Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Phát triển hoạt động tự doanh tại công ty chứng khoán ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (324.6 KB, 63 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việc hình thành và phát triển Thị trường chứng khoán (TTCK) là một
bước phát triển tất yếu của nền kinh tế thị trường. Việt Nam với nền kinh tế
vận hành theo cơ chế Thị trường cũng đòi hỏi phải có TTCK để làm cầu nối
giữa một bên là các nhà đầu tư (bao gồm các tổ chức kinh tế - xã hội và dân
chúng) với bên kia là các doanh nghiệp cần vốn kinh doanh và Nhà nước cần
tiền để thỏa mãn các nhu cầu chung của đất nước. Đến nay, TTCK Việt Nam
đã trải qua hơn 7 năm đầu tiên trong lịch sử phát triển của mình. Bẩy năm qua
là bảy năm làm quen với hoạt động của TTCK, bảy năm vượt qua bao khó
khăn thăng trầm để từng bước phát triển thị trường. Bước đầu công chúng đầu
tư đã làm quen với phương thức đầu tư trên TTCK, các doanh nghiệp đã làm
quen với phương thức huy động vốn thông qua TTCK.
Nhưng để các hoạt động trên thị trường chứng khoán có thể diễn ra
suôn sẻ thì mọi hoạt động mua bán diễn ra trên TTCK tập trung đều phải
thông qua tổ chức tài chính trung gian đó là các Công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán (CTCK) là một tổ chức tài chính trung gian nhằm
thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán như cung cấp các dịch
vụ môi giới, tư vấn, bảo lãnh... cho các nhà đầu tư và các tổ chức.Bên cạnh
đó, công ty cũng thực hiện kinh doanh chứng khoán cho chính mình thông
qua hoạt động tự doanh. Hàng năm, hoạt động tự doanh chứng khoán đã
mang lại cho công ty những khoản lợi nhuận lớn song nó cũng tiềm ẩn những
rủi ro như các hoạt động kinh doanh khác. Nhận thức được tầm quan trọng
của hoạt động này nên em đã chọn đề tài:
“Phát triển hoạt động tự doanh tại công ty chứng khoán ngân hàng
thương mại cổ phần Nhà Hà Nội”.
1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài này em chỉ nghiên cứu hoạt động tự doanh tại công ty chứng
khoán Ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Nhà Hà Nội có trụ sở tại
2C Vạn Phúc, Ba Đình, Hà Nội.


3. Kết cấu đề tài
Với đối tượng và phạm vi nghiên cứu ở trên, kết cấu đề tài gồm 3 phần:
Chương 1: Những vấn đề chung về hoạt động tự doanh của công ty
chứng khoán
Chương 2 : Thực trạng hoạt động tự doanh của công ty chứng
khoán Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội
Chương 3 : Giải pháp phát triển hoạt động tự doanh của công ty
chứng khoán ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội.
Do nguồn tài liệu thu thập được có giới hạn, khả năng hiểu biết của em
về chứng khoán và thị trường chứng khoán còn nhiều hạn chế, để có thể hoàn
thành được đề tài này, em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của
PGS.TS.Trần Đăng Khâm và sự giúp đỡ của tất cả các anh, chị phòng môi
giới và phòng kinh doanh của CTCK MHTMCP Nhà Hà Nội.

2
Chương I : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TỰ
DOANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1. Những vấn đề chung về công ty chứng khoán
1.1.1. Khái niệm về Công ty chứng khoán
Nguyên tắc trung gian là một trong những nguyên tắc hoạt động cơ bản
nhất của TTCK. Theo nguyên tắc này, mọi hoạt động mua bán diễn ra trên
TTCK tập trung đều phải thông qua tổ chức trung gian, đó là công ty chứng
khoán.
Công ty chứng khoán là một tổ chức tài chính trung gian thực hiện các
nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán.
Với vai trò là một tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán thì
công ty chứng khoán là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán,
có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các hoạt động chính là bảo lãnh
phát hành, môi giới, tự doanh, tư vấn đầu tư chứng khoán.
Theo Luật chứng khoán, công ty chứng khoán là công ty cổ phần, công

ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập theo pháp luật Việt Nam và được Uỷ
ban chứng khoán cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh
doanh chứng khoán.
Về mô hình tổ chức kinh doanh chứng khoán có thể khái quát thành hai
mô hình đó là: Mô hình công ty chứng khoán đa năng và mô hình công ty
chứng khoán chuyên doanh
• Mô hình công ty chứng khoán đa năng :
Theo mô hình này, công ty chứng khoán được tổ chức dưới hình thức
một tổ hợp dịch vụ tài chính tổng hợp bao gồm kinh doanh chứng khoán, kinh
doanh tiền tệ và dịch vụ tài chính. Theo đó, các ngân hàng thương mại hoạt
động với tư các là chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh
tiền tệ. Mô hình công ty chứng khoán này được thể hiện dưới hai hình thức:
3
Công ty chứng khoán đa năng một phần: Theo mô hình này, các
ngân hàng thương mại muốn kinh doanh chứng khoán phải thành lập công ty
con hạch toán độc lập và hoạt động tách rời với kinh doanh tiền tệ.
Công ty đa năng toàn phần: Các ngân hàng trực tiếp kinh doanh
chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ cũng như các dịch
vụ khác.
Mô hình này có ưu điểm là ngân hàng có thể đa dạng hoá, kết hợp
nhiều lĩnh vực kinh doanh, nhờ đó giảm bớt rủi ro do hoạt động kinh doanh
chung, khả năng chịu đựng các biến biến động của TTCK là cao. Mặt khác,
các ngân hàng tận dụng được thế mạnh về vốn để kinh doanh chứng khoán,
khách hàng có thể sử dụng được nhiều dịch vụ đa dạng và lâu năm của ngân
hàng.
Tuy nhiên, mô hình này cũng bộc lộ một số hạn chế như không phát
triển được thị trường cổ phiếu do các ngân hàng có xu hướng bảo thủ, thích
hoạt động tín dụng truyền thống hơn là bảo lãnh phát hành cổ phiếu, trái
phiếu. Mặt khác, theo mô hình này, các ngân hàng cũng rất dễ gây lũng đoạn
thị trường, và nếu có biến động trên TTCK sẽ ảnh hưởng mạnh đến hoạt động

kinh doanh tiền tệ của ngân hàng, dễ dẫn đến các cuộc khủng hoảng tài chính
do không tách bạch giữa hai loại hình kinh doanh.
Do những hạn chế trên mà trước đây Mỹ và nhiều nước khác đã áp
dụng mô hình này, nhưng sau cuộc khủng hoảng năm 1933, đa số các nước đã
chuyển sang mô hình chuyên doanh chứng khoán, chỉ có Đức vẫn duy trì đến
ngày nay.
• Mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh :
Hoạt động của các công ty chứng khoán sẽ do các công ty độc lập và
chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm trách, các ngân hàng không
được tham gia kinh doanh chứng khoán.
4
Ưu điểm của mô hình này: Hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng, tạo
điều kiện cho TTCK phát triển do tính chuyên môn hoá cao hơn. Mô hình này
được áp dụng ở nhiều nước như Mỹ, Nhật, Canada...
Tại Việt Nam, do quy mô các ngân hàng thương mại nói chung là rất
nhỏ bé, đặc biệt vốn dài hạn rất thấp, hoạt động của các ngân hàng thương
mại Việt Nam chủ yếu trong lĩnh vực thương mại ngắng hạn, trong khi hoạt
động của TTCK thuộc lĩnh vực vốn dài hạn. Khả năng khắc phục những yếu
điểm này của ngân hàng Việt Nam còn rất lâu dài. Do đó, để bảo vệ an toàn
cho các ngân hàng, pháp luật Việt Nam có quy định các ngân hàng thương
mại muốn kinh doanh chứng khoán phải tách ra một phần vốn tự có của mình
thành lập một Công ty chứng khoán chuyên doanh trực thuộc, hạch toán độc
lập với ngân hàng
1.1.2. Phân loại công ty chứng khoán
Do đặc điểm của CTCK, mỗi công ty có thể thực hiện kinh doanh trên
một lĩnh vực, loại hình nhất định. Vì vậy, hiện nay, có quan điểm chia CTCK
thành các loại hình sau
• Công ty môi giới chứng khoán : là CTCK có lĩnh vực hoạt động chủ
yếu là thực hiện việc trung gian mua bán chứng khoán cho khách
hàng để hưởng hoa hồng

• Công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán : là CTCK có lĩnh vực hoạt
động chủ yếu là thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh để hưởng phí và
chênh lệch giá.
• Công ty kinh doanh chứng khoán : là CTCK chủ yếu thực hiện
nghiệp vụ tự doanh nghĩa là tự bỏ vốn và tự chịu trách nhiệm về hậu
quả kinh doanh.
• Công ty kinh doanh trái phiế u là CTCK chuyên mua bán các loại trái
phiếu.
• CTCK không tập trung là các CTCK hoạt động chủ yếu trên thị
trường OTC và họ đóng vai trò là các nhà tạo lập thị trường.
5
1.1.3. Vai trò của công ty chứng khoán
Vai trò của CTCK được thể hiện qua các hoạt động của CTCK. Thông
qua các hoạt động này, CTCK đã thực sự tạo ra ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự
phát triển của TTCK nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. CTCK đã trở
thành tác nhân quan trọng không thể thiếu trong quá trình phát triển của
TTCK.
• Đối với các tổ chức phát hành
Trên lý thuyết khi doanh nghiệp cần huy động vốn thông qua thị trường
chứng khoán thì họ có thể tự chào bán chứng khoán của mình đến các nhà đầu
tư. Tuy nhiên, trên thực tế, các tổ chức phát hành không thể làm tốt điều này
do họ không có một bộ máy chuyên nghiệp trong lĩnh vực này để thực hiện.
Do đó, họ cần một tổ chức chuyên nghiệp đứng ra để mua bán chứng khoán
cho họ. Mặt khác, một trong những nguyên tắc hoạt động cơ bản của TTCK
đó là nguyên tắc trung gian. Theo nguyên tắc này, các nhà phát hành và nhà
đầu tư không được mua bán trực tiếp chứng khoán mà phải thông qua các
trung gian mua bán. Vì vậy, các CTCK với cơ cấu tổ chức phù hợp, trình độ
chuyên môn, thành thạo nghiệp vụ sẽ thực hiện vai trò trung gian cho nhà đầu
tư và các chủ thể phát hành. Thông qua hoạt động đại lý phát hành, bảo lãnh
phát hành, các CTCK có vai trò tạo ra cơ chế huy động vốn phục vụ các tổ

chức phát hành.
• Đối với các nhà đầu tư
Trên TTCK, giá cả chứng khoán thường xuyên biến động cũng như
mức độ rủi ro cao sẽ làm cho những nhà đầu tư tốn kém chi phí, công sức và
thời gian để tìm hiểu thông tin trước khi đưa ra các quyết định đầu tư.
CTCK lại có những đặc thù riêng. Do họ có trình độ chuyên môn cao
và có một hệ thống thu thập và xử lý thông tin để làm cơ sở cho hoạt động tư
vấn điều mà các nhà đầu tư cá nhân không thể có được nên CTCK trở thành
nơi cung cấp những nguồn thông tin đáng tin cậy nhất.
6
Vì vậy, thông qua các hoạt động như môi giới, tư vấn đầu tư, CTCK
giúp nâng cao hiệu quả của các khoản đầu tư bằng cách giảm chi phí và thời
gian giao dịch.
• Vai trò đối với thị trường chứng khoán : Đối với TTCK, công ty
chứng khoán thể hiện hai vai trò chính:
+Thứ nhất: CTCK góp phần tạo lập thị trường thông qua việc điều tiết
thị trường và tạo lập giá cả.
Trên thị trường sơ cấp, khi thực hiện hoạt động bảo lãnh chứng khoán
cho các tổ chức phát hành, CTCK thông qua việc xác định và tư vấn cho tổ
chức phát hành mức giá chào bán hợp lý đối với các chứng khoán. Thông
thường, mức giá phát hành do các CTCK xác định trên cơ sở xác định giá trị
của doanh nghiệp và thông qua việc tiếp xúc, tìm hiểu và thoả thuận với các
nhà đầu tư tiềm năng lớn trong đợt phát hành và tư vấn cho tổ chức phát hành.
Mặt khác, CTCK cũng là những thành viên của thị trường, do vậy, họ cũng
góp phần tạo lập giá cả thị trường thông qua hoạt động đấu giá.
Trên thị trường thứ cấp, dù đó là thị trường đấu giá hay đấu lệnh, giá
chứng khoán được xác định theo quy luật cung cầu của thị trường, do đó với
hoạt động tư vấn của mình, CTCK đã luôn giữ vai trò giúp nhà đầu tư đánh
giá đúng và chính xác về khoản đầu tư của họ.
Bên cạnh đó, để bảo vệ những khoản đầu tư của khách hàng và bảo vệ

lợi ích cho chính mình, nhiều CTCK đã giành một tỷ lệ nhất định các giao
dịch để thực hiện vai trò bình ổn thị trường.
+Thứ hai, CTCK góp phần làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài
chính.
Như chúng ta đã biết, TTCK có vai trò là môi trường làm tăng tính
thanh khoản cho các tài sản tài chính. Nhưng các CTCK mới là những người
thực hiện tốt vai trò đó vì CTCK tạo ra cơ chế giao dịch trên thị trường.
Trên thị trường sơ cấp, do thực hiện các hoạt động bảo lãnh phát hành,
chứng khoán hoá, các CTCK không những huy động được một lượng vốn lớn
7
đưa vào sản xuất kinh doanh cho các tổ chức phát hành mà còn làm tăng tính
thanh khoản của các tài sản tài chính được đầu tư vì chứng khoán qua đợt
phát hành sẽ được mua bán trên thị trường thứ cấp. Điều này làm giảm tính
rủi ro, tạo tâm lý yên tâm cho các nhà đầu tư chứng khoán.
Trên thị trường thứ cấp, do thực hiện các giao dịch mua bán, các CTCK
giúp người đầu tư chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại một
cách thuận tiện, nhanh chóng, ít tốn kém và ít thiệt hại nhất. Chính những
hoạt động này đã làm tăng tính thanh khoản của những tài sản tài chính.
• Đối với các cơ quan quản lý thị trường
Các CTCK có vai trò cung cấp thông tin về thị trường chứng khoán cho
các cơ quan quản lý thị trường. Thật vậy, các CTCK là thành viên hoạt động
thường xuyên, liên tục trên TTCK theo nguyên tắc trung gian và công khai.
Với ưu thế nắm rõ tính hình của các tổ chức phát hành cũng như các nhà đầu
tư thông qua hoạt động bảo lãnh phát hành, trung gian mua bán, CTCK là nơi
cung cấp các thông tin về các loại chứng khoán, các giao dịch, về tổ chức phát
hành, nhà đầu tư và các biến động của thị trường một cách cập nhật, chính
xác và tổng hợp nhất. Dựa vào nguồn thông tin này, cơ quan quản lý thị
trường có thể theo dõi, giám sát toàn cảnh hoạt động của TTCK để từ đó đưa
ra các quyết định, chính sách phù hợp, đúng đắn, kịp thời, đảm bảo cho hoạt
động của TTCK diễn ra một cách trật tự, an toàn và hiệu quả.

Như vậy, thông qua trung gian là các CTCK, các cơ quan quản lý nâng
cao được nâng cao năng lực quản lý để duy trì sự hoạt động lành mạnh của
một thị trường tự do nhất trong tất cả các thị trường.
1.1.4. Những hoạt động của công ty chứng khoán
1.1.4.1. Hoạt động môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là hoạt động kinh doanh của CTCK trong đó
CTCK đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao
dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hay thị trường OTC mà chính khách hàng
sẽ phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó. Khi
8
thực hiện hoạt động môi giới, CTCK phải mở tài khoản giao dịch chứng
khoán và tiền cho từng khách hàng trên cơ sở hợp đồng ký kết giữa khách
hàng và công ty. Trên cơ sở đó, các CTCK sẽ là cầu nối giữa những nhà đầu
tư có nhu cầu mua chứng khoán và các nhà đầu tư có nhu cầu bán chứng
khoán.
Trên thực tế, không chỉ trên thị trường chứng khoán mới có nghề môi
giới chứng khoán. Với tư cách là khâu trung gian giúp thúc đẩy quá trình lưu
thông hàng hoá bằng cách rút ngắn khoảng thời gian tìm kiếm để gặp gỡ giữa
người mua bà người bán, nghề môi giới đã tồn tại từ lâu trong nền kinh tế
hàng hoá, nhất là đối với những hàng hoá mà người mua và người bán không
dễ dàng gặp nhau. Song trên thị trường chứng khoán, nghề môi giới chứng
khoán không chỉ đơn thuần là khâu đưa sản phẩm, dịch vụ từ người bán đến
người mua. Những đặc trưng riêng của một thị trường cao cấp, những sản
phẩm và dịch vụ phức tạp, đa dạng ở đây đòi hỏi ở nghề môi giới chứng
khoán, cụ thể hơn là những công ty chứng khoán và những người môi giới
chứng khoán, những đặc điểm về tổ chức và và vận hành, những phẩm chất,
kỹ năng và điều kiện hoạt động hết sức đặc thù.
Ngoài ra, với vai trò là nhà môi giới chứng khoán, CTCK còn cung cấp
cho nhà đầu tư những thông tin cần thiết, những ý tưởng đầu tư, những lời
khuyên mang tính thời điểm hay mang tính chiến lược, và giúp cho người

đầu tư thực hiện các giao dịch theo cách có lợi nhất.
Tuỳ theo quy định của mỗi nước, cách thức hoạt động của từng Sở giao
dịch chứng khoán mà người ta có thể phân chia thành nhiều loại môi giới
khác nhau như môi giới dịch vụ, môi giới độc lập, hay môi giới hai đô la, nhà
môi giới chuyên môn.
1.1.4.2. Hoạt động tự doanh chứng khoán
Tự doanh là hoạt động mà trong đó CTCK thực hiện mua và bán chứng
khoán cho chính mình. Chứng khoán ở đây có thể là chứng khoán niêm yết
hoặc chưa niêm yết. Ngoài ra, CTCK có thể tự doanh chứng khoán lô lẻ của
9
khách hàng, sau đó tập hợp lại thành lô chẵn để giao dịch trên thị trường
chứng khoán. Mục đích của CTCK khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh là nhằm
thu lợi hoặc đôi khi nhằm mục đích can thiệp điều tiết giá trên thị trường.
Theo khoản 1 điều 34 quy chế tổ chức và hoạt động CTCK số 27/2007/
NĐ-CP ngày 24/4/2007 quy định về hoạt động tự doanh của công ty chứng
khoán như sau: CTCK phải đảm bảo có đủ tiền và chứng khoán để thanh toán
các lệnh giao dịch của mình.
Hoạt động tự doanh hiện nay được xem là một trong những hoạt động
quan trọng nhất của CTCK tại Việt Nam trong việc nâng cao lợi nhuận. Tuy
nhiên, do hoạt động tự doanh và môi giới dễ nảy sinh xung đột lợi ích nên các
nước thường quy định các CTCK phải tổ chức thực hiện hai hoạt động ở hai
bộ phận riêng biệt nếu CTCK đó được thực hiện cả hai hoạt động và CTCK
phải ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của mình.
1.1.4.3. Hoạt động bảo lãnh và phát hành chứng khoán
Theo điều 6 Luật chứng khoán quy định “Bảo lãnh phát hành chứng
khoán là việc tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết với tổ chức phát hành thực
hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua một phần hay
toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số chứng
khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành hoặc hỗ trợ tổ
chức phát hành trong việc phân phối chứng khoán ra công chúng”.

Theo nguyên tắc trung gian, trên TTCK yêu cầu các nhà đầu tư không
được mua chứng khoán trực tiếp từ các nhà phát hành mà mua chứng khoán
thông qua các nhà bảo lãnh. Điều này lý giải tại sao các tổ chức khi muốn
phát hành chứng khoán phải thông qua các tổ chức bảo lãnh phát hành như
ngân hàng đầu tư hoặc CTCK. Tổ chức bảo lãnh phát hành được hưởng phí
hoặc một tỷ lệ hoa hồng nhất định trên số tiền thu được từ đợt phát hành.
Hiện nay trên thế giới có một số hình thức bảo lãnh phát hành đó là:
bảo lãnh với cam kết chắc chắn, bảo lãnh theo phương thức dự phòng, bảo
lãnh với cố gắng cao nhất, bảo lãnh theo phương thức bán tất cả hoặc không,
10
bảo lãnh theo phương thức tối thiểu - tối đa. Riêng tại Việt Nam hiện nay chỉ
áp dụng hình thức bảo lãnh với cam kết chắc chắn nhằm mục đích bảo vệ nhà
đầu tư và gắn kết trách nhiệm của các CTCK. Điều này gây ra một số khó
khăn cho các CTCK trong việc triển khai nghiệp vụ này
1.1.4.4. Hoạt động tư vấn đầu tư
Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc công ty chứng khoán thông qua hoạt
động phân tích để đưa ra các lời khuyên, phân tích các tình huống và có thể
thực hiện một số công việc dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và
cơ cấu tài chính cho khách hàng. Các sản phẩm tư vấn bao gồm tư vấn tài
chính doanh nghiệp và tư vấn đầu tư chứng khoán.
Đây là nghiệp vụ mà vốn của nó chính là kiến thức chuyên môn, kinh
nghiệm nghề nghiệp của đội ngũ chuyên viên tư vấn của CTCK. Do đặc điểm
riêng của hoạt động tư vấn chứng khoán là giá cả thường xuyên biến động
nên việc tư vấn về giá trị chứng khoán rất khó khăn, đồng thời có thể xảy ra
nhiều mâu thuẫn về lợi ích. Đặc biệt là với hoạt động này, các nhà tư vấn có
thể gây ra những hiểu lầm đáng tiếc về giá trị và xu hướng giá cả của các loại
chứng khoán - việc này có thể do khả năng của họ hoặc do họ cố tình gây hiểu
lầm để kiếm lợi. Do vậy, đây là một trong những hoạt động nghiệp vụ cần
được quản lý chặt chẽ và đòi hỏi phải có những giới hạn nhất định trong khi
thực hiện công việc. Theo quy định tại Việt Nam, khi thực hiện tư vấn đầu tư

chứng khoán cho khách hàng, các CTCK và nhân viên kinh doanh phải:
+ Phải tuân thủ đạo đức nghề nghiệp
+ Bảo đảm tính trung thực, khách quan của hoạt động tư vấn
+ Không được tiến hành các hoạt động có thể làm cho khách hàng và
công chúng hiểu lầm về giá cả, giá trị và bản chất của bất kỳ loại chứng khoán
nào
+ Không được có hành vi cung cấp thông tin sai sự thật để dụ dỗ hay
mời gọi khách hàng mua bán một loại chứng khoán nào đó
11
+ Bảo mật các thông tin nhận được từ người sử dụng dịch vụ tư vấn trừ
trường hợp được khách hàng đồng ý hoặc pháp luật có quy định khác
+ Chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động tư vấn và bồi thường
thiệt hại cho người sử dụng đối với dịch vụ tư vấn khi vi phạm cam kết trong
hợp đồng tư vấn
Tuy nhiên, các nhà tư vấn thường đánh giá tình huống theo kiến thức,
kinh nghiệm và tư duy chủ quan của họ, do vậy việc đánh giá tình huống của
mỗi nhà tư vấn là khác nhau. Tính khách quan và chính xác của các bản phân
tích sẽ mang lại uy tín cho nhà tư vấn
1.1.4.5. Các hoạt động phụ trợ
Nhìn chung, các hoạt động hỗ trợ giao dịch nhằm mục đích tạo thuận
lợi cho các nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư không bỏ lỡ các cơ hội đầu tư, nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn. Các hoạt động phụ trợ của CTCK bao gồm:
+ Hoạt động lưu ký chứng khoán:
Lưu ký chứng khoán là hoạt động nhận ký gửi, bảo quản, chuyển giao
chứng khoán cho khách hàng của Trung tâm lưu ký chứng khoán và giúp
khách hàng thực hiện các quyền liên quan đến sở hữu chứng khoán.
Theo quy định chứng khoán của công ty đại chúng và các loại chứng
khoán khác niêm yết trên Sở giao dịch, Trung tâm giao dịch chứng khoán
phải được lưu ký tập trung tại Trung tâm lưu ký chứng khoán trước khi giao
dịch.

Việc lưu ký chứng khoán được thực hiện tại các thành viên lưu ký của
Trung tâm giao dịch chứng khoán. Các thành viên lưu ký bao gồm các công
ty chứng khoán và các ngân hàng thương mại đã được Uỷ ban Chứng khoán
Nhà nước cấp giấy phép hoạt động lưu ký và đã đăng ký làm thành viên lưu
ký của Trung tâm giao dịch chứng khoán. Khi thực hiện hoạt động lưu ký
chứng khoán, CTCK sẽ thu phí liên quan đến lưu ký chứng khoán như phí
gửi, phí chuyển nhượng chứng khoán.
12
Hiện nay, Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
có 20 thành viên lưu ký trong đó có 17 thành viên lưu ký là các công ty chứng
khoán và 3 thành viên lưu ký là các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
+ Hoạt động quản lý thu nhập của khách hàng
Xuất phát từ hoạt động lưu ký chứng khoán cho khách hàng, CTCK sẽ
theo dõi tình hình lãi, cổ tức của chứng khoán. Bên cạnh đó, CTCK còn đứng
ra làm dịch vụ thu nhận và chi trả cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản
của khách hàng.
+ Hoạt động tín dụng:
Bên cạnh nghiệp vụ môi giới chứng khoán để hưởng hoa hồng, CTCK
còn cung cấp dịch vụ cho khách hàng vay chứng khoán để thực hiện giao dịch
bán khống hoặc cho vay ký quỹ
Nghiệp vụ tín dụng là một hoạt động thông dụng tại các thị trường
chứng khoán phát triển. Còn đối với các thị trường mới nổi như Việt Nam,
hoạt động này còn bị hạn chế.
1.2. Hoạt động tự doanh của Công ty chứng khoán
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm về tự doanh chứng khoán
1.2.1.1. Khái niệm về tự doanh chứng khoán
Theo điều 6 Luật chứng khoán quy định “Tự doanh chứng khoán là
việc công ty chứng khoán mua hoặc bán chứng khoán cho chính mình”.
Thông thường chức năng chính của CTCK là cầu nối giữa nhà đầu tư
với Sở giao dịch chứng khoán, người chơi chứng khoán sẽ phải đến các

CTCK để thực hiện một số thủ tục như mở tài khoản chứng khoán, lưu ký
chứng khoán. Song, với nghiệp vụ tự doanh, CTCK sẽ tham gia mua bán
chứng khoán như một tổ chức độc lập, bằng chính nguồn vốn của công ty,
chứ không phải bằng tài khoản của khách hàng và tự gánh chịu rủi ro. Hoạt
động này là một hoạt động khó khăn phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro, do
đó, nó đòi hỏi vốn điều lệ khá lớn là 100 tỷ đồng và theo quy định hoạt động
tự doanh yêu cầu vốn điều lệ lớn thứ hai chỉ sau hoạt động bảo lãnh phát hành
13
là 165 tỷ đồng. Song hoạt động này có thể mang về những khoản lợi nhuận rất
lớn cho công ty.
Theo Quy chế tổ chức và hoạt động của các CTCK, được Bộ Tài chính
ban hành theo quyết định số 27/2007/QĐ-BTC, các CTCK phải đảm bảo có
đủ tiền và chứng khoán để thanh toán các lệnh giao dịch của chính mình. Khi
tiến hành hoạt động tự doanh, CTCK không được:
- Đầu tư vào cổ phiếu của công ty có sở hữu trên 50% vốn
điều lệ của CTCK.
- Đầu tư quá 20% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một
tổ chức niêm yết.
- Đầu tư quá 15% số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ
chức không niêm yết.
Hoạt động tự doanh được thực hiện trên thị trường tập trung như Sở
giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán hay có thể ở trên
thị trường OTC. Trên thị trường giao dịch tập trung, lệnh giao dịch của các
CTCK đưa vào hệ thống và được thực hiện như lệnh của khách hàng. Trên thị
trường phi tập trung, CTCK có thể thực hiện giao dịch trực tiếp với đối tác
hoặc thông qua hệ thống mạng thông tin. Ở một số nước, hoạt động tự doanh
của CTCK còn được thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường. Trong
hoạt động này, với vai trò là nhà tạo lập thị trường, CTCK nắm giữ một số
lượng nhất định của một số loại chứng khoán và thực hiện giao dịch với
khách hàng nhằm hưởng phí và chênh lệch giá.

1.2.1.2. Đặc điểm của hoạt động tự doanh
CTCK là một định chế tài chính trung gian, thực hiện các nghiệp vụ
trên TTCK. Do đó, hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán của các
CTCK thực hiện có những đặc điểm khác biệt so với các chủ thể kinh doanh
khác trên thị trường.
Hoạt động tự doanh của CTCK mang tính chuyên nghiệp cao. Tính
chuyên nghiệp được thể hiện trước hết ở trình độ và khả năng của các cán bộ
14
thực hiện hoạt động tự doanh. Họ phải là những người có kiến thức chuyên
sâu, có khả năng phân tích, là người có khả năng đưa ra được các quyết định
đúng đắn trong kinh doanh và phải làm việc dưới những áp lực lớn. Bên canh
đó, tính năng động và tự chủ của họ luôn được đề cao trong các quyết định
đầu tư và kinh doanh chứng khoán. Song quá trình đầu tư và kinh doanh
chứng khoán này đều phải tuân theo những quy trình đầu tư chặt chẽ nhằm
bảo đảm tính hiệu quả và an toàn trong đầu tư. Quy trình đầu tư đưa ra các
bước cần thiết để thực hiện một phương án đầu tư, đồng thời nó cũng quy
định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các đối tượng tham gia hoạt động tự
doanh của công ty. Bên cạnh đó, hoạt động tự doanh của CTCK luôn mang
tính chiến lược, có định hướng đồng thời dựa vào các phân tích thị trường và
mục tiêu trong từng giai đoạn hoạt động mà CTCK có thể đưa ra các chiến
lược đầu tư và chính sách quản trị danh mục đầu tư một cách phù hợp nhất.
Thứ hai, do có tiềm lực tài chính mạnh và hoạt động có tính chuyên
nghiệp cao nên quy mô đầu tư của CTCK lớn và danh mục đầu tư đa dạng.
Hoạt động tự doanh của CTCK không chỉ tập trung vào một thị trường, một
ngành nghề hay một công ty mà họ đầu tư trên nhiều thị trường từ thị trường
tập trung đến thị trường phi tập trung cả trong và ngoài nước với nhiều ngành
nghề khác nhau. Dựa vào những lợi thế có được của một tổ chức tài chính
trung gian các CTCK có khả năng tìm ra những cơ hội đầu tư với chi phí thấp
nhằm đa dạng hoá danh mục đầu tư để giảm thiểu rủi ro.
Thứ ba, hoạt động tự doanh của CTCK luôn chứa đựng nhiều rủi ro, do

đó trong hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán của mình các CTCK
đều sử dụng các công cụ phòng vệ như option, future... Việc sử dụng các công
cụ phòng vệ của các CTCK hiệu quả hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố
như việc sử dụng rộng rãi của các công cụ phòng vệ trong hoạt động đầu tư,
chiến lược phát triển, chính sách quản lý danh mục đầu tư của công ty...
1.2.1.3. Vai trò của hoạt động tự doanh
Đối với CTCK
15
+ Mang lại lợi nhuận cho CTCK
Đây là một vai trò quan trọng của hoạt động tự doanh đối với CTCK.
Thông qua tài khoản của họ, các CTCK thực hiện việc mua bán chứng khoán
nhằm thu lợi cho chính mình.Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh chứng khoán
thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lợi nhuận của CTCK. Trong các hoạt
động còn lại của CTCK hầu như là cung cấp các dịch vụ từ đó nhận phí hoặc
hoa hồng từ khách hàng, chỉ riêng hoạt động tự doanh là sử dụng nguồn vốn
của công ty để kinh doanh và tạo ra lợi nhuận.
+ Hỗ trợ các hoạt động khác của công ty phát triển
Trên TTCK, mỗi CTCK có một thế mạnh khác nhau, tuy nhiên rất khó
có một công ty nào có thể phát triển tốt được các mảng dịch vụ mà mảng tự
doanh lại của công ty lại không đạt kết quả cao. Do đó, một CTCK có hoạt
động tự doanh phát triển thường thúc đẩy các hoạt động nghiệp vụ phát triển.
Bên cạnh đó, nó còn là một hình thức quảng cáo tốt cho tính chuyên nghiệp
và khả năng phân tích của công ty.
Đối với TTCK
+ Tăng quy mô vốn trên thị trường
Tuỳ thuộc vào quy mô và chiến lược đầu tư mà mỗi CTCK có một hạn
mức đầu tư và kinh doanh chứng khoán khác nhau. Tuy nhiên, lượng vốn mà
các CTCK đổ vào thị trường là con số không nhỏ so với các nhà đầu tư riêng
lẻ. Điều đó giúp tăng quy mô giao dịch và nâng cao giá trị vốn hoá trên
TTCK.

+ Nâng cao chất lượng đầu tư trên thị trường
CTCK là tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực chứng khoán, đầu tư
theo quy trình và phân tích có bài bản. Do đó, trên thị trường càng nhiều
CTCK thực hiện hoạt động tự doanh thì lối đầu tư theo số đông sẽ dần được
thay thế bởi một cách thức đầu tư có sự phân tích và chuyên nghiệp hơn. Có
như vậy thị trường mới có thể phát triển bền vững và ổn định được.
+ Bình ổn giá trị thị trường
16
Với vai trò kinh doanh chứng khoán, CTCK là một thành viên quan
trọng của TTCK, có tác dụng làm cho hoạt động của TTCK đều đặn, không bị
gián đoạn và sôi động đồng thời góp phần bình ổn giá cả thị trường. Theo luật
định, các CTCK đều phải dành một tỷ lệ % nhất định trong các giao dịch của
mình cho hoạt động tự doanh nhằm bình ổn thị trường.
1.2.1.4. Nội dung của hoạt động tự doanh của CTCK
• Hoạt động đầu tư ngân quỹ
Đầu tư ngân quỹ là hoạt động đầu tư nhằm đáp ứng khả năng thanh
toán và tăng tính sinh lời của doanh nghiệp. Nghĩa là, khi CTCK có dư thừa
ngân quỹ, công ty đầu tư vào những chứng khoán có tính thanh khoản cao tạo
một khoản dự trữ thứ cấp cho nhu cầu thanh toán và dự phòng. Hoạt động đầu
tư này có ít rủi ro do khi công ty có nhu cầu cấp bách về vốn thì có thể dễ
dàng bán đi với chi phí thấp. Đây là những khoản đầu tư thường diễn ra trong
khoảng thời gian ngắn của CTCK nhưng lại là khoản đầu tư có mức sinh lời
không nhỏ, do đó, CTCK cần quan tâm hơn vào hoạt động này.
• Hoạt động đầu tư hưởng lợi
Hoạt động đầu tư hưởng lợi là hoạt động đầu tư quan trọng trong
nghiệp vụ tự doanh của CTCK vì nó là hoạt động có mức sinh lợi lớn nhất.
Hoạt động đầu tư hưởng lợi bao gồm:
+ Hoạt động kinh doanh chênh lệch giá
Kinh doanh chênh lệch giá là hoạt động khi nhà đầu tư mua tài sản ở
một mức giá thấp và bán chúng ở một mức giá cao hơn nhằm hưởng lợi, và

phần lợi nhuận thu về là phần chênh lệch giữa giá mua và giá bán. Đây là hoạt
động chủ yếu của các CTCK hiện nay do nó có thể kiếm được những khoản
lợi nhuận lớn và có vòng quay vốn nhanh nhưng lại có mức độ rủi ro lớn. Với
mục đích đầu tư của loại hình chỉ quan tâm tới sự chênh lệch giá cả, do đó,
chính sách đầu tư của CTCK thiên về đầu tư trong ngắn hạn và đầu tư dài hạn
là rất hạn chế.
+ Đầu cơ chứng khoán
17
Khi nhắc đến từ “đầu cơ”, hầu như mọi người đều nghĩ ngay đến những
hoạt động bất hợp pháp, lừa dối, hay chí ít cũng mang hơi hám tham lam, chê
trách. Ngay cả giới quản lý cũng thích đưa ra những ý kiến theo hướng đổ lỗi
cho dân đầu cơ khi giải thích một số hiện tượng không kiểm soát được giá cả
trong thời gian qua. Đầu cơ có nhiều mức độ. Nếu xem xét nó như một hoạt
động kinh tế thuần túy, nó chỉ là sự cân nhắc giữa rủi ro và lợi nhuận, người
đầu cơ là người chấp nhận rủi ro cao hơn để trông chờ lợi nhuận lớn hơn. Ở
đây yếu tố chấp nhận rủi ro và nguồn lực tài chính đóng vai trò quan trọng.
Giả sử giá không lên như nhà đầu cơ dự đoán, anh ta sẽ phải chịu lỗ nặng, kể
cả mất cơ hội dùng tiền vào hoạt động kinh doanh khác nhưng họ lại được
nhận những khoản lợi nhuận khổng lồ nếu dự tính của nhà đầu tư chính xác.
Cơ sở đầu tư của họ là: Tại một thời điểm trong tương lai giá cổ phiếu sẽ tăng
so với giá hiện tại. Do đó, nhà đầu cơ sẽ mua chứng khoán nhưng không bán
mà tích trữ ngày càng nhiều và bán ra khi chứng khoán tăng lên cao nhằm gây
ra cơn sốt giá chứng khoán và nhà đầu cơ sẽ kiếm được một khoản lợi nhuận
lớn.
+ Đầu tư phòng vệ:
Khi tham gia vào TTCK, để bảo vệ mình trước những biến động bất
thường của thị trường, các CTCK cũng như nhà đầu tư có thể sử dụng các
công cụ phòng vệ để tự bảo vệ mình. Các công cụ đó có là: các hợp đồng
tương lai, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn... Các công cụ này sẽ góp
phần bảo vệ nhà đầu tư trước những biến động theo hướng không thuận lợi

của giá chứng khoán.
+ Hoạt động đầu tư giảm giá
Đầu tư giảm giá là hoạt động khi nhà đầu tư dự tính giá chứng khoán
có thể xuốn thấp, do đó, nhà đầu tư sẽ vay chứng khoán sau đó bán đi ( hoạt
động này gọi là bán khống) và đến thời điểm hoàn trả chứng khoán thì thực
hiện mua chứng khoán vào với giá thị trường (thường là giá thấp hơn giá đã
mua vào) để trả lại số chứng khoán đã đi vay. Trong pháp luật của nhiều nước
18
không cho phép thực hiện hình thức đầu tư này, vì vậy các CTCK thường rất
cân nhắc cẩn thận trước khi ra các quyết định chiến lược đầu tư theo loại hình
này.
• Hoạt động đầu tư nắm quyền kiểm soát
Ngoài việc đầu tư hưởng lợi, CTCK cũng có thể thực hiện giao dịch
chứng khoán nhằm nắm giữ cổ phiếu và trở thành cổ đông của tổ chức phát
hành. Mục đích đầu tư ở đây là thao túng và nắm quyền kiểm soát công ty
phát hành. Vì vậy, CTCK chấp nhận một chi phí lớn để nắm quyền kiểm soát,
từ đó có thể điều tiết hoạt động của tổ chức phát hành và thu được những
nguồn lợi cao như mong muốn trong tương lai. Với các tổ chức phát hành làm
ăn không hiệu quả, CTCK có thể mua lại một phần hoặc toàn bộ để đủ quyền
tham gia quản lý hoặc chi phối công ty, sau đó tái cơ cấu hoạt động sản xuất
kinh doanh, tài chính và hệ thống quản lý của tổ chức phát hành để có thể
khôi phục vị thế của công ty trên TTCK hoặc bán lại công ty đó cho các đối
tác với giá trị cao hơn. Với xu hướng như vậy, các CTCK ngày càng tiến đến
hình thành một mô hình tập đoàn tài chính trung gian vừa thực hiện cung cấp
dịch vụ trên thị trường chứng khoán vừa đóng vai trò là nhà đầu tư chiến lược
• Tạo lập thị trường:
CTCK có thể thực hiện hoạt động tự doanh dưới hình thức là nhà tạo
lập thị trường cho một hay nhiều loại chứng khoán. Nhiệm vụ quan trọng nhất
của các nhà tạo lập thị trường là tạo tính thanh khoản cho thị trường thông
qua việc nắm giữ một số lượng chứng khoán nhất định để sẵn sàng mua bán

với các nhà đầu tư khi có nhu cầu. Khi đó CTCK sẽ chủ động đưa ra mức giá
cao nhất sẵn sàng mua vào và mức giá thấp nhất sẵn sàng bán ra. Các mức giá
này là giá yết của nhà tạo lập và họ được hưởng chênh lệch giá thông qua việc
mua bán chứng khoán.
Hoạt động này của CTCK chỉ thực hiện được khi thị trường chưa niêm
yết và nó đòi hỏi công ty phải có một nguồn vốn khá lớn và có mạng lưới nhà
đầu tư thực hiện giao dịch đông đảo.
19
1.2.1.5. Mô hình tổ chức hoạt động tự doanh chứng khoán
Hoạt động tự doanh chứng khoán được thực hiện dưới hai mô hình tổ
chức sau:
+ Mô hình hai cấp
Đây là mô hình trong đó trưởng phòng đầu tư hay trưởng phòng tự
doanh sẽ là người trực tiếp điều hành hoạt động đầu tư, quyết định danh mục
đầu tư và các chính sách đầu tư. Hoạt động tự doanh của công ty được chia
thành hoạt động tự doanh về cổ phiếu trên thị trường niêm yết và chưa niêm
yết, tự doanh trái phiếu, nghiệp vụ repo chứng khoán. Mỗi mảng đó sẽ do một
nhóm các cán bộ tự doanh phụ trách dưới sự quản lý chung của trưởng phòng
tự doanh. Từng nhóm sẽ phải có trách nhiệm phân tích, nghiên cứu và đề
xuất ra các phương án đầu tư. Các phương án sẽ được trưởng phòng xem xét,
đưa ra ý kiến và quyết định có thực hiện hay không. Giám đốc của Công ty là
người quản lý chung và thẩm định kết quả đầu tư của phòng tự doanh. Ngoài
ra, khi thực hiện hoạt động đầu tư còn chịu sự giám sát của Ban kiểm soát
nhằm bảo đảm an toàn cho hoạt động của công ty.
Đặc điểm của mô hình này là gọn nhẹ, nâng cao tính độc lập và trách
nhiệm của các cán bộ tự doanh trong hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng
khoán. Tuy nhiên, với mô hình này, tính chủ quan của trưởng phòng đầu tư
ảnh hưởng rất nhiều đến các quyết định cũng như hiệu quả đầu tư, vì vậy đòi
hỏi một cơ chế giám sát chặt chẽ của CTCK.
Sơ đồ 1.2.1: Mô hình tự doanh hai cấp

Phòng đầu tư (tự doanh) Ban kiểm soát
TD cổ phiếu
niêm yết (SGD)
TD cổ phiếu
chưa niêm yết
Tự doanh trái
phiếu
20
+ Mô hình ba cấp
Theo mô hình này hoạt động tự doanh của CTCK được phân chia thành
hoạt động tự doanh cổ phiếu niêm yết và chưa niêm yết, tự doanh trái phiếu,
repo chứng khoán. Tuy nhiên, trưởng phòng đầu tư không phải là người quyết
đinh hoàn toàn chiến lược cũng như danh mục đầu tư của CTCK. Với mô
hình tổ chức này, trưởng phòng chỉ quản lý hoạt động đầu tư của các nhóm
cán bộ tự doanh cấp dưới và đóng góp các ý kiến giúp Hội đồng đầu tư đưa ra
các chiến lược đầu tư và các chính sách quản lý danh mục đầu tư. Hội đồng
đầu tư bao gồm Giám đốc Công ty, trưởng phòng đầu tư và các thành viên
khác theo quy định. Hội đồng đầu tư sẽ là người ra quyết đinh cuối cùng về
việc đầu tư hay không thay vì quyết định của cá nhân trưởng phòng đầu tư
như mô hình hai cấp. Ban kiểm soát vẫn giữ vai trò giám sát mọi hoạt động
đầu tư mà phòng tự doanh thực hiện.
Sơ đồ 1.2.2: Mô hình tự doanh ba cấp
Đặc điểm của mô hình ba cấp là độ an toàn cao trong hoạt động đầu tư
của CTCK sẽ được nâng cao hơn so với mô hình hai cấp. Tuy nhiên, với mô
hình này, tính tự chủ, độc lập và trách nhiệm của các cán bộ tự doanh trong
hoạt động đầu tư sẽ bị giảm. Ngoài ra, do mọi phương án đầu tư đều phải có ý
kiến của Hội đồng đầu tư mới có thể được thực hiện, do đó có thể dẫn đến
mất cơ hội đầu tư do chậm trễ trong việc đưa ra quyết định.
Trưởng phòng đầu tư (tự
doanh)

TD cổ phiếu
niêm yết (SGD)
Tự doanh trái
phiếu
TD cổ phiếu
chưa niêm yết
Ban kiểm soát
21
Hội đồng đầu tư
1.3. Phát triển hoạt động tự doanh của CTCK
1.3.1. Khái niệm
Phát triển hoạt động tự doanh của CTCK là việc tạo điều kiện để hoạt
động tự doanh của công ty tăng cả về mặt chất lượng và số lượng.
Tăng về mặt chất lượng là việc đưa ra những danh mục đầu tư hợp lý
thông qua những phân tích có căn cứ khoa học thông qua đó giúp công ty đạt
được mục tiêu của mình trong hoạt động tự doanh.
Tăng về số lượng ở đây bao gồm sự tăng về quy mô vốn của hoạt động
tự doanh, doanh thu do đó lợi nhuận thu về của hoạt động tự doanh sẽ tăng
theo.
1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh sự phát triển của hoạt động tự doanh
Về mặt định tính
• Mức độ chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa trong hoạt động đầu tư
• Khả năng linh hoạt trong hoạt động
• Mức độ đa dạng hóa trong hoạt động
Về mặt định lượng
• Quy mô của hoạt động tự doanh bao gồm:
 Vốn đầu tư cho hoạt động tự doanh
 Doanh số mua, bán chứng khoán
 Thu lãi từ hoạt dộng tự doanh
• Sự phát triển về quy mô được thể hiện ở mức độ tăng trưởng

• Số lượng chứng khoán trong danh mục
• Phương thức đầu tư
Với mỗi phương án đầu tư khác nhau, các tiêu chí và thứ tự ưu tiên mà
HBBS sử dụng là khác nhau. Tuy nhiên, dù dựa trên tập hợp các tiêu chí nào
thì tín an toàn luôn được HBBS quan tâm nhất.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tự doanh của CTCK
1.4.1. Nhân tố chủ quan
22
+ Chính sách phát triển của công ty
Chính sách phát triển của CTCK luôn thay đổi trong từng nhằm phù
hợp với mục tiêu phát triển của công ty trong từng giai đoạn hoạt động. Do
đó, nó ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của CTCK nói chung và của hoạt
động tự doanh chứng khoán nói riêng. Chính sách phát triển đưa ra những chỉ
tiêu cần đạt được trong giai đoạn tiếp theo với những chiến lược đầu tư nới
lỏng hoặc thắt chặt. Đồng thời chính sách này cũng đưa ra những thay đổi về
tổng lượng vốn cho hoạt động đầu tư như trong giai đoạn thị trường phát triển
thì nguồn vốn dành cho hoạt động đầu tư cổ phiếu sẽ cao hơn giai đoạn thị
trường ảm đạm. Ngoài ra, với những mục tiêu trong chính sách đề ra khác
nhau sẽ có những quyết định khác nhau về loại hình đầu tư ví dụ như khi công
ty đặt ra chiến lược phát triển ổn định, bảo đảm an toàn trong đầu tư thì loại
hình đầu tư xuống giá hay đầu cơ sẽ là không phù hợp. Chính vì vậy, chính
sách phát triển là một yếu tố cần xem xét đầu tiên khi nói đến hoạt động tự
doanh của CTCK.
+ Quy mô vốn đầu tư
Đây là yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động tự doanh của CTCK.
Vốn là nhân tố quyết định tới tình hình tự doanh không chỉ là quy mô vốn mà
còn cả cơ cấu vốn, thời hạn vốn và quan trọng hơn đó là cơ chế quản lý vốn.
Đầu tư chứng khoán đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn và dài nên một CTCK
không chủ động được về vốn sẽ gặp rất nhiều rủi ro và đầu tư không hiệu quả.
Mặc dù quy mô vốn đầu tư không tỷ lệ thuận với tỷ suất lợi nhuận đầu tư

song rõ ràng khi vốn đầu tư càng lớn thì càng có nhiều cơ hội để công ty lựa
chọn các phương án đầu tư. Ngoài ra, khi lượng vốn đầu tư lớn cũng góp phần
giúp công ty chiếm được ưu thế trên thị trường ví dụ như với cùng một loại
chứng khoán, nhà đầu tư nào nắm giữ với tỷ lệ lớn hơn sẽ có tác động chi
phối tới giá chứng khoán đó nhiều hơn, tránh bị rơi vào thế bị động khi có nhà
đầu tư khác muốn làm biến động giá để hưởng lợi.
23
+ Quy trình tự doanh:
Quy trình tự doanh là một quy trình trong đó có phân bổ trách nhiệm,
công việc, quyền hạn và lợi ích của từng cán bộ thực hiện kinh doanh, đầu tư
chứng khoán và những đối tượng khác có liên quan, đồng thời quy định chính
sách giám sát kiểm tra hoạt động đầu tư của công ty. Quy trình tự doanh có
ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động đầu tư của CTCK. Thật vậy, nếu
quy trình tự doanh không chặt chẽ, logic, bị trùng lắp thì rất dễ dẫn tới sự lãng
phí nguồn nhân lực, thời gian và tiền bạc. Đặc biệt trong quy trình tự doanh
không quy định rõ ràng những loại cổ phiếu thuộc thẩm quyền giao dịch của
cán bộ tự doanh nào thì có thể sẽ dẫn đến việc một người thực hiện mua
chứng khoán và người kia lại mua chứng khoán, và gây khó khắn trong công
tác kiểm soát rủi ro. Do đó, khi công ty xây dựng được một quy trình đầu tư
chứng khoán chặt chẽ, khoa học thì từng cán bộ tự doanh cũng như các cấp ra
quyết định mới nhận thức được vai trò, trách nhiệm của mình, từ đó mới có
thể nâng cao được hiệu quả của hoạt động tự doanh.
Quy trình phân tích thuộc quy trình tự doanh là một yếu tố rất quan
trọng ảnh hưởng đến hoạt động tự doanh chứng khoán của CTCK. Đây là các
bước được sắp xếp một cách logic giúp các cán bộ tự doanh đưa ra quyết định
đầu tư, mua hoặc bán loại cổ phiếu nào đó một cách thích hợp nhất. Nếu
không có quy trình phân tích cụ thể mà chỉ dựa vào ý chủ quan của cán bộ tự
doanh thì hoạt động kinh doanh sẽ kém hiệu quả, nghiêm trọng hơn có thể
gây ra những tổn thất cho CTCK
+ Yếu tố nhân lực

Đây là một nhân tố không thể thiếu và được coi là có vấn đề có ý nghĩa
sống còn của các CTCK nói chung và hoạt động tự doanh nói riêng. Đối với
mảng tự doanh của CTCK, yếu tố nhân lực được nói đến ở đây bao gồm khả
năng, trình độ chuyên môn của các nhân viên thực hiện tự doanh và cơ cấu tổ
chức hoạt động, phân bổ công việc tại phòng tự doanh của CTCK. Người cán
bộ tự doanh không chỉ có những kiến thức về tài chính, có khả năng phân tích
24
và có kinh nghiệm thực tế trên thị trường mà còn phải là người có khả năng
chịu được áp lực trong công việc và có đạo đức nghề nghiệp. Nếu một nhân
viên tự doanh không có khả năng tìm kiếm những cơ hội đầu tư, không có khả
năng quyết định thời điểm giao dịch thì khó có thể mang về lợi nhuận cho
công ty thậm chí có thể gây thua lỗ. Tuy nhiên, nếu có khả năng song cán bộ
tự doanh không chịu đựng được những áp lực trong công việc thì sẽ rất khó
khăn để họ có thể hoàn thành tốt công việc.
Hoạt động tự doanh là một hoạt động khó khăn và phức tạp, hoạt động
này có thể mang lại cho CTCK những khoản lợi nhuận lớn nhưng cũng có thể
gây ra những tổn thất không nhỏ. Do vậy, để thực hiện nghiệp vụ này thành
công, ngoài đội ngũ nhân viên phân tích tích thị trường có nghiệp vụ giỏi và
nhanh nhậy với những biến động của thị trường, CTCK còn phải có một chế
độ phân cấp quản lý và đưa ra những quyết định đầu tư hợp lý, trong đó việc
xây dựng chế độ phân cấp quản lý là một vấn đề then chốt của CTCK. Một cơ
cấu tổ chức tốt với tính chuyên môn hóa cao sẽ tạo ra động lực thúc đẩy các
nhân viên thực hiện hiệu quả công việc.
+ Cơ sở vật chất kỹ thuật, thông tin
Trong thời đại thông tin cao như hiện nay thì hoạt động tự doanh chứng
khoán rất cần có môi trường làm việc tốt với phương tiện và công cụ có tính
kỹ thuật cao. Ở Việt Nam hiện nay, trong khi cơ sở vật chất còn thiếu thốn
nhất là những phương tiện có kỹ thuật cao, thì đây là vấn đề cần được quan
tâm và đầu tư không những đối với CTCK mà còn đối với cả TTCK. Việc
thiếu phương tiện kỹ thuật có thể sẽ làm cho thông tin đến chậm, quản lý rủi

ro khó khăn do đó sẽ làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty trong quá
trình kinh doanh chứng khoán.
+ Sự phát triển của các hoạt động khác
Trong CTCK, các hoạt động có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Khi
CTCK có hoạt động môi giới phát triển được sự tín nhiệm của khách hàng sẽ
dễ dàng hơn cho cán bộ tự doanh thu thập thông tin để phân tích, đánh giá thị
25

×