõ nét môi giới chứng khoán. Vì vây, để tăng uy tín, thanh
danh đối với nhà đầu tư trong vai trò là nhà trung gian- những người môi giới
thường hợp thành công ty, gọi là công ty môi giới chứng khoán.
Ngoài ra những thương gia kinh doanh chứng khoán ngày càng gia tăng về
số lượng. Họ là những người mua bán chứng khoán bằng nguồn vốn cửa mình để
hưởng chênh lệch giá. Để đủ sức cạnh tranh trên lĩnh vực kinh doanh chứng khoán
họ cũng thành lập ra các công ty kinh doanh chứng khoán. Những công ty môi giới
kinh doanh chứng khoán này khi hoạt động phát triển họ không chỉ dừng lại ở hoạt
động ban đầu mà đã có sự đan xen, phát triển thêm và một loại hình công ty trong
lĩnh vực chứng khoán xuất hiện- đó là CTCK.
Từ cuối thế kỷ 17 và sang thế kỷ 18, 19 sự phát triển rầm rộ của các công ty
cổ phần ở các nước tư bản ở châu Âu đã dẫn đến sự phát triển cổ phiếu ồ ạt của các
cộng ty cổ phần. Khi đó, các công ty cổ phần này phát hành cổ phiếu đều thông qua
tổ chức nhận mua cổ phiếu và bán lại cho các nhà buôn. Tổ chức nhận mua này là
các CTCK và ngân hàng đầu tư. Như vậy, các CTCK đảm nhận việc phân phối
chứng khoán cho các công ty cổ phần. Sau này, hoạt động này không chỉ dừng lại ở
3
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
việc phân phối chứng khoán mà đã phát triển hơn, cung cấp nhiều dịch vụ liên quan
tới việc phát hành của các công ty cổ phần- đó là hoạt động bảo lãnh phát hành.
Sang thế kỷ 20, chủ nghĩa tư bản chuyển sang tự do cạnh tranh sang giai
đoạn lũng loạn. Tư bản lũng loạn hình thành trước tiên ở châu Âu, Mỹ và sau đó là
châu Á. Trong giai đoạn này, CTCK phát triển mạnh, trực tiếp làm các nghiệp vụ về
chứng khoán, đặc biệt nghiệp vụ môi giới chứng khoán. Qua đó, thu hút được đông
đảo khách hàng tham gia trên đầu tư trên thị trường chứng khoán.
TTCK ngày càng phát triển thì ngày càng có nhiều nhà đầu tư tham gia thị
trường. Tuy nhiên, không phải nhà đầu tư nào cũng có thể tự đưa ra quyết định mua
bán cho chính mình. Với những nhà đầu tư không có kinh nghiệm, trình độ, thời
gian họ có thể nhờ tới CTCK. Và lúc này hoạt động nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng
khoán, quản lý danh mục đầu tư của CTCK xuất hiện.
Cùng với sự phát triển nền kinh tế các nước, CTCK hình thành ngày càng
nhiều và phát triển mạnh, phong phú về thể loại, thuận tiện cho những nhà đầu tư và
kinh doanh chứng khoán, do đó các nghiệp vụ giao dịch chứng khoán cũng ngày
càng phát triển. Đến lượt nó, sự phát triển của các CTCK là tác nhân quan trọng
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và TTCK nói riêng.
Tuy nhiên, các hoạt động kinh doanh của CTCK có ảnh hưởng nhiều đến lợi
ích của nhà đầu tư và rất dễ bị các công ty chứng khoán lợi dụng để kiếm lời riêng.
Ngoài ra, với số lượng công ty chứng khoán ngày càng nhiều, phạm vi và tính chất
hoạt động của CTCK ngày càng rộng, phát triển đa dạng, đa năng, tính cạnh tranh
ngày càng gay gắt và tất yếu sẽ dẫn đến những CTCK gặp rủi ro có thể dẫn đến phá
sản. Do đó, nhằm góp phần đảm bảo tính an toàn đối với thị trường, bảo vệ quyền
lợi của các nhà đầu tư cũng như bảo đảm sự công bằng trong hoạt động kinh doanh
chứng khoán giữa các CTCK thì cần thiết phải có cơ quan nhà nước chuyên ngành
thanh tra, giám sát, quản lý các CTCK trên TTCK đó là yêu cầu bắt buộc mà luật
chứng khoán các nước đều quy định.Và sự phát triển rầm rộ các CTCK ở các nước
phát triển và đang phát triển ngày nay đều phải tuân thủ các quy định mà pháp luật
mỗi nước đề ra.
2. Khái niệm và đặc điểm
2.1 Khái niệm về CTCK
- Theo giáo trình TTCK của Đại học Kinh tế Quốc dân : là một định
chế tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán.
4
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- Theo quyết định số 04/1998/ QĐ- UBCK3 ngày 13/10/1998 của
UBCKNN : CTCK là công cổ phần hoặc công ty TNHH thành lập hợp pháp tại Việt
Nam, được UBCKNN cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh
doanh chứng khoán
- Theo quyết định số 27/2007 của bộ trưởng bộ tài chính : CTCK là tổ
chức có tư cách pháp nhân hoạt động kinh doanh chứng khoán, bao gồm một, một
số hoặc toàn bộ các hoạt động : môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo
lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán.
Như vậy : CTCK được hiểu là một tổ chức tài chính trung gian được thành
lập theo pháp luật, thực hiện một và/ hoặc một số hoạt động trên thị trường chứng
khoán.
2.2 Đặc điểm
2.2.1 Đặc điểm về vốn
Đối với công ty hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, thương
mại dịch vụ thì yêu cầu của pháp luật về vốn cho việc thành lập công ty là không
có. Tuy nhiên, đối với CTCK lại khác, CTCK muốn thành lập phải đáp ứng yêu cầu
về mức vốn pháp định mà luật pháp quy định. Ở mối nước việc quy định mức vốn
này là khác nhau, và có thể là quy định chung cho mọi loại hình kinh doanh chứng
khoán mà cũng có thể riêng cho từng loại hình.
Đây là quy định quan trọng nhất quyết định CTCK có được phép thực hiện
hoạt động trên TTCK. Đặc điểm này nhằm bảo đảm mục tiêu bảo vệ quyền lợi nhà
đầu tư.
2.2.2 Đặc điểm về nhấn sự
Đây là lĩnh vự hoạt động có nghiệp vụ phức tạp, có độ rủi ro cao, mức độ
ảnh hưởng tới đời sống kinh tế xã hội lớn nên đòi hỏi nhân viên của CTCK phải là
người có trình độ tốt nghiệp đại học trở lên về chuyên ngành ngân hàng, tài chính,
TTCK, có tư cách đạo đức nghề nghiệp và có chứng chỉ hành nghề do cơ quan có
thẩm quyền cấp.
2.2.3 Đặc điểm về đội ngũ lãnh đạo
Yêu cầu về đội ngũ lãnh đạo trong bất cứ yêu cầu lĩnh vực nào đều phải có
kiếm thức chuyên môn, có đạo đức trong kinh doanh, không vi phạm pháp luật và
có trình độ quản lý. Yêu cầu về đội ngũ lãnh đạo của CTCK cũng vậy. Tuy nhiên,
đối với lĩnh vực chứng khoán, ngoài những yêu cầu trên lãnh đạo còn phải có chứng
chỉ hành nghề và phải có giấy phép đại diện do cơ quan có thẩm quyền cấp. Và yêu
5
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
cầu đối với đội ngũ lãnh đạo về trình độ học vấn và kinh nghiệm công tác phải cao
hơn đội ngũ nhân viên.
2.2.4 Đặc điểm về cơ sở vật chất kỹ thuật
Khi tiến hành đăng ký hoạt động, CTCK phải đáp ứng về yêu cầu trụ sở phù
hợp cho việc kinh doanh chứng khoán. Đặc điểm này xuất phát từ đặc điểm của
hoạt động kinh doanh chứng khoán là cầm phải có sàn giao dịch, ở đó các nhà đầu
tư tới để thực hiện giao dịch mua bán chứng khoán cho mình, tiếp cận thông tin thị
trường. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất kỹ thuật của CTCK còn là hệ thống các trang
thiết bị hiện đại phục vụ cho quá trình truyền lệnh của khách hàng, thông báo kết
quả giao dịch cũng như giúp khách hàng kiểm tra số dư tài khoản hoặc tìm kiếm
thông tin… Ngoài ra, khi thị trường chưa được phi vật chất hóa chứng khoán thì
CTCK cũng phải đảm bảo điều kiện về hệ thống kho két để đảm bảo lưu giữ an toàn
chứng khoán cho các nhà đầu tư.
2.2.5 Đặc điểm về xung đột lợi ích giữa quyền lợi khách hàng và CTCK
Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh hay cung cấp dịch vụ thi lợi ích của
khách hàng bao giờ cũng gắn liền với lợi ích của doanh nghiệp và giữa khách hàng
và doanh nghiệp không có mâu thuẫn về lợi ích. Tuy nhiên, đối với hoạt động của
CTCK, bên cạnh việc cung cấp dịch vụ tốt nhất cho khách hàng thì giữa CTCK và
khách hàng đôi lúc có mẫu thuẫn về lợi ích. Những hoạt động mà CTCK tiến hành
có thể dẫn đến xung đột lợi ích là hoạt động môi giới, tự doanh và tư vấn đầu tư
chứng khoán. Do vậy, đặc điểm này tạo ra sự khác biệt trong hoạt động của CTCK
trên TTCK so với các loại hình kinh doanh trong các lĩnh vực khác.
2.3 Phân loại CTCK
Căn cứ vào mô hình hoạt động của công ty chứng khoán có thể chia thành :
2.3.1 Công ty chuyên doanh chứng khoán
Theo mô hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công ty độc
lập, chuyên môn hóa trong lĩnh vự chứng khoán đảm nhận; các ngân hàng không
trực tiếp tham gia kinh doanh chứng khoán.
Ưu điểm của mô hình:
- Hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng
- Tạo điều kiện cho TTCK phát triển do tính chuyên môn hóa cao hơn
Các nước áp dụng mô hình này là Mỹ, Nhật, Canada…Tuy nhiên, hiện nay
ranh giới giữa kinh doanh chứng khoán và kinh doanh tiền tệ ngày càng được xóa
bỏ dần.
6
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
2.3.2 Công ty đa năng kinh doanh tiền tệ và chứng khoán.
Theo mô hình này, các ngân hàng thương mại hoạt động với tư cách là chủ
thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Mô hình này chia
thành 2 loại:
- Loại đa năng một phần : các ngân hàng muốn kinh doanh chứng
khoán , kinh doanh bảo hiểm phải lập công ty độc lập tách rời.
- Loại đa năng hoàn toàn : các ngân hang kinh doanh chứng khoán,
kinh doanh bảo hiểm bên cạnh kinh doanh tiền tệ.
Mô hình này có ưu điểm là ngân hàng có thể đa dạng hóa, kết hợp nhiều lĩnh
vực kinh doanh, nhờ đó giảm bớt rủi ro cho hoạt động kinh doanh chung, khả năng
chịu đựng các biến cố của thị trường chứng khoán là cao. Mặt khác, ngân hàng tận
dụng được thế mạnh về vốn để kinh doanh chứng khoán ; khách hàng có thể sử
dụng được nhiều dịch vụ đa dạng và lâu năm của khách hàng.
Tuy nhiên, mô hình này bộc lộ một số hạn chế như : không phát triển được
thị trường cổ phiếu do các ngân hàng có xu thế bảo thủ, thích hoạt động tín dụng
truyền thống hơn là bảo lãnh phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Mặt khác, theo mô hình
này, nếu có biến động trên TTCK sẽ có ảnh hưởng mạnh đến kinh doanh tiền tệ của
ngân hàng, dễ dẫn đến các cuộc khủng hoảng tài chính.
Do những hạn chế trên đây, Mỹ và nhiều nước khác đã áp dụng mô hình này
sau cuộc khủng hoảng năm 1933 đa số đã chuyển sang mô hình chuyên doanh
chứng khoán, chỉ có Đức vẫn duy trì đến ngày nay.
Tại Việt Nam, do quy mô của các ngân hàng thường mại nói chung là rất nhỏ
bé, và đặc điểm vốn dài hạn lại thấp, hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt
Nam chủ yếu trong lĩnh vực tín dụng thương mại ngắn hạn, trong hoạt động của
TTCK thuộc lĩnh vực vốn dài hạn. Khả năng khắc phục những yếu kém của các
ngân hàng thương mại Việt Nam còn rất lâu dài. Do đó, để bảo vệ an toàn cho các
ngân hàng, Nghị Định 144/CP về chứng khoán và TTCK quy định tại các ngân
hàng thương mại muốn kinh doanh chứng khoán phải tách ra một phần vốn tự có
của mình thanh lập một công ty chứng khoán chuyên doanh trực thuộc, hạch toán
độc lập với ngân hàng.
2.4 Các loại hình tổ chức công ty chứng khoán
Để tiến hành kinh doanh, CTCK được thành lập dưới các hình thái doanh
nghiệp khác nhau. Với mỗi với hình thái của CTCK có những ưu nhược điểm nhất
7
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
định. Loại hình CTCK được thành lập phổ biến trên thế giới gồm : Công ty TNHH,
công ty cổ phần, công ty hợp doanh.
2.4.1 Công ty hợp doanh
Gồm hai hoặc ba người trở lên cùng góp vốn để tiến hành kinh doanh, trong
đó phải có ít nhất 2 thành viên hợp doanh ngoài ra còn có thành viên góp vốn.
Thành viên hợp doanh phải là cá nhân có trình độ chuyên môn, uy tín nghề nghiệp.
Với hình thái doanh nghiệp này, CTCK sẽ có được mô hình tổ chức gọn nhẹ
do số lượng thành viên ít, mức dộ phân quyền có tính ổn định và công ty có độ tin
cậy cao vì thành viên hợp doanh là những người có trình độ, uy tín.
Tuy nhiên, công ty sẽ bị hạn chế về khả năng huy động vốn vì với hình thái
này công ty không được phép phát hành bất cứ chứng khoán nào và thành viên phải
chịu trách nhiệm vô hạn đối với các chứng khoán nợ của công ty.
Với đặc điểm pháp lý như trên, loại hình công ty hợp doanh thường phù hợp
với loại hình kinh doanh tư vấn đầu tư vì loại hình này đòi hỏi nhân viên hành nghề
phải có trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp cao. Hơn nữa, do đặc thù của
hoạt động tư vấn là tính trách nhiệm cao nên bên cạnh việc đảm bảo trách nhiệm về
chất lượng tư vấn còn ràng buộc trách nhiệm vật chất một cách vô hạn.
2.4.2 Công ty trách nhiệm hữu hạn
Là một doanh nghiệp trong đó gồm từ hai thành viên trở lên cùng tham gia
góp vốn, thành viên có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Hình thái này có ưu điểm hơn
hình thái hợp doanh ở chỗ ( 1) Các thành viên chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn về các
khoản nợ và nghĩa vụ của công ty trên cơ sở vốn góp; (2) huy động vốn linh hoạt và
đơn giản hơn; và (3) đội ngũ quản lý năng động hơn không bị bó hẹp trong một số
đối tác như công ty hợp doanh.
Bên cạnh đó, hình thái công ty TNHH cũng có một số hạn chế trong vấn đề
chuyển nhượng vốn góp hoặc việc tăng giảm số lượng thành viên cũng như cồn cụ
được phép sử dụng để tăng thêm vốn, cụ thể :
- Việc chuyển nhượng vốn góp được thực hiện theo ưu tiên theo thứ tự
cho các thành viên hữu hạn của công ty trước đó mới đến các cá nhân, tổ chức
ngoài công ty.
- Việc tăng hay giảm số lượng thành viên cũng bị hạn chế bởi các quy
định pháp luật và sự chấp thuận của các thành viên hữu hạn trong công ty.
- Công ty không được phép phát hành cổ phiếu để tăng thêm vốn.
8
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Với ưu điểm trên, loại hình công ty này được thành lập phổ biến hơn loại
hình công ty hợp doanh.
2.4.3 Công ty cổ phần
Là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau
gọi là cổ phần. Người sở hữu cổ phần gọi là cỏ đông của công ty. Cổ đông có thể là
cá nhân hoặc tổ chức, tối thiểu là 3 người không hạn chế tối đa. Đây là loại hình
doanh nghiệp có ưu điểm nổi trội hơn hẳn hai hình thái doanh nghiệp nêu trên, cụ
thể : (1) là loại hình doanh nghiệp được phép huy động vốn băng cổ phiếu, do đó
khả năng tăng thêm vốn cho quá trình kinh doanh dễ dàng hơn ; (2) sự tồn tại của
công ty là liên tục không phụ thuộc vào việc thay đổi cổ đông; ( 3) rủi ro mà cổ
đông gánh chịu được gánh chịu được hạn chế ở mức nhất định trên cơ sở số vốn
góp ; ( 4) việc chuyển đổi quyền sở hữu được thực hiện dễ dàng thông qua việc mua
bán cổ phiếu theo pháp luật qui định; (5) hình thức tổ chức quản lý, chế độ báo cáo
và công bố thông tin tốt hơn hai loại hình công ty trên.
Tuy nhiên, đối với hình thái doanh nghiệp này thì tính ổn định về mặt tổ
chức của công ty không cao bằng công ty TNHH.
Với các loại hình công ty khác nhau sẽ phù hợp với loại hình kinh doanh mà
CTCK tiến hành đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, với một CTCK thực hiện đầy đủ
các nghiệp vụ thì loại hình công ty cổ phần là thích hợp hơn cả.
2.5Chức năng và vai trò của công ty chứng khoán
2.5.1 Chức năng
- Tạo cơ chế huy động vốn linh hoạt giữa người có tiền nhàn rỗi và người
sử dụng vốn ( qua nghiệp vụ phát hành và bảo lãnh phát hành)
- Cung cấp cơ chế giá cả cho giao dịch ( thông qua hệ thống khớp giá,
khớp lệnh )
- Tạo ra tính thanh khoản cho chứng khoán
- Góp phần điều tiết và bình ổn thị trường ( qua hoạt động tự doanh và nhà
tạo lập thị trường )
2.5.2 Vai trò
CTCK là một tổ chức là một tổ chức tài chính trung gian tham gia hầu hết
vào quá trình luân chuyển của chứng khoán: từ khâu phát hành trên thị trường sơ
cấp đến khâu giao dịch mua bán trên thị trường thứ cấp. Do vậy các CTCK giữ vai
trò quan trọng thể hiện qua các nghiệp vụ của CTCK.
- Đối với các tổ chức phát hành
9
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
CTCK qua hoạt động đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành, các CTCK có vai
trò tạo ra cơ chế huy động vốn phục vụ nhà phát hành. TTCK hoạt động dựa trên
nguyên tắc trung gian, do đó, các nhà phát hành không được phép mua bán trực tiếp
chứng khoán mà cần phải qua các trung gian mua bán, các CTCK sẽ thực hiện vai
trò trung gian cho cả người đầu tư và nhà phát hành, giúp các tổ chức phát hành huy
động vốn một cách nhanh chóng trên thị trường sơ cấp. Đồng thời tạo ra cơ chế huy
động vốn cho TTCK.
- Đối với nhà đầu tư
CTCK với lợi thế chuyên môn hóa, trình độ, kinh nghiệm nghề nghiệp sẽ
thực hiện tốt vai trò tư vấn đầu tư, tìm kiếm đối tác và làm trung gian mua bán
chứng khoán, giúp các nhà đầu tư giảm được chi phí trong từng giao dịch. Mặt khác
với trình độ chuyên môn cao uy tín nghề nghiệp, CTCK sẽ giúp các nhà đầu tư thực
hiện đầu tư một cách hợp lý nhất.
- Đối với thị trường chứng khoán
+ Vai trò trước hết của CTCK là tổ chức trung gian môi giới trên TTCK
thông qua việc bán chứng khoán, tư vấn đầu tư, và thực hiện một số dịch vụ khác
cho cả nhà đầu tư và tổ chức phát hành. CTCK huy động vốn từ nơi nhàn rỗi để đầu
tư chứng khoán có hiệu quả, làm cầu nối cung cầu chứng khoán.
+ Góp phần tạo lập giá, điều tiết và bình ổn giá trên thị trường
Giá chứng khoán là do thị trường quyết định, nhưng để đưa ra mức giá cuối
cùng người mua và người bán phải thồn qua CTCK làm trung gian mua bán. Các
CTCK là thành viên của thị trường nên họ cũng góp phần tạo lập giá cả thị trường
thông qua đấu giá. Trên thị trường sơ cấp các CTCK cùng với các nhà phát hành
đưa ra mức giá đầu tiên, do vậy, giá cả của mỗi chứng khoán giao dịch đều có sự
tham gia định giá của các CTCK. Trên thị trường thứ cấp: tất cả các lệnh mua bán
thông qua các CTCK được tập trung tại thị trường giao dịch và trên cơ sở đó, giá
chứng khoán cũng được xác định thơ quy luật cung cầu.
+ Góp phần tăng tính thanh khoản cho các tài sản tài chính
TTCK làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính nhưng các CTCK
mới là người thực hiện tốt vai trò đó vì CTCK tạo ra cơ chế giao dịch trên thị
trường. Trên thi trường cấp 1: qua hoạt động bảo lãnh phát hành, chứng khoán hóa,
các CTCK không những huy động được vốn lớn đi vào sản xuất kinh doanh cho nhà
phát hành mà còn tăng tính thanh khoản cho các tài khoản tài chính được đầu tư vì
các chứng khoán qua đợt phát hành sẽ được bán trên thị trường cấp 2. Điều này làm
10
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
giảm rủi ro và tạo tâm lý yên tâm cho nhà đầu tư. Trên thị trường cấp 2: do thực
hiện các giao dịch mua và bán chứng khoán, các CTCK giúp người đầu tư chuyển
đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại. Do đó, làm tăng tính thanh khoản cho
các tài sản tài chính.
+ Vai trò cung cấp dịch vụ cho TTCK
CTCK với các chức năng và nghiệp vụ của mình cung cấp các dịch vụ cần thiết
góp phần cho TTCK hoạt động ổn định. CTCK giữ vai trò quan trọng trong việc phát
triển của TTCK, là chất ‘ xúc tác’ không thể thiếu cho hoạt động của TTCK.
- Đối với các cơ quan quản lý thị trường
Các CTCK có vai trò cung cấp thông tin về TTCK cho các cơ quản lý thị
trường. Các CTCK thực hiện được vai trò này là vì họ vừa là người bảo lãnh phát
hành cho chứng khoán mới vừa là trung gian mua bán chứng khoán và thực hiện
các giao dịch trên thị trường. Việc cung cấp thông tin vừa là quy định của pháp luật
vừa là nguyên tắc nghề nghiệp của các CTCK ( công khai minh bạch). Các cơ quan
quản lý nhờ đó có thể kiểm soát và chống các hiện tượng thao túng, lũng loạn, bóp
méo thị trường.
II. Hoạt động của công ty chứng khoán
1. Nguyên tắc hoạt động
Hoạt động của CTCK có ảnh hưởng tới quyền lợi của các nhà đầu tư tham
gia trên thị trường. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi cũng như đảm bảo sự công bằng
giữa các chủ thể tham gia trên thị trường, CTCK khi tiến hành hoạt động phải tuân
thủ các nguyên tắc chung đối với CTCK. Những nguyên tắc này được cụ thể hóa
trong các văn bản pháp luật quy định đối với CTCK. Nguyên tắc hoạt động của
CTCK được chia thành hai nhóm nguyên tắc:
1.1. Nguyên tắc tài chính
- Xuất phát từ đặc điểm của CTCK là phải đáp ứng về vốn pháp định cho
hoạt động kinh doanh nên trong quá trình kinh doanh CTCK phải đảm bảo nguồn
tài chính trong cam kết kinh doanh chứng khoán với khách hàng.
- Đảm bảo các yêu cầu về vốn, cơ cấu vốn và nguyên tắc hạch toán, báo cáo
theo quy định của pháp luật.
- Do CTCK có thể thực hiện cùng một lúc nhiều nghiệp vụ trên TTCK như
nghiệp vụ mối giới, quản lý danh mục đầu tư, tự doanh… nên công ty phải tách biệt
tiền và chứng khoán của khách hàng với tài sản của công ty. CTCK không được
dùng chứng khoán của khách hàng làm vật thế chấp để vay vốn hoặc dùng tiền của
11
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
khách hàng để mua bán chứng khoán của công ty trừ trường hợp được khách hàng
đồng ý bằng văn bản. Nguyên tắc này được đưa ra nhằm tránh rủi ro cho khách
hàng.
1.2. Nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp
Vì CTCK hoạt động trong lĩnh vực nhạy cảm, có tác động sâu rộng đến tâm
lý nhà đầu tư. Do vậy, đối với nhân viên của CTCK, họ phải tuân thủ theo bộ
nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp do hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán ban
hành. Bộ nguyên tắc này nhằm đảm bảo tính trung thực, công bằng trong công việc
của các nhân viên trong CTCK. Bao gồm:
- Giao dịch công bằng trung thực vì lợi ích của khách hàng.
- Nhân viên của công ty phải là những người có kỹ năng, tận tụy và những
người có trách nhiệm.
- Ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước lệnh của công ty.
- Có nghĩa vụ bảo mật thông tin của khách hàng, không được tiết lộ thông
tin về tài khoản của khách hàng khi chưa được khách hàng đồng ý bằng văn bản trừ
khi có yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước.
- Không tham gia hoạt động kinh doanh ngoài phạm vi cho phép.
- Không tiến hành các hoạt động có thể làm cho khách hàng và công chúng
hiểu sai về giá cả, giá trị và bản chất của chứng khoán hoặc các hoạt động thiệt hại
cho khách hàng.
- Với các hoạt động mà CTCK cung cấp cho khách hàng, phải có hợp đồng
khi thực hiện giao dịch cho họ.
2. Hoạt động của công ty chứng khoán
2.1. Tự doanh chứng khoán
Là một trong các hoạt động cơ bản của CTCK. Hoạt động này được xem như
hoạt động đầu tư của CTCK. Khi tiến hành tự doanh công ty phải bỏ tiền ra mua,
công ty sẽ có lãi khi chứng khoán tăng và ngược lại, sẽ lỗ khi chứng khoán giảm.
Do đó, hoạt động tự doanh của CTCK cũng chứa đựng tiềm ẩn rủi ro về sự biến
động giá chứng khoán trên thị trường. Như vậy, hoạt động tự doanh là việc CTCK
mua bán chứng khoán bằng nguồn vốn của mình để hưởng lợi, đồng thời cũng chấp
nhận rủi ro từ hoạt động đó.
Tùy theo mục đích, tính chất đầu tư ma hoạt động tự doanh của CTCK bao
gồm các hoạt động cụ thể như tự doanh với mục đích hưởng lợi, nắm quyền kiểm
soát, quản lý ngân quỹ hay tạo lập thị trường.
12
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Để hoạt động tự doanh đem lại hiệu quả cao, đòi hỏi các công ty chứng
khoán phải phân tích kỹ lưỡng khi ra quyết định đầu tư.
2.2. Hoạt động môi giới chứng khoán
Là một hoạt động kinh doanh của CTCK trong đó CTCK đại diện cho khách
hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán
hay thi trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả
kinh tế của giao dịch đó.
Khi thực hiện nghiệp vụ môi giới, CTCK phải mở tài khoản giao dịch chứng
khoán và tiền cho từng khách hàng trên cơ sở hợp đồng ký kết giữa khách hàng và
công ty.
Trong trường hợp khách hàng của CTCK mở tài khoản lưu ký chứng khoán
tại tổ chức lưu kỹ là ngân hàng thương mại hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài,
CTCK có trách nhiệm hướng dẫn các thủ tục giao dịch, mua bán cho khách hàng và
phải ký hợp đồng bằng văn bản với tổ chức lưu ký. Tiền hoa hồng môi giới thường
được tính phần trăm trên tổng giá trị của một giao dịch.
Tùy theo quy định của mỗi nước, cách thức hoạt động của từng sở giao dịch
chứng khoán mà người ta có thể phân chia thành nhiều loại nhà môi giới khác nhau
như:
- Môi giới giao dịch
- Môi giới chiết khấu
- Môi giới ủy nhiệm hay môi giới thừa hành
- Môi giới độc lập
- Nhà môi giới chuyên môn
TTCK phát triển đồng nghĩa với nó lượng nhà đầu tư tham gia thị trường
cũng ngày càng tăng lên, tất yếu sẽ dẫn đến quyền lợi của nhà đầu tư không được
đảm bảo. Vì vậy, để đảm bảo công bằng trong mua bán chứng khoán cũng như các
quyền lợi khác của nhà đầu tư, bản thân CTCK cũng như cơ quan quản lý cũng
nhận thấy cần phải có các quy định chặt chẽ đối với hoạt động môi giới chứng
khoán và yêu cầu các CTCK phải tuân theo.
2.3. Hoạt động bảo lãnh phát hành
Hoạt động bảo lãnh phát hành là hoạt động trông đó CTCK giúp các nhà
phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức phân phối
chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn sau khi phát hành.
13
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Tổ chức phát hành được hưởng chi phí bảo lãnh hoặc một tỷ lệ hoa hồng
nhất định trên số tiền thu được từ đợt phát hành.
Hiện nay trên thế giới có một số hình thức bảo lãnh phát hành sau:
- Bảo lãnh cam kết chắc chắn
- Bảo lãnh cố gắn tối đa
- Bảo lãnh với hạn mức tối thiểu
Riêng tại Việt Nam hiện nay chỉ áp dụng hình thức bảo lãnh với cam kết
chắc chắn nhằm mục đích bảo vệ của nhà đầu tư và gắn kết trách nhiệm của các
CTCK. Điều này gây ra một số khó khăn cho các CTCK trong việc triển khai
nghiệp vụ này.
2.4. Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư
Khi thực hiện hoạt động này khách hàng sẽ đưa tiền và chứng khoán của họ đến
CTCK và ký hợp đồng ủy thác cho CTCK. Khi đã ký hợp đồng CTCK vừa bảo quản
hộ chứng khoán vừa đầu tư hộ cho khách hàng. Tùy theo mức độ ủy quyền trong hợp
đồng được ký giữa khách hàng và CTCK mà CTCK có toàn quyền quyết định hoặc có
quyền hạn chế trong các giao dịch mua bán chứng khoán trong hợp đồng.
Như vậy, hoạt động quản lý danh mục đầu tư là hoạt động mà khách hàng ủy
thác cho CTCK thay mặt mình tiến hành kinh doanh chứng khoán.
Theo luật chứng khoán Việt Nam có hiệu lực từ ngày 1/1/2007 chỉ có công
ty quản lý quỹ mới được phép quản lý danh mục đầu tư. Như vậy sau khi pháp luật
này có hiệu lực thì các CTCK phải rút khỏi nghiệp vụ này.
2.5. Hoạt động tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán
Là dịch vụ mà CTCK cung cấp cho khách hàng trong lĩnh vực tư vấn đầu tư
chứng khoán; tư vấn tái cơ cấu tài chính, chia, tách, sát nhập, hợp nhất doanh nghiệp;
tư vấn cho doanh nghiệp trong việc phát hành và niêm yếu chứng khoán. Đây là một
mảng hoạt động quan trọng mang lại ngưỡng thu tương đối cao cho CTCK.
2.6. Các nghiệp vụ hỗ trợ khác
- Nghiệp vụ lưu ký chứng khoán : là công việc đầu tiên để chứng khoán có
thể giao dịch trên thị trường tập trung- việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của
khách hàng và giúp khách hàng thực hiện các quyền của mình đối với chứng khoán-
được thực hiện thông qua các thành viên lưu ký của thị trường giao dịch chứng
khoán. Lưu ký chứng khoán một mặt giúp cho quá trình thanh toán tại sở giao dịch
dược diễn ra thuận tiện, nhanh chóng, dễ dàng. Mặt khác, nó hạn chế rui ro cho
14
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
người nắm giữ chứng khoán như rủi ro bị hư hỏng, rách, thất lạc chứng chỉ chứng
khoán…
- Bán khống, trong chứng khoán có nghĩa là kiếm lợi nhuận từ sự kỳ vọng tụt
giảm giá của một loại chứng khoán, ngoại tệ…Trong giao dịch chứng khoán, bán
khống là bán một loại chứng khoán mà không sở hữu tại thời điểm bán, cụ thể hơn
là bán chứng khoán vay. Bán khống một cổ phiếu có nghĩa là người bán đang cho
rằng giá cổ phiếu đó sẽ sụt giảm chứ không giống như khi mua một cổ phiếu và hi
vọng giá của nó tăng lên. Khi nhà đầu tư dự đoán trong tương lai giá cổ phiếu sẽ
giảm, họ sẽ đi vay cổ phiếu của CTCK để bán, sau khi hạ giá, họ sẽ mua cổ phiếu
đó trên thị trường để trả lại và hưởng khoản chênh lệch giá. Nhưng nếu giá trên thị
trường không hạ như dự đoán mà lại tăng lên, đến kỳ hạn trả nợ, nhà đầu tư đó sẽ
phải mua với giá cao hơn và chấp nhận bị lỗ.
Bán khống chứng khoán cũng là một hình thức khuyến khích nhà đầu tư
tham gia thị trường, bởi họ vẫn có thể kiếm được lời khi cổ phiếu giảm giá, trong
khi mua bán theo cách bình thường họ chỉ kiếm được lời khi cổ phiểu tằng giá.
- Cho vay cầm cố chứng khoán : là một hình thức tín dụng mà trong đó
người đi vay sử dùng số chứng khoán sở hữu hợp pháp của mình làm tài sản cầm cố
để đi vay kiếm tiền nhằm mục đích kinh doanh, tiêu dùng…
- Cho vay bảo chứng : là một hình thức tín dụng mà khách hàng vay tiền để
mua chứng khoán, sau đó dùng số chứng khoán mua được từ tiền vay làm tài sản
thế chấp cho khoản vay.
- Cho vay ứng tiền tiền bán chứng khoán : là việc CTCK ứng trước tiền bán
chứng khoán của khách hàng được thực hiện tại sở giao dịch chứng khoán.
- Repo chứng khoán : là giao dịch mua hoặc bán chứng khoán có kỳ hạn
được sử dụng trên thị trường tài chính. Đây là loại hình giao dịch mà nhà đầu tư có
thể mua và bán chứng khoán của mình trong một khoảng thời gian thỏa thuận nhất
định với CTCK. Hiểu một cách đơn giản, giao dịch Repo là việc nhà đầu tư đi vay
tiền và dùng chứng khoán để thế chấp.
Trên thực tế tại Việt Nam, Repo trái phiếu đã được tiến hành từ cuối năm
2003 và Repo cổ phiếu là năm 2007, hoạt động Repo chứng khoán chưa sôi động và
có nhiều khoảng gián đoạn. Tháng 5/2008 UBCKNN đã yêu cầu các công ty ngừng
ký các hợp đồng Repo. Nhưng nghiệp vụ này đã được khởi động lại từ cuối năm
2008 và hoạt động đến nay.
15
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
III. Phát triển hoạt động của CTCK
1. Khái niệm
Phát triển hoạt động của CTCK được hiểu là sự biến đổi theo chiều hướng
gia tăng về số lượng các hoạt động cũng như sự đa dạng về hình thức tiến hành và
nâng cao chất lượng mỗi hoạt động. Tuy nhiên, khi các CTCK phát triển quá nhanh
có thể sẽ gây ra những ảnh hưởng xấu tới chính các CTCK và sự phát triển chung
của cả TTCK. Do đó, phát triển hoạt động của các CTCK cần tính tới yếu tố bền
vững trong phát triển Dựa trên khái niệm về phát triển bền vững mà ngân hàng thế
giới đưa ra năm 1997, có thể hiểu phát triển bền vững hoạt động của CTCK là sự
phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại của CTCK và TTCK mà không làm nguy hại
tới sự phát triển của chính các CTCK và TTCK trong tương lai.
2. Chỉ tiêu phản ánh sự phát triển hoạt động của công ty chứng khoán
Để phản ánh sự phát triển hoạt động của CTCK, các chỉ tiêu cơ bản thường
được sử dụng bao gồm:
- Số lượng tài khoản được mở tại các CTCK. Chỉ tiêu này vừa phản ánh quy
mô khách hàng tới mở tài khoản vừa phản ánh chất lượng dịch vụ, thị phần môi giới
của CTCK.
- Giá trị giao dịch tự doanh : phản ánh mức độ và khả năng tài chính của
CTCK khi tiến hành hoạt động tự doanh.
- Giá trị bảo lãnh phát hành : phản ánh quy mô của các đợt phát hành, uy tín
của CTCK về mảng BLPH của tổ chức phát hành.
- Doanh thu : tổng doanh thu của CTCK có được từ việc triển khai thực hiện
các hoạt động. Do vậy, chỉ tiêu này sẽ phản ánh mức độ tăng trưởng chung của
CTCK
DT= Dti
Trong đó : DT: tổng doanh thu của CTCK
n : số hoạt động mà CTCK thự hiện
Dti : doanh thu từ hoạt động thứ i
- Tỷ trọng doanh thu của từng hoạt động trong tổng doanh thu : với mỗi hoạt
động sẽ đem lại một khoản doanh thu nhất định cho CTCK. Thông qua chỉ tiêu này
các CTCK sẽ xác định được hoạt động nào đem lại doanh thu chủ yếu và hoạt động
nào đóng góp ít vào doanh thu của công ty.
Ti= x 100
16
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Trong đó : Ti là tỷ trọng doanh thu từ hoạt động thứ i trong tổng doanh thu
cua CTCK
- Lợi nhuận : là chỉ tiêu cuối cùng phản kết quả hoạt động chung của CTCK,
đặc biệt là chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế. Một phần lợi nhuận sau thuế được dùng để
chi trả cổ tức, đảm bảo lợi ích cho các cổ đông; một phần được giữ lai để tái đầu tư
và trích lập các quỹ. Do đó, lợi nhuận sau thuế cao công ty sẽ có khả năng trả cổ tức
cao cho các cổ đông hoặc có được nguồn vốn lớn từ lợi nhuận không chia để tăng
quy mô vốn phát triển các hoạt động.
- Mức độ nhanh chóng thuận tiện : khi khách hàng tới giao dịch tại CTCK
khách hàng sẽ nhận được sự hỗ trợ thuận tiện nhất từ phía công ty, đó là các thủ tục
liên quan tới việc mở tài khoản, thủ tục sử dụng các dịch vụ của CTCK, đặc biệt là
nhận lệnh của các nhà đầu tư. Việc tạo điều kiện từ phía các CTCK giúp cho các
nhà đầu tư có thể đặt lệnh mua bán chứng khoán bất cứ họ ở đâu và với hình thức
đặt lệnh nào.
17
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN CỦA CÔNG TY
TNHH CHỨNG KHOÁN NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
NHÀ HÀ NỘI (HBBS)
I. Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam
Cùng với sự tăng lên nhanh chóng các công ty niêm yết trên cả hai sàn giao
dịch thì số lượng CTCK cũng có sự phát triển chóng mặt vào năm 2006. Tính đến
hết 2005, thị trường mới chỉ có 14 CTCK, trong vòng một năm ( 2006) số lượng
CTCK được UBCKNN cấp phép hoạt động là 41 CTCK, nâng tổng số CTCK lên
55 công ty. Và trong năm 2007, có thêm 24 CTCK được cấp phép và chính thức
hoạt động, năm 2008 là 102, và đến tháng 8/2009 là 104.
Đơn vị: công ty
Biểu 1 : Số lượng CTCK qua các năm
1. Giai đoạn 2000 – 2005
1.1. Số lượng và quy mô hoạt động của CTCK
Ngày 28/11/1996, Chính phủ ra nghị định thành lập Ủy Ban Chứng khoán
Nhà Nước ( UBCKNN )
18
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Ngày 11/7/1998, Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập hai Trung tâm
giao dịch chứng khoán thuộc UBCKNN
20/07/2000 : Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM chính thức đi vào
hoạt động với: 4 Cty chứng khoán và 2 cổ phiếu niêm yết là Công ty cổ phần Cơ
điện lạnh (REE) và Công ty cổ phần Cáp và Vật liệu viễn thông (Sacom). Một tuần
chỉ có hai phiên giao dịch. Giá trị cổ phiếu niêm yết là 270 tỷ đồng (theo mệnh giá)
Trong những năm đầu, TTCK Việt Nam còn non nớt, số nhà đầu tư tham gia
thị trường còn ít, không nhiều cá nhân, tổ chức mặn mà với việc thành lập các
CTCK. TTCK phát triển chậm, không có biến động lớn. Đến 05/05/2001 mới chỉ có
5 công ty niêm yết và 7 công ty kinh doanh chứng khoán hoạt động tại trung tâm
giao dịch chứng khoán.
TTCK Việt Nam tiếp tục phát triển chậm chạp trong các năm tiếp theo. Số
lượng các CTCK sau 3 năm thị trường hoạt động chỉ là 12 công ty với tổng vốn
điều lệ là 465 tỷ đồng, thực hiện tất cả các nghiệp vụ chứng khoán. Số lượng mã cổ
phiếu được giao dịch trên thị trường không cao (73 mã) với giá trị vốn hóa không
lớn. Thị trường mới chỉ có 14000 nhà đầu tư. Số nhà đầu tư là tổ chức và nhà đầu tư
nước ngoài không lớn. Tình trạng trên là do TTCK chưa thực sự trở thành kênh huy
động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế.
1.2. Chất lượng hoạt động
Tính đến năm 2004, các CTCK mở rộng hoạt động nghiệp vụ, có kết quả
kinh doanh và tiềm năng phát triển khả quan.
Cùng với sự gia tăng về số lượng, chất lượng các loại hình dịch vụ và tiện
ích phục vụ người đầu tư cũng ngày càng được nâng cấp và đa dạng hóa. Các mô
hình đầu tư mới như quỹ đầu tư chứng khoán, hợp đồng mua lại trái phiếu, cổ phiếu
có kỳ hạn… cũng đã bắt đầu xuất hiện trên thị trường, làm phong phú thêm hàng
hóa để người đầu tư lựa chọn. Các dịch vụ gia tăng giá trị như liên kết tài khoản với
ngân hàng, báo giá chứng khoán qua điện thoại, theo dõi giao dịch chứng khoán
trực tuyến, đặt lệnh giao dịch qua điện thoại, Internet… được các CTCK đưa vào áp
dụng ngày càng nhiều, đem lại lợi ích thiết thực cho người đầu tư. Nguồn vốn điều
lệ của các CTCK đã lên tới trên 810 tỷ đồng, hoạt động kinh doanh đã ổn định hơn
sau một số năm đầu khó khăn, đến năm 2004 các CTCK đều có lãi và đã thực hiện
trích quỹ dự phòng tài chính để tăng vốn điều lệ.
19
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
2.Giai đoạn 2006 - 2007
Trước tiên cần phải khẳng định giai đoạn 2006-2007 là thời kì bùng nổ mạnh
mẽ của TTCK nói chung và CTCK nói riêng. Sự gia tăng mạnh mẽ cả về số lượng,
quy mô và mở rộng nghiệp vụ của các CTCK là rất đáng kinh ngạc.
Qua sáu năm hoạt động, khởi điểm từ vài công ty năm 2000 tính đến cuối
năm 2006 số lượng công ty đã tăng lên 55 và sang năm 2007 là 78.
Bên cạnh đó, các CTCK cũng chú trọng đến việc mở rộng mạng lưới giao
dịch thông qua các chi nhánh, các đại lý nhận lệnh,…Tuy nhiên về địa bàn hoạt
động còn rất nhiều hạn chế chủ yếu chỉ tập trung tại hai thành phố lớn là Hà Nội và
TP.HCM. Việc phân tích một cách tương đối đơn giản các con số như trên cho thấy,
sự gia tăng của số lượng các CTCK trong thời gian vừa qua có xu hướng phù hợp
với xu hướng gia tăng của quy mô và hàng hóa trên thị trường. Giá trị thị trường
tăng mạnh, số lượng hàng hóa lớn đòi hỏi một lực lượng trung gian thị trường mạnh
có tiềm lực tài chính, công nghệ, chuyên môn tốt. Mặt khác, khi thị trường phát
triển trong giai đoạn nóng, số lượng CTCK dù tăng nhanh vẫn chưa thể đáp ứng
được đòi hỏi giao dịch của nhà đầu tư, cũng như nhu cầu về tư vấn cổ phần hóa, tư
vấn niêm yết. Năm 2001 chỉ có 8.700 tài khoản nhà đầu tư, năm 2006 tăng lên
72.700 tài khoản, năm 2007 là 303.980 tài khoản và đến đầu năm 2008 là 383.980
tài khoản. Có thể thấy sự quá tải của các CTCK trong giai đoạn 2006-2007 trong
việc thực hiện các nghiệp vụ môi giới, tư vấn niêm yết. Mặt khác, số lượng CTCK
tuy tăng nhưng về cơ bản, số lượng chi nhánh vẫn hạn chế (tính đến cuối 2007 chỉ
có 45 chi nhánh/78 CTCK).
2.1. Về quy mô vốn
Giá trị vốn hóa của thị trường tính đến hết năm 2006 tăng hơn 20 lần so với
năm 2001, tăng gần 3 lần so với năm 2005. Trong giai đoạn này, mức tăng của số
lượng các CTCK thấp hơn nhiều so với mức tăng của giá trị vốn hóa của thị
trường/GDP và số lượng công ty niêm yết. Số lượng công ty niên yết cũng tăng gần
4 lần so với năm 2005 và đạt các chỉ tiêu tăng trưởng tốt. Nhiều tổ chức, cá nhân
nhanh chóng gia nhập thị trường và mong muốn được hưởng lợi nhuận từ TTCK.
Do vậy, nhu cầu thành lập CTCK tăng mạnh là điều dễ hiểu.
Sang năm 2007, nhu cầu thành lập CTCK vẫn tiếp tục tăng. Tuy nhiên, giá
sụt giảm liên tục khiến cho giá trị vốn hóa thị trường giảm mạnh, điều này dẫn đến
việc số lượng CTCK cứ tiếp tục tăng tất yếu làm mất cân bằng cung cầu trên
TTCK.
20
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
2.2. Về hoạt động của các CTCK
Theo thống kê của UBCKNN cho thấy hết năm 2006 và quí I năm 2007 lợi
nhuận sau thuế đều tăng mạnh ( ngoại trừ CTCK Việt Nam lỗ 1,573 tỷ đồng). Phải
kể đến TOP 5 CTCK trên thị trường Việt Nam đều đạt được lợi nhuận lớn như: Lợi
nhuận sau thuế của SSI xấp xỉ 864 tỷ đồng, ACBS là 332 tỷ đồng, BVSC 214 tỷ
đồng, KLS 126 tỷ đồng.
Trong các nghiệp vụ cơ bản của một CTCK gồm: tự doanh; môi giới; tư vấn
tài chính và đầu tư chứng khoán; lưu ký chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng
khoán thì tự doanh là mang lại nguồn lợi lớn nhất. Với các chức năng còn lại,
CTCK chỉ là duy trì hoạt động, phần trăm thu về trên tổng mức lợi nhuận là rất
khiêm tốn.
3. Giai đoạn nửa cuối 2007 đến nay
Đây là giai đoạn thị trường chứng khoán có nhiều sự thay đổi. Các CTCK
cũng chịu ảnh hưởng lớn do sự biến động của thị trường.
3.1. Về số lượng và quy mô giao dịch
Tính đến hết 12-2008, số lượng CTCK là 102 công ty, trong đó có 24 công ty
được cấp phép trong năm 2008. Theo số liệu gần đây nhất, tính đến tháng 8/2009 số
lượng CTCK là 104.
Quy mô giao dịch trên thị trường không ổn định. Từ những tháng cuối năm
2008, khối lượng và giá trị giao dịch giảm dần, đặc biệt giảm mạnh vào đầu năm
2009. Từ tháng 02/2009 khối lượng và giá trị giao dịch đã có dấu hiệu đi lên và dần
vào ổn định.
Sự gia tăng trở lại của khối lượng giao dịch từ 2/2009 là do ảnh hưỏng lớn từ
các chính sách kích cầu của chính phủ và sự phục hồi dần của nền kinh tế.
3.2. Về hoạt động của các CTCK:
Theo nghị định số 14/2007/NĐ-CP ngày 19/01/2007 quy định, CTCK đã
được cấp giấy phép hoạt động kinh doanh nhưng không đáp ứng đủ điều kiện về
vốn sẽ phải làm thủ tục tăng vốn trong thời hạn hai năm kể từ ngày Nghị định có
hiệu lực.
Điều này dẫn đến một tình trạng: các CTCK nếu muốn đáp ứng đủ các điều
kiện về vốn theo quy định mà không gây ảnh hưởng đến thị trường thì thường cắt
giảm 2 nghiệp vụ: bảo lãnh phát hành, tự doanh. Trong khi đó tự doanh chính là
nghiệp vụ đem lại nhiều lợi nhuận cho công ty trong thời kì trước đó.Theo thống kê
21
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
của UBCKNN, khoảng 35 CTCK thuộc diện phải tăng vốn hoặc cắt bớt nghiệp vụ
đã thực hiện gần như đầy đủ. Một số công ty đang trong quá trình hoàn tất thủ tục
để trình lên UBCKNN.
Một sự kiện nổi lên trong hoạt động của các CTCK những tháng đầu tiên
năm 2009 là liên kết với các sàn vàng mở đại lý nhận lệnh. Tận dụng nhân lực, cơ
sở vật chất, khách hàng hiện có để được thêm khoản phí môi giới hàng tháng, đây
chính là lý do khiến các sàn vàng mọc lên nhanh chóng. Tuy nhiên, đến cuối tháng
3/2009 UBCKNN đã có văn bản yêu cầu các CTCK phải tạm ngừng mở sàn vàng
đề chờ văn bản hướng dẫn cụ thể. Theo đó, đối với các công ty chưa mở sàn giao
dịch vàng, Ủy ban Chứng khoán yêu cầu không được mở sàn giao dịch vàng cho
đến khi có văn bản hướng dẫn. Đối với những sàn đã mở, Ủy ban Chứng khoán yêu
cầu các CTCK phải báo cáo thời gian mở sàn giao dịch vàng; hình thức pháp lý; đối
tác hợp tác mở sàn; doanh số giao dịch bình quân tháng,…Trên thực tế, hơn 2 tháng
kể từ ngày UBCKNN yêu cầu các CTCK tạm ngưng mở sàn vàng, các sàn vàng
không những hao hụt đi mà còn tiếp tục mọc lên mạnh mẽ. Hiện cả nước có hơn 20
sàn vàng.
3.3. Hiệu quả của hoạt động kinh doanh:
Sự thua lỗ của CTCK là hình ảnh chung, phù hợp với diễn biến TTCK suy giảm
và kém thanh khoản trong năm 2008. Những CTCK có nghiệp vụ chính là môi giới và
tư vấn cũng thua lỗ. Một số CTCK dù đã đi vào hoạt động từ trước năm 2007, nhưng
doanh thu vẫn rất khiêm tốn, thể hiện hoạt động môi giới chưa hiệu quả.
4. Thực trạng các CTCK 3 quý đầu năm 2009
4.1. Hoạt động môi giới
- Thành tựu đạt được
Thị phần giá trị giao dịch môi giới quý III/ 2009 của 10 CTCK hàng
đầu tại sở giao dịch chứng khoán TP. HCM
Cổ phiếu và Chứng chỉ quỹ:
1. Công ty Cổ phần Chứng khoán Thăng Long TSC 8,93%
2. Công ty TNHH một thành viên Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín SBS
8,73%
3. Công ty Cổ phần chứng khoán Sài Gòn SSI 7,52%
4. Công ty Cổ phần Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh HSC 5,68%
5. Công ty TNHH Chứng khoán ACB ACBS 4,37%
6. Cổng ty Cổ phần Chứng khoán KimEng Việt Nam KEVS 3,82%
22
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
7. Công ty Cổ phần chứng khoán Bảo Việt BVSC 3,71%
8. Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT FPTS 3,65%
9. Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
VCBS 2,94%
10. Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam
BSC 2,63%
Trái Phiếu:
1. Công ty Cổ phần chứng khoán Sài Gòn SSI 32,651%
2. Công ty Cổ phần chứng khoán Ngân hàng Công thương
Việt Nam Vietinbank 32,259%
3. Công ty Cổ phần chứng khoán Bảo Việt BVSC 12,139%
4. Công ty Cổ phần Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh HSC 12,139%
5. Công ty TNHH Chứng khoán ACB ACBS 10,806%
6. Công ty Cổ phần Chứng khoán Thăng Long TSC 0,004%
7. Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam
BSC 0,003%
(Trong Quý III/2009, chỉ có 7 CTCK tham gia giao dịch môi giới Trái Phiếu)
Đối với lĩnh vực môi giới cổ phiếu, 10 CTCK lớn nhất chiếm 42,13% thị
phần. Chứng khoán Thăng Long (TSC) dẫn đầu với 8,13% thị phần, cách biệt lớn
so với công ty ở vị trí thứ 2 là Sacombank-SBS với 4,76% thị phần. Đây là cũng hai
công ty dẫn đầu về thị phần môi giới tại HoSE trong quý III.
Trong số 10 doanh nghiệp trên, có 7 doanh nghiệp cũng nằm trong top 10
doanh nghiệp có thị phần môi giới lớn nhất tại HoSE. Bảy doanh nghiệp này chiếm
32,33% thị phần tại HNX và 41,82% thị phần tại HoSE.
Tính thanh khoản của TTCK Việt Nam được cải thiện mạnh trong thời gian
qua. Điều này được thể hiện ở giá trị giao dịch trong năm 2009, con số 65 phiên
giao dịch, trung bình trên HOSE mỗi phiên có 50 triệu cổ phiếu được sang tên với
giá trị chuyển nhượng 2200 tỷ đồng - những con số mơ ước, vượt xa mức kỷ lục
năm 2008 (38,5 triệu cổ phiếu, xác lập vào ngày 23/9/2008). Trên HNX, tuy giao
dịch kém sôi động hơn một chút, nhưng giá trị giao dịch cũng luôn ở mức bằng 1/2
- 2/3 giá trị giao dịch tại HOSE. Cùng với thanh khoản cải thiện, doanh thu từ hoạt
động môi giới tại các CTCK tăng mạnh.
23
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Tuy nhiên bên cạnh các CTCK lớn chiếm được thị phần môi giới lớn thì vẫn
còn những công ty nhỏ. Dù không đủ vốn để được thực hiện nghiệp vụ tự doanh,
nhưng nhiều CTCK nhỏ vẫn hoạt động tự doanh chui.
Số lượng tài khoản nhà đầu tư khiêm tốn, đặc biệt nhà đầu tư tổ chức và nhà
đầu tư nước ngoài hầu như không có; công nghệ và nhân sự ở mức tối thiểu; không
báo cáo phân tích nghiên cứu thị trường; dịch vụ hỗ trợ nhà đầu tư chỉ ở mức khiêm
tốn, đó là những nét chính, khắc họa điểm chung của các CTCK nằm phía dưới
bảng xếp hạng.
Tuy nhiên với các CTCK nhỏ thuộc tốp dưới, thị phần môi giới vẫn rất
khiêm tốn. Khoảng 20% CTCK nhỏ có thị phần môi giới mỗi công ty chỉ chiếm
dưới 0,1%. Doanh thu phí môi giới trung bình hàng tháng (trên cả HOSE và HNX)
của các CTCK tốp cuối chỉ từ 10 - 50 triệu đồng/tháng. Cá biệt, vào tháng 8/2009,
trên HOSE có CTCK chỉ môi giới được đúng 3.400 cổ phiếu cho nhà đầu tư với phí
môi giới chưa đến 120.000 đồng.
4.2. Hoạt động tự doanh
Trong quý I /2009 hàng loạt CTCK đã nộp đơn lên UBCKNN xin rút bớt
nghiệp vụ tự doanh. Theo quy định, nghiệp vụ này yêu cầu vốn pháp định của doanh
nghiệp là 100 tỷ đồng, một số tiền không nhỏ trong tình hình khó khăn hiện nay.
Để giảm bớt gánh nặng, nhiều CTCK đã bắt đầu cắt giảm nhân sự, đóng cửa
các đại lý nhận lệnh, thu hẹp diện tích hoặc chuyển sàn ra khỏi khu vực trung tâm
để giảm bớt chi phí.
Nhìn tổng thể, kết quả hoạt động của các CTCK trong 6 tháng đầu năm đã
phản ánh tương đối toàn diện tình hình hoạt động của các CTCK. Chặng đường sắp
tới, CTCK lớn có thị phần rộng, được quản trị rủi ro tốt, có chiều sâu về nhân lực sẽ
phát triển ổn định và vượt xa mức bình quân chung của toàn ngành.
Mảng tự doanh chiếm một vị trí quan trọng trong cơ cấu doanh thu của các
CTCK. Có công ty doanh thu của hoạt động tự doanh trên 50% tổng doanh thu, có
công ty còn lên tới 80%.
4.3. Repo
UBCKNN vừa nhắc nhở các CTCK thực hiện theo yêu cầu đã có từ cuối
tháng 5, là ngừng ký hợp đồng mới các hợp đồng giao dịch kỳ hạn (repo).
Theo đó, UBCKNN sẽ kiểm tra hoạt động của các CTCK và xử lý những
trường hợp vi phạm. Repo (repurchase agreement) chứng khoán là nghiệp vụ trong
đó người đi vay sử dụng chứng khoán làm tài sản thế chấp để vay tiền với lãi suất
đã định trước.
24
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Hình thức này có thể phát sinh rủi ro khi người vay không thể trả nợ (tức là
mua lại chứng khoán), khiến CTCK phải bán ra để thu hồi tiền hoặc sở hữu luôn số
chứng khoán đó.
Ngoài ra, UBCKNN cũng chấn chỉnh hoạt động giao dịch OTC tại một số
CTCK. Theo quy định hiện nay, chỉ Sở giao dịch chứng khoán và Trung tâm giao
dịch chứng khoán mới được phép tổ chức TTCK.
UBCKNN yêu cầu các CTCK thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh đã được
cấp phép. Đối với các sản phẩm, dịch vụ tài chính khác, trước khi thực hiện, các
công ty phải báo cáo cho UBCKNN phương án, quy trình thực hiện, các biện pháp
quản trị rủi ro.
4.4. Vấn đề Đòn bẩy tài chính mà các CTCK phối hợp với ngân hàng
cung cấp cho nhà đầu tư chủ yếu dưới dạng hợp đồng hợp tác đầu tư.
Thời gian này, TTCK đang có những dấu hiệu sôi động dần, chỉ số VN-
Index đã lên hơn 600 điểm; giá trị giao dịch nhiều phiên lên đến lên tới 3.000 -
4.000 tỷ đồng/phiên, cá biệt có phiên lên đến gần 6.000 tỷ đồng.
Tuy nhiên, nhiều chuyên gia chứng khoán cho rằng, chỉ số VN- Index lên
điểm một phần không nhỏ đến từ đòn bẩy tài chính dưới các hình thức: bảo lãnh
nghĩa vụ thanh toán, cầm cố, hợp đồng hợp tác đầu tư…
Đòn bẩy tài chính mà các CTCK phối hợp với ngân hàng cung cấp cho nhà đầu
tư chủ yếu dưới dạng hợp đồng hợp tác đầu tư. Tùy đặc thù của mỗi công ty, đòn bẩy
được thực hiện dưới các hình thức khác nhau, phổ biến nhất là hình thức cho vay ký
quỹ. Khi giá trị cổ phiếu giảm khoảng 20% hoặc 30% so với giá mua, ngân hàng sẽ
yêu cầu nhà đầu tư đóng thêm tiền hoặc giải chấp chứng khoán để thu hồi vốn.
Hiện tại, nhiều CTCK mời chào các sản phẩm cho vay đầu tư chứng khoán
với tỷ lệ khá hấp dẫn, một số nơi lên đến 300% giá trị khách hàng ký quỹ. Ngoài ra,
các CTCK cũng đưa ra một số dịch vụ cho vay khác như cho vay ứng trước ngay
sau khi có kết quả khớp lệnh; cầm cố chứng khoán chưa niêm yết; cho vay bảo
chứng; cho vay 100% thời gian T+1, T+2, thậm chí đến T+7… Lãi suất phụ thuộc
thời gian khách hàng sử dụng dịch vụ ít nhất là 0,04-0,05%/ngày.
Hiện tại chưa có quy định nào cho phép hoặc không cho phép các CTCK
thực hiện nghiệp vụ giao dịch ký quỹ. Hơn nữa hình thức hợp tác giữa CTCK và
nhà đầu tư cũng không thể hiện trên giấy tờ là nghiệp vụ ký quỹ, nên các CTCK
không phải báo cáo nghiệp vụ này với cơ quan quản lý. Thực tế này là nguyên nhân
25