Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

tác động của hành lang kinh tế bắc – nam trong hợp tác kinh tế tiểu vùng sông mekong mở rộng tới thương mại việt nam – trung quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 93 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
XNK Xuất nhập khẩu
XK Xuất khẩu
NK Nhập khẩu
TMQT Thương mại quốc tế
ADB Ngân hàng phát triển châu Á (Asian Development Bank )
GMS Tiểu vùng sông Mekong mở rộng (Greater Mekong Subregion)
EHP Chương trình thu hoạch sớm trong khuôn khổ ACFTA
ACFTA Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Association of South Asian
Nations)
NDT Nhân dân tệ
VNĐ Việt Nam đồng
USD Đồng Đôla Mỹ
CSHT Cơ sở hạ tầng
KTXH Kinh tế xã hội
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có nhiều điểm tương đồng
về văn hóa, kinh tế, chính trị và xã hội. Quan hệ về chính trị - ngoại giao, kinh tế -
thương mại và giao lưu văn hoá giữa hai nước đã có từ lâu đời và đã trở thành mối
quan hệ truyền thống bền vững. Tuy nhiên, qua các thời kỳ lịch sử cũng có những
biến động về chính trị - xã hội làm ảnh hưởng tới quan hệ kinh tế thương mại giữa
hai nước nhưng chưa bao giờ làm mất đi quan hệ kinh tế đó, trái lại hoạt động kinh
tế, thương mại giữa hai nước ngày càng có điều kiện thuận lợi để phát triển, phù
hợp với xu thế hoà bình, ổn định và phát triển trong khu vực và trên thế giới. Từ khi
bình thường hóa quan hệ năm 1991 đến nay, quan hệ kinh tế chính trị của hai nước


phát triển nhanh chóng và đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Hiện nay, Trung
Quốc đã trở thành bạn hàng thương mại hàng đầu của Việt Nam.
Hoạt động biên mậu của hai nước do có nhiều thuận lợi về địa lý cũng đã
hình thành và phát triển từ rất lâu trong lịch sử quan hệ kinh tế - thương mại của hai
nước. Sự phát triển quan hệ thương mại Việt – Trung nói chung và quan hệ biên
mậu nói riêng phù hợp với lợi ích của hai nước, phù hợp với xu hướng của thời đại
và xu hướng tăng cường hợp tác trong khu vực. Có thể nói đẩy mạnh quan hệ
thương mại qua biên giới Việt - Trung đã đáp ứng nguyện vọng của nhân dân hai
nước, góp phần làm tăng thu ngân sách, nâng cao đời sống nhân dân, làm thay đổi
bộ mặt KTXH và văn hoá của nhân dân hai bên vùng biên giới. Mặc dù trong thời
gian qua hoạt động kinh tế thương mại biên giới Việt - Trung đã mang lại những
thành công to lớn, đã phát huy được tiềm năng, thế mạnh của kinh tế cửa khẩu biên
giới, góp phần vào công cuộc CNH – HĐH của mỗi nước, song bên cạnh những
thành tựu đã đạt được vẫn còn không ít những hạn chế, tồn tại cần khắc phục. Việc
xây dựng hành lang kinh tế Bắc – Nam trong phạm vi hai nước Việt Nam – Trung
Quốc đã có tác động to lớn đến quan hệ thương mại của hai nước theo cả chiều
hướng tích cực và tiêu cực. Để đẩy mạnh hoạt động thương mại trên khu vực biên
giới này, trong những năm qua, cả hai nước đã có nhiều cải cách trong chính sách
thương mại, cũng như đẩy mạnh hợp tác song phương và đa phương trong khuôn
khổ hợp tác kinh tế Tiểu vùng sông Mekong mở rộng và ASEAN – Trung Quốc.
Ý tưởng hành lang kinh tế Bắc Nam được Ngân hàng phát triển châu Á
(ADB) đưa ra trong khuôn khổ hợp tác Tiểu vùng sông Mekong mở rộng (GMS)
cùng với hai hành lang kinh tế khác nhằm mục đích tạo ra mối liên kết phát triển,
đẩy mạnh hợp tác kinh tế thương mại giữa các nước trong khu vực GMS. Đến tháng
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
5/2004, ý tưởng hợp tác “hai hành lang, một vành đai kinh tế” là sáng kiến của Thủ
tướng Việt Nam nêu lên trong chuyến thăm hữu nghị chính thức Trung Quốc và
nhận được sự đồng tình của Thủ tướng Trung Quốc, trong đó hai hành lang kinh tế

này trùng với hai nhánh của hành lang kinh tế Bắc - Nam (GMS). Mục đích chủ yếu
của hai hành lang kinh tế Việt – Trung này là thúc đẩy hợp tác giữa các tỉnh biên
giới miền Bắc Việt Nam với các tỉnh Tây Nam Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực:
kinh tế, thương mại, đầu tư, văn hóa, du lịch…
Nhận thức được vai trò to lớn và tính cần thiết của việc đẩy mạnh hợp tác
biên mậu giữa hai nước thông qua sự phát triển của các hành lang kinh tế trong quá
trình phát triển kinh tế xã hội của hai nước nên em đã chọn đề tài nghiên cứu “Tác
động của hành lang kinh tế Bắc – Nam trong Hợp tác kinh tế Tiểu vùng sông
Mekong mở rộng tới thương mại Việt Nam – Trung Quốc” nhằm đánh giá những
tác động của hai hành lang kinh tế Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng và
Nam Ninh – Lạng Sơn – Hà Nội – Hải Phòng, nằm trong khuôn khổ hợp tác GMS
và hợp tác “hai hành lang, một vành đai kinh tế” Việt – Trung, tới quan hệ thương
mại Việt Nam – Trung Quốc trên cả hai mặt thành tựu và hạn chế, để đưa ra một số
khuyến nghị nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế thương mại trên khu vực hai
hành lang kinh tế này.
Nội dung của đề tài nghiên cứu bao gồm ba chương:
Chương I: Cơ sở lý luận để đánh giá tác động của hành lang kinh tế đến
thương mại quốc tế.
Chương II: Đánh giá tác động của hành lang kinh tế Bắc – Nam trong
GMS đến thương mại Việt Nam – Trung Quốc.
Chương III: Các khuyến nghị về chính sách nhằm thúc đẩy thương mại
quốc tế trong hành lang kinh tế Bắc Nam.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của PGS.TS Nguyễn
Ngọc Sơn và các cán bộ nghiên cứu trong Ban Các vấn đề quốc tế, Viện Chiến lược
phát triển, Bộ Kế hoạch & Đầu tư đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài nghiên cứu này.
Do thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên đề tài nghiên cứu không tránh khỏi những
thiếu sót và hạn chế. Em rất mong PGS.TS Nguyễn Ngọc Sơn và các anh chị trong
Ban đóng góp ý kiến để em tiếp tục hoàn thành đề tài nghiên cứu này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên

Mai Thị Minh Nguyệt
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỂ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA
HÀNH LANG KINH TẾ ĐẾN THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ.
I. Cơ sở lý luận về hành lang kinh tế
1. Khái niệm về hành lang kinh tế
Hành lang kinh tế không phải là một khái niệm mới trên thế giới. Trước khi
ADB đưa ra khái niệm này như một sáng kiến để thúc đẩy hợp tác kinh tế ở Tiểu
vùng sông Mekong mở rộng, trên thế giới đã biết đến nhiều hành lang kinh tế ở Mỹ,
châu Âu, châu Phi… như là một tiếp cận phát triển ở những khu vực địa lý liền kề,
lấy các trục tuyến giao thông làm cở sở để kết nối các vùng nhằm xây dựng các
khuôn khổ hợp tác về phát triển kinh tế - xã hội.
Ví dụ: theo hệ thống phát triển đường cao tốc Appalachian ở West Virgina
(Mỹ) người ta xây dựng 26 hành lang kinh tế nhằm cải thiện vị trí địa lý của khu
vực Appalachian. Hoặc hành lang kinh tế Tây Bắc Canada lấy đường cao tốc
Yellowhead 16 làm xương sống nối bốn tỉnh miền Tây Bắc Canada với Thái Bình
Dương nhằm phát huy tối đa lợi ích kinh tế của tuyến đường trục này, hành lang
kinh tế này đã tạo ra bước ngoặt phát triển cho những khu vực nằm trong hành lang
lang…
Hành lang kinh tế là một không gian kinh tế có giới hạn về chiều dài và
chiều rộng, liên vùng lãnh thổ hoặc liên quốc gia, dựa trên việc thành lập một hoặc
nhiều tuyến giao thông kết hợp với những chính sách kinh tế nhất định để thúc đẩy
phát triển kinh tế trên toàn không gian đó.
Hành lang kinh tế thường được thành lập để đẩy mạnh sự hội nhập về kinh tế
giữa những vùng kém phát triển hơn và thường là vùng sâu vùng xa với những vùng
phát triển hơn và thường là vùng duyên hải. Một bên muốn tìm đường ra biển, một
bên muốn tìm đường tiếp cận trung tâm. Bản thân từ "hành lang" trong quy hoạch
giao thông và quy hoạch vùng lãnh thổ có nghĩa là tuyến giao thông kết nối một

vùng sâu trong nội địa với cảng biển trong nước hoặc nước khác.
Hành lang kinh tế là một tuyến nối liền các vùng lãnh thổ của một hoặc
nhiều quốc gia nhằm mục đích liên kết, hỗ trợ lẫn nhau để khai thác có hiệu quả lợi
thế so sánh của các khu vực địa lý – kinh tế nằm trên cùng một dải theo trục giao
thông thuận lợi nhất đối với sự lưu thông hàng hóa và liên kết kinh tế giữa các vùng
bên trong, cũng như các vùng cận kề với hành lang.
Tuyến liên kết này được hình thành trên cơ sở kết cấu hạ tầng đa dạng có khả
năng tạo ra sự phát triển của nhiều ngành kinh tế, làm thay đổi căn bản diện mạo
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
của một vùng nhất định thuộc một hoặc nhiều quốc gia mà hành lang kinh tế đi qua,
và góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đó.
Trên thực tế, thuật ngữ “hành lang kinh tế” được dùng chủ yếu để chỉ một
khu vực rộng lớn trải dài hai bên một tuyến đường giao thông huyết mạnh đã có
hoặc chuẩn bị được xây dựng. Tuyến đường trục này cho phép giao thông thuận
tiện đến các điểm đầu, cuối và bên trong hành lang phát triển đó, có vai trò đặc biệt
quan trọng để liên kết toàn khu vực và thúc đẩy phát triển kinh tế dọc theo hành
lang này.
Để hiểu rõ hơn khái niệm hành lang kinh tế chúng ta cần hiểu thêm về các cơ
chế hợp tác khu vực. Có hai cơ chế hợp tác kinh tế khu vực chủ yếu: chính thức và
không chính thức.
Cơ chế chính thức bao gồm các hình thức như Khu vực mậu dịch tự do
(FTA), Liên minh thuế quan (kiểu liên minh Nga - Belarus ), Thị trường chung
(kiểu EU).
Cơ chế phi chính thức gồm các hình thức như Tam giác phát triển, Khu vực
tự do xuyên quốc gia, Hành lang kinh tế. Trong đó cơ chế không chính thức có một
số đặc thù như chỉ bao gồm các vùng (địa phương) thuộc các nước khác nhau chứ
không bao gồm thực thể quốc gia; các thành viên duy trì quan hệ thương mại và đầu
tư với thị trường bên ngoài khu vực; không có những chính sách chung đồng nhất,

nhưng gián tiếp cắt giảm các biện pháp thuế quan và phi thuế quan tạo điều kiện
thuận lợi cho sự tự do hoá thương mại, đầu tư, giao thông, nhập cư; thúc đẩy sự
phát triển tại khu vực biên giới của các nước thành viên
Như vậy, hành lang kinh tế là một dạng của cơ chế hợp tác khu vực phi
chính thức, nó bao gồm các vùng, địa phương thuộc các nước khác nhau trong cùng
một khu vực địa lý. Các thành viên trong hành lang sử dụng các chính sách thương
mại và đầu tư để thúc đẩy phát triển tại khu vực “hành lang” của mình.
2. Đặc điểm của hành lang kinh tế
Hành lang kinh tế ngoài những đặc điểm tương tự với các hình thức hợp tác
kinh tế phi chính thức khác còn có một số điểm khác biệt sau:
Thứ nhất, hành lang là một khu vực địa lý xác định và thường được hình
thành dựa trên cơ sở một tuyến động mạch giao thông liên vùng sẵn có.
Thứ hai, hành lang kinh tế nhấn mạnh các sáng kiến song phương hơn là các
sáng kiến đa phương, tập trung vào các nút chiến lược đặc biệt là tại biên giới giữa
hai nước.
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Thứ ba, hành lang kinh tế đòi hỏi phải có sự quy hoạch không gian và vật lý
cụ thể trên khu vực các hành lang và vùng lân cận, để tập trung phát triển hạ tầng và
đạt được những hiệu quả thiết thực nhất.
3. Quá trình phát triển của các hành lang kinh tế
- Hành lang giao thông: Là sự hợp tác trong lĩnh vực giao thông vận tải, tập
trung vào phát triển các tuyến giao thông ưu tiên, có ý nghĩa quan trọng để liên kết
các vùng hoặc các khu vực với nhau và đẩy mạnh liên kết giao thông vận tải tới các
trung tâm đông dân, khu du lịch và thị trường. Sự hợp tác này sẽ thúc đẩy giao
thương, du lịch và đầu tư
Ví dụ: Trong hành lang kinh tế Bắc – Nam của GMS có 3 tuyến hành lang
vận tải được đầu tư xây dựng là: tuyến Côn Minh tới Bangkok qua Lào hoặc
Myanmar; Côn Minh tới Hà Nội – Hải Phòng; Nam Ninh tới Hà Nội. Hay như dự

án giao thông quan trọng trong hành lang kinh tế Đông Tây là tuyến đưởng thẳng và
liên tục, duy nhất giữa Ấn Độ Dương với Biển Đông…
Các dự án giao thông cũng bao gồm cả nâng cấp hệ thống giao thông đường
thủy nội địa, cảng biển và mạng lưới đường sắt. Nhờ có các hành lang giao thông
này đã cắt giảm chi phí vận tải và thời gian đi lại. Đồng thời hành lang giao thông
cũng tạo ra mối liên kết giữa các vùng kinh tế với nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho
sự hợp tác phát triển kinh tế.
- Hành lang giao thông đa phương thức: Vận tải đa phương thức
(Multimodal transport) quốc tế hay còn gọi là vận tải liên hợp (Conbined transport)
là phương thức vận tải hàng hóa bằng ít nhất hai phương thức vận tải khác nhau trở
lên, trên cơ sở một hợp đồng vận tải đa phương thức từ một điểm ở một nước, tới
một điểm chỉ định ở một nước khác để giao hàng. Hiện nay, vận tải đa phương thức
là phương thức vận tải đang được phát triển mạnh trên thế giới có tác dụng thúc đẩy
sự phát triển buôn bán quốc tế, đáp ứng được yêu cầu của phương thức giao hàng
"từ kho người bán đến kho của người mua".
Ở Việt nam hàng hoá được vận chuyển theo hình thức vận tải đa phương
thức là các loại hàng được đóng trong container, chủ yếu là những mặt hàng như
quần áo may sẵn, hàng nông sản, hàng đông lạnh và một số mặt hàng tiêu dùng
khác, còn hàng hoá NK là các nguyên liệu gia công như: vải, sợi, len, dạ hay các
máy móc thiết bị
Hành lang giao thông đa phương thức là dạng hành lang liên kết giữa các
vùng hoặc khu vực thông qua sự hội nhập các phương tiện vận tải khác nhau.
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Hành lang logistics: Hành lang logistics (hay hành lang hậu cần) không
chỉ liên kết giữa các vùng, khu vực, mà còn phối hợp hài hòa khung thể chế của
hành lang để thuận tiện hóa các dòng trao đổi hàng hóa và con người, thông tin
trong cả vùng.
- Hành lang kinh tế: Như đã nói ở trên, một trong những đặc điểm hay điều

kiện quan trọng để hình thành nên hành lang kinh tế, đó là phải trục, tuyến giao
thông huyết mạch, quan trọng, liên kết các vùng. Vì vậy, các hành lang kinh tế
thường được hình thành trên cơ sở các hành lang giao thông, hoặc phát triển hành
lang giao thông sẽ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của việc xây dựng, hình
thành và phát triển các hành lang kinh tế. Sự liên kết về tự nhiên và các tiện ích hậu
cần là điều kiện tiên quyết cho phát triển hành lang kinh tế.
“Hành lang kinh tế” muốn phát triển đòi hỏi phải có CSHT kết hợp với các
cơ hội kinh tế. Các cơ hội đó là giao thông và đầu tư, cũng như các nỗ lực của chính
quyền để giải quyết các tác động xã hội hay các tác động khác nảy sinh từ tính kết
nối được tăng cường trên tuyến hành lang.
Mục tiêu đầu tiên cần được chú trọng để phát triển hành lang kinh tế đó là
phát triển một hệ thống giao thông vận tải cho phép giao thương hàng hóa và người
dân đi lại trong vùng mà không tốn kém hay bị trì hoãn. Đổi lại, việc nâng cấp
mạng lưới giao thông sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển vùng.
Do đó, giúp xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế.
II. Thương mại quốc tế và các tiêu chí đánh giá
1. Khái niệm về thương mại quốc tế
1.1. Khái niệm thương mại quốc tế.
Thương

mại

quốc

tế (TMQT)

thường

được


hiểu



sự

trao

đổi

hàng

hoá


dịch

vụ qua

biên

giới

giữa

các

quốc

gia hoặc mua bán tại chỗ với người nước

ngoài.

Theo

nghĩa

rộng

hơn, TMQT bao

gồm

sự

trao

đổi

hàng

hoá,

dịch

vụ


các

yếu


tố

sản

xuất

qua

biên

giới giữa

các

quốc

gia.

Tổ

chức

thương

mại

thế
giới


(WTO)

xem

xét TMQT

bao

gồm

thương

mại

hàng

hoá,

thương

mại

dịch
vụ

và thương

mại

quyền


sở

hữu

trí

tuệ. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này,
em chỉ xem xét TMQT dưới góc độ là thương mại hàng hóa hay cụ thể là hoạt động
XNK hàng hóa.
1.2. Hàng hóa trong thương mại quốc tế.
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Hàng hóa trong thương mại quốc tế có thể chia thành 3 loại:
1.2.1. Sản phẩm hàng hóa hữu hình
Sản phẩm hàng hóa hữu hình trong TMQT bao gồm những loại hàng hóa như
nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, lương thực thực phẩm, hàng hóa tiêu dùng… Đây là
bộ phận chủ yếu và giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Hoạt động mua bán các loại hàng hóa này được gọi là thương mại hàng hóa.
1.2.2. Sản phẩm hàng hóa vô hình
Sản phẩm hàng hóa vô hình bao gồm các loại sau: các bí quyết công nghệ,
bằng sáng chế phát minh, phần mềm máy tính, các bảng thiết kế kỹ thuật, các dịch
vụ lắp ráp thiết bị máy móc, dịch vụ du lịch… Đây là bộ phận có tỷ trọng ngày càng
gia tăng, phù hợp với sự bùng nổ của cách mạng khoa học kỹ thuật và việc phát
triển các ngành dịch vụ trong nền kinh tế. Hoạt động mua bán các đối tượng này
được gọi là thương mại dịch vụ.
1.2.3. Gia công quốc tế
Gia công quốc tế là hình thức cần thiết trong điều kiện phát triển của phân
công lao động quốc tế và do sự khác biệt về điều kiện tái sản xuất giữa các quốc

gia. Có 2 loại hình gia công chủ yếu:
Thứ nhất: Gia công thuê cho nước ngoài. Khi trình độ phát triển của một
quốc gia còn thấp, thiếu vốn, công nghệ, thiếu thị trường thì các doanh nghiệp
thường nhận gia công cho nước ngoài.
Thứ hai: Thuê nước ngoài gia công. Khi quốc gia đã đạt tới một trình độ phát
triển nhất định thì sẽ áp dụng hình thức này.
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
2. Vai trò của thương mại quốc tế đối với sự phát triển kinh tế
Một trong những đặc trưng cơ bản của sự phát triển kinh tế thế giới hiện nay
là quá trình hội nhập mạnh mẽ kinh tế quốc tế. Cùng với quá trình này, hoạt động
TMQT có vị trí ngày càng quan trọng trong sự phát triển kinh tế của các nước.
Đối với các nước đang phát triển, hoạt động TMQT trở thành nguồn tích lũy
vốn quan trọng trong giai đoạn đầu của sự nghiệp CNH. Thông qua hoạt động
TMQT sẽ làm tăng khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước và mở
rộng các mối quan hệ quốc tế. Hoạt động TMQT tạo điều kiện XK những sản phẩm
có lợi thế so sánh, góp phần cải thiện cán cân thương mại, đáp ứng nhu cầu ngoại tệ
cho việc NK máy móc, thiết bị, nguyên, nhiên, vật liệu phục vụ cho nhu cầu sản
xuất trong nước. Có nhiều nước đang phát triển không đủ điều kiện và khả năng để
sản xuất nhiều loại tư liệu sản xuất, do đó việc NK sản phẩm đã góp phần đáp ứng
yêu cầu sản xuất trong nước. Qua đó tạo điều kiện mở rộng thị trường trong và
ngoài nước, nâng cao khả năng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Hoạt động TMQT thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
CNH. Ở các nước đang phát triển, giá trị nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, lao động
trong nông nghiệp chiếm đại bộ phận, hoạt động dịch vụ nhỏ bé, lạc hậu. Phát triển
TMQT sẽ thúc đẩy các mối liên kết ngược và xuôi giữa các ngành, sự phát triển các
ngành trực tiếp XK đã tác động đến các ngành cung cấp đầu vào, thúc đẩy sự phát
triển của các ngành này. Sau đó khi tích lũy được nâng cao, các sản phẩm thô vốn
sử dụng cho XK, lại trở thành nguyên liệu cung cấp đầu vào cho các ngành công

nghiệp chế biến. Sự phát triển của các ngành này lại thúc đẩy sự phát triển công
nghiệp hàng tiêu dùng và các ngành dịch vụ.
Hoạt động TMQT tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước ngày càng
lớn mạnh, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Việc sản xuất sản phẩm
làm cho các doanh nghiệp phụ thuộc vào thị trường thế giới nhiều hơn so với thị
trường trong nước. Do đó, các doanh nghiệp muốn đứng vững trong cạnh tranh phải
dựa vào tiêu chuẩn quốc tế. Thị trường thế giới rộng lớn cũng tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp phát huy được hiệu quả của sản xuất quy mô lớn. Mặt khác, thông
qua hoạt động TMQT sẽ NK được thiết bị và kỹ thuật tiên tiến, tiếp cận được
phương thức sản xuất hiện đại, phương pháp quản lý khoa học. Những người lao
động, cán bộ kỹ thuật và quản lý có điều kiện để học tập bí quyết công nghệ, nâng
cao kỹ năng sản xuất và trình độ quản lý.
Bên cạnh đó, TMQT còn tạo điều kiện nâng cao khả năng tiêu dùng, tăng
mức sống của dân cư. TMQT cho phép người tiêu dùng có thể được tiêu dùng nhiều
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hàng hóa, dịch vụ hơn, chủng loại phong phú hơn, giá rẻ hơn. Đó là cơ sở để nâng
cao mức sống của dân cư các nước và của thế giới nói chung.
3. Các chính sách thương mại quốc tế thường được áp dụng
3.1. Khái niệm chính sách thương mại quốc tế.
Tự do hóa thương mại giúp cho người tiêu dùng được sử dụng sản phẩm chất
lượng cao, giá rẻ, đồng thời kích thích sản xuất trong nước phát triển theo mô hình
chuyên môn hóa dựa vào sự phân công lao động giữa các quốc gia. Tuy nhiên,
không phải vì vậy mà các quốc gia mở cửa hoàn toàn thị trường. Ngày nay, vì nhiều
lý do khác nhau nên hầu như quốc gia nào cũng đều có những hàng rào bảo hộ mậu
dịch, hay những chính sách TMQT.
Trong các tài liệu tiếng Anh, khái niệm về chính sách TMQT được viết ngắn
gọn là chính sách thương mại (trade policy). Mạng lưới điện toán của nước Anh
định nghĩa chính sách TMQT là “chính sách của chính phủ nhằm kiểm soát hoạt

động ngoại thương”.
Như vậy, “Chính sách TMQT” thường được hiểu là hệ thống các biện pháp
của Chính phủ nhằm điều tiết hoạt động TMQT, để phân phối lại thu nhập và góp
phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Nó là một hệ thống các quan điểm, mục tiêu,
nguyên tắc và các công cụ, biện pháp thích hợp mà Nhà nước sử dụng để điều chỉnh
hoạt động TMQT của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định, phù hợp với định
hướng phát triển KTXH của quốc gia đó. Để thực hiện các mục tiêu của chính sách
TMQT của mỗi quốc gia, người ta sử dụng nhiều công cụ và biện pháp khác nhau,
mang tính kinh tế, tính hành chính, hoặc tính kỹ thuật.
3.2. Hệ thống chính sách thương mại quốc tế
Theo Trung tâm Kinh tế quốc tế của Úc (CIE), hệ thống các chính sách
TMQT có thể được phân chia bao gồm các quy định về thương mại, chính sách
XNK, hệ thống thuế và các chính sách hỗ trợ khác.
Thông thường, chính sách TMQT được hiểu là những quy định của Chính
phủ nhằm điều chỉnh hoạt động TMQT, được thiết lập thông qua việc vận dụng các
công cụ để tác động tới hoạt động XK và NK. Hai công cụ phổ biến của chính sách
TMQT thường được sử dụng là thuế quan và các công cụ phi thuế quan.
3.2.1. Thuế quan.
Thuế quan là thuế đánh vào hàng hóa, dịch vụ mua bán và vận động qua
“biên giới hải quan của một quốc gia hay vùng lãnh thổ hải quan”.
3.2.1.1. Xét theo đối tượng chịu tác động.
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Nếu xem xét dưới góc độ đối tượng chịu tác động thì hệ thống thuế được
xem xét thường bao gồm thuế trực tiếp và thuế gián tiếp. Các vấn đề được xem xét
thường bao gồm thuế NK và thuế XK theo dòng thuế, mức thuế, cơ cấu tính thuế,
thuế theo các ngành, lịch trình cắt giảm thuế theo các chương trình hội nhập…
Thuế quan trực tiếp là thuế đánh vào hàng hoá NK hay XK. Các loại thuế
này bao gồm thuế theo số lượng, thuế giá trị và thuế hỗn hợp.

Thuế gián tiếp tác động tới thương mại như thuế doanh thu, thuế giá trị gia
tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt.
3.2.1.2. Xét theo góc độ thương mại quốc tế.
Nếu xét dưới góc độ TMQT, có thể phân thành thuế NK và thuế XK:
Thuế nhập khẩu là thuế đánh vào hàng hóa NK. Theo đó, người mua trong
nước phải trả cho hàng NK một khoản tiền lớn hơn mức mà người XK ngoại quốc
nhận được.
Thuế xuất khẩu: áp dụng cho hàng hóa XK và làm cho giá cả quốc tế của
hàng hóa bị đánh thuế vượt quá giá cả trong nước, làm hạ thấp tương đối mức giá cả
trong nước của hàng hóa có thể XK xuống so với mức giá cả quốc tế.
Thuế quan với tính chất là hàng rào mậu dịch chính là thuế NK. Ngày nay nhiều
nước đã bỏ thuế XK để tăng tính cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường quốc tế.
Thuế được tính theo nhiều phương pháp khác nhau: có thể là một số tiền cố
định trên mỗi đơn vị hàng hóa XNK; hoặc tính theo tỷ lệ phần trăm trên giá trị hàng
hóa XNK; hoặc cũng có thể kết hợp hai cách trên, tức là thuế qun vừa được tính
theo một tỷ lệ phần trăm so với giá trị hàng hóa, vừa cộng với mức thuế tính theo
một đơn vị hàng hóa.
3.2.2. Công cụ phi thuế quan.
Các quốc gia có thể dùng thuế quan để bảo hộ sản xuất trong nước. Tuy
nhiên, hiện nay, với xu hướng hội nhập KTQT và toàn cầu hóa, vai trò của thuế
quan ngày càng giảm đi. Thay vào đó, các nước sẽ chú trọng hơn việc sử dụng hàng
rào phi thuế quan.
Các hàng rào phi thuế quan bao gồm trợ cấp XK, hạn ngạch NK, hạn chế XK
tự nguyện, các yêu cầu về nội địa hoá, trợ cấp tín dụng xuất khẩu, quy định về mua
sắm của Chính phủ, các hàng rào hành chính, hàng rào về kỹ thuật, khuyến khích
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài XK, khu chế xuất, khu công
nghiệp, các quy định về chống bán phá giá và trợ cấp
Tuy nhiên, do tác động của hội nhập kinh tế quốc tế và kinh tế khu vực, các
quốc gia tham gia nhiều hơn vào các tổ chức mậu dịch tự do nên cũng đang giảm
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A

11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
dần các biện pháp hạn ngạch mà thay vào đó là các quy định về chất lượng hàng
hóa XNK, các hàng rào kỹ thuật được tăng cường hơn.
4. Các loại hình thương mại quốc tế
Xuất khẩu hay xuất cảng, trong lý luận TMQT là việc bán hàng hóa và dịch
vụ cho nước ngoài. XK phụ thuộc vào cầu từ bên ngoài, vào tỷ giá hối đoái.
Mức độ phụ thuộc của một nền kinh tế vào XK được đo bằng tỷ lệ giữa giá
trị NK và tổng thu nhập quốc dân. Đối với những nền kinh tế mà cầu nội địa yếu,
thì XK có ý nghĩa quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế.
Nhập khẩu là việc quốc gia này mua hàng hóa và dịch vụ từ quốc gia khác.
Nói cách khác, đây chính là việc nhà sản xuất nước ngoài cung cấp hàng hóa và
dịch vụ cho người cư trú trong nước. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, trong chuyên đề
này chỉ xét tới hoạt động NK hàng hóa.
NK phụ thuộc vào thu nhập của người cư trú trong nước, vào tỷ giá hối đoái.
Thu nhập của người dân trong nước càng cao, thì nhu cầu của hàng đối với hàng
hóa và dịch vụ NK càng cao. Tỷ giá hối đoái tăng, thì giá hàng NK tính bằng nội tệ
trở nên cao hơn, do đó, nhu cầu NK giảm đi.
Hoạt động TMQT, hay hoạt động XNK nói riêng, có thể được phân chia
thành các hình thức như sau:
4.1. Phân theo hình thức xuất nhập khẩu.
4.1.1. Xuất nhập khẩu trực tiếp
XK (hay NK) trực tiếp là hình thức giao dịch trong đó người bán (nhà XK)
bán hàng trực tiếp cho khách hàng của mình (nhà NK) ở thị trường của nước NK.
Khi doanh nghiệp có đủ khả năng về tài chính, phát triển đủ mạnh để có thể
thành lập 1 tổ chức hay 1 đơn vị bán hàng của riêng mình ở nước ngoài. Khi đó
doanh nghiệp XK hàng hóa có thể kiểm soát trực tiếp, nắm bắt được nhu cầu của thị
trường về số lượng, chất lượng, giá cả, từ đó có thể làm thỏa mãn tốt nhất nhu cầu
của thị trường. Hình thức này mang lại nhiều lợi ích cho cả nước XK (vì chủ động
kiểm soát được thị trường) và cả nước NK (vì người dân nước NK hàng hóa không

bị ép giá qua cao do mua hàng từ bên thứ 3, đồng thời các chính sách dịch vụ đối
với hàng hóa cũng tốt hơn).
Hình thức này đòi hỏi doanh nghiệp XK phải có cán bộ nghiệp vụ kinh
doanh XNK có trình độ cao, am hiểu và có kinh nghiệm kinh doanh quốc tế, đặc
biệt là nghiệp vụ thanh toán quốc tế thông thạo. Tuy nhiên, hình thức này đòi hỏi
phải có chi phí tiếp thị ở nước ngoài cao nên đối với doanh nghiệp có quy mô nhỏ,
ít vốn không nên áp dụng.
4.1.2. Xuất nhập khẩu gián tiếp
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
XNK gián tiếp là hình thức bán hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp ra thị
trường nước ngoài thông qua trung gian (người thứ 3) hay nói cách khác XNK gián
tiếp là hình thức mà nhà sản xuất tiến hành XK sản phẩm của mình ra nước ngoài
thông qua dịch vụ của các tổ chức độc lập đặt tại quốc gia tiếp nhận NK.
Đối với nước XK, hình thức này có ưu điểm là: Giảm chi phí bán hàng, chi
phí tiếp thị. Những người trung gian thường có cơ sở vật chất nhất định, đa phần là
những người bản địa, am hiểu thị trường, pháp luật, tập quán buôn bán địa phương
vì vậy có thể đẩy mạnh được việc kinh doanh, buôn bán và tránh rủi ro, đồng thời
giảm được chi phí đầu tư vào nước NK cho người ủy thác (doanh nghiệp XK hàng
hóa).
Còn đối với người dân nước NK, hàng hóa cũng sẽ được bảo đảm về chất
lượng hơn do người trung gian trước khi NK hàng hóa đã qua một giai đoạn sàng
lọc chất lượng sản phẩm.
Tuy nhiên, hình thức này có nhược điểm là: chủ thể tham gia kinh doanh XK
sẽ mất đi liên hệ với thị trường, lợi nhuận bị chia sẻ. Ngoài ra, bên phía trung gian
thường đưa ra những yêu cầu đòi hỏi bên phía chủ thể XK phải đáp ứng, tạo thế bị
động cho bên XK.
Hình thức này thường được sử dụng khi xâm nhập vào thị trường mới hoặc
khi mặt hàng khó bảo quản như các mặt hàng tươi sống…

4.1.3. Gia công xuất khẩu
Gia công XK là hình thức bên nhận gia công sẽ NK nguyên liệu bán thảnh
phẩm của bên đặt gia công để SX thành phẩm rồi giao lại cho bên gia công và
hưởng phí gia công.
Ở Việt Nam hình thức này chủ yếu diễn ra trong lĩnh vực gia công dệt may,
giày dép. Hình thức này tạo điều kiện cho người lao động có công ăn việc làm, tăng
thêm thu nhập và học hỏi kinh nghiệm sản xuất, tiếp cận với công nghệ sản xuất
mới của nước ngoài. Mặt khác, với hình thức này thị trường tiêu thụ sẵn có vì vậy
nó đem lại lợi ích tương đối lớn, đặc biệt với các nước đang phát triển.
Nhược điểm: tính bị động cao do toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp phụ
thuộc vào bên đặt gia công về thị trường, giá bán, giá đặt gia công, nguyên vật liệu,
mẫu mã…
4.1.4. Buôn bán đối lưu
Là hình thức buôn bán mà trong đó XK kết hợp chặt chẽ với NK, người bán
đồng thời là người mua và lượng hàng hóa trao đổi luôn tương đương với nhau về
giá trị. Mục đích của việc XK ở đây không phải là thu về một lượng ngoại tệ mà
nhằm thu về một lượng hàng hóa cần thiết có giá xấp xỉ lô hàng NK.
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
4.1.5. Tạm nhập tái xuất
Đây là hình thức mà hàng hóa XK đi qua 1 nước trung gian rồi mới đến nước
NK và trong đó nước tái xuất sẽ thu được 1 khoản chênh lệch giữa khoản tiền bỏ ra
để NK và số tiền thu về khi XK.
4.1.6. Xuất khẩu tại chỗ
XK tại chỗ là hình thức bán hàng cho nước ngoài ngay trên lãnh thổ nước mình.
Đây là hình thức XK mới nhưng ngày càng phát triển trong nền kinh tế thị
trường mở cửa. Loại hình này ở Việt Nam chủ yếu diễn ra dưới hình thức bán hàng
cho các khu chế xuất, bán hàng cho khách du lịch tại Việt Nam, bán hàng cho các
đại sứ quán, cơ quan ngoại giao của nước ngoài tại Việt Nam. Hình thức XK này có

đặc điểm là hàng hóa không bắt buộc phải vượt qua biên giới quốc gia mới đến tay
của khách hàng. Ngoài ra, các thủ tục XNK thì đơn giản hơn, chi phí XNK cũng
như rủi ro thấp. Tuy nhiên, thị trường đối với lọai hình này là không lớn, chỉ gồm
những người nước ngoài đi du lịch hoặc làm việc tại nước XK tiêu thụ.
4.2. Theo phương thức xuất nhập khẩu
Nếu xét theo phương thức XNK thì TMQT bao gồm các hình thức sau:
Hình thức thứ nhất là “thương mại chính ngạch”. Thương mại chính ngạch
là hình thức mà các hàng hóa XNK qua biên giới theo giấy phép của Bộ Công
thương. Những hàng hóa XNK phải được thông qua cửa khẩu quốc tế, quốc gia và
phải tuân thủ các thủ tục XNK quốc tế.
Hình thức thứ hai là “thương mại tiểu ngạch”. Đây là hình thức XNK những
hàng hóa XNK theo giấy phép của UBND các tỉnh biên giới
Hình thức thứ ba là “buôn bán của cư dân biên giới”: Là hoạt động trao đổi
của cư dân biên giới, do nhân dân 2 vùng biên thực hiện. Các hàng hóa được trao đổi
thường do họ tự sản xuất ra, đem trao đổi trực tiếp. Hình thức thương mại này nhằm
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân vùng biên. Do điều kiện địa hình không
thuận lợi, chi phí vận chuyển hàng hóa từ dưới xuôi lên cao và khó khăn, họ tiến hành
trao đổi hàng hóa ở những chợ vùng biên với giá cả rẻ hơn và hàng hóa sẵn có hơn.
Đối với hình thức này, khối lượng trao đổi hàng hóa thường không nhiều. Tuy nhiên,
hiện nay hình thức buôn bán này không được kê khai đầy đủ với cơ quan Hải quan
nên đôi khi ảnh hưởng tới việc đánh giá kết quả của hoạt động biên mậu giữa các
quốc gia.
5. Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động thương mại quốc tế
5.1. Kim ngạch xuất, nhập khẩu
Kim ngạch XNK hàng hóa của 1 quốc gia cho biết nước đó đã XNK bao
nhiêu hàng hóa với khối lượng và giá trị bao nhiêu.
5.2. Tốc độ tăng kim ngạch xuất, nhập khẩu
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Tăng trưởng kim ngạch XNK hàng hóa là sự gia tăng về khối lượng và giá trị
hàng hóa được XNK của 1 nước trong 1 khoảng thời gian nhất định. Sự gia tăng
được thể hiện ở quy mô và tốc độ. Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều
hay ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử dụng ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh
sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ.
5.3. Sự cân bằng trong cán cân xuất nhập khẩu (hay cán cân thương mại)
Cán cân thương mại (cán cân trao đổi) là bảng đối chiếu giữa tổng giá trị XK
hàng hóa với tổng NK hàng hóa của 1 nước với 1 nước khác trong 1 thời kỳ xác
định, thường là 1 năm.
Tình trạng của cán cân thương mại (thâm hụt hay thặng dư) thể hiện trạng
thái của nền kinh tế; dữ liệu trên cán cân thương mại có thể được sử dụng để đánh
giá khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế của nước XK. Đối với các nước
đang phát triển trong thời kỳ CNH và mở cửa hội nhập kinh tế, thâm hụt là 1 hiện
tượng khá phổ biến. Tuy nhiên nếu tình trạng này diễn ra thường xuyên và với mức
độ lớn thì sẽ cho thấy sự yếu kém trong điều tiết vĩ mô của Chính phủ, đặc biệt là
yếu kém trong lĩnh vực XK, gây hậu quả đối với nền kinh tế trầm trọng.
5.4. Cơ cấu mặt hàng xuất, nhập khẩu
Thông qua cơ cấu mặt hàng XNK ta cũng có thể đánh giá được hiệu quả hoạt
động XNK của 1 nước.
Khi phần lớn hàng hóa XK là những hàng hóa có hàm lượng công nghệ cao,
áp dụng khoa học hiện đại, những mặt hàng có giá trị cao, khi đó hoạt động XK sẽ
mang lại nguồn thu lớn cho đất nước. Ngược lại, nếu hàng XK là các mặt hàng có
giá trị gia tăng, hàm lượng công nghệ ít thì tăng trưởng XK là rất khó. Bởi vì, các
hàng hóa dưới dạng thô, chỉ sơ chế thường giá trị thấp, cung cầu không ổn định;
hơn nữa nó còn là mầm mống làm cạn kiệt tài nguyên nước XK. Và cũng thông qua
cơ cấu mặt hàng này ta có thể thấy được sự phát triển của quốc gia.
5.5. Hình thức giao dịch
Khi nước tham gia XNK chủ yếu qua hoạt động buôn bán chính ngạch (là
hợp đồng XNK theo giấy phép của Bộ công thương lưu thông qua các cửa khẩu
quốc tế và quốc gia, phải chấp hành đầy đủ các thủ tục theo thông lệ và tập quán

quốc tế) thì sẽ giảm thiểu được những rủi ro trong thương mại, tránh thiệt hại cho
nước mình. Ngược lại, khi nước tham gia XNK chủ yếu thông qua hoạt động hoạt
động buôn bán tiểu ngạch (là hình thức XNK theo giấy phép của UBND các tỉnh
biên giới) thì rủi ro mang lại là lớn, và nó có thể làm giảm đi rất nhiều hiệu quả của
hoạt động XK.
5.6. Thời gian vận chuyển
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Thời gian vận chuyển và chi phí của hoạt động XNK cho biết mức độ nhanh
gọn của các thủ tục hành chính trong hoạt động XNK. Hiện nay, các nước đều đang
cố gắng hoàn thiện, cải cách thủ tục hành chính nhằm giúp các doanh nghiệp XNK
giảm bớt thời gian chờ XNK, cũng như làm giảm chi phí đi kèm (như chi phí lưu
kho, bốc dỡ, vận chuyển, bảo quản hàng hóa…)
III. Tác động của hành lang kinh tế đến thương mại quốc tế
1. Tác động tới việc gia tăng các chính sách khuyến khích thương mại và
hợp tác đầu tư trên khu vực hành lang.
Hành lang kinh tế hình thành đi kèm với nó sẽ là các chính sách nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho sự tự do hóa thương mại, đầu tư, giao thông, nhập cư, thúc
đẩy sự phát triển tại khu vực biên giới của các quốc gia. Vì vậy, khi xây dựng hành
lang kinh tế, Chính phủ các nước liên quan sẽ có những biện pháp, chính sách nhằm
khuyến khích đầu tư và thương mại trên tuyến hành lang như: xây dựng khu kinh tế
cửa khẩu, xây dựng hệ thống dịch vụ hỗ trợ XNK (như ngân hàng, bến bãi, kho
chứa, trạm trung chuyển hàng hóa…), cải cách thủ tục hành chính… Thông qua các
chính sách hỗ trợ này sẽ làm gia tăng hoạt động thương mại và góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế các địa phương dọc tuyến hành lang.
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
2. Tác động đến kim ngạch xuất, nhập khẩu

Vì hành lang kinh tế được xây dựng với các chính sách khuyến khích, thúc
đẩy TMQT đi kèm, do đó các hoạt động thương mại trên khu vực hành lang thường
diễn ra mạnh mẽ hơn so với trước khi xây dựng. Vì vậy, kim ngạch XNK hàng hóa
giữa các quốc gia trên tuyến hành lang thường có xu hướng tăng lên đáng kể.
3. Tác động đến cơ cấu xuất, nhập khẩu
Thông qua các chính sách khuyến khích thương mại và đầu tư của Chính phủ
các nước trên tuyến hành lang kinh tế sẽ thúc đẩy hoạt động ngoại thương của các
nước, tăng thêm hoặc giảm bớt số lượng các mặt hàng XNK, đồng thời cũng làm
thay đổi tỷ trọng trong cơ cấu mặt hàng. Ngoài ra, do có sự phát triển mạnh mẽ
thương mại của tuyến hành lang nên các nước cũng sử dụng nhiều hơn các biện
pháp thương mại phi thuế quan để kiểm soát và bảo vệ thị trường cũng như các
ngành sản xuất trong nước. Đây cũng là nguyên nhân làm thay đổi cơ cấu mặt hàng
XNK.
4. Tác động đến thời gian và chi phí vận chuyển
Một mục đích quan trọng khi xây dựng hành lang kinh tế đó là phát triển một
hệ thống giao thông vận tải cho phép giao thương hàng hóa và người dân đi lại
trong vùng mà không tốn kém hay bị trì hoãn. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ
quan trọng của các bên khi xây dựng tuyến hành lang là xây dựng mới và cải thiện
hệ thống hạ tầng giao thông liên vùng, cũng như các cơ sở kinh tế phục vụ cho hoạt
động thương mại và đầu tư.
Do đó, khi mà giao thông đã thông suốt, các cơ sở phục vụ thương mại được
đầu tư thì sẽ giúp rút ngắn thời gian vận chuyển hàng hóa và con người giữa các
quốc gia, giúp giảm chi phí vận tải tại các địa phương dọc theo tuyến hành lang,
giảm chi phí thương mại do chậm trễ thời gian gây ra, nhờ đó giúp cho việc vận
chuyển hàng hóa và hành khách thuận lợi hơn, đạt hiệu quả cao hơn.
Đồng thời, hành lang kinh tế cũng làm giảm chi phí lưu thông hàng hóa nội
địa và XK thông qua việc hoàn thiện nâng cấp hệ thống hạ tầng theo trục và xung
quanh trục hành lang.
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
17

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA HÀNH LANG KINH
TẾ BẮC NAM TRONG HỢP TÁC KINH TẾ TIỂU VÙNG SÔNG
MEKONG MỞ RỘNG TỚI THƯƠNG MẠI VIỆT NAM –
TRUNG QUỐC
I. Sự hình thành và phát triển của hành lang kinh tế Bắc Nam trong tiểu vùng
sông Mekông mở rộng GMS
1. Tổng quan về tiểu vùng sông Mekông mở rộng và các hành lang kinh
tế trong tiểu vùng sông Mekông mở rộng
1.1. Tổng quan về tiểu vùng sông Mekong mở rộng
Sông Mekong là một trong những con sông lớn trên thế giới, chảy qua nhiều
nước châu Á trước khi đổ ra biển. Sông Mekong tạo ra một tiểu vùng (tiểu vùng
Mekong) gắn kết nhau bởi địa lý, điều kiện tự nhiên, sự đa dạng phong phú về văn
hóa và tiềm năng to lớn về phát triển kinh tế. Tiểu vùng sông Mekong mở rộng
(Greater Mekong Subregion - GMS) là khu vực gồm lãnh thổ của các quốc gia:
Campuchia, Lào, Việt Nam, Myanmar, Thái Lan và 2 tỉnh Vân Nam, Quảng Tây
của Trung Quốc. GMS là khu vực kinh tế tự nhiên gắn kết với nhau bởi Sông Mê
Kông, rộng 2,6 triệu km2 và có dân số hơn 300 triệu người. Sông Mekong đã mang
lại lợi ích và cơ hội to lớn cho hàng triệu người ở mỗi quốc gia trong tiểu vùng.
Vào năm 1992, với sự hỗ trợ từ Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), sáu
nước trong GMS đã khởi động chương trình hợp tác kinh tế tiểu vùng sông Mekong
mở rộng để đẩy mạnh quan hệ kinh tế, dựa trên nền văn hóa và lịch sử chung. Hợp
tác kinh tế GMS được xây dựng dựa trên điểm chung của các nước GMS. Đó là:
Một là, các nước có chung đường biên giới.
Hai là, các nước trong GMS hầu đều có xuất phát KTXH thấp.
Ba là, CSHT KTXH còn kém phát triển.
Bốn là, nền kinh tế các nước còn thiếu vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý
và nguồn nhân lực trình độ cao.
Năm là, thị trường các nước rộng lớn nhưng chưa được khai thác nhiều, còn
nhiều tiềm năng phát triển.

Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Chương trình hợp tác kinh tế GMS khởi đầu rất thận trọng với các dự án hợp
tác mang tính thực tế và định hướng kết quả để tạo dựng niềm tin và sự tin tưởng
lẫn nhau. Chương trình không có hiệp định chính thức hay thể chế chặt chẽ. ADB
đóng vai trò xúc tác và cầu nối trong giai đoạn đầu, còn vai trò điều phối hợp tác
kinh tế GMS do Ban thư ký của chương trình đóng tại trụ sở của ADB tại Manila
đảm nhiệm. Chương trình hợp tác GMS đã góp phần đáng kể trong việc thúc đẩy
lưu chuyển hàng hóa và dịch vụ xuyên biên giới trong vùng GMS và gắn kết tiểu
vùng với các thị trường khác thông qua sự phát triển CSHT và các hiệp định cần có
đối với việc sử dụng hiệu quả CSHT này. Với sự hỗ trợ từ ADB cùng các tổ chức
khác, chương trình GMS đã giúp thực thi các dự án tiểu vùng được ưu tiên cao
trong chín lĩnh vực gồm: năng lượng, giao thông vận tải, phát triển hành lang kinh
tế, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông vận tải và thương mại, viễn thông, du lịch,
phát triển nguồn nhân lực, nông nghiệp, môi trường.
Chiến lược chính của chương trình hợp tác GMS là liên kết các thành viên
trong việc cải thiện CSHT, khắc phục những trở ngại nội địa và đẩy mạnh thương
mại – đầu tư để nhằm thúc đẩy kinh tế của từng nước nói riêng và trên cả khu vực
tiểu vùng nói chung. Chương trình GMS đã xây dựng khung chiến lược hợp tác 10
năm, chiến lược hợp tác ngành và đặc biệt là chiến lược ba mũi nhọn - 3C - để đạt
được tầm nhìn về một tiểu vùng thịnh vượng, hội nhập và đoàn kết. Có thể nói
chiến lược 3C là trụ cột để GMS tiếp tục dựa vào và thúc đẩy GMS thực hiện mục
tiêu của mình trong tương lai. Chiến lược 3C này có nghĩa là:
• C1: Tăng cường tính kết nối trong tiểu vùng thông qua phát triển bền vững
CSHT và hành lang kinh tế xuyên quốc gia;
• C2: Nâng cao tính cạnh tranh thông qua việc hình thành và cam kết thực
hiện các hiệp định hợp tác, tạo điều kiện cho đầu tư – thương mại của tiểu vùng; tạo
điều kiện thuận lợi cho giao thương hàng hóa và đi lại qua biên giới của người dân,
các thị trường hội nhập và quy trình sản xuất, do đó tạo điều kiện dễ dàng cho tiểu

vùng hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.
• C3: Xây dựng tính cộng đồng vững mạnh hơn thông qua các chương trình
giải quyết các vấn đề môi trường và xã hội chung. Từ đó nhằm mục đích phát triển
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
một cộng đồng GMS phồn vinh, thịnh vượng, duy trì tính đa dạng và đặc thù của
đời sống văn hóa từng nước thành viên.
1.2. Các hành lang kinh tế trong tiểu vùng sông Mekong
Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) là tổ chức tài chính quốc tế đi tiên
phong trong việc khởi xướng chương trình hợp tác GMS, đồng thời là nhà tài trợ
chính. Gần 20 năm qua với sự trợ giúp của ADB nhiều chương trình, dự án đầu tư
đã được hoàn thành đóng góp rất đáng kể vào hợp tác phát triển kinh tế, xóa đói
giảm nghèo của các nước trong khu vực.
Lĩnh vực giao thông vận tải là một trong 9 lĩnh vực được ưu tiên trong
chương trình hợp tác này. Với sự đầu tư của ADB, rất nhiều hành lang, tuyến giao
thông đã được xây dựng, đang triển khai hoặc chuẩn bị triển khai. Sau khi hoàn
thành toàn bộ, các tuyến, hành lang giao thông này sẽ tạo ra mạng lưới giao thông
đồng bộ, liên kết giữa các nước trong khu vực.
Chương trình hợp tác kinh tế Tiểu vùng sông Mekong mở rộng đã xây dựng
được 3 hành lang giao thông. Trong đó, Việt Nam cùng với Thái Lan là hai nước đã
tham gia cả vào 3 hành lang này. Đó là, hành lang Đông - Tây, Hành lang Bắc –
Nam từ Côn Minh (Trung Quốc) qua Lào đến Bangkoc (Thái Lan) và Hành lang
phía Nam nối thành phố Hồ Chí Minh – PhnomPenh (Campuchia) – Bangkoc (Thái
Lan). Các tuyến hành lang giao thông này sẽ làm tiền đề cho việc phát triển các
hành lang giao thông đa phương thức, hành lang logistics và cuối cùng là hành lang
kinh tế.
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Hình 2.1: Các hành lang kinh tế trong GMS
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Hiện nay trong tiểu vùng sông Mekong có 3 hành lang kinh tế là:
• Hành lang Kinh tế Đông - Tây (East - West Economic Corridor -
EWEC) là một sáng kiến được nêu ra vào năm 1998 tại Hội nghị Bộ trưởng Tiểu
vùng Sông Mekong Mở rộng lần thứ tám tổ chức tại Manila (Philippines) nhằm
thúc đẩy phát triển và hội nhập kinh tế giữa bốn nước Lào, Myanma, Thái Lan và
Việt Nam. Hành lang này chính thức thông tuyến vào ngày 20 tháng 12 năm 2006,
trở thành hành lang kinh tế đi vào hoạt động sớm nhất trong GMS.
• Hành lang kinh tế Bắc Nam (North South Economic Corridor -
NSEC): gồm ba tuyến trục dọc là Côn Minh tới Bangkok qua Lào hoặc Myanmar,
Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng và Nam Ninh – Lạng Sơn – Hà Nội –
Hải Phòng. Tuyến hành lang này dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2010. Trong số ba
tuyến đường của hành lang kinh tế này thì có tới hai tuyến đi qua Việt Nam.
• Hành lang kinh tế phía Nam (Southern economic corridor - SEC): dự
kiến hoàn thành vào năm 2010 – 2012, gồm ba tuyến đường nối phía Nam của Thái
Lan qua Campuchia với Việt Nam. Khi tuyến hành lang này đi vào hoạt động sẽ là
động lực phát triển kinh tế giữa ba nước Đông Dương, Thái Lan và Myanmar, đặc
biệt là trong vấn đề hợp tác du lịch.
Ban đầu các hành lang kinh tế này vốn là kết quả về hợp tác giao thông vận
tải của Chương trình hợp tác GMS, được gọi là các hành lang giao thông liên kết
tiểu vùng. Sau đó, các hành lang giao thông này được phát triển trở thành hành lang
kinh tế trên cơ sở kết hợp với các cơ hội kinh tế khác, đó là thương mại, đầu tư và
nỗ lực để giải quyết các tác động xã hội cũng như các tác động khác nảy sinh từ tính
kết nối được tăng cường.
Các nước GMS đã lập Diễn đàn Hành lang kinh tế để hỗ trợ những nỗ lực
chuyển đổi các hành lang giao thông GMS sang hành lang kinh tế. Diễn đàn này sẽ
giúp tăng cường hợp tác giữa các khu vực dọc hành lang, giữa các nhóm công tác

theo từng lĩnh vực của GMS và sẽ đóng vai trò là một tổ chức duy nhất tập trung
vào phát triển hành lang kinh tế.
Trong hành lang kinh tế, trục tuyến giao thông là nhân tố quan trọng nhất.
Nghĩa là nói đến hành lang kinh tế trước hết phải nói đến việc đẩy mạnh phát triển
các tuyến giao thông, cả về đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường sông và đường
hàng không. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà khi bàn đến các hành lang kinh tế
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
trong hợp tác Tiểu vùng sông Mekong mở rộng GMS, người ta nhấn mạnh đến phát
triển các hạ tầng cơ sở giao thông.
Ví dụ:
Hành lang kinh tế Đông Tây (East – West economic corridor) kéo dài từ
Mawlamyine – Myawaddy (Myanmar) đi qua Thái Lan, Lào và đến Đà Nẵng (Việt
Nam) đã tập trung phát triển 6 dự án về hạ tầng giao thông. Trong đó ở Việt Nam đã
thực hiện các dự án: Dự án nâng cấp Quốc lộ 9 có tổng chiều dài 83,5km; Dự án
xây dựng hầm đường bộ Hải Vân; Dự án xây dựng cảng Tiên Sa – Đà Nẵng
Cũng tương tự như vậy, hành lang kinh tế phía Nam bắt đầu từ Bangkok
(Thái Lan) đến Vũng Tàu (Việt Nam) được tập trung phát triển các tuyến giao
thông thủy, bộ, hàng không trên trục giao thông xuyên qua 3 nước Thái Lan –
Campuchia – Việt Nam. Nổi bật là các chương trình: Cải tạo đường bộ Bangkoc –
Phnompenh – Hồ Chí Minh – Vũng Tàu (trong đó Dự án đường cao tốc
PhnomPenh – thành phố Hồ Chí Minh, đã hoàn thành vào năm 2005); tuyến đường
ven biển phía Nam; Cải tạo đường bộ Sihanuc Ville (Campuchia) đến Nam Lào;
Phát triển dự án hành lang Đông Tây tại Trung Campuchia.
Ngoài các hoạt động hợp tác trong lĩnh vực giao thông vận tải, Chính phủ
các nước thành viên GMS, đặc biệt là các quốc gia có hành lang kinh tế đi qua còn
hợp tác trên nhiều lĩnh vực khác như: tạo môi trường thuận lợi cho hợp tác kinh tế
thương mại và đầu tư thông qua các Hiệp định thỏa thuận chung (như Khung chiến
lược Hành động về Thương mại và Đầu tư SFA – TFI, Hiệp định về tạo thuận lợi

cho quá cảnh người và hàng hóa qua biên giới – Hiệp định GMS… ), Tổ chức các
hội chợ triển lãm thương mại, du lịch và đầu tư…
2. Sự hình thành và phát triển của hành lang kinh tế Bắc Nam trong GMS
Sự phát triển của hành lang kinh tế Bắc Nam (NSEC), liên kết các đầu mối kinh
tế chính ở miền Bắc và miền Trung GMS, được các Bộ trưởng GMS tại Hội nghị Bộ
trưởng GMS lần thứ 8, tổ chức tại Manila (Philippines) năm 1998 xác định là một trong
ba dự án ưu tiên theo cách tiếp cận hành lang kinh tế, cùng với hành lang kinh tế Đông –
Tây và hành lang kinh tế phía Nam. Sự phát triển của hành lanh kinh tế Bắc Nam sau đó
được coi là một trong các chương trình tiên phong thuộc Khuôn khổ Chiến lược GMS 10
năm, được các nhà lãnh đạo các nước GMS ủng hộ tại Hội nghị Thượng đỉnh GMS lần
thứ nhất tổ chức tại PhnomPenh (Campuchia) năm 2002.
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Hình 2.2: Hành lang kinh tế Bắc – Nam trong GMS
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Hành lang kinh tế Bắc Nam được xác định bao gồm 3 tuyến đường chính dọc
theo trục Bắc – Nam của GMS, kết nối các trung tâm dân cư và kinh tế chính ở
miền Bắc và miền Trung của tiều vùng. Đó là các tuyến: Tuyến đường Côn Minh –
Chiang Rai – Bangkok qua Lào hoặc Myanmar (được gọi là: “ Tiểu hành lang phía
Tây”); Tuyến đường Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội- Hải Phòng (được gọi là “ Tiểu
hành lang trung tâm”); Tuyến đường Nam Ninh – Lạng Sơn – Hà Nội – Hải Phòng
– Quảng Ninh (còn được gọi là “ Tiểu hành lang phía Đông”). Mặc dù hành lang
Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng được coi là có cự ly ngắn nhất và tương
đối có tính khả thi nhưng việc triển khai chúng tỏ ra rất chậm chạp và chưa được
chú trọng.
Đến tháng 5 năm 2004, trong Hội đàm giữa các nhà lãnh đạo Việt Nam và
Trung Quốc, một lần nữa vấn đề hành lang kinh tế Bắc – Nam thuộc GMS lại được

nhắc tới trong ý tưởng “hai hành lang, một vành đai”. Theo ý tưởng này thì hai
nước Việt Nam và Trung Quốc sẽ thúc đẩy giao lưu kinh tế - thương mại theo
hướng hai hành lang và một vành đai kinh tế. “Hai hành lang” này là chỉ hai hành
lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai – Hà Nội - Hải Phòng – Quảng Ninh và Nam Ninh
– Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng – Quảng Ninh. “Một vành đai” chỉ “vành đai kinh
tế Vịnh Bắc Bộ”. Như vậy, về mặt địa lý, “hai hành lang, một vành đai” bao gồm ba
tỉnh phía Nam của Trung Quốc và các tỉnh miền Bắc ven vịnh Bắc Bộ của Việt
Nam. Theo đó, chính phủ hai nước đã thể hiện một quyết tâm chính trị chung là
đồng ý thiết lập hai hành lang kinh tế trên, nhằm hình thành các quan hệ “cầu nối”
trong thúc đẩy hợp tác ASEAN – Trung Quốc. Điểm mới của ý tưởng này thể hiện
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
25

×