Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

sáng kiến kinh nghiệm GIÁO dục bảo vệ tài NGUYÊN DU LỊCH QUA HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM tại một số DI TÍCH, DANH THẮNG ở địa PHƯƠNG CHO học SINH lớp 12 TRÊN địa bàn HUYỆN yên THÀNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.38 MB, 52 trang )

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO NGHỆ AN
Trường THPT Bắc Yên Thành

Đề tài:
GIÁO DỤC BẢO VỆ TÀI NGUYÊN DU LỊCH QUA HOẠT ĐỘNG TRẢI
NGHIỆM TẠI MỘT SỐ DI TÍCH, DANH THẮNG Ở ĐỊA PHƯƠNG CHO
HỌC SINH LỚP 12 TRÊN ĐỊA BÀN HỤN N THÀNH

Mơn: Địa lí
Tác giả: Cung Thị Quỳnh Hoa
Tổ chuyên môn: Khoa học xã hội

Yên Thành - 2022


MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

I. PHẦN MỞ ĐẦU

3

1.1. Lí do chọn đề tài

3

1.2. Mục đích nghiên cứu

4



1.3. Phạm vi nghiên cứu

4

1.4. Nhiệm vụ nghiên cứu

4

1.5. Phương pháp nghiên cứu

4

1.6. Tính mới của đề tài

5

II. NỘI DUNG

6

Chương I. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn

6

1. Lí luận về dạy học gắn với trải nghiệm

6

1.1. Một số khái niệm, thuật ngữ cơ bản


6

1.2. Ý nghĩa của hoạt động trải nghiệm sáng taojtrong việc
học tập Địa lí
2. Cơ sở thực tiễn

9
10

2.1. Một số di tích, danh thắng tiêu biểu của Nghệ An và
huyện Yên Thành

10

2.2. Thực trạng chung về dạy học gắn với trải nghiệm ở mơn
Địa lí

10

2.3. Thực tiễn về dạy học gắn với tham quan trải nghiệm tại
các di tích – danh thắng ở các trường THPT trên địa bàn Yên
Thành

12

Chương II. Cách thức tổ chức hoạt động trải nghiệm tại di
tích, danh thắng trên quê hương Yên Thành, Nghệ An

14


Mối liên hệ giữa các di tích, danh thắng với chương
trình địa lí lớp 12

14

1.

1.1.

Giới thiệu khái quát về các di tích, danh thắng

14

1.2.

Các bài học/nội dung dạy học địa lí có liên quan

22

1.3. Thời gian tiến hành hoạt động trải nghiệm

23
1


2. Cách thức tổ chức hoạt động trải nghiệm tại các di tích,
danh thắng trên quê hương Yên Thành

23


2.1. Cách thức tổ chức hoạt động trải nghiệm

23

2.2. Các nội dung của hoạt động trải nghiệm

26

2. 3. Giáo án thể nghiệm

35

III. Kết luận

45

3.1. Hiệu quả của đề tài

45

3.2. Khả năng nhân rộng

48

3.3. Những kiến nghị

48

2



I. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1.

Lí do chọn đề tài

Hiện nay, hội nhập nền kinh tế quốc tế đang trở thành xu thế tồn cầu địi hỏi
ở mỗi người sự năng động, nhạy bén, kĩ năng sống và vốn kiến thức phong phú.
Xã hội hiện đại ln cần những con người có đủ yếu tố chân – thiện – mỹ, đức và
tài. Đây cũng chính là mục tiêu giáo dục hướng tới, đặc biệt trong thế kỉ XXI - thế
kỉ của tự do hóa, thương mại hóa. Để làm được điều đó, giáo dục phải không
ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng phương pháp đào tạo.
Học từ trải nghiệm thực tế, trải nghiệm sáng tạo là xu hướng, phương pháp
học mới đã thu hút rất nhiều sự quan tâm của những người làm giáo dục. Mơ hình
học tập từ trải nghiệm ngày càng được nhân rộng và thu hút sự tham gia của nhiều
người do tính hiệu quả mà nó đem lại. Học tập trải nghiệm là một quá trình xã hội
bao gồm hoạt động dạy và hoạt động học. Hai hoạt động này được liên hệ bằng
vốn hiểu biết và kinh nghiệm cụ thể của người học, trên cơ sở đó, giáo viên hệ
thống hóa những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, đáp ứng mục tiêu dạy học. Để thực hiện
tốt hoạt động trải nghiệm sáng tạo cần gắn thực tiễn nhà trường với xã hội, hình
thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh đáp ứng những yêu cầu đổi
mới giáo dục theo định hướng mà bộ giáo dục đề ra cũng như đáp ứng kì vọng
của những người dân vào nền giáo dục của đất nước.
Địa lí được coi là "ngành học về thế giới" đưa vào giảng dạy ở các trường
phổ thơng nhằm mục đích trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về khoa
học địa lí, cũng như vận dụng những kiến thức đó vào cuộc sống để biết cách ứng
xử với mơi trường tự nhiên và xã hội xung quanh, đồng thời đáp ứng với yêu cầu
phát triển của đất nước. Vì thế, khi hình thành khái niệm địa lí (nhất là các khái
niệm địa lí chung) khơng có gì tốt bằng việc học sinh được tự mình trải nghiệm và

rút ra khái niệm sẽ làm vấn đề được rõ nét và khắc sâu hơn. Việc học trải nghiệm
giúp tạo hứng thú cho học sinh mà vẫn đảm bảo cung cấp kiến thức theo yêu cầu
của chương trình.
Tổ chức hoạt động dạy – học địa lí gắn với trải nghiệm thực tế cho học sinh
bằng thực hiện hoạt động trải nghiệm sáng tạo các di tích văn hóa, danh thắng,
đặc biệt là các di tích văn hóa lịch sử, danh thắng ở nơi học sinh sinh sống sẽ
khiến cho bài giảng địa lí được sinh động, sẽ giúp học sinh cảm thấy bài học địa
lí gắn bó hơn với cuộc sống ở xung quanh các em, sẽ bồi dưỡng học sinh sự tự
hào với những giá trị văn hóa truyền thống do ông cha để lại, càng thêm yêu quê
hương, yêu đất nước mình hơn cũng như khơi dậy cho học sinh khát khao tìm
hiểu, khám phá và phát huy tiềm năng của quê hương mình.
Huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An là một vùng giàu tiềm năng du lịch. Huyện
Yên Thành có trên 200 di tích – danh thắng đã được lập danh mục quản lí, trong
đó có 23 di tích được cơng nhận là di tích quốc gia, 35 di tích xếp hạng cấp tỉnh,
là huyện có nhiều di tích được cơng nhận nhất tỉnh Nghệ An. Đó là niềm tự hào

3


mà nhân dân và Đảng bộ huyện Yên Thành đang ra sức phát huy để những giá trị
đó mãi mãi trừơng tồn. Tuy nhiên, hầu hết người dân nơi đây chưa thực sự thấy
được giá trị của tiềm năng du lịch địa phương mang lại. Đặc biệt, các em học sinh
– chủ nhân của quê hương, đất nước cần phải hiểu rõ về tài nguyên du lịch ở địa
phương mình để có ý thức, trách nhiệm bảo tồn và phát huy tiềm năng sẵn có, góp
phần phát triển kinh tế nơi mình sinh ra và lớn lên.
Bản thân mỗi giáo viên Địa lí chúng tơi ln trăn trở, muốn góp một phần
nhỏ bé vào việc giáo dục những truyền thống tốt đẹp, giáo dục ý thức và trách
nhiệm giữ gìn và bảo vệ các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh cũng như tạo cho
học sinh niềm đam mê khám phá những giá trị tốt đẹp ngay trên quê hương mình.
Xuất phát từ những lí do trên, đồng thời ý thức được trách nhiệm của bản

thân trong việc nỗ lực tìm hiểu, học tập những định hướng mới trong giáo dục
nhằm nâng cao kiến thức chuyên ngành, góp phần nâng cao hiệu quả trong công
việc giảng dạy tại trường phổ thông nên tôi quyết định chọn đề tài sáng
kiến:“Giáo dục bảo vệ tài nguyên du lịch qua hoạt động trải nghiệm tại một số
di tích, danh thắng ở địa phương cho học sinh lớp 12 trên địa bàn huyện Yên
Thành”.
1.2.

Mục đích nghiên cứu:

Nghiên cứu cách thức tổ chức và các nội dung của loại hình hoạt động trải
nghiệm tại các di tích văn hóa và danh thắng ở địa phương, đó là thực địa và tham
quan. Từ đó khơi dậy hứng thú học tập của học sinh và giáo dục tinh thần, ý thức
bảo vệ tài nguyên du lịch của q hương mình.
Góp phần đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng
lực.
1.3.

Phạm vi nghiên cứu:

Đề tài được tiến hành nghiên cứu tại cơ sở giáo dục THPT(trung học phổ
thông) là trường sở tại và 2 cơ sở trường khác trong huyện, trong lĩnh vực môn
Địa lí.
Đối tượng áp dụng: Giáo dục bảo vệ tài nguyên du lịch qua hoạt động trải
nghiệm thực tế cho học sinh lớp 12 tại một số di tích văn hóa, danh lam thắng
cảnh trên quê hương Yên Thành – trên địa bàn các xã thuộc địa phận trường
đóng và có học sinh đang theo học tại trường.
1.4.

Nhiệm vụ nghiên cứu:


Đề tài tập trung làm rõ một số vấn đề sau:
- Các di tích, danh thắng ở địa phương có liên quan đến chương trình địa lí
THPT

4


- Nghiên cứu và đề xuất một số định hướng giáo dục ý thức bảo vệ tài
nguyên du lịch thông qua hoạt động trải nghiệm thực tế tại các di tích văn hóa,
lịch sử và danh thắng trên địa bàn huyện Yên Thành.
1.5. Phương pháp nghiên cứu:
- Khảo sát, thống kê, phân loại:
Khảo sát các tài liệu hướng dẫn cách thức tổ chức của hai loại hình hoạt
động trải nghiệm đó là thực địa và tham quan nói chung và trong bộ mơn địa lí
nói riêng.
- Phân tích, tổng hợp, quy nạp:
Trên cơ sở phân tích cụ thể mục đích, các bước tiến hành một hoạt động trải
nghiệm, điều kiện cụ thể của từng đối tượng học sinh ở địa phương, người viết lựa
chọn những phương pháp nổi bật, tối ưu, phù hợp với nhu cầu thực tiễn và tâm lí
của các em.
- Thực nghiệm sư phạm:
Sau khi xây dựng đề cương, được sự góp ý, phản biện của đồng môn, chúng
tôi tiến hành thực nghiệm bằng việc áp dụng cách thức tổ chức hoạt động dạy học
gắn với trải nghiệm thực tế tại số di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh
trên quê hương Yên Thành cho học sinh khối 12 tại trường chúng tôi năm học
2018 – 2019. Khi đã thu nhận được những kết quả ban đầu, đến năm học 2019 –
2022, chúng tôi tiếp tục tiến hành thực nghiệm tại trường đồng thời nhờ các đồng
nghiệp nhân rộng mơ hình tại các trường THPT khác trong huyện. Kết quả thực
nghiệm là cơ sở để chúng tơi đánh giá tính hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

này.
1.6.

Tính mới của đề tài

Được thể hiện trước hết ở nội dung và đối tượng để học sinh khám phá, trải
nghiệm: một số di tích văn hóa, danh lam thắng cảnh trên q hương n Thành.
Đó là Đình Sừng thuộc xã Lăng Thành; Nhà thờ Trạng Nguyên Hồ Tơng Thốc
thuộc xã Thọ Thành; Đền Đức Hồng thuộc xã Phúc Thành; núi Tháp Lĩnh – đền
Cả thuộc xã Hậu Thành.
Các nội dung thực hiện hoạt động trải nghiệm mà giáo viên hướng dẫn đều
xuất phát và gắn liền với không gian sống của các em. Ở mỗi khu vực trường đều
có những di tích lịch sử – văn hóa và danh thắng tiêu biểu. Những địa chỉ mà các
em trải nghiệm là những địa chỉ chưa được khai thác hoặc chỉ mới khai thác ở
mức độ cầm chừng. Và với những địa chỉ này, nguồn tư liệu trong sách giáo khoa
chưa hề có và nguồn tài liệu tham khảo cũng khơng có nhiều.
Nội dung dạy học trên lớp và nội dung tiến hành trải nghiệm được diễn ra
trong cùng một khoảng thời gian. Từ đó đảm bảo tính liền mạch giữa kiến thức
địa lí trong sách giáo khoa với kiến thức địa lí địa phương và tính liên hệ thực

5


tiễn. Từ đó tốt lên đặc điểm nổi bật của địa lí vùng miền, nhằm nâng cao tính
giáo dục trong dạy học địa lí.
Sáng kiến chưa được cơng bố ở bất cứ cuộc thi hay tạp chí nào.

II. NỘI DUNG
Chương I: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
1.

1.1.

Lí luận về dạy học gắn với trải nghiệm
Một số khái niệm, thuật ngữ cơ bản

* Trải nghiệm
Từ điển tiếng Việt định nghĩa: Trải có nghĩa là “đã từng qua, từng biết, từng
chịu đựng”, cịn nghiệm có nghĩa là “kinh qua thực tế nhận thấy điều đó đúng”.
Như vậy, trải nghiệm có nghĩa là q trình chủ thể được trực tiếp tham gia hoạt
động và rút ra những kinh nghiệm cho bản thân .
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam “trải nghiệm” được diễn dải theo hai
nghĩa. Trải nghiệm theo nghĩa chung nhất “là bất kì một trạng thái có màu sắc
xúc cảm nào được chủ thể cảm nhận, trải qua, đọng lại thành bộ phận (cùng với
tri thức, ý thức…) trong đời sống tâm lí của từng người”. Theo nghĩa hẹp trải
nghiệm “ là những tín hiệu bên trong, nhờ đó các sự kiện đang diễn ra đối với cá
nhân được ý thức chuyển thành ý kiến cá nhân, góp phần lựa chọn tự giác các
động cơ cần thiết, điều chỉnh hành vi của cá nhân”.
* Sáng tạo
Khái niệm sáng tạo được sử dụng đồng nghĩa với nhiều thuật ngữ khác như:
sự sáng tạo, tư duy hay óc sáng tạo…Các thuật ngữ này đều có liên quan đến một
thuật ngữ gốc Latin “Crear” và mang một nghĩa chung là “sự sản xuất, tạo ra,
sinh ra một cái gì đó mà trước đây chưa hề có, chưa tồn tại”.
Ngồi ra, sáng tạo cũng được hiểu “là tạo ra những giá trị mới về vật chất
hoặc tinh thần. Tìm ra cái mới, cách giải quyết mới, khơng bị gị bó, phụ thuộc
vào cái đã có. Có thể sáng tạo trong bất kì lĩnh vực nào: khoa học, nghệ thuật,
sản xuất – kĩ thuật, kinh tế, chính trị v.v…”
Như vậy, dù quan niệm như thế nào thì sáng tạo chính là việc tạo ra cái mới.
Sáng tạo là tiềm năng có ở mọi người bình thường và được huy động trong từng
hồn cảnh sống cụ thể. Mỗi người khi tạo ra cái mới cho cá nhân, thì sáng tạo đó
được xem xét trên bình diện cá nhân, cịn tạo ra cái mới liên quan đến cả một nền

văn hóa thì sáng tạo đó được xét trên bình diện xã hội.
* Hoạt động giáo dục, hoạt động dạy học và hoạt động trải nghiệm sáng tạo

6


Theo nghĩa rộng hoạt động giáo dục là “những hoạt động có chủ đích, có kế
hoạch hoặc có sự định hướng của nhà giáo dục, được thực hiện thông qua những
cách thức phù hợp để chuyển tải nội dung giáo dục tới người học nhằm thực hiện
mục tiêu giáo dục”. Hoạt động giáo dục này bao gồm: hoạt động dạy học và hoạt
động giáo dục theo nghĩa hẹp.
Hoạt động giáo dục theo nghĩa hẹp được hiểu là những hoạt động có chủ
đích, có kế hoạch, do nhà giáo dục định hướng, thiết kế, tổ chức trong và ngoài
giờ học, trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục theo nghĩa
hẹp, hình thành ý thức, phẩm chất, giá trị sống, hay các năng lực tâm lý xã hội...
Hoạt động dạy học là quá trình người dạy tổ chức và hướng dẫn hoạt động
học của người học nhằm giúp người học lĩnh hội tri thức khoa học, kinh nghiệm
của xã hội lồi người để phát triển trí tuệ và hoàn thiện nhân cách người học.
Như vậy, hoạt động dạy học chủ yếu nhằm phát triển mặt trí tuệ, hoạt động
giáo dục theo nghĩa hẹp chủ yếu nhằm phát triển mặt phẩm chất đạo đức, đời sống
tình cảm. Trong chương trình giáo dục phổ thơng hiện hành, hoạt động giáo dục
(nghĩa hẹp) thực hiện các mục tiêu giáo dục thông qua một loạt các hoạt động như
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động tập thể…
Theo định hướng chương trình giáo dục phổ thơng mới, hoạt động giáo dục
(theo nghĩa rộng) bao gồm hoạt động dạy học và các mục tiêu của hoạt động giáo
dục (nghĩa hẹp) nói trên sẽ được thực hiện chỉ trong một hoạt động có tên gọi là
hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Như vậy, hoạt động trải nghiệm sáng tạo sẽ thực
hiện tất cả các mục tiêu và nhiệm vụ của các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp, hoạt động tập thể,... và thêm vào đó là những mục tiêu và nhiệm vụ giáo dục
của giai đoạn mới. Vậy khái niệm hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo trong

nhà trường phổ thơng có thể được hiểu là “các hoạt động giáo dục thực tiễn được
tiến hành song song với hoạt động dạy học trong nhà trường. Hoạt động trải
nghiệm sáng tạo là một bộ phận của quá trình giáo dục, được tổ chức ngồi giờ
học các mơn văn hóa trên lớp và có mối quan hệ bổ sung, hỗ trợ cho hoạt động
dạy học. Thông qua các hoạt động thực hành, những việc làm cụ thể và các hành
động của học sinh, hoạt động trải nghiệm sáng tạo sẽ khai thác kinh nghiệm của
mỗi cá nhân, tạo cơ hội cho các em vận dụng một cách tích cực những kiến thức
đã học vào thực tế và đưa ra được những sáng kiến của mình, từ đó phát huy và
ni dưỡng tính sáng tạo của mỗi cá nhân của học sinh”.
Từ khái niệm này cho thấy, so với các hoạt động ngoài giờ lên lớp đang được
tiến hành hiện nay trong trường phổ thơng thì hoạt động trải nghiệm sáng tạo sẽ
phong phú hơn cả về nội dung, phương pháp và hình thức hoạt động. Đặc biệt
mỗi hoạt động phải phù hợp với mục tiêu phát triển những phẩm chất, năng lực
nhất định của học sinh.
Hiệp hội “Giáo dục trải nghiệm” quốc tế định nghĩa về học qua trải nghiệm
“là một phạm trù bao hàm nhiều phương pháp trong đó người dạy khuyến khích

7


người học tham gia các trải nghiệm thực tế, sau đó phản ánh, tổng kết lại để tăng
cường hiểu biết, phát triển kĩ năng, định hình các giá trị sống và phát triển các
năng lực bản thân, tiến tới đóng góp tích cực cho cộng đồng và xã hội”
Hoạt động hoc tập trải nghiệm sáng tạo còn được hiểu là “hoạt động giáo
dục, trong đó, từng cá nhân học sinh được trực tiếp hoạt động thực tiễn trong môi
trường nhà trường cũng như mơi trường gia đình và xã hội dưới sự hướng dẫn và
tổ chức của nhà giáo dục, qua đó phát triển tình cảm, đạo đức, phẩm chất nhân
cách, các năng lực…, từ đó tích luỹ kinh nghiệm riêng cũng như phát huy tiềm
năng năng sáng tạo của cá nhân mình”.
Các khái niệm này đều khẳng định vai trị định hướng, hướng dẫn của nhà

giáo dục (khơng phải là hoạt động trải nghiệm tự phát). Nhà giáo dục không tổ
chức, phân công học sinh một cách trực tiếp mà chỉ hỗ trợ, giám sát.
Học sinh được trực tiếp, chủ động tham gia các hoạt động. Phạm vi các chủ
đề hay nội dung hoạt động và kết quả đầu ra là năng lực thực tiễn, phẩm chất và
tiềm năng sáng tạo; và hoạt động là phương thức cơ bản của sự hình thành và phát
triển nhân cách con người.
Tuy vậy, không phải giáo viên nào cũng hướng dẫn học sinh tham gia hoạt
động trải nghiệm thành công. Chúng ta cần phải nắm vững đặc trưng (nét khác
biệt) của một hoạt động trải nghiệm sáng tạo so với những hoạt động dạy học
khác. Đó là việc đặt học sinh trong môi trường học tập đa dạng, học đi đôi với
hành, học từ chính hành động của bản thân, học trong nhà trường gắn liền với giải
quyết các vấn đề thực tiễn đời sống cộng đồng. Trong hoạt động học tập này, các
em vừa là người tham gia,vừa là người kiến thiết, tổ chức hoạt động cho chính
mình bằng chính sự trải nghiệm của bản thân. Nói cách khác, khi đặt trong môi
trường trải nghiệm và sáng tạo, mỗi học sinh sẽ có điều kiện phát huy tính tích
cực, tự chủ của mình. Bởi con người thường bộc lộ tính sáng tạo trong hành vi
của mình thơng qua các hoạt động. Điều này phù hợp với chủ trương đổi mới
chương trình giáo dục và sách giáo khoa theo định hướng phát triển năng lực,
phẩm chất của học sinh hiện nay.
Đặc điểm của hoạt động trải nghiệm là học sinh được học tập trong môi
trường thực tiễn, trực tiếp tham gia các hoạt động để khám phá, chiếm lĩnh kiến
thức. Vì vậy, hoạt động trải nghiệm trong dạy học địa lí được tiến hành ngồi
khơng gian của lớp học có ưu thế và tạo niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
* Tài nguyên du lịch
Theo Luật du lịch năm 2005 của Quốc hội Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam: Tài nguyên du lịch là cơ sở để phát triển ngành du lịch. Đó là cảnh
quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử – văn hố, cơng trình lao động
sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm
đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du
lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch.

8


Theo Pirojnik, 1985: “Tài nguyên du lịch là tổng thệ tự nhiên, văn hoá và
lịch sử cùng các thành phần của chúng trong việc khôi phục và phát trển thể lực
và trí lực của con người, khả năng lao động và sức khoẻ của họ, những tài
nguyên này được sử dụng cho nhu cầu trực tiếp và gián tiếp cho việc sản xuất
dịch vụ du lịch với nhu cầu thời điểm hiện tại hay tương lai và trong điều kiện
kinh tế – kỹ thuật cho phép.”
1.2. Ý nghĩa của hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong học tập địa lí
*Về kiến thức:
+ Cung cấp sự kiện, tạo biểu tượng địa lí một cách chân thực, cụ thể vì các
học sịnh được trực tiếp trải nghiệm. Gắn kiến thức địa lí trong sách vở với thực
tiễn làm cho kiến thức địa lí gần gũi, dễ nhớ, dễ hiểu.
+ Hình thành khái niệm, hiểu được bản chất và những mối liên hệ bên trong
của các hiện tượng địa lí tự nhiên và kinh tế xã hội.
+ Giúp học sinh khắc sâu, nhớ lâu kiến thức địa lí, hình thành các mối liên
hệ giữa điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội.
* Về kĩ năng
+ Tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo góp phần phát triền khả
năng quan sát, tìm tịi suy nghĩ, đặc biệt là khả năng tư duy đến cao độ…
+Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo ln ln gắn liền với thực tiễn
chính vì thế nó nâng cao tính cộng đồng, tập thể, có thể coi đây là hoạt động đời
thường có ý nghĩa vượt ra khỏi phạm vi khơng gian lớp học.
Học sinh có điều kiện nghiên cứu khoa học, làm việc với tài liệu, rèn luyện
một số các kĩ năng, phát triển năng lực cho học sinh: năng lực tự học, năng lực
giao tiếp ứng xử, năng lực hợp tác, năng lực công nghệ thơng tin và truyền thơng.
* Về thái độ
+ Góp phần vào việc giáo dục tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Đó là lịng
u q hương, đất nước và con người, ý thức trách nhiệm trong xây dựng kinh tế

và bảo vệ tổ quốc.
+ Hình thành cho học sinh lịng tự tin, ý chí quyết tâm đạt kết quả cao trong
học tập, lòng trung thực, tinh thần tập thể, ý thức giúp đỡ nhau trong học tập, khắc
phục chủ quan, tự mãn, ỷ lại tạo ra tâm thế động lực tích cực cho người học, cho
học sinh quen với việc làm có tính hệ thống.
+ Hình thành những phẩm chất: sống yêu thương (thể hiện ở sự sẵn sàng
tham gia các hoạt động giữ gìn, bảo vệ đất nước, phát huy truyền thống gia đình
Việt Nam, các giá trị di sản văn hố của q hương, đất nước; tơn trọng các nền

9


văn hoá trên thế giới, yêu thương con người, biết khoan dung và thể hiện yêu
thiên nhiên, cuộc sống), sống tự chủ, sống trách nhiệm…
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Một số di tích, danh thắng tiêu biểu của tỉnh Nghệ An và huyện Yên
Thành
Nghệ An là vùng đất có bề dày lịch sử và giàu truyền thống văn hóa . Nơi
đây nổi lên nhiều di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh nổi bật. Hiện
nay tỉnh Nghệ An có 1.395 di tích, danh thắng đã được kiểm kê, phân cấp quản lí,
trong đó có 375 di tích, danh thắng được xếp hạng gồm 4 di tích Quốc gia đặc
biệt, 137 di tích quốc gia và 235 di tích cấp tỉnh.
Các di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu như đền Cuông ở Diễn Châu, đền thờ
Mai Thúc Loan ở Kim Liên - Nam Đàn, đền Quang Trung ở TP Vinh; Khu di
tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Nam Đàn, nhà cụ Phan Bội Châu ở Nam
Đàn, nhà đồng chí Lê Hồng Phong ở Hưng Nguyên, nhà đồng chí Phan Đăng Lưu
ở Yên Thành,…Về danh lam thắng cảnh có vườn quốc gia Pù Mát, hang Thấm
Ồm, núi Quyết…
Huyện Yên Thành là một trong sáu tuyến du lịch trọng điểm của tỉnh trên cơ
sở tiềm năng và khả năng phát triển du lịch của huyện trước mắt và trong tương

lai. Hiện tại, huyện có hệ thống di tích dày đặc (trong đó có 23 di tích được cơng
nhận là di tích quốc gia, 35 di tích xếp hạng cấp tỉnh), là huyện có nhiều di tích
được cơng nhận nhất tỉnh Nghệ An trong đó có những di tích tiêu biểu như : Đình
Sừng, đền Đức Hồng, nhà thờ Hồ Tơng Thốc, khu lưu niệm Bác Hồ về thăm
Vĩnh Thành, nhà lưu niệm đồng chí Phan Đăng Lưu, chùa Gám, nhà thờ và lèn
đá Bảo Nham...
Về danh thắng có hồ Vệ Vừng, hồ Tăm Hương, rừng lim Hậu Thành và Lăng
Thành...
2.2. Thực trạng chung về dạy học gắn với trải nghiệm ở mơn địa lí
Bộ mơn địa lí ở trường THPT có vai trị quan trọng trong việc cung cấp cho
học sinh những kiến thức cơ bản, khách quan, có hệ thống về tự nhiên, kinh tế, xã
hội thế giới và Việt Nam, góp phần bồi dưỡng lòng yêu nước, hiểu biết về các
hiện tượng tự nhiên và vấn đề kinh tế xã hội, từ đó hình thành ý thức, tư duy phát
triển.
Tuy nhiên, thực trạng học địa lí ở trường phổ thơng hiện nay vẫn cịn nhiều
bất cập. Kiến thức địa lí vẫn mang tính chất sách vở nặng nề nên học sinh không
mấy hứng thú với môn học này. Hầu hết học sinh đều cảm thấy học địa lí khó nhớ
và mau qn. Và đặc biệt, đa số học sinh không hiểu được bản chất của các hiện
tượng tự nhiên, kinh tế - xã hội và cũng không coi trọng mảng kiến thức này với
lí do đây là “mơn phụ”.

10


Những năm gần đây, bộ mơn địa lí ở trường phổ thơng cả nước nói chung và
trên địa bàn tỉnh Nghệ An nói riêng đã có nhiều thay đổi tích cực về nội dung,
phương pháp dạy học. Nhiều phương pháp dạy học mới được giáo viên tiến hành
trong quá trình giảng dạy như: dạy học dự án, thảo luận nhóm, dạy học nêu vấn
đề…đã mang lại kết quả tốt, giúp học sinh có thể lĩnh hội kiến thức một cách tốt
hơn.

Phương pháp dạy học trải nghiệm thực tế tại các di tích văn hóa - lịch sử,
danh thắng tiêu biểu trong dạy học địa lí ở các trường phổ thơng đã và đang được
khá nhiều trường THPT trên cả nước cũng như trên địa bàn tỉnh Nghệ An (chủ
yếu là những trường ở trung tâm) triển khai và cho thấy hiệu quả thực sự nhìn từ
tất cả các góc độ, đặc biệt là từ tinh thần và thái độ học tập của học sinh đối với
mơn địa lí.
Tuy nhiên, để tiến hành hoạt động trải nghiệm thực tế, điều này sẽ liên quan
đến nhiều vấn đề, như về mặt thời gian, điều kiện, kinh phí… Đây cũng chính là lí
do dẫn đến việc tiến hành hoạt động trải nghiệm mặc dầu đã được nhiều trường
phổ thông đã tiến hành, nhưng số lần tiến hành trong năm học và đối tượng học
sinh được tham gia ở các khối lớp còn còn rất hạn chế. Thậm chí nhiều trường
nơng thơn, miền núi, khi điều kiện cịn nhiều khó khăn thì việc tiến hành hoạt
động trải nghiệm, nhất là trải nghiệm tại các di tích lịch sử, các địa danh ở trung
tâm thành phố là cả một vấn đề nếu khơng nói là chưa biết đến lúc nào mới có thể
tiến hành.
Như chúng ta đã biết, hiện nay Nghệ An có 1.395 di tích đã được kiểm kê,
phân cấp quản lý, trong đó có 375 di tích, danh thắng được xếp hạng, gồm 4 di
tích Quốc gia đặc biệt, 137 di tích Quốc gia và 235 di tích cấp tỉnh.
Có thể nói, hệ thống di tích – danh thắng Nghệ An được sinh ra và ni
dưỡng bằng tín ngưỡng, đạo lý và phong tục truyền thống của dân tộc nên có sức
sống, sức lan tỏa lâu bền, mãnh liệt. Di tích danh thắng với mái đình, ngơi đền,
chùa chiền, bến nước… là những ký ức đẹp về quê hương, gắn bó mật thiết với
văn hóa làng xã, văn hóa tâm linh của mỗi người. Đó cũng là nguồn tài ngun vơ
cùng q giá để phát triển du lịch ở địa phương.
Trên cả nước cũng như ở tỉnh Nghệ An có rất nhiều di tích tầm cỡ. Song, ở
từng địa phương, di tích văn hóa có đặc trưng, vị trí quan trọng riêng trong tâm
linh người dân ở từng địa phương. Vì vậy cần phải chú ý, cần phải đưa vào khai
thác trong hoạt động dạy và học để khai thác được một cách tối đa những giá trị
của nó. Ở nhiều địa phương, có rất nhiều những di tích, điểm du lịch mà nguồn tư
liệu trong sách giáo khoa chưa hề có và nguồn tài liệu tham khảo cũng khơng có

nhiều, mặc dầu rất gần gũi với đời sống, sinh hoạt hàng ngày với các em học sinh,
ví dụ như: Những ngơi đình làng, nhà thờ Trạng Nguyên, hay kể cả đền thờ thần,
chùa chiền ở các xã (phường) ,… Đây thực sự là những địa chỉ nếu được đưa vào
khai thác trong dạy – học sẽ mang tính giáo dục rất cao. Nhưng trong thực tế, điều
này chưa thực sự có sự quan tâm thích đáng trong dạy học địa lí. Bởi thực tế cho
11


thấy, có những di tích hay địa danh ngay trên địa bàn mà học sinh đang theo học,
đang sinh sống nhưng bản thân các em chỉ có sự hiểu biết rất ít ỏi, hoặc có nhiều
em khơng biết gì. Thậm chí mới chỉ nghe tên chứ chưa được đến tham quan thực
tế.
Tiến hành hoạt động trải nghiệm tại các di tích văn hóa, địa danh du lịch
ngay chính trên q hương, gắn liền với không gian sinh sống, học tập của học
sinh cũng chính là định hướng học sinh vào tìm hiểu những di sản văn hóa ở địa
phương, sẽ giúp các em cảm thấy bài học địa lí gắn bó hơn với cuộc sống xung
quanh của các em, sẽ bồi dưỡng cho học sinh tình cảm tự hào với những giá trị
văn hóa truyền thống do cha ơng để lại, càng thêm yêu quê hương đất nước mình
hơn và có một cái nhìn rộng mở cho sự phát triển kinh tế của địa phương. Tuy
vậy, vấn đề này chưa được chú ý để khai thác nhiều hoặc chỉ mới khai thác cầm
chừng. Đó chính là thực trạng trong dạy học ở huyện n Thành chúng tơi. Đây
cũng chính là lí do khiến tơi trăn trở và thực hiện đề tài này.
2.3. Thực tiễn về dạy học địa lí gắn với tham quan trải nghiệm tại các di
tích – danh thắng ở các Trường THPT trên địa bàn Yên Thành.
2.3.1.Thuận lợi
Trong quá trình thực hiện phong trào “Xây dựng trường học thân thiên, học
sinh tích cực”, hầu hết các trường THPT đã ln có nhiều hoạt động, như việc tổ
chức nhiều hoạt động đền ơn, đáp nghĩa được đông đảo giáo viên và học sinh
nhiệt tình hưởng ứng. Gần như ở các trường THPT, đều có di tích lịch sử và danh
lam thắng cảnh, và khoảng cách từ nhà trường đến các di tích, danh thắng khơng

xa (trong khoảng từ 1 km đến 5 km) nên việc đi lại khảo sát thực tế, sưu tầm tư
liệu và tổ chức cho học sinh đến chăm sóc cũng như tiến hành hoạt động trải
nghiệm rất thuận lợi.
Khi triển khai dạy học tại các di tích trên địa bàn, thuận lợi nhất đối với nhà
trường là sự ủng hộ nhiệt tình của Đảng ủy và chính quyền, nhân dân các xóm,
các xã trên huyện nhà. Đây là một yếu tố hết sức quan trọng quyết định đến chất
lượng của hoạt động trải nghiệm.
Trong quá trình giảng dạy tại trường, bản thân giáo viên đã được tổ chuyên
môn tổ chức học tập bài bản, khoa học, có chất lượng các nội dung tập huấn
chuyên đề đổi mới phương pháp của Sở GD&ĐT Nghệ An. Các thành viên trong
tổ góp ý, đánh giá giờ dạy thẳng thắn, chân thành, cầu tiến. Đồng nghiệp ln có
những trao đổi bổ ích về chun mơn trực tiếp hoặc trên e-mail, trên trang
Facebook riêng của tổ. Ban chuyên môn của nhà trường cũng đã tổ chức thao
giảng, hội thảo đổi mới phương pháp dạy học.
Không chỉ thế, kể từ năm học 2014 – 2015 đến nay, hoạt động dạy học trải
nghiệm sáng tạo được sở Giáo dục đào tạo Nghệ An chú trọng triển khai. Ở các
trường THPT, hoạt động này được thực hiện rộng rãi ở tất cả các tổ chun mơn
với nhiều hình thức như tổ chức học sinh tham quan, dã ngoại, thành lập các câu
12


lạc bộ như: Câu lạc bộ Tiếng Anh, câu lạc bộ lịch sử, tổ chức các buổi ngoại
khóa,...
Thời gian gần đây, trên địa bàn huyện Yên Thành và ở trường chúng tơi nói
riêng cũng đã có những hoạt động dạy học trải nghiệm sáng tạo như tham quan
các di tích lịch sử cách mạng, nhà máy sản xuất sữa TH True Milk…
Không chỉ thế, trên mạng Internet, nhiều nhà nghiên cứu cũng đã có bài viết
sâu sắc về hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Đó là những tài liệu quý báu để chúng
tôi học hỏi, tham khảo.
Yên Thành là một vùng quê có truyền thống lịch sử lâu đời, gắn liền với quá

trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, là vùng quê giàu truyền thống
văn hóa và giàu tài nguyên du lịch, kể cả tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên
du lịch nhân văn. Trên khắp địa bàn Yên Thành, hầu hết xã nào cũng có di tích,
danh thắng, địa danh tiêu biểu, hầu như trên địa phận các trường học đóng, đều có
tài nguyên du lịch nhân văn, địa điểm thu hút sự quan tâm của nhiều du khách .
Đó là kho tài nguyên phong phú để giáo viên địa lí khai thác trong quá trình giảng
dạy. Đối với các em học sinh, được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất giàu truyền
thống văn hóa, với những địa danh nổi tiếng, tiềm ẩn giá trị du lịch vô cùng lớn
lao các em đang có một điều kiện thuận lợi để khám phá, trải nghiệm vốn địa lí –
văn hóa của q hương, tăng thêm tình u, niềm hứng thú với bộ mơn địa lí, nhất
là để hình thành những năng lực cơ bản cho bản thân.
Các hoạt động thực tiễn này là cơ sở để chúng tôi rút kinh nghiệm, đưa ra
những giải pháp phù hợp với đặc thù đề tài của mình.
2.3.2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi, khi thực hiện đề tài này chúng tơi cũng đã gặp
một số khó khăn mà trước hết là tình trạng học sinh hiện nay trở nên ngại, khơng
chọn mơn địa lí để học, coi là mơn phụ. Những giờ học địa lí vì thế mà nhiều lúc
trở nên khiên cưỡng: học trò uể oải, thụ động, giáo viên độc thoại trên bục giảng.
Giờ học trở nên khô khan. Các em tiếp xúc với những đối tượng, hiện tượng trên
những trang giấy như tiếp xúc với những câu chữ vô hồn.
Mặc dù huyện Yên Thành có nhiều tiềm năng về du lịch, nhiều di tích lịch sử
đã được cơng nhận di tích lịch sử Quốc gia, nhưng việc tuyên truyền về di tích,
danh thắng trong nhân dân và học sinh lại chưa nhiều. Cơ sở hạ tầng chưa được
đầu tư nên đường đi vào nhiều di tích cịn gặp khó khăn.
Thời gian, điều kiện, kinh phí để tổ chức các hoạt động trải nghiệm các di
tích trong năm học rất khó bố trí. Vì thế chúng tôi phải đầu tư thời gian, công sức
để sưu tầm tư liệu, tổ chức tuyên truyền về di tích, danh thắng trong giáo viên và
học sinh, phối hợp với các bộ phận chức năng của nhà trường xây dựng kế hoạch
để tổ chức hoạt động trải nghiệm tại di tích, danh thắng có hiệu quả.


13


Quê lúa Yên Thành là một huyện nửa trung du miền núi, nửa đồng bằng,
kinh tế chủ yếu là nông nghiệp. Những năm qua đời sống của nhân dân đã có
nhiều khởi sắc, các hoạt động giáo dục cũng đã được các bậc phụ huynh chú ý
nhiều hơn nhất là những hoạt động nhằm tăng tính trải nghiệm cho con trẻ. Tuy
vậy đa số học sinh tại cơ sở THPT trên địa bàn n Thành sinh sống trong gia
đình cịn nhiều khó khăn, ngồi giờ học ở trường ít khi các em được tham gia
những hoạt động trải nghiệm khác ở các câu lạc bộ, các trung tâm vui chơi hay
đơn giản là những chuyến tham quan dã ngoại. Các em có thể tiếp thu nhanh
những tri thức từ sách vở nhưng những kĩ năng mềm để xử lí tình huống trong
cuộc sống vẫn cịn thiếu hụt. Đó là chưa kể, nhiều học sinh hiện nay tỏ ra chơi
bời, lêu lổng, sa vào thế giới ảo, xa rời những giá trị lịch sử – văn hóa tốt đẹp của
quê hương. Thực tế đó nhắc nhở chúng tơi cần có những giải pháp để kết nối các
em với đời sống xã hội, nhất là cuộc sống xung quanh, xây dựng lối sống lành
mạnh bồi dưỡng tình u với di tích lịch sử – văn hóa dân tộc.
Khơng chỉ thế, về phần tài liệu tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho
học sinh THPT chưa tập hợp thành hệ thống như đối với THCS (trung học cơ sở).
Với đặc điểm tâm lí, lứa tuổi, yêu cầu chuẩn về phẩm chất năng lực đầu ra, chúng
tơi khơng thể áp dụng máy móc những gì đã có trong tài liệu THCS. Hơn nữa,
mặc dù hoạt động trải nghiệm sáng tạo là một hoạt động không mới trong dạy học
trong những năm gần đây, nhưng nội dung đề tài chúng tôi đặt ra là khá mới mẻ,
đó chính là nội dung và đối tượng trải nghiệm, khai thác cũng như cách thức khai
thác và giải pháp tiếp cận với các di tích khi nguồn tư liệu trong sách giáo khoa,
tài liệu tham khảo về lịch sử địa phương khơng có nhiều, đặc biệt là đối với các di
tích trên q hương mà chúng tơi muốn giới thiệu và cho học sinh tiến hành hoạt
động trải nghiệm.
Từ những thuận lợi và khó khăn đặt ra trong thực tiễn kết hợp với ánh sáng
của cơ sở lí luận soi đường, chúng tơi đã đề xuất cách thức và một số nội dung,

giải pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh tại cơ sở giáo dục
của mình.
Chương II: Cách thức tổ chức hoạt động trải nghiệm tại di tích, danh
thắng trên quê hương Yên Thành, Nghệ An.
1. Mối quan hệ giữa các di tích, danh thắng với chương trình địa lí lớp
12
Chúng tơi đã chọn 4 địa chỉ để học sinh hoạt động trải nghiệm, cụ thể:
Đình Sừng thuộc xã Lăng Thành, Yên Thành, Nghệ An
Núi Tháp Lĩnh – đền Cả thuộc xã Hậu Thành, Yên Thành, Nghệ An.
Đền Đức Hoàng thuộc xã Phúc Thành, Yên Thành, Nghệ An.
Nhà thờ Trạng Nguyên Hồ Tông Thốc thuộc xã Thọ Thành, Yên Thành,
Nghệ An.

14


1.1.
Giới thiệu khái quát về các di tích, danh thắng
1.1.1. Đình Sừng
Đình Sừng nằm ở phía Đơng Nam của xã Lăng Thành, cách thành phố Vinh
65 km về phía Tây Bắc và cách huyện lỵ Yên Thành 7 km về phía Đơng Bắc. Đây
di tích cổ nhất và đẹp nhất với quy mơ nghệ thuật trang trí, điêu khắc, chạm trổ
vào loại bậc nhất của Đông Thành nhị huyện xưa.
Làng Quỳ Lăng xưa có tên là gọi là kẻ Sừng, đây là một ngơi làng cổ, có địa
thế tương đối độc đáo. Trước mặt là cánh đồng rộng lớn, sau là núi rừng trùng
điệp, một vùng đất không những thuận lợi cho việc phịng thủ trong chiến tranh,
tiến có thể đánh, lui có thể giữ mà cịn có nhiều lợi thế về phát triển kinh tế. Chính
vì lợi thế độc đáo đó mà vùng đất kẻ Sừng đã sớm trở thành nơi quần cư của
người Kinh và là một trong những trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa quan trọng
của phủ Châu Diễn nói riêng và của cả nước nói chung. Theo lịch sử của huyện

Yên Thành và lịch sử địa phương thì ngay từ khi nhà Đường lấy huyện Hàm Hoan
trong châu để đặt ra Diễn Châu, làm thành một trong 12 châu của An Nam đô hộ
phủ. Từ năm 679 đến hết triều đại nhà Đinh năm 979, liên tục trong 3 thế kỉ, kẻ
Sừng đã được chọn làm nơi đóng lỵ sở của Diễn Châu. Đến năm 980 – năm đầu
tiên của triều tiền Lê, lỵ sở Diễn Châu được chuyển đến kẻ Dền – Công Trung
Thượng, nay thuộc xã Văn Thành, huyện Yên Thành.
Theo các văn bia hiện cịn lại tại đình Sừng thì đình Sừng được nhân dân
làng Quỳ Lăng bắt đầu xây dựng vào tháng 11 năm 1583 để làm nơi hội họp, sinh
hoạt văn hóa của dân làng. Ngun xưa đình được làm bằng tranh tre, nứa lá nằm
giữa một vùng dân cư đơng đúc, xung quanh có làng mạc, cây đa, bến nước và
con sông Sừng uốn khúc như dải lụa mềm chở nặng phù sa tắm mát cho ruộng
đồng. Cùng với kiến trúc cổ đặc sắc như cầu đá, cổng làng... đã tôn vinh vẻ đẹp
độc đáo, tinh túy của ngơi đình cổ. Đến năm 1797, làng dựng thêm tịa Hậu cung
để làm nơi thờ các vị thần Thành hoàng của làng.

15


(Ảnh: Những chạm khắc tinh xảo của đình Sừng)
Nguyên xưa đình được làm bằng tranh tre, nứa lá nằm giữa một vùng dân cư
đơng đúc, xung quanh có làng mạc, cây đa, bến nước và con sông Sừng uốn khúc
như dải luạ mềm chở nặng phù sa. Đến năm 1979, do nhu cầu văn hóa cao, ngơi
đền đã khơng đủ chỗ cho dân làng làm lễ tế trong các dịp lễ trọng nên làng đã xây
dựng têm nhà Hậu cung làm nơi bài trí thờ phụng các vị nhân thần và nhiên thần.
Từ đó, cứ vào dịp lẽ cầu yên vào ngày 15/3 âm lịch hàng năm làng lại tổ chức lễ
lớn tại đình Sừng.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, đình đã được tu sửa nhiều lần vào các
năm 1637, 1677, 1797, 1844, 1913 và đến năm 1929 đình được trùng tu, xây dựng
lại to đẹp như ngày nay. Việc này được ghi lại trong bản sơ thảo lịch sử quê
hương, xã Lăng Thành còn chép lại: Vào năm Đinh Mão 1927, dân làng Quỳ

Lăng bắt tay vào việc chuẩn bị lấy gỗ, tiền bạc... để tu sửa lại đình. Về gỗ, làng
chia cho 11 giáp là giáp Đông, giáp Tây, giáp Nam, giáp Bắc, giáp Nghè, giáp
Danh, giáp Trụ Sáo, giáp Thọ Cầu, giáp Đồng Lạc, giáp Đa, giáp Trung đi chọn
và khai thác các loại gỗ lim tốt nhất trong rừng của làng Quỳ Lăng. Về tiền, làng
đặt cho thợ 5 ngàn quan thu từ việc bán các chức sắc của làng như hiệu xã, thần tổ
của làng tu bổ theo đinh, điền. Về ngói, làng tự lập ra tổ thợ mở lị, dập theo
khn riêng và nung theo tiêu chuẩn. Sau 3 năm chuẩn bị, đến năm 1929, việc tơn
tạo, xây dựng lại đình Sừng được khởi công dưới sự chỉ đạo của đốc công Hồng
Dỗn Cù. Để rút ngắn thời gian thi cơng, làng đã th hai hiệp thợ, một hiệp thợ
của ơng phó Tu - người làng Phú Minh, xã Quỳnh nghĩa, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh
Nghệ An – chịu trách nhiệm làm các vì phía Đơng, một hiệp thợ của ơng phó Tới
– người xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu – chịu trách nhiệm làm các vì phía Tây.
Sau 6 tháng thi cơng, đến đầu năm 1930, việc trùng tu, tôn tạo lại đình đã được
hồn thành với kiến trúc thời Nguyễn với quy mô đồ sộ. Hai nhà Tả vu và Hữu vu
cũng được xây dựng trong thời kì này . Đến nay, địa phương vẫn còn truyền miệng
nhiều thơ ca dân gian phản ánh phần nào khơng khí sơi động của làng trong lần
tơn tạo, xây dựng đình năm 1929 như sau:
“Bấy giờ họp xã đinh, tiền
Người bỏ vô điện, người bỏ vơ đình.
Dưới trên ai nấy thuận tình
Trống đánh rập rình reo ca cả đêm.
Ba năm kéo gỗ một miền
Đắp nền thuê thợ tức thì làm ngay”.
Nhưng từ sau những năm 1930 – 1931, các kiến trúc cổ quanh đình đã dần bị mất
mát và hư hỏng. Đặc biệt là từ khi cơng trình thủy lợi Vách Bắc được đào đắp,
xây dựng vào năm 1978, vùng đất này thường xuyên bị lũ lụt kéo dài nên làng
mạc, chợ búa ở quanh đình phải dời đi nơi khác, cảnh quan quanh đình cũng dần

16



thưa
thớt.
Hiện nay, đình Sừng nằm giữa một vùng đất rộng bằng phẳng, bốn bề là những
cánh đồng rộng lớn, tuy hơi xa nhưng cảnh quan nơi đây vẫn thoáng đãng, mát
mẻ. Nằm cách đình một qng về phía Đơng là sông Dinh, 1 đoạn trong hệ thống
tưới tiêu Vách Bắc, phía Tây là làng mạc, chợ búa sầm uất nằm xen giữa những
vườn đồi và rừng cổ thụ bạt ngàn.
Trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, đình Sừng vẫn giữ được vẻ đẹp
nguyên sơ và gắn liền với những chứng tích lịch sử của đất và người Quỳ Lăng.
Trong những năm 1930 – 1931, đình là địa điểm hội họp bí mật của Chi bộ Quỳ
Lăng – một trong những Chi bộ Đảng đầu tiên của huyện Yên Thành.Sau đó, thực
dân Pháp dùng làm nơi bắt bớ, giam cầm cách mạng Việt Minh. Trong kháng
chiến chống Mĩ, đình Sừng từng là nơi đóng xưởng dệt của Quân khu 4 trong một
thời gian dài. Ngày nay, đình là trung tâm diễn ra nhiều hoạt động mang đậm bản
sắc văn hóa địa phương như tế thần, rước kiệu, hát ả đào, hát chèo, vật cù lộ, đồng
thời, đình cịn là nơi tổ chức hội họp của các đoàn thể, tổ chức địa phương. Trước
đây đình Sừng trước đây có 5 cơng trình là Đình, Hậu cung, nhà Tả vu – Hữu vu
và một nhà Miếu nhưng nhà Tả vu và Hữu vu đã bị dỡ để làm trường học nên
hiện nay cịn 3 hạng mục cơng trình là Đình, Hậu cung và nhà Miếu được làm
theo lối kiến trúc thời Nguyễn.
Đình cịn có một mảnh vườn diện tích 4.206m 2 được trồng rau, cây ăn quả
xung quanh là một lớp bờ rào bằng cây xanh.Tịa đình hai đầu xây tường bẻ góc
về phía trước cịn hai mặt trước sau để trống. Trên bờ nóc trang trí rất đơn giản,
phía ngồi trang trí giống bốn góc mái đều là các đầu đao dạng vân mây, giữa là
hình ảnh lưỡng long chầu nguyệt. Hai đầu tường bít đốc đắp nổi các họa tiết rồng
cách điệu rất sinh động. Trong khi bít đốc phải đắp nổi hình tượng rồng rất đơn
giản, rõ nét thì bít đốc phía trái được trang trí có vẻ rườm rà nhưng vẫn rất sắc sảo
và tinh tế. Đình dài 24,7m, rộng 11,2m, quay mặt về phía Nam, khung làm hồn
tồn bằng gỗ lim, kích thước lớn, lợp ngói âm dương. Nền nhà được làm bằng đất

sạn sỏi, có độ cứng cao, móng đình cao hơn 0,5m so với sân và vườn đình. Xung
quanh móng được giằng bằng đá ong. Trong đình có kiến trúc độc đáo, chạm trổ
tinh
vi.
Đình có 2 bia đá được khắc chữ 2 mặt, dụng vào năm 1637, ghi lại lịch sử dựng
đền, thời gian tu sửa và sự đóng góp của mọi người. Bia có kiểu dáng đơn giản,
mảnh mai và cịn ngun vẹn.
Qua tịa đình là khoảng sân lộ thiên rộng 8m là đến nhà Hậu cung. Theo tài
liệu kiểm kê di tích năm 1964, thì ban đầu, nhà Hậu cung gồm có 3 gian, với diện
tích là 81,6m2. Khung nhà cũng dược làm hồn tồn bằng gỗ lim, mái lợp ngói
âm dương, 3 phía xây tường, đóng mở bằng cửa bàn khoa. Trên các xà, kèo được
chạm lộng tinh vi, sắc xảo. Phía trước đắp phù điêu tượng quan văn, quan võ ở 2
bên tường. Trong nhà có bài trí 2 long ngai, 2 hương án và nhiều đồ tế khí đẹp,

17


trong đó có một lư hương đá cao 0,24m được làm vào năm 1875. Nhưng do chiến
tranh mà tòa hậu cung đã bị phá dỡ trong chiến tranh chống Mỹ.
Ngoài ra, ngơi đình cổ này cịn nhiều cơng trình khác, tuy nhiên đến nay,
ngơi đình chỉ cịn lại một số cơng trình chính cùng văn bia, đây trở thành một địa
điểm diễn ra các lễ hội, cuộc vui của làng.
Có thể nói, Đình Sừng là một trong những cơng trình kiến trúc cổ, có quy mơ
đồ sộ, nghệ thuật trang trí, điêu khắc chạm trổ đẹp vào loại bậc nhất ở Nghệ An.
Với những giá trị to lớn về lịch sử, văn hóa và kiến trúc của di tích, ngày
29/10/2003, Đình Sừng đã được cơng nhận là di tích lịch sử kiến trúc Quốc gia.
Đến năm 2010, được sự hỗ trợ của nhà nước, chính quyền địa phương đã đầu tư
trùng tu, nâng cấp một số hạng mục, nhằm giữ gìn những tư liệu quý, giúp cho
các nhà khoa học tìm hiểu, nghiên cứu về nghệ thuật kiến trúc của di sản văn hóa
cổ và cũng là nơi giáo dục truyền thống cho các thế hệ mai sau. Đình Sừng xứng

đáng là điểm đến của du khách khi đến với xã Lăng Thành nói riêng, huyện Yên
Thành nói chung, và là biểu tượng của lịch sử dân tộc tại huyện, chứng tỏ một
làng q trù phú bên dịng sơng có từ thời xưa với những nét văn hóa dân tộc.
1.1.2. Núi Tháp Lĩnh – đền Cả
Núi Tháp Lĩnh là khu rừng nguyên sinh nổi lên giữa trung tâm xã Hậu
Thành, huyện Yên Thành (tỉnh Nghệ An). Từ xưa, nơi đây là chốn “cấm sơn” nên
được bảo vệ cẩn mật. Nằm cách trung tâm huyện Yên Thành khoảng 7km về phía
Bắc, khu rừng già nguyên sinh gần 20 ha của xã Hậu Thành mọc lên giữa những
cánh đồng lúa mênh mông như một “lá phổi”, niềm tự hào của người dân nơi đây.
Khơng ai biết rừng lim có từ bao giờ, chỉ biết từ thở lập làng ( dưới thời nhà
Lê) rừng lim trên núi Tháp Lĩnh ( còn gọi là Tháp Sơn) đã xanh tươi. Với diện
tích gần 20ha, núi Tháp Lĩnh có hàng ngàn cây lim từ to tới nhỏ. Có những cây
lim hàng trăm năm tuổi 2 - 3 người ôm không xuể và vô số cây con, cây cháu…
Ơng Lại Văn Ngân - người trơng coi bảo vệ rừng Tháp Lĩnh (59 tuổi, trú tại xã
Hậu Thành) cho biết, lim ở đây chủ yếu là lim xanh và lim sâu róm. Ngồi ra , núi
Tháp Lĩnh cịn có nhiều cây trai, gụ, hương, trắc… Đây cũng là nơi cư ngụ của
nhiều loài động vật như chim, kỳ nhơng, chồn, sóc…

18


(Ảnh: Cây lim hàng trăm năm tuổi to đến 2 – 3 người ôm)
Rừng lim trên núi Tháp Lĩnh không chỉ là lá phổi mà còn là báu vật truyền
đời, là niềm tự hào của người dân nơi đây. Theo cuốn “ Xã Hậu Thành địa chí –
lịch sử” thì: “ Động Tháp hay cịn gọi là rú Tháp khơng cao, nằm ở giữ đồng bằng
của xã Hậu Thành. Trước đây ở động Tháp cây rừng rậm rạp, nay vẫn còn một
khu rừng nguyên sinh rộng khoảng 19ha với nhiều cây gỗ quý hiếm như: lim, gụ,
trắc… gồm có trên 100 chủng loại”.
Đặt chân đến núi Tháp Lĩnh, dễ dàng nhận thấy khu rừng lim xanh này còn
giữ nguyên nét hoang sơ. Càng tiến sâu vào khu rừng càng chứng kiến nhiều cây

lim xanh cổ thụ, thân, cành bám nhiều rêu mốc, buông tán cây rộng trở nên uy
nghi, hùng vĩ.
Từ xa xưa, núi Tháp Lĩnh trở thành chốn “ cấm sơn”, tự người dân nơi đây
đều có trách nhiệm bảo vệ, gìn giữ như báu vật vậy. Năm 1885, thực dân Pháp
nhiều lần cho người lên để phá hoại núi Tháp Lĩnh, nhưng bị nhân dân làng Đức
Hậu đấu tranh quyết liệt, chúng phải thừa nhận hương ước của làng: “Hễ ai chặt
một cây ở núi Tháp Lĩnh thì bị phạt và phải trồng lại 10 cây”. Từ đó, núi Tháp
Lĩnh ngày một xanh tươi.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, núi Tháp Lĩnh là
nơi dừng chân cho nhiều đoàn bộ đội miền Bắc trên đường đi vào giải phóng
miền Nam. Nơi đây cũng từng là giảng đường cho sinh viên khoa Toán trường
Đại học Vinh học tập trong suốt thời gian sơ tán. Giặc Mỹ nhiều lần ném bom
xuống núi Tháp Lĩnh nhưng gãy cây nào, người dân nơi đây lại kéo nhau đến san
lấp hố bom, dựng cây, chăm sóc cây tươi xanh trở lại.
Năm 2001, xã Hậu Thành đã tổ chức đi thu nhặt hàng ngàn hạt lim rụng
xuống và ươm bầu được hon 500 cây con. Đồng thời, làm cỏ, cắt tỉa cành cho hơn

19


200 gốc lim, gụ, trai có độ tuổi trên 100 năm. Đoàn thanh niên xã này đã đào một
con hào rộng 3m, dài hơn 300m chạy vòng quanh núi để bảo vệ, khơng cho trâu
bị vào phá hoại cây cối. Và tu bổ lại hai con đường chạy dọc sườn núi và lên đỉnh
núi cao gần 150m.
Núi Tháp Lĩnh là khu rừng còn hoang sơ, nguyên sinh, là nơi tồn tại các
nguồn gen sinh vật quý hiếm. Đây còn tài ngyên du lịch giá trị mà người dân cần
phát bảo tồn và phát triển.
Nằm nép dưới chân núi Tháp Lĩnh là ngôi đền Cả linh thiêng. Đền thờ thần
khai khẩn và các vị cơng thần có cơng với đất nước.
Ơng Mai Công Định (77 tuổi, trú xã Hậu Thành) – người trông coi đền Cả kể

lại vào thời nhà Lê, trong một lần đi qua xã Hậu Thành, đức thánh Nguyễn Hữu
Chỉ (q Thanh Hóa) nhìn thấy núi Tháp Lĩnh phong cảnh hữu tình, là vùng đất
lành chim đậu nên đã đưa con cháu đến khai hoang, chiêu dân lập làng. Để tưởng
nhớ công ơn của đức thánh Nguyễn Hữu Chỉ, 5 người dân đã dựng đền Cả dưới
chân núi Tháp Lĩnh, gần mộ của ơng để hương khói thờ phụng. Ngày rằm, mồng
một, người dân địa phương lại đến thắp hương để tưởng nhớ đến ngài. Vào các
dịp lễ, Tết, con cháu hồi hương không quên tới đây gieo quẻ, cầu phúc, cầu an.
Qua nhiều thế hệ, đền Cả về sau cịn thờ thần trăn và các vị cơng thần có
cơng với đất nước.
1.1.3. Đền Đức Hồng
Đền Đức Hồng thuộc làng Hồng Phong, thôn Diệu Ốc xã Phúc Thành,
huyện Yên Thành. Đền được xây dựng trên một gò đất cao giữa rừng lim rậm rạp
ven hồ Diệu Ốc, cạnh chùa Thung Viên thanh tịch. Hồ Diệu Ốc có nhiều tên gọi
khác nhau là đầm Thủy Ô, bàu Ác, Diệu Ốc liên đàm, được xem là một trong tám
cảnh đẹp nhất của Đông Thành nhị huyện xưa. Đặc biệt, trong hồ Diệu Ốc có hai
lạch nước ăn sâu vào tận hai bên vườn đền, tạo nên một cảnh quan độc đáo, thơng
thống và xanh mát cho ngơi đ ền, được người dân địa phương gọi là hai mắt rồng
. Phong cảnh ở đay mùa nào cũng đẹp nhưng thi vị hơn cả vẫn là mùa hè, nhất là
mùa sen nở, phong cảnh nơi đây đẹp tựa bức tranh thủy mạc. Và trong bức tranh
ấy thấp thống một ngơi đền cổ giữa cảnh non xanh nước biếc, hòa quyện cùng
thiên nhiên tạo cho người xem có cảm giác thư thái, nhẹ nhàng, thanh thốt đến
nao lịng, thu hút được đơng đảo du khách thập phương đến viếng thăm và vãn
cảnh. Đó là đền Đức Hoàng.
Theo sử sách xưa ghi lại, đền Đức Hồng là cơng trình văn hóa, tâm linh.
Lúc đầu được nhân dân xây dựng để thờ Thần Rắn ( mẹ nước), về sau phối thờ đa
thần như Sát Hải Đại vương Hoàng Tá Thốn, Mẫu Liễu Hạnh, Bạch Y cơng chúa,
Phật Thích ca. Trong đó được thờ chính vẫn là Thần Rắn và Sát hải Đại vương
Hoàng Tá Thốn.

20



(Ảnh: Di tích văn hóa – lịch sử đền Đức Hoàng)
Đền Đức Hoàng được xây dựng từ thời Trần nhưng lúc đó chỉ là một ngơi
miếu nhỏ đơn sơ. Năm 1505 xây nhà Thượng điện, năm 1882 xây thêm Trung
điện và đến năm 1936 xây thêm Hạ điện. Di tích có mặt bằng kiến trúc bố trí theo
kiểu chữ Tam gồm 3 tòa nhà Hạ điện, Trung điện và Thượng điện còn lưu giữ
được gần như nguyên vẹn kiến trúc cổ thời Lê – Nguyễn cùng nhiều cơng trình
phụ trợ khác như nghi môn, tắc ôn, sân vườn, giếng nước… Tuy quy mô kiến trúc
không đồ sộ, đường nét chạm khắc trên các cấu kiện gỗ khơng cầu kì, bóng bẫy
nhưng đền Đức Hồng lại có vẽ đẹp cổ kính riêng biệt. Đó là sự duyên dáng mộc
mạc của các cơng trình, chắc khỏe, thanh thốt của các bộ phận cấu thành. Từ đó
tạo được sự ấm cúng và có chiều sâu của khơng gian. Trong khung cảnh khói
hương nghi ngút, ánh đèn nến mờ ảo tạo cho du khách cảm giác linh thiêng bàng
bạc bao trùm cả không gian.
Nhà Hạ điện có 3 gian, 4 vì kết cấu theo kiểu giao nguyên, gian giữa xây
chồng liêm kiểu vọng lâu. Có thể nói, nét đặc sắc về kiến trúc là tịa Hạ điện. ở
đây có sự kết hợp giữa kiến trúc cổ truyền và hiện đại. Nếu như các bộ phận gỗ
trong ba tịa kiến trúc chính gần như được bào trơn bóng thì những cá tinh tế nhất,
tài hoa nhất lại được phô diễn ở những bộ phận xây đắp bằng vơi vữa trên các chi
tiết trang trí ở Hạ điện. Tất cả được thể hiện một cách cụ thể, sinh động, màu sắc
trang nhã, tạo dáng thanh thoát… đem lại cho đền một vx đẹp linh thiêng và tơn
nghiêm. Trên vịm cuốn, hội tụ đầy đủ cả bộ tứ linh và hoa van hình hoa lá cách
điệu. Mỗi con vật đều được bàn tay tài hoa của ngời thợ thổi hồn vào rất sống
động, với những đường nét mềm mại, uyển chuyển đến tinh xảo. Vọng lâu được
xây kiểu chồng diêm trên gian giữa, sàn lát gỗ, mái lợp ngói âm dương, các đầu
đao và đầu kìm đắp hình con sấu ẩn trong mây, giữa bờ nóc đắp hình mặt trời tỏa

21



sáng. Vọng lâu vừa mang ý nghĩa như một lầu ngắm cảnh, vừa mang ý nghĩa biểu
dương công trạng và sự linh ứng của thân, đồng thời là khát vọng “ đăng cao viễn
vọng” (lên cao để trông) để gần gũi với thần linh. Nó khác với kiểu nhà chơng
diêm 2 tầng 8 mái thường găp ở một số di tích khác.
Nhà Trung điện gồm 3 gian, 2 hồi, 4 vì kết cấu kiểu tứ tru, tường xây bít đốc.
Trung điện bài trí ba cung thờ ở ba gian: gian phải thờ Liễu Hạnh công chúa – “
Liễu sơn giáng ứng”, gian giữa là thờ Thần Rắn, Gian thờ bên trái đặt một long
ngai thờ Bạch Y công chúa – “ Thần thơng y”. Ngồi ra, nhà Trung điện cịn lưu
giữ mộ số đồ tế khí khác như giá treo chiêng bằng gỗ, lư hương đá, kiệu bát
cống…
Nhà Thượng điện gồm 2 gian thờ dọc, 3 vì, mỗi vì có 4 cột gỗ lim. Đây là
gian thờ Hoàng Tá Thốn, Phật Thích Ca Mâu Ni. Thường chúng ta chỉ thấy tượng
Phật được thờ trong chùa chứ ít khi được thờ tại đền. Điều đó chứng tỏ các tơn
giáo ở huyện Yên Thành phát triển một cách hài hòa, tạo nên nét đực sắc riêng,
thể hiện rõ về sự hòa hợp giữa Tam giáo đồng nguyên.
Đền Đức Hoàng từ lâu đã trở thành điểm sinh hoạt văn hóa tâm linh của
huyện Yên Thành nói riêng và tỉnh Nghệ An nói chung. Hàng nă, dưới sự chỉ đạo
của chính quyền địa phương, nhân dân trong vùng đã tổ chức lễ hội vào cuối
tháng Giêng, đầu tháng Hai âm lịch ( từ ngày 29 tháng1 đến ngày 1 tháng 2) để
tưởng nhớ công lao của các vị thần được thờ tại đền. Và cứ 3 năm lại tổ chức lễ
hội lớn một lần (cấp huyện). Lễ hội bao gồm phần lễ và phần hội. Ngồi việc khơi
phục các hoạt động truyền thống, dân gian của phần lễ và phần hội, lễ hội ngày
nay còn tổ chức và thường xuyên đổi mới với nhiều hoạt động văn hóa – thể thao
phong phú, đa dạng, đạm đà bản sắc dân tộc như: bơi thuyền, kéo co, đẩy gậy, cờ
người, chọi gà, vật, bóng chuyền… Cùng với các trị chơi dân gian là các loại
hình nghệ thuật dân gian truyề thống như: tuồng, múa rối, ca trù, ví dặm… Ngồi
ra, vào ngày mồng 1 và 15 âm lịch hàng tháng nhân dân thường đến đây dâng
hương cầu xin sự bình an cho mình và người thân.
Đền Đức Hồng là ngơi đền nổi tiếng linh thiêng, lại nằm ở một vị trí có

cảnh quan đẹp. Về với di tích đền Đức Hồng du khách như được gửi gắm những
ước vọng vào cõi tâm linh sâu thẳm, đồng thời được hịa mình vào thiên nhiên thơ
mộng và qn đi những lo toan của cuộc sống thường nhật. Những vẽ đẹp văn
hóa của đền Đức hồng cần được lưu giữ, bảo tồn để nét đẹp ấy mãi trường tồn
theo thời gian. Vì những giá trị ấy ngày 24/01/1998, Bộ Văn hóa, thơng tin đã ra
Quyết định cơng nhận đền Đức Hồng là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
1.1.4. Đền thờ Trạng Nguyên Hồ Tông Thốc
Đền thờ trạng nguyên Hồ Tông Thốc ở làng Tam Công – Kẻ Cuồi, nay là
làng Tam Thọ, xã Thọ Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.
Trạng nguyên Hồ Tông Thốc là danh nhân đời Trần, sinh năm Giáp Tý
(1324), là nhà văn tài hoa nổi tiếng, nhà thơ , nhà chính trị, nhà ngoại giao tài giỏi.
22


Năm 17 tuổi (1341) Hồ Tơng Thốc dự thi Đình và đỗ Trạng Nguyên. Sau khi đỗ
đầu khoa thi, tuy tuổi cịn trẻ nhưng Hồ Tơng Thốc được vua Trần Hiếu Tông cho
giữ chức Trung thư lệnh. Năm 1372, Hồ Tông Thốc được giao chức Hàm lâm
viện đại học sỹ. Tám năm sau, năm 1386, ông được thăng Hàn lâm viện kiêm
Thẩm hình viện sứ. Ơng là người đầu tiên đưa danh xưng nước Việt Nam với ý
nghĩa Quốc hiệu và ghi tên nước Việt Nam vào bộ lịch sử nước nhà do ơng soạn
thảo. Đối với dịng họ Hồ ở Nghệ An, Hồ Tông Thốc là người mở đầu cho nền
khoa bảng của một thế gia vọng tộc, có truyền thống hiếu học, học giỏi, nhiều
người đỗ đạt.
Về đền thờ Trạng Ngun Hồ Tơng Thốc, hay cịn được gọi là nhà thờ dịng
Họ Tam Cơng:
Nhà thờ được xây dựng từ rất lâu đời, tại xóm Tam Thọ, xã Thọ Thành, Yên
Thành, Nghệ An. Thời Lê – Mạc, sau một trận binh hỏa tàn phá, làng Tam Thọ
được xây dựng lại, nhà thờ cũng được xây dựng lại. Đến năm 1919, nhà thờ được
trùng tu lần thứ nhất. Đến năm 2010, nhà thờ được trùng tu lần thứ hai và bổ sung
thêm một số cơng trình thiết yếu.

Hiện nay, với khn viên rộng hơn 2000 mét vng. Ngồi nhà thờ lớn
gồm thượng điện, hạ điện và tả - hữu điện, cịn có nhà khách, nhà bia, nhà mộ
miếu. Theo ban quản lí phụ trách nhà thờ cho biết, nguồn kinh phí xây dựng và
kinh phí tu sửa cho đến nay đã lên đến hơn 30 tỉ đồng. Số tiền này được nhà nước
hỗ trợ và tiền đóng góp, ủng hộ của con cháu trong dòng tộc.
Năm 1991, nhà thờ được Bộ văn hóa, thể thao và du lịch cơng nhận là di
tích lịch sử quốc gia (Bộ văn hóa – thông tin, QĐ số 154/QĐ VH). Đây là niềm
vinh dự, tự hào của bà con dịng tộc họ Hồ nói riêng, nhân xã Thọ Thành, nhân
dân huyện Yên Thành nói chung. Nó khơng chỉ ảnh hưởng đến việc giáo dục ý
thức, truyền thống hiếu hoc mà còn giáo dục truyền thống yêu nước, yêu quê
hương đối với thế hệ trẻ tương lai.
Hàng năm, Ủy ban nhân dân xã Thọ Thành phối hợp với họ Hồ Tam Công
mở lễ hội đền thờ Hồ Tông Thốc vào ngày 9 và 10 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội
thu hút đông đảo nhân dân trong xã, các xã lân cận và con cháu dòng họ Hồ trên
khắp cả nước về đây tụ hội.
1.2.Các bài học/ nội dung dạy học địa lí có liên quan
Như tơi đã trình bày ở phần lí do chọn đề tài, huyện Yên Thành được ghi
nhận là một huyện có nhiều di tích, danh thắng bậc nhất tỉnh Nghệ An. Cụ thể là
có 192 di tích được ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An phân cấp quản lí, trong đó có
23 di tích được Bộ văn hóa – Thể thao và du lịch xếp hạng cấp quốc gia, 35 di
tích cấp tỉnh. Tuy nhiên, trong hoạt động trải nghiệm lần này chúng tôi đã chọn ra
bốn địa chỉ trên bởi những lí do sau đây:
Thứ nhất, thuận lợi về mặt địa lí nên sẽ thuận lợi trong việc lựa chọn thời
gian, kinh phí, đi lại…
23


Thứ hai, là những địa chỉ mới, chưa được khai thác, hoặc chỉ khai thác ở
mức cầm chừng, nguồn tư liệu trong sách giáo khoa chưa hề có và nguồn tài liệu
tham khảo cũng khơng có nhiều.

Thứ ba, thực sự mang tính giáo dục cao, bởi đây là những địa chỉ gần gũi với
không gian sinh sống, học tập hàng ngày của các em.
Quan trọng hơn, những địa danh này có mối quan hệ với một số nội dung và
một số bài, chủ yếu của chương trình địa lí lớp 12, cụ thể:
- Nội dung bài 31: Vấn đề phát triển ngành du lịch – thuộc phần Địa lí các
ngành kinh tế - Địa lí lớp 12.
- Nội dung phần Địa lí địa phương: bài 44, bài 45 – Địa lí lớp 12
- Nội dung mục II – Các nhân tó ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố các
ngành dịch vụ - Địa lí lớp 10.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tơi đã quyết định chọn bốn địa chỉ này
để học sinh tiến hành trải nghiệm.
1.3.Thời gian tiến hành hoạt động trải nghiệm
Căn cứ vào nội dung dạy học trên lớp cũng như mục tiêu “dạy – học địa lí
gắn với trải nghiệm thực tế”, chúng tôi đã quyết định cho học sinh tiến hành trải
nghiệm vào khoảng thời gian từ tuần 25 đến tuần 27 của năm học. Tức là khoảng
thời gian sau khi học xong tiết 27 của PPCT Địa lí lớp 12 cho đến trước khi kiểm
tra định kỳ của học kỳ II. Chúng tơi chọn khoảng thời điểm đó bởi những lí do
sau:
Một là: Phù hợp với nội dung chương trình lớp 12 mà các em được học trên
lớp với nội dung hoạt động trải nghiệm. Như vậy sẽ đảm bảo tính liền mạch giữa
nội dung được học trên lớp với nội dung trải nghiệm thực tế.
Hai là: Một phần hiện thực hóa nội dung của chủ đề: ‘‘Tài nguyên du lịch
trên quê hương Yên Thành” trong phần địa lí địa phương. Từ đó, đảm bảo nối liền
mạch kiến thức giữa địa lí quốc gia với địa lí phương và đặc điểm của vùng miền.
Ba là: Hướng tới lồng ghép vào nội dung kiểm tra định kỳ ở học kỳ II.
2.
Cách thức tổ chức hoạt động trải nghiệm tại các di tích, danh
thắng trên quê hương Yên Thành, Nghệ An
2.1.
Cách thức tổ chức hoạt động trải nghiệm

Được sự thống nhất cao của ban chuyên môn nhà trường, chúng tôi tổ chức
hoạt động trải nghiệm cho học sinh bằng hình thức ngồi giờ lên lớp với sự hướng
dẫn cụ thể của giáo viên bộ mơn trực tiếp phụ trách lớp học.
Quy trình thiết kế hoạt động trải nghiệm trong dạy học địa lí ở trường
Trung học phổ thông để hoạt động trải nghiệm trong dạy học địa lí đạt hiệu quả
tốt, giáo viên cần phải lựa chọn nội dung, cần xác định địa điểm và thời gian tổ

24


×