Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

một số giải pháp hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.44 KB, 26 trang )

Mục lục
Mục lục 1
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN I. TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ 2
I. Quan niệm về rủi ro 2
1. Khái niệm 2
2. Tính chất 3
II. Rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế 3
1. Khái quát về hoạt động thanh toán quốc tế 3
2. Rủi ro trong hoạt động TTQT 6
PHẦN II: MỘT SỐ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TTQT 7
I. Phân loại theo nguyên nhân phát sinh 7
1. Rủi ro thương mại 7
2. Rủi ro do cho vay tín dụng phục vụ xuất nhập khẩu 8
3. Rủi ro tỷ giá 9
4. Rủi ro quốc gia 10
5. Rủi ro đạo đức 11
6. Rủi ro pháp lý 12
7. Rủi ro trong quá trình hoạt động, tác nghiệp 12
II. Phân loại theo các phương thức thanh toán quốc tế 13
1. Rủi ro trong phương thức chuyển tiền 13
2. Rủi ro trong phương thức ghi sổ 14
3. Rủi ro trong phương thức nhờ thu 15
4. Rủi ro trong phương thức tín dụng chứng từ 15
PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG THANH
TOÁN QUỐC 19
I. Một số giải pháp hạn chế rủi ro với chủ thể là các Ngân hàng Thương mại 19
1. Đối với bản thân mỗi Ngân hàng thương mại cần phải thực hiện: 19
2. Đối với NHNN 21
II. Một số giải pháp hạn chế rủi ro với các nhà xuất nhập khẩu 22
1. Giải pháp chung đối với cả hai bên 22


2. Những giải pháp hạn chế rủi ro đối với nhà nhập khẩu: 23
3. Những giải pháp hạn chế rủi ro với nhà xuất khẩu: 25
III. Đối với Nhà nước và các bộ ngành có liên quan 26
LỜI MỞ ĐẦU
Sau hơn hai mươi năm đổi mới nền kinh tế nước ta đang khởi sắc và thu
được nhiều thành tựu đáng kể. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường việt nam
đã và đang hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Với những chính sách mềm dẻo đã
thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Giống như thực tế
đã chứng minh không có quốc gia nào phát triển mà không có sự giao lưu với các
nước khác. Sự giao lưu buôn bán giữa các nước là một xu hướng tất yếu của nền
kinh tế. Sự phát triển của thương mại quốc tế giúp các nước gắn kết và giúp đỡ lẫn
nhau trong sự phát triển chung của thế giới. Thương mại quốc tế ngày nay đã vượt
qua không gian và thời gian tạo những luồng dịch chuyển hàng hoá, tiền tệ để đáp
ứng cung cầu.
Thanh toán quốc tế (TTQT) là hoạt động chủ yếu của một quốc gia trong sự
phát triển của đất nước. Nó giúp quốc gia khai thác những thế mạnh của đất nước
1
so với các nước khác trên thế giới. Với tư cách là một nhân tố quan trọng, không
thể thiếu được cho sự phát triển của thương mại quốc tế ,công tác thanh toán quốc
tế không ngừng đổi mới và hoàn thiện với những phương thức thanh toán an toàn
và hiệu quả cao các bên tham gia. Thanh toán quốc tế là khâu quan trọng quyết
định hiệu quả của quá trình trao đổi. Nó là mắt xích không thể thiếu được trong cỗ
máy thương mại quốc tế. Với nhiều hình thức thanh toán đa dạng phù hợp với từng
giai đoạn phát triển cụ thể. Tại Việt Nam, cùng với hội nhập kinh tế thế giới, hoạt
động xuất nhập khẩu đã thực sự bùng nổ kéo theo sự phát triển mạnh mẽ của công
tác thanh toán quốc tế tại các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, hoạt động TTQT
là nghiệp vụ mang tính chất toàn cầu, liên quan đến việc thanh toán giữa các quốc
gia, nó chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố, vì vậy trong quá trình thanh toán
không thể tránh khỏi những rủi ro mang yếu tố khách quan cũng như chủ quan, các
rủi ro này càng được kiểm soát chặt chẽ và giảm thiểu bao nhiêu càng mang lại lợi

ích và hiệu quả kinh tế cho các bên cũng như các quốc gia bấy nhiêu.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động thanh toán quốc tế, qua quá
trình tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu Nhóm 4 – CH17G xin đưa ra những nghiên cứu
của nhóm về đề tài “ Rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế”. Từ đó, nhóm
cũng xin đưa ra một số biện pháp để kiểm soát tối đa những rủi ro trong hoạt động
thanh toán quốc tế hiện nay.
Kết cấu bài làm của nhóm gồm 3 phần:
Phần I: Tổng quan về rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế.
Phần II: Một số rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế.
Phần III: Một số giải pháp hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế.
Do hạn chế về lý luận, về kinh nghiệm và thời gian nghiên cứu không nhiều
nên tiểu luận của nhóm không tránh khỏi những thiếu sót. Nhóm rất mong nhận
được sự góp ý của thầy cô, các bạn quan tâm đến vấn đề này để bài bài làm của
nhóm được hoàn chỉnh hơn.
PHẦN I. TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG THANH
TOÁN QUỐC TẾ
I. Quan niệm về rủi ro
1. Khái niệm
Trong cuộc sống hàng ngày, trong lao động sản xuất kinh doanh đôi khi tồn
tại những sự cố, những tai nạn bất ngờ ngẫu nhiên xảy ra gây thiệt hại về người và
tài sản không thể dự báo trước. Những tình huống bất ngờ đó mọi người vẫn
thường gọi là rủi ro. Khi nói đến rủi ro người ta thường nghĩ đến những điều không
tốt lành, có thể là một thiệt hại hoặc một tổn thất nào đó vật chất hoặc tinh thần bất
ngờ xảy đến do những nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan gây nên. Với cách
tiếp cận này có thể cho rằng:
2
Rủi ro là những sự kiện bất ngờ, xảy ra ngoài ý muốn chủ quan của con
người, đem lại những hậu quả mà người ta không thể dự đoán được.
2. Tính chất
Qua khái niệm về rủi ro, chúng ta thấy rủi ro có ba tính chất quan trọng:

Một là: Rủi ro là sự kiện bất ngờ đã xảy ra. Đó là những sự kiện mà người ta
không lường trước một cách chắc chắn. Mọi rủi ro đếu là bất ngờ, cho dù mức độ
bất ngờ có thể khác nhau.
Hai là: Rủi ro là những sự cố gây ra tổn thất. Một khi rủi ro đã xảy ra là để
lại hậu quả cho con người, mặc dù nó có thể nghiêm trọng hoặc ít nghiêm trọng.
Ba là: Rủi ro là sự kiện ngoài mong đợi. Vì thông thường mọi người đều
mong muốn những sự kiện may mắn, tốt đẹp nên khi xảy ra rủi ro sẽ mang lại tổn
thất với mức độ nghiêm trọng khác nhau cho nên rủi ro là sự kiện ngoài mong đợi.
Như vậy, một sự kiện được coi là rủi ro phải đồng thời thỏa mãn ba tính chất
nêu trên. Nếu sự kiện đã biết trước chắc chắn xảy ra hoặc xảy ra không gây tổn thất
hoặc mong muốn của con người thì không được coi là rủi ro.
II. Rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế
1. Khái quát về hoạt động thanh toán quốc tế
1.1. Khái niệm thanh toán quốc tế
Thanh toán quốc tế là việc chi trả bằng tiền liên quan đến mua bán, cung ứng
dịch vụ - hàng hóa giữa các tổ chức hoặc cá nhân của nước này với nước khác
thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của các nước có liên quan. Thanh toán quốc
tế là hoạt động cơ bản nhất và giữ vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh
đối ngoại của các NHTM mà ngày nay nó được gọi là một bộ phận quan trọng
trong nghiệp vụ ngân hàng quốc tế của các NHTM.
1.2. Vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế
Xuất phát từ nhu cầu tất yếu của quá trình phát triển kinh tế, các doanh
nghiệp luôn luôn có xu hướng mở rộng thị trường của mình ra bên ngoài, từ đó
hình thành các quan hệ kinh tế đối ngoại giữa các nước khác nhau. Đối với mỗi chủ
thể, hoạt động thanh toán quốc tế lại thể hiện những vai trò khác nhau:
1.2.1. Đối với nền kinh tế
Thanh toán quốc tế là chiếc cầu nối liền giữa các quốc gia trong hoạt động
kinh tế đối ngoại. Thanh toán quốc tế tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động ngoại
thương phát triển. Đẩy mạnh quá trình sản xuất lưu thông hàng hóa, tăng nhanh tốc
độ chu chuyển của vốn, góp phần phát triển kinh tế.

3
Hoạt động thanh toán quốc tế làm tăng khối lượng thanh toán không dung
tiền mặt trong nền kinh tế, giảm bớt các chi phí trung giạn, đồng thời hoạt động
thanh toán quốc tế đã thu hút một lượng ngoại tệ đáng kể bằng các nghiệp vụ kiều
hối, chuyển tiền đến và L/C xuất khẩu.
1.2.2. Đối với các ngân hàng thương mại
Thứ nhất, TTQT giúp các ngân hàng thương mại đẩy mạnh hoạt động tín
dụng tài trợ xuất nhập khẩu, phát triển các nghiệp vụ liên quan như kinh doanh
ngoại tệ, bảo lãnh và các dịch vụ khác.
Thứ hai, TTQT đem lại khoản thu phí dịch vụ quan trọng: Hoạt động thanh
toán quốc tế giúp cho ngân hàng thu hút thêm khách hàng về giao dịch, từ đó tăng
quy mô hoạt động và thị phần của mình trên thị trường.
Thứ ba, TTQT làm tăng tính thanh khoản của ngân hàng: Trong quá trình
thực hiện các giao dịch thanh toán quốc tế cho khách hàng, ngan hàng thương mại
luôn có một nguồn tiền tập trung chờ thanh toán. Nguồn tiền này tương đối ổn định
và phát sinh thường xuyên, là một nguồn nâng cao khả năng thanh khoản cho ngân
hàng.
Thứ tư, thực hiện TTQT, ngân hàng thương mại có thể tạo ra được vòng tròn
dịch vụ khép kín, từ đó đảm bảo các nghiệp vụ ngân hàng có liên quan đến nhau
như tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế, mua bán ngoại tệ được giám sát,
theo dõi kỹ lưỡng bới nhiều phòng ban khác nhau, hạn chế rủi ro. Bên cạnh đó,
Ngân hàng còn nắm được tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu, tạo điều kiện thực hiện quản lý có hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu trong
nước theo đúng chính sách kinh tế đối ngoại mà nhà nước đề ra.
Thứ năm, TTQT làm tăng cường quan hệ đối ngoại: Thông qua việc bảo lãnh
cho khách hàng trong nước, thanh toán cho ngân hàng nước ngoài, ngân hàng
thương mại sẽ có quan hệ đại lý với ngân hàng và đối tác nước ngoài. Mối quan hệ
này dựa trên cơ sở hợp tác và tương trợ. Với thời gian hoạt động nghiệp vụ càng
lâu, mối quan hệ ngày càng rộng mở.
1.2.3. Đối với khách hàng

Thứ nhất, vai trò trung gian thanh toán trong hoạt động thanh toán quốc tế
của Ngân hàng thương mại giúp cho quá trình thanh toán theo yêu cầu của khách
hàng được tiến hành nhanh chóng, chính xác, an toàn, tiện lợi và tiết kiệm tối đa chi
phí.
Thứ hai, tham gia hoạt động thanh toán quốc tế, quyền lợi của khách hàng
được đảm bảo hơn, do khách hàng được ngân hàng tư vấn để lựa chọn các phương
thức thanh toán, kỹ thuật thanh toán cũng như đồng tiền thanh toán nhằm giảm
thiểu rủi ro, tạo ra sự an tâm cho khách hàng trong giao dịch mua bán với nước
ngoài.
4
Thứ ba, trong quá trình thực hiện thanh toán quốc tế, nếu khách hàng không
đủ khả năng tài chính cần đến sự tài trợ của ngân hàng, ngân hàng sẽ cho vay để
thanh toán hàng nhập bằng cách bảo lãnh mở L/C, chiết khấu chứng từ xuất khẩu,
đáp ứng nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Qua việc thực hiện
thanh toán quốc tế, ngân hàng có thể giám sát được tình hình kinh doanh của doanh
nghiệp xuất nhập khẩu để có những tư vấn cho khách hàng và những điều chỉnh về
chiến lược khách hàng.
Tóm lại, có thể khẳng định, hoạt động thanh toán quốc tế là một hoạt động
trung gian của Ngân hàng thương mại, có tác dụng mang lại thu nhập, hỗ trợ các
hoạt động khác của Ngân hàng thương mại, giúp cho quá trình thanh toán của
khách hàng được nhanh chóng, đảm bảo. Điều này được thể hiện rõ hơn khi nghiên
cứu đến các phương thức thanh toán quốc tế
1.3. Các phương thanh toán quốc tế chủ yếu hiện nay
1.3.1. Ph ươ ng thức chuyển tiền.
Phương thức chuyển tiền là phương thức thanh toán trong đó khách hàng
(người trả tiền, người mua, người nhập khẩu ) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình
chuyển một số tiền nhất định cho người hưởng lợi (người bán, người xuất khẩu,
người cung ứng dịch vụ ) ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền
do khách hàng yêu cầu.
1.3.2. Ph ươ ng thức ghi sổ

Thanh toán ghi sổ là một sự thỏa thuận giữa người mua và người bán trong
đó hàng hóa được sản xuất và giao trước khi thanh toán.
1.3.3. Ph ươ ng thức nhờ thu chứng từ.
a. Khái niệm
Thanh toán nhờ thu là sự thỏa thuận, trong đó nhà xuất khẩu sau khi đã giao
hàng hoặc cung ứng dịch vụ cho khách hàng thì ký phát hối phiếu đòi tiền người
mua hoặc kèm với chứng từ thương mại gửi đến Ngân hàng phục vụ mình theo chỉ
thị rõ ràng để nhờ thu số tiền trên hối phiếu đó thông qua một Ngân hàng đại lý ở
nước người mua.
b. Phân loại
Có hai loại nhờ thu:
* Nhờ thu phiếu trơn
- Khái niệm: Nhờ thu phiếu trơn (Clean Bill): là nhờ thu theo chứng từ tài
chính không kèm theo chứng từ thương mại, trong đó nhà xuất khẩu nhờ ngân hàng
thu hộ tiền ở người mua căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra mà không kèm theo
điều kiện nào cả, còn chứng từ gửi hàng sẽ được gửi thẳng cho người mua không
qua ngân hàng.
5
* Nhờ thu kèm chứng từ
- Khái niệm: Nhờ thu kèm chứng từ (Documentary collection) là loại nhờ
thu có kèm chứng từ thương mại, trong đó nhà xuất khẩu ủy thác cho ngân hàng thu
hộ tiền ở người mua không những căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ
chứng từ gửi hàng kèm theo điều kiện nhà nhập khẩu phải trả tiền ngay hoặc chấp
nhận hối phiếu có kỳ hạn để đổi lấy chứng từ đi nhận hàng. Điều kiện này đã tạo ra
cho phương thức thanh toán nhờ thu có hai hình thức:
+ Nhờ thu trả tiền đồi chứng từ (Documents Against Payment – D/P): Được
sử dụng trong trường hợp mua bán trả tiền ngay.
+ Nhờ thu chấp nhận đổi chứng từ (Documents Against Acceptance – D/A):
Được áp dụng trong trường hợp nhờ thu trả sau.
1.3.4. Phương thức tín dụng chứng từ

Tín dụng chứng từ hay còn gọi là thư tín dụng (L/C) là một sự thỏa thuận
trong đó một ngân hàng ( Ngân hàng phát hành L/C theo yêu cầu của khách hàng)
sẽ trả một số tiền nhất định cho một người khác (Người hưởng lợi số tiền của L/C)
hoặc phải chấp nhận và trả tiền các hối phiếu do người hưởng lợi ký phát trong
phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh
toán phù hợp với những quy định đề ra trong thư tín dụng.
Nội dung của L/C thể hiện các điều kiện, điều khoản đã được ký kết trong
hợp đồng thương mại giữa người mua và người bán, có thể hiện sự sắp đặt, thỏa
thuận của ngân hàng để đi đến điều khoản cam kết thanh toán bộ chứng từ. Song,
cam kết của ngân hàng lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng thương mại. Để được
thanh toán từ ngân hàng, người hưởng lợi phải hoàn tất bộ chứng từ phù hợp với
các điều kiện điều khoản quy định trong L/C. Đây là một quá trình có tính logic của
một vấn đề phát sinh liên quan đến hoạt động thương mại và ngân hàng.
2. Rủi ro trong hoạt động TTQT
Rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế là những rủi ro về kinh tế phát
sinh trong quá trình thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế, nó do các nguyên nhân
phát sinh từ quan hệ giữa các bên tham gia TTQT (nhà xuất khẩu, nhập khẩu, ngân
hàng, các tổ chức, cá nhân và các tác nhân trung gian…) hoặc những nhân tố khách
quan khác gây nên như thiên tai, chiến tranh, chính trị
Rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế liên quan đến các giao dịch
thương mại quốc tế. Nó cũng giống như rủi ro trong giao dịch thương mại trong
nước, nhưng phức tạp hơn do khoảng cách về địa lý, những khác biệt về văn hóa,
luật pháp,…
6
PHẦN II: MỘT SỐ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TTQT
Hoạt động TTQT là hoạt động mang tính phức tạp và đa chiều, trong quá
trình diễn ra hoạt động này, có nhiều rủi ro mang tính chất chủ quan và khách quan,
tuy nhiên trong phạm vi bài thảo luận nhỏ, chúng ta có thể xem xét các loại rủi ro
trong TTQT thường gặp theo một số khía cạnh, từ đó có cái nhìn tổng thể hơn về
hoạt động này:

I. Phân loại theo nguyên nhân phát sinh
1. Rủi ro thương mại
Loại rủi ro này hiện diện trong tất cả các giao dịch giữa các thương gia, do
đó cần được xem xét một cách khác nhau từ phía người xuất khẩu và nhập khẩu.
1.1.Đối với người xuất khẩu, rủi do đến từ các nguyên nhân sau:
- Sự suy yếu về tài chính của người mua hàng (nhà nhập khẩu). Trong
trường hợp này người mua hàng bất ngờ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán
trong thời hạn đã thỏa thuận, họ sẽ đề nghị xin gia hạn trả nợ. Người bán sẽ phải
chấp nhận nếu người mua chưa thể cải thiện tình hình tài chính.
- Những quy định pháp lý: trường hợp người mua tuyên bố không còn khả
năng chi trả, doanh nghiệp đó sẽ bị giải thể theo luật pháp. Nợ của nhà xuất khẩu
chỉ được thanh toán sau khi các khoản nợ được ưu tiên đã giải quyết xong như các
khoản tiền lương, thuế, các khoản nợ các tổ chức xã hội,… do đó sẽ có rất ít cơ hội
thu hồi các khoản mà người mua đã nợ.
1.2. Đối với người nhập khẩu, rủi do đến từ các nguyên nhân sau:
- Thời hạn gửi hàng: theo hợp đồng đã ký kết, người nhập khẩu bắt buộc
phải nhận hàng trong thời hạn đã thỏa thuận. Mọi sự chậm trễ trong quá trình vận
chuyển từ người xuất khẩu đều gây khó khăn cho việc nhận hàng theo đúng hợp
đồng và sẽ gây tổn thất đối với người mua hàng.
- Sự thay đổi về điều kiện và thời gian thanh toán: Nhiều khi hợp đồng
thương mại đã ký quy định cụ thể về các điều kiện và thời gian thanh toán, song
người xuất khẩu đơn phương thay đổi buộc nhà nhập khẩu phải thanh toán một lần
toàn bộ số tiền hàng mới được nhận hàng, điều này khiến cho nhà nhập khẩu bị
động và phải có khoản vay của Ngân hàng để tài trợ cho việc thanh toán. Nếu
khoản vay lớn sẽ gây khó khăn trong việc vay vốn và ảnh hưởng đến khả năng
nhận hàng.
- Yếu tố giá cả: Trong quá trình thực hiện hợp đồng, với lý do đặc biệt như
chính trị, thiên tai, người xuất khẩu yêu cầu người nhập khẩu phải trả mức giá cao
hơn so với thỏa thuận. Trong trường hợp này người nhập khẩu có thể từ chối hợp
đồng và tìm người cung cấp mới, song sẽ bị chậm hơn so với quy định với các đối

tác. Nhiều khi họ không có sự lựa chọn nào khác và buộc phải chấp nhận giá cao
gây tổn thất trong lợi nhuận.
7
- Rủi ro trong bảo hiểm: Trong hợp đồng thương mại được ký, các bên tham
gia thiếu sự quản lý chặt chẽ có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng trong vận chuyển
hàng hóa. Khi đó hàng hóa được đền bù với giá quy định trong hợp đồng bảo hiểm,
nhưng có thể thấp hơn nhiều so với giá trị thực của hàng hóa.
- Yếu tố chất lượng, nguồn gốc của hàng hóa: Hàng hóa với chất lượng
không như chuẩn mực đã ký kết hay như tên gọi gốc sẽ gây ra những rắc rối đối
với người nhập hàng trong việc quan hệ với các cơ quan chức năng: hải quan,
thuế, Ví dụ khi hợp đồng hàng hóa đã ký nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa tại một
nước nào đó thi không thể thay thế bằng hàng nhập từ nước khác. Trường hợp hải
quan xác định nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa không đúng như đăng ký , người
nhập khẩu sẽ phải trả thêm lệ phí.
Một ví dụ điển hình trong thực tế, Công ty Hapos của Úc đã ký thoả thuận
mua hàng với một đối tác Nhật Bản, nhưng trong hợp đồng, Hapos đã để cho đối
tác Nhật Bản lựa chọn hãng tàu vận chuyển. Hapos cứ đinh ninh đợi hàng về,
nhưng sự việc bất ngờ đã xảy ra, chiếc tàu của hãng tàu trên trên đường từ Nhật
Bản đến Úc đã bị hải quan bắt giữ vì có vận chuyển hàng cấm và hàng chưa kê khai
hải quan. Kết quả là tất cả các hàng hoá mà Hapos đặt cũng bị tịch thu luôn.
2. Rủi ro do cho vay tín dụng phục vụ xuất nhập khẩu
- Khái niệm: Rủi ro tín dụng xảy ra khi NHTM cấp tín dụng cho khách hàng
để thực hiện các phương thức thanh toán quốc tế theo những điều kiện thanh toán
đã thỏa thuận với đối tác nước ngoài.
- Nguyên nhân: Rủi ro tín dụng gây ra cho các ngân hàng xuất phát từ các
nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan:
Nguyên nhân chủ quan:
+ Khả năng áp dụng quy chế và năng lực cán bộ trong quá trình thẩm định
món vay xuất – nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ trước khi thực hiện các phương thức
thanh toán chuyển tiền, nhờ thu, thanh toán theo L/C, thanh toán ứng trước, chiết

khấu hối phiếu và chứng từ, đó là các vấn đề như thẩm định phương án vay vốn,
phân tích năng lực tài chính, khả năng hoàn trả, hiệu quả sử dụng vốn của khách
hàng, khả năng phân tích các thông tin rủi ro từ phía đối tác của khách hàng, của
ngân hàng nước ngoài.
+ Sự phối hợp giữa thực hiện nghiệp vụ TTQT của cán bộ đối với những
dịch vụ thanh toán cung ứng tín dụng. đó là các vấn đề về điều kiện thanh toán, sửa
đổi L/C, ký hậu và bảo lãnh vận đơn nhận hàng
Nguyên nhân khách quan: Đối với các phương thức thanh toán, khả năng rủi
ro tín dụng bao gồm các nguyên nhân rủi ro do khả năng thanh toán của khách hàng
và ngân hàng nước ngoài đem lại, mà khả năng này lại phụ thuộc vào các nhân tố
khách quan khác như: Đối tác của khách hàng không thực hiện hợp đồng đúng, đủ,
kịp thời về hàng hóa và điều kiện thanh toán làm phá vỡ kế hoạch tiêu thụ, kế
8
hoạch sản xuất – kinh doanh của khách hàng, hàng hóa bị mất mát trong quá trình
vận chuyển do khách hàng xuất – nhập khẩu đảm nhiệm, hàng kém phẩm chất phát
sinh trong quá trình vận chuyển, đối tác không có khả năng thanh toán, ngân hàng
nước ngoài đang trong quá trình sát nhập giải thể, phá sản Riêng đối với phương
thức tín dụng chứng từ thì rủi ro tín dụng là đặc thù vì theo phương thức này:
+ Ngân hàng phát hành thực sự bị ràng buộc vào cam kết thanh toán cho
người hưởng lợi nếu bộ chứng từ phù hợp được xuất trình, nên kể cả khi ngân hàng
thông báo cung cấp tín dụng cho người mở thì ngân hàng vẫn phải thực hiện nghĩa
vụ thanh toán của mình.
+ Ngân hàng thương lượng khi đã chiết khấu, ứng trước bộ chứng từ có sai
sót hoặc không bảo lưu quyền truy đòi nhà xuất khẩu thì có thể nhận lấy rủi ro
không được thanh toán của ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng hoàn tiền.
3. Rủi ro tỷ giá
- Khái niệm:
Rủi ro tỷ giá là những rủi ro xảy ra khi việc thanh toán được ấn định bằng
đồng ngoại tệ của một nước nào đó. Khi tỷ giá hối đoái biến động so với tỷ giá khi
ký kết hợp đồng xuất khẩu sẽ có lợi cho người này và thiệt cho người khác. Nếu

ngoại tệ lên giá thì nhà nhập khẩu bị thiệt hại và ngược lại nếu ngoại tệ mất giá thì
người xuất khẩu sẽ gặp rủi ro.
Một cách chung nhất, rủi ro hối đoái tồn tại khi biến động tỷ giá ảnh hưởng
tới từng nghiệp vụ tiền mặt của công ty hay toàn bộ luồng tiền mặt của công ty.
Nói một cách khác, có thể hiểu rủi ro hối đoái là sự không chắc chắn về giá
trị của một khoản thu nhập hay một khoản chi trả do sự biến động tỷ giá gây ra có
thể làm tổn thất đến giá trị dự kiến.
- Tác động của rủi ro tỷ giá:
Rủi ro hối đoái cũng có thể coi như rủi ro suy đoán và tác động của nó đối
với các khoản phải thu, phải trả là trái ngược nhau, và tùy thuộc vào vị trí của
doanh nghiệp là nhà xuất khẩu hay nhập khẩu mà tác động của rủi ro hối đoái cũng
khác nhau.
+ Đối với nhà xuất khẩu, tỷ giá biến động sẽ phá vỡ kế hoạch tính toán của
nhà xuất khẩu, chẳng hạn khi giá cả đồng tiền trong nước so với đồng ngoại tệ tăng
(tỷ giá hối đoái giảm) sẽ bất lợi cho nhà xuất khẩu vì tiền bán hàng thu về bằng
ngoại tệ sẽ được ít đồng nội tệ hơn do vậy mua được ít yếu tố đầu vào hơn làm cho
kinh doanh xuất khẩu có thể bị thua lỗ. Biến động tỷ giá hối đoái giảm còn ảnh
hưởng khi nhà xuất khẩu nhận tài trợ xuất khẩu từ ngân hàng bằng nội tệ để phục
vụ sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu.
+ Đối với nhà nhập khẩu, việc lựa chọn đồng tiền thanh toán và đồng tiền
tính toán trong một thương vụ khác nhau cũng gây nên rủi ro cho nhà nhập khẩu
9
khi có biến động tỷ giá. Ngược lại với xuất khẩu, khi tỷ giá hối đoái biến động tăng
(giá cả đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ giảm) sẽ bất lợi cho nhà nhập khẩu vì họ
mua ngoại tệ thanh toán cho hàng hóa nhập khẩu với giá cao nhưng giá cả tiêu thụ
hoặc nguyên vật liệu còn phụ thuộc cung cầu thị trường không thể bù đắp nổi với
biến động thay đổi tỷ giá. Những khoản tín dụng bằng ngoại tệ do ngân hàng cung
cấp sẽ đến hạn trong tương lai càng trở nên lớn hơn do cộng thêm tỷ lệ tỷ giá hối
đoái tăng.
+ Đối với các ngân hàng thương mại: Trong quá trình thực hiện thanh toán

cho khách hàng, vấn đề quản lý nguồn ngoại tệ và hoạt động kinh doanh ngoại tệ để
đảm bảo nhu cầu thanh toán trên cơ sở cân đối tài sản có bằng ngoại tệ là vô cùng
quan trọng, nhằm tránh những rủi ro do biến động tỷ giá gây nên. Chẳng hạn khi
trạng thái ngoại tệ của một ngân hàng là dư thừa, nếu tỷ giá biến động tăng liên tục
thì đối với các nước có hệ thống ngân hàng hoạt động trên thị trường ngoại tệ
không hiệu quả, hoặc khả năng dự trữ của ngân hàng trung ương yếu có thể làm
cho ngân hàng đó luôn đứng trước nguy cơ khan hiếm nguồn ngoại tệ, ngược lại
nếu tỷ giá giảm liên tục thì ngân hàng đó cũng luôn đứng trước nguy cơ lỗ về tỷ
giá.
4. Rủi ro quốc gia
- Khái niệm:
Rủi ro quốc gia là những rủi ro liên quan đến sự thay đổi về chính trị, kinh
tế, về chính sách quản lý ngoại hối - ngoại thương của một quốc gia khiến cho nhà
xuất khẩu không nhận được tiền hàng và nhà nhập khẩu không nhận được hàng
hóa. Loại rủi ro này là do những nguyên nhân khách quan gây nên:
- Xảy ra chiến tranh, đảo chính, biểu tình ở các nước
- Xảy ra khủng hoảng chính trị, khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng tài chính –
tiền tệ gây ra những khó khăn trong thanh toán.
- Những cấm vận trong thanh toán: nước nhập khẩu bị phong tỏa tài khoản do
những món nợ nước ngoài chưa trả, hoặc do quan hệ không bình thường giữa hai
nước có quan hệ kinh tế quốc tế làm cho các hợp đồng ngoại thương, hiệp định
thương mại bị hủy bỏ giữa chừng.
- Dự trữ ngoại hối ở mức thấp và cán cân thanh toán quốc tế của quốc gia bị
thâm hụt nặng nề khiến cho Chính phủ nước nhập khẩu phải đưa ra biện pháp cấm
thanh toán hoặc chuyển ngoại hối ra nước ngoài.
Rủi ro quốc gia của nước nhập khẩu xảy ra khi người mua có khả năng và sẵn
sàng thanh toán cho người bán, song do những biến động hoặc biến cố bất thường
trong quốc gia nhập khẩu khiến cho chính phủ của nước nhập khẩu cấm các công ty
của nước mình thanh toán ngoại tệ ra nước ngoài, hoặc hàng hóa nhập khẩu thuộc
diện cấm nhập khẩu nên không được làm thủ tục thông quan.

10
Rủi ro quốc gia của nước xuất khẩu xuất hiện khi có sự thay đổi về chính
sách ngoại thương, thuế quan của quốc gia đó. Nhà xuất khẩu đã chuẩn bị giao
hàng, song do thuế xuất khẩu tăng hoặc hàng hóa thuộc diện cấm xuất khẩu. Cũng
có khi do quan hệ thanh toán giữa hai quốc gia chưa được bình thường hóa nên gây
khó khăn cho việc nhận tiền hàng của người xuất khẩu.
Rủi ro quốc gia cũng có thề xảy ra đồng thời với nhà xuất khẩu và nhập
khẩu nếu sau khi ký kết hợp đồng ngoại thương chính phủ nước nhập khẩu và xuất
khẩu đều không cho phép nhập khẩu và xuất mặt hàng đó nữa.
Trong kinh doanh quốc tế, việc phòng tránh rủi ro quốc gia là một vấn đề rất
quan trọng đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Vì vậy trước khi tiến hành hoạt
động kinh doanh với đối tác, các nhà quản trị cần nhận dạng và phân tích kỹ cấu
trúc rủi ro quốc gia để từ đó xây dựng các chính sách đề phòng, bảo hiểm.
5. Rủi ro đạo đức
Là những rủi ro xảy ra khi một bên tham gia cố tình không thực hiện đúng
nghĩa vụ của mình gây thiệt hại tới quyền lợi của người khác. Đạo đức ở đây chính
là sự tín nhiệm, uy tín trong kinh doanh. Đây là vấn đề quan trọng trong thương
mại và thanh toán quốc tế, vì các bên đối tác thường ở cách nhau rất xa, thậm chí
không hề gặp nhau trong quá trình thực hiện đàm phán.
5.1. Rủi ro đạo đức nhà nhập khẩu.
Nấu khách mua hàng không phải bạn hàng lâu năm, có uy tín thì rất dễ có
những hành vi lừa người bán. Họ cố tình trì hoãn, từ chối thanh toán bằng những
thủ đoạn nghiệp vụ như bắt lỗi sai sót chứng từ, ép giá người bán để thu lợi cho
mình. Có trường hợp do giá hàng hóa nhập khẩu giảm nên người mua hàng sợ thua
lỗ trong kinh doanh đã có tình không nhận bộ chứng từ để lấy hàng, hoặc trì hoãn
không thanh toán đẩy ngân hàng và nhà xuất khẩu vào tình thế khó khăn.
5.2. Rủi ro đạo đức nhà xuất khẩu.
Khi nhà xuất khẩu cố ý giao hàng không phù hợp với hợp đồng, nhưng lại
xuất trình bộ chứng từ hoàn hảo với các điều khoản ký kết của hợp đồng, hoặc nhà
xuất khẩu lập bộ chứng từ khống giả mạo (không giao hàng). Ngân hàng khi đó sẽ

thực hiện thanh toán và nhà xuất khẩu sẽ phải gánh chịu mọi rủi ro. Nếu ngân hàng
tài trợ cho người nhập khẩu thì rủi ro này ngân hàng cũng phải gánh chịu. Trường
hợp giá cả hàng hóa quốc tế tăng, người bán hàng sợ thiệt không muốn giao hàng
cho người mua nữa, điều này sẽ phá vỡ kế hoạch sản xuất kinh doanh và gây thiệt
hại cho người mua.
5.3. Rủi ro đạo đức của nhà chuyên chở
Người bán hàng giao hàng cho người chuyên chở, nhưng bị họ lừa đảo, nhận
hàng lấy tiền rồi biến mất, hoặc bán mất hàng. Trong khi đó ngân hàng vẫn phải
thực hiện việc thanh toán cho người bán hàng theo hồ sơ chứng từ, còn việc kiện
11
hãng chuyên chở, hoặc chờ bảo hiểm hoàn toàn tách rời nhau. Việc chờ đợi, kiện
tụng rất mất thời gian và tốn kém, gây thiệt hại cho cả người mua và người bán.
5.4. Rủi ro đạo đức của ngân hàng
Trong nhiều trường hợp ngân hàng phát hành cũng vi phạm cam kết như trì
hõa, châp ỳ, hoặc từ chối thanh toán bộ chứng từ cho nhà xuất khẩu. Hoặc ngược
lại đối với sự thiếu trung thực của ngân hàng chiết khấu khi bộ hồ sơ không hoàn
hảo vẫn gửi điện cam kết hồ sơ chuẩn đòi tiền ngân hàng phát hành. Nếu ngân hàng
phát hành tin tưởng thanh toán sẽ gặp rủi ro, việc đòi lại được tiền rất khó khăn.
Như vậy có thể kết luận rằng nguyên nhân sâu xa của rủi ro đạo đức là vấn
đề thông tin không đầy đủ, không cân xứng, thiếu những thông tin xác thực về khả
năng tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh, cũng như uy tín, tính trung thực
của của đối tác. Vì vậy đã đưa ra những quyết định sai lầm dẫn đến rủi ro trong
thanh toán.
6. Rủi ro pháp lý
Rủi ro về pháp lý xảy ra trong trường hợp có tranh chấp hay khiếu kiện giữa
các bên có tham gia thanh toán. Khi đó vấn đề đặt ra là tòa án nước nào sẽ đứng ra
thụ lý và xử vụ án trên cơ sở pháp lý nước nào. Mặc dù trong hợp đồng mua bán đã
đề cập đến vấn đề này, tuy nhiên vẫn còn rất nhiều khó khăn bởi vì không bên nào
có thể thông thạo luật pháp của bên đối tác. Chính vì môi trường pháp lý và luật
pháp của các bên khác nhau nên rủi ro pháp lý là không thể tránh khỏi.

7. Rủi ro trong quá trình hoạt động, tác nghiệp
- Khái niệm: Là những rủi ro sai sót kỹ thuật do chính các bên tham gia gây
nên, rủi ro này được thể hiện trong việc lập các hồ sơ chứng từ không hoàn hảo.
- Nguyên nhân: Rủi ro này này xảy ro chủ yếu là do trình độ của các bên
tham gia còn yếu nên chưa nắm bắt được các yêu cầu của quá trình thanh toán, dẫn
đến sai sót trong quá trình giao dịch từ lúc soạn thảo và ký kết hợp đồng cho đến
khâu lập chứng từ và thanh toán.
Cụ thể các bên gặp rủi ro như sau:
+ Ngân hàng chuyển tiền: Do nhận chuyển tiền cho những hợp đồng thanh
toán vi phạm chế độ quản lý hạn ngạch nhập khẩu, chế độ quản lý ngoại hối, những
hợp đồng thanh toán ma được lập để lợi dụng hoạt động phi pháp
+ Ngân hàng uỷ nhiệm và nhận nhờ thu: Do giao bộ chứng từ nhận hàng cho
khách hàng trước khi nhận được thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán hối phiếu,
nhận và gửi chỉ thị thanh toán không rõ ràng.
+ Các ngân hàng có liên quan trong phương thức tín dụng chứng từ:
Ngân hàng phát hành bao gồm các rủi ro về mặt phát hành và về kiểm tra
chứng từ: Phát hành thư không đúng theo các điều kiện của đơn xin mở L/C, hoặc
12
có những điều khoản bất lợi, dẫn đến các rủi ro: Không những phải chịu chi phí sửa
đổi, đôi khi những điều này lại có lợi cho người bán nên họ sẽ không chấp nhận sửa
đổi nếu họ không có thiện chí vì vậy có thể dẫn đến rủi ro cho người mở kéo theo
rủi ro cho ngân hàng.
Kiểm tra chứng từ không phát hiện được sai sót mà thực hiện thanh toán sẽ
gặp khả năng rủi ro không được hoàn lại tiền từ nhà nhập khẩu.
Ngân hàng xác nhận : Bằng việc gắn thêm các cam kết thanh toán theo thư
tín dụng khi ngân hàng phát hành không thanh toán hoặc không có khả năng thanh
toán cho ngân hàng. Vì vậy nó có rủi ro do:
+ Rủi ro thương mại của ngân hàng phát hành, họ không có khả năng thanh
toán.
+ Rủi ro do kiểm tra bộ chứng từ: Nếu ngân hàng xác nhận thanh toán không

đúng cho người hưởng khi bộ chứng từ có sai sót thì ngân hàng phát hành có quyền
từ chối hoàn tiền cho ngân hàng xác nhận.
Ngân hàng thông báo: Ngân hàng thông báo L/C sẽ không có bất cứ một
cam kết nào khi thông báo thư tín dụng nhưng việc xác thực một thư tín dụng hay
sửa đổi thư tín dụng qua các khóa mật hoặc kiểm tra cẩn thận vể tính chân thật của
nó sẽ có những rủi ro do đã thông báo L/C giả mạo không xác thực mà không lưu ý
cho người được thông báo.
Ngân hàng chiết khấu, thương lượng: Ngân hàng này bao gồm các rui ro của
ngân hàng phát hành, ngân hàng hoàn trả tiền của người hưởng và rủi ro kiểm tra
chứng từ. Nếu ngân hàng thương lượng không kiểm tra chứng từ giao hàng của nhà
xuất khẩu một cách cẩn thận, thích đáng thì những sai sót của bộ chứng từ đã được
thương lượng sẽ bị ngân hàng phát hành từ chối một cách hợp pháp.
II. Phân loại theo các phương thức thanh toán quốc tế
1. Rủi ro trong phương thức chuyển tiền
Trong phương thức thanh toán chuyển tiền Ngân hàng đóng vai trò trung
gian thanh toán phục vụ khách hàng, với vị trí trung gian giữa người chuyển trả tiền
và người thụ hưởng, thực hiện lệnh của các bên liên quan. Vì vậy Ngân hàng
không thể can thiệp vào thiện chí của bên chi trả cho bên thụ hưởng. Rủi ro có thể
xẩy ra đối với phương thức chuyển tiền:
1.1. Rủi ro đối với người mua
Sẽ rất bất lợi cho người mua nếu sau khi chuyển tiền xong, người bán bị phá
sản hoặc giao hàng không đúng số lượng, chủng loại, chất lượng kém hay không
bảo đảm thời gian giao hàng theo đúng thỏa thuận làm ảnh hưởng đến hoạt động
kinh doanh của mình. Vì thế nếu buộc phải thanh toán theo phương thức này, nhà
nhập khẩu nên yêu cầu ngân hàng của nhà xuất khẩu phát hành cho mình một thư
13
bảo lãnh về số tiền ứng trước đó, để tránh rủi ro mất tiền khi người bán không thực
hiện những nghĩa vụ như đã cam kết trong hợp đồng ngoại thương.
1.2. Rủi ro đối với người bán
Rủi ro xảy đến với người bán trong trường hợp nếu người mua thanh toán

sau khi xuất hàng thì việc thanh toán phụ thuộc vào thiện chí của người mua, do đó
bên bán dễ bị bên mua chiếm dụng vốn trong thanh toán.
1.3. Rủi ro đối với ngân hàng phục vụ người mua
Rủi ro đối với ngân hàng phục vụ người mua khi Ngân hàng cho vay thanh
toán để người mua nhập hàng, khi hàng về không đúng phẩm chất, quy cách,
thương vụ thua lỗ, người mua mất khả năng thanh toán, gây tổn thất cho ngân hàng
không thu được nợ.
1.4. Rủi ro đối với ngân hàng phục vụ người bán
Rủi ro đối với ngân hàng phục vụ người bán trong trường hợp Ngân hàng
cho vay thu mua, sản xuất hàng xuất khẩu, người bán không thu hồi được tiền, ảnh
hưởng đến thu nợ của Ngân hàng.
Rủi ro có thể xảy đến với Ngân hàng trong phương thức thanh toán bằng
chuyển tiền cũng có thể do công nghệ thanh toán lạc hậu, chất lượng đường truyển
kém dẫn đến việc chuyển sai hoặc chuyển nhầm số tiền cần thanh toán.
Bên cạnh đó, rủi ro trong phương thức này có thể do sự tắc trách, cẩu thả của
cán bộ thanh toán dẫn đến thanh toán nhầm hoặc chậm thanh toán.
Tóm lại, phương thức thanh toán chuyển tiền là phương thức thanh toán đơn
giản, thủ tục nhanh gọn đối với ngân hàng. Trong phương thức thanh toán này,
Ngân hàng đóng vai trò là trung gian, do đó rủi ro đối với Ngân hàng trong trường
hợp này phần lớn gắn liền với rủi ro tín dụng của Ngân hàng.
2. Rủi ro trong phương thức ghi sổ
Phương thức thanh toán ghi sổ thuận lợi cho người mua, rủi ro cho người
bán.
Thuận lợi cho người mua: Người mua chỉ phải trả tiền khi đã nhận được
hàng hóa, dịch vụ hoặc thậm chí khi tiêu thụ xong hàng hóa và dịch vụ.
Thuận lợi cho người bán: Tiêu thụ được hàng hóa và giữ được thị trường
truyền thống.
Bất lợi cho người bán: Người bán đã chuyển quyền sở hữu đối với hàng hóa
mà không được đảm bảo thanh toán: Có khả năng các sự kiện kinh tế chính trị sẽ
đặt ra các quy định làm chậm trễ hoặc tạm ngừng việc chuyển tiền cho người bán;

vốn của người bán bị đọng cho đến khi người mua nhận hàng, đôi khi gặp sự chây
ỳ không thanh toán của người mua thì việc theo đuổi con nợ gặp phải khó khăn vì
14
ngay từ đầu người mua đã không cần phải phát hành bất cứ chứng từ nhận nợ nào
để cam kết thanh toán màng tính phi lý của mình.
3. Rủi ro trong phương thức nhờ thu
3.1. Rủi ro chủ yếu thuộc về nhà xuất khẩu
- Đối với phương thức thanh toán bằng nhờ thu trơn không đảm bảo quyền
lợi cho bên bán (thanh toán không bình đằng) giữa sự trả tiền và nhận hàng tách
rời, không có sự ràng buộc lẫn nhau. Người mua có thể nhận hàng mà không chịu
trả tiền hoặc trì hoãn việc trả tiền.
- Đối với phương thức thanh toán bằng nhờ thu kèm chứng từ, người bán
không chỉ nhờ Ngân hàng thu hộ tiền mà còn nhờ Ngân hàng khống chế chứng từ
hàng hóa đối với người mua. Với cách khống chế theo bộ chứng từ này quyền lợi
của bên bán được đảm bảo hơn vì sự ràng buộc giữa việc thanh toán và nhận hàng
của người mua. Tuy nhiên trong phương thức thanh toán này vẫn có thể xảy ra rủi
ro đối với người bán. Người bán thông qua Ngân hàng giữ hộ số hồ sơ hàng hóa
mới chỉ đảm bảo được quyền sở hữu hàng hóa của mình, chứ chưa khống chế được
việc trả tiền của người mua. Người mua có thể kéo dài việc trả tiền bằng cách chưa
nhận chứng từ hàng hóa (không cần nhận hàng), không thanh toán khi giá cả trên
thị trường biến động dẫn đến bất lợi cho người bán trong việc giải tỏa hàng hóa và
gặp rủi ro trong tiêu thụ hàng hóa.
3.2. Rủi ro đối với nhà nhập khẩu
Trong phương thức nhờ thu, người mua do quy định họ phải có trách nhiệm
trả tiền ngay hoặc chấp nhận hối phiếu trước khi nhận hàng vì vậy không có điều
kiện kiểm tra hang hóa trước, người mua có thể gặp trường hợp hàng hóa giao
không đúng quy cách, phẩm chất với chứng từ hoặc với hợp đồng.
3.3. Rủi ro đối với ngân hàng trung gian thu hộ
Đối với các ngân hàng ngoài sự cẩn trọng khi thực hiện đúng chỉ thị ủy
nhiệm thu thì rủi ro chủ yếu của ngân hàng là rủi ro tín dụng:

+ Ngân hàng nhận nhờ thu: Gặp rủi ro khi chiết khấu bộ chứng từ mà lại bị
người nhập khẩu từ chối thanh toán hoặc chấp nhận hối phiếu.
+ Ngân hàng ủy nhiệm nhờ thu: Gặp rủi ro khi cấp tín dụng cho khách hàng
nhưng hàng hóa của nhà nhập khẩu lại gặp khó khăn trong tiêu thụ.
4. Rủi ro trong phương thức tín dụng chứng từ
4.1. Rủi ro đối với ngân hàng phát hành
Trong phương thức thanh toán bằng thư tín dụng, các Ngân hàng tham gia
không chỉ đơn thuần chỉ là những trung gian thanh toán mà chính là những thành
viên thực sự trong quá trình thanh toán, là “người” cam kết trả tiền cho người bán
thay cho người mua. Với việc mở L/C cho người hưởng lợi, Ngân hàng phát hành
15
đã thay mặt người nhập khẩu cam kết việc thanh toán cho người hưởng lợi, điều đó
có nghĩa là Ngân hàng phát hành sẽ trả tiền cho người thụ hưởng thực hiện đầy đủ
các điều kiện ngay cả khi người mở không trả hay không muốn thanh toán L/C và
lúc này Ngân hàng sẽ gặp phải rủi ro. Rủi ro này không thuộc về mối quan hệ tín
dụng, vậy nên khi Ngân hàng nhận được thư yêu cầu mở L/C, Ngân hàng cần xem
xét kỹ tình hình tài chính của khách hàng để có thể có các phán quyết chính xác
trước khi mở L/C.
Bên cạnh đó, đối với trường hợp loại L/C không thể hủy ngang khi đã được
phát hành thì Ngân hang không thể tự ý hủy bỏ hoặc sửa đổi, chỉ được phép thông
báo sai sót trong vòng 7 ngày làm việc kể từ khi nhận được hồ sơ chứng từ, nếu qua
thời hạn đã quy định đó thì Ngân hàng mất quyền từ chối và chịu mọi rủi ro, tổn
thất.
4.2. Rủi ro đối với ngân hàng thông báo
Đối với ngân hàng thông báo L/C cần thiết phải xác định tình trạng mã khóa của
Ngân hàng phát hành L/C, nếu không xác định được điều này phải nêu rõ trong
thông báo L/C cho người xuát khẩu và nói rõ không chịu trách nhiệm về tính xác
thực của L/C này, nếu trong việc này Ngân hàng thông báo không cẩn trọng sẽ dẫn
đến rủi ro cho Ngân hàng thông báo và người xuất khẩu.
4.3. Rủi ro đối với ngân hàng chiết khấu

Trong trường hợp nếu các Ngân hàng tham gia thanh toán, chiết khấu bộ
chứng từ không phát hiện ra sai sót hoặc bỏ qua các lỗi cho là nhỏ, sau khi thực
hiện thanh toán hoặc chiết khấu cho người bán Ngân hàng sẽ phải chịu mọi rủi ro
nếu Ngân hàng phát hành L/C từ chối thanh toán. Đặc biệt trong trường hợp Ngân
hàng chiết khấu đồng thời là Ngân hàng xác nhận L/C thì Ngân hàng đó sẽ không
có quyền truy đòi lại người xuất khẩu số tiền đã chiết khấu.
4.4. Rủi ro đối với nhà nhập khẩu
Ngân hàng chỉ giao dịch trên cơ sở chứng từ nên nhà nhập khẩu buộc phải
thanh toán bất kể hàng hóa tốt hay xấu. rủi ro thuộc về phía người mua nếu người
bán cố ý lập các chứng từ hàng hóa giả mạo, người mua sẽ phải gánh chịu những
thiệt hại do lừa đảo từ phía người bán.
Thực tế đã minh chứng không ít nhiều người bán tiền chuyển đi mà hang thì
không thấy về. Điển hình, Tập đoàn Nestle có nhập khẩu bơ từ hãng Latel của Na
Uy để sản xuất các loại sữa giàu dinh dưỡng. Cuộc mua bán được giới thiệu thông
quan một số thông tin trên Internet. Do đang trong lúc cần nguyên liệu gấp nên
Nestle đã nhanh chóng thoả thuận hợp đồng nhập khẩu với Latel. Họ đã thoả thuận
thanh toán theo L/C, vì vội vàng nên Nestle chưa đề cập kỹ các nội dung cụ thể của
L/C mà nhanh chóng chuyển tiền cho Latel theo L/C thông qua một ngân hàng do
Nestle chỉ định. Nhưng rồi, tiền thì được gửi đi mà hàng thì mãi vẫn chưa thấy về.
16
Tìm hiểu kỹ thì Nestle mới vỡ lẽ ra rằng, Latel chỉ là một công ty ảo trên mạng,
không có thật.
4.5. Rủi ro đối với nhà xuất khẩu
Chi phí cao, đôi khi không đáp ứng được những quy định của L/C nên việc
thanh toán có thể bị trì hoãn, thậm chí bị từ chối thanh toán. Một ví dụ điển hình đó
là:
Lagergren, một hãng kinh doanh các sản phẩm nội thất lớn của Thuỵ Điển,
đã bán một lô hàng đồ gỗ cho tập đoàn Cadtrak Furniture Co.Ltd của Đài Loan. Về
phần mình, theo thoả thuận giữa hai bên, Cadtrak đã mở tại ngân hàng của mình
một thư tín dụng L/C để chuyển nhượng số tiền hàng trị giá 760.000 USD cho

Lagergren qua một ngân hàng Thuỵ Điển. Theo thoả thuận giữa hai bên, hàng sẽ
được giao thành hai chuyến, mỗi chuyến cách nhau muộn nhất là 20 ngày . Tiền
hàng cũng được thanh toán làm hai lần và việc thanh toán qua L/C sẽ tuân theo
UCP500.
Có hai điều kiện được quy định cho thư tín dụng. Thứ nhất, ngân hàng Đài
Loan sẽ tiến hành thanh toán khi nhận được một bộ đầy đủ vận đơn đường biển đã
xếp hàng hoàn hảo. Thứ hai, ngân hàng Thuỵ Điển sẽ phải đợi giấy chấp nhận hàng
do ngân hàng tại Đài Loan của Cadtrak cấp. Giấy này sẽ được cấp sau khi có thông
báo của Cadtrak rằng họ đã nhận được hàng và hàng đã được cơ quan y tế Đài Loan
tại cảng chấp nhận. Sau khi hàng đến Đài Loan, ngân hàng Thuỵ Điển đã gửi bộ
chứng từ của chuyến hàng cho Cadtrak và đã bị Cadtrak từ chối với lý do thời gian
giữa hai chuyến giao hàng đã vượt quá 20 ngày. Ngân hàng Thuỵ Điển đã không
chấp nhận điều này. Do vậy, ngân hàng đã thuyết phục Cadtrak chấp nhận điều
không đúng nguyên tắc trên. Sau cùng, Cadtrak chấp nhận thời gian giao hàng quá
20 ngày nhưng vẫn bảo lưu ý kiến từ chối của mình với lý do đợi sự chấp nhận lô
hàng của Bộ Y tế Đài Loan, cơ quan mà công ty Cadtrak nộp đơn xin kiểm tra
hàng. Sau đó không lâu, Cadtrak thông báo rằng họ chính thức từ chối hàng của
Lagergren vì Cơ quan Y tế Đài Loan tại cảng đã phát hiện ra nguy cơ mối mọt
trong lô hang đồ gỗ này.Lagergren lập luận rằng, trong biên bản của Cơ quan y tế
đã không có dòng chữ bác bỏ sản phẩm. Tuy nhiên, Cadtrak vẫn giữ nguyên quan
điểm của mình vớI nhận định rằng: “theo thông lệ, hàng đồ gỗ phải đủ độ tin cậy để
lưu kho trong vòng 12 tháng”. Cadtrak cho rằng sản phẩm mà họ đặt đã không
được đảm bảo về chất lượng và bởi vậy khăng khăng không chấp nhận lô hang này.
17
18
PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG
THANH TOÁN QUỐC
I. Một số giải pháp hạn chế rủi ro với chủ thể là các Ngân hàng Thương
mại.
1. Đối với bản thân mỗi Ngân hàng thương mại cần phải thực hiện:

1.1. Các giải pháp chung:
* Nhanh chóng xây dựng quy trình quản trị rủi ro chính thức trong thanh
toán quốc tế:
Quản trị rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế phải là một quá trình gồm
những công đoạn khác nhau, chịu ảnh hưởng lẫn nhau: kết quả của công đoạn này
là cơ sở để tiến hành các công đoạn tiếp theo. Quy trình phải bao gồm ít nhất 5
bước cụ thể: (1) Nhận dạng rủi ro có thế xảy ra trong hoạt động thanh toán quốc tế;
(2) Đo lường rủi ro, tổn thất trong hoạt động thanh toán quốc tế; (3) Giám sát rủi
ro trong thanh toán quốc tế; (4) Lựa chọn kỹ thuật phòng ngừa rủi ro trong thanh
toán quốc tế; (5) Báo cáo và đánh giá về quản trị rủi ro trên thực tế.
* Hoàn thiện chiến lược quản trị rủi ro tổng thể và phổ cập một cách rộng rãi
trong toàn hệ thống ngân hàng:
Rủi ro có thể xảy ra từ tất cả các hoạt động kinh doanh cơ bản của ngân hàng
thương mại, do vậy ngân hàng thương mại không thể chỉ có chiến lược quản trị rủi
ro thanh toán quốc tế hay một vài loại rủi ro cụ thể nào khác. Các ngân hàng cần
hoàn thiện chiến lược quản trị rủi ro toàn diện và mang tính dài hạn đối với tất cả
các hoạt động kinh doanh. Tất cả mọi cán bộ công nhân viên, cổ đông của Ngân
hàng đều phải tham gia đóng góp ý kiến hoàn thiện chiến lược.
* Kiện toàn về tổ chức cũng như hoạt động của bộ phận quản trị rủi ro để
tăng cường quản trị rủi ro của Ngân hàng.
Chất lượng và hiệu quả của công tác quản trị rủi ro phản ánh năng lực quản
trị rủi ro của ngân hàng. Để đạt được chất lượng và hiệu quả cao, một trong những
giải pháp cần thiết là phải tách bạch giữa bộ phận quản trị rủi ro và bộ phận kinh
doanh tiến tới quản trị rủi ro theo ngành dọc. Trên cơ sở đó bộ phận này mới có thể
giám sát chặt chẽ toàn bộ các rủi ro và điều hành chính sách quản lý rủi ro phù hợp
với từng thời kỳ.
* Đầu tư cơ sở vật chất và kỹ thuật và công nghệ hiện đại phục vụ hoạt động
quản trị rủi ro trong thanh toán quốc tế:
* Nâng cao năng lực quản trị rủi ro đối với đội ngũ cán bộ quản lý các cấp
* Chú trọng đào tạo và phổ cập kiến thức về quản trị rủi ro cho cán bộ nhân

viên:
19
Sử dụng những chuyên gia giỏi chuyên nghiên cứu về rủi ro và quản trị rủi
ro làm hạt nhân trong việc tham mưu cho lãnh đạo Ngân hàng và trong việc phổ
cập kiến thức và kinh nghiệm của cán bộ công nhân viên về rủi ro và quản trị rủi ro.
Mỗi khi ban hành quy định mới hay và bổ sung, sửa đồi các cơ chế, quy chế cần
cập nhật về quản trị rủi ro, Ban lãnh đạo Ngân hàng cần thiết lắng nghe ý kiến của
các chuyên gia coi trọng những đề xuất khách quan và khoa học.
Tích cực tìm kiếm cơ hội đào tạo kết hợp với việc chủ động mở các lớp đào tạo
ngắn hạn về chuyên môn nghiệp vụ và ý thức đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ công
nhân viên theo mô hình và phương thức các lớp bồi dưỡng kiến thức về rủi ro trên
đây để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho tất cả mọi cán bộ, nhân viên.
Bố trí sắp xếp có hiệu quả đội ngũ cán bộ nghiệp vụ theo nguyên tắc đúng
người đúng việc, bố trí công tác phù hợp với khả năng, trình độ và sở trường của
mỗi người.
1.2. Các giải pháp cụ thể:
* Nâng cao năng lực chuyên môn của cán bộ quản trị, điều hành trong hoạt
dộng thanh toán quốc tế của ngân hàng và cán bộ chuyên trách quản trị rủi ro
Để nâng cao năng lực quản trị rủi ro của cán bộ quản trị điều hành và cán bộ
chuyên trách, cách tốt nhất trong giai đoạn hiện nay vẫn kết hợp đào tạo, bồi dưỡng
với sử dụng tư vấn. Mở riêng các lớp bồi dưỡng ngắn hạn với trình độ nâng cao dần
cho các cán bộ điều hành các cấp với phương pháp và học liệu riêng phù hợp. Mặt
khác, cán bộ quản trị điều hành cần có các chuyên gia về quản trị rủi ro để tham
mưu tư vấn mỗi khi cần quyết định những vấn đề liên quan.
*Tăng cường hơn nữa việc kiểm soát tín dụng cho vay xuất khẩu nhằm
phòng ngừa rủi ro
Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Cần coi trọng hệ thống
kiểm tra nội bộ, xây dựng hệ thống kiểm tra ngày càng hoàn thiện nhằm đảm bảo
an toàn trong từng nghiệp vụ.
* Củng cố và tăng cường khả năng quản trị rủi ro gây ra do nghiệp vụ của

nhân viên
Cần xây dựng cơ chế, quy chế nghiệp vụ hoạt động thanh toán quốc tê đảm
bào đồng bộ, chặt chẽ, hạn chế đến mức thấp nhất khả năng rủi ro chủ quan trong
quá trình hoạt động.
* Hoàn thiện các hoạt động quản trị rủi ro tỷ giá
Cần nghiên cứu áp dụng các biện pháp quản trị rủi ro tỷ giá bằng cách sử
dụng thường xuyên và hiệu quả nghiệp vụ phái sinh ngoại hối để chủ động hạn chế
rủi ro tỷ giá.
*Thiết lập hoạt động kiểm tra, giám sát hoạt động quản trị rủi ro của Hội
đồng quản trị
20
Hoạt động kiểm tra, giám sát của Ban kiểm soát đảm bảo hiệu quả hoạt động
và thông tin cần thiết để chỉ đạo Tổng giám đốc điều hành thực hiện quản lý có
hiệu quả, phòng ngừa rủi ro ở tầm vĩ mô và vi mô do khách quan và chủ quan.
*Hoàn thiện chính sách đào tạo và trả lương cho các cán bộ quản trị rủi ro và
nhân viên thanh toán quốc tế
*Thực hiện thưởng, phạt nghiêm minh đối với các cá nhân, đơn vị trong việc
quản trị rủi ro
Đây là cơ chế động lực khuyến khích những đơn vị, cá nhân làm tốt công tác
phòng ngừa rủi ro, đảm bào an toàn trong kinh doanh. Đồng thời cần thiết phải có
hình thức xử phạt những đơn vị, cá nhân đề xảy ra rủi ro do yếu tố chủ quan ảnh
hưởng đến kết quả kinh doanh và uy tín của Ngân hàng tùy theo mức độ vi phạm.
2. Đối với NHNN
2.1. Tăng cường quyền tự chủ kinh doanh và tính độc lập cho các ngân
hàng thương mại.
Trên cơ sở thống nhất hóa hệ thống thông tin và chế độ báo cáo thống kê. Đề
nghị chính phủ cho phép thí điểm mở rộng hơn quyền tự chủ của các ngân hàng
thương mại cổ phần và coi đây là một trong những điều kiện cần thiết tạo ra những
động lực để thúc đẩy việc nâng cao chất lượng hoạt động, quản trị rủi ro và hiệu
quả kinh doanh của ngân hàng. Hiện nay có rất nhiều các nghiệp vụ kinh doanh và

phòng chống rủi ro được ngân hàng ở tất cả các nước có nền kinh tế thị trường thực
hiện nhưng lại chưa thể thực hiện ở Việt Nam bởi những quy định giới hạn của
Ngân hàng nhà nước. Cụ thể là các hoạt động phát sinh ngoại hối, lãi suất và
chứng khoán hoặc bị cấm, hoặc chỉ cho phép một số ngân hàng thực hiện. Đây là
sự thiếu bình đẳng và tạo ra môi trường cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt
động tài chính ngân hàng. Vậy đề nghị Chính phủ và Ngân hàng nhà nước cần
nhanh chóng bãi bỏ các quy định hạn chế về nghiệp vụ kinh doanh và phòng chống
rủi ro cũng như các quy định hành chính khác. Thay vào đó, nên áp dụng những
phương pháp quản lý mang tính chât pháp lý - kinh tế thì việc quản lý sẽ có hiệu
quả cao hơn mà năng lực quản trị nói chung và quản trị rủi ro trong hoạt động của
các ngân hàng thương mại nói riêng cũng sẽ được cải thiện.
2.2. Củng cố và phát triển thị trường tiền tệ
Hầu hết các công cụ thực hiện phòng chống rủi ro của ngân hàng thương mại
đều được thực hiện trên thị trường tiền tệ. Do vậy, củng cố và phát triển thị trường
tiền tệ có ý nghĩa rất quan trọng đến việc nâng cao năng lực quản trị rủi ro của ngân
hàng thương mại. Trong những năm gần đây, thị trường tiền tệ nước ta đã từng
bước được hình thành và phát triển, song vẫn chưa đủ để đáp ứng nhu cầu phát
triền của nền kinh tế và hoạt động ngân hàng. Trên thực tế, các ngân hàng thương
mại Việt Nam chưa thực sự tận dụng được những ưu thế của thị trường tiền tệ kể từ
việc xác định lãi suất đến việc thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh để hạn chế rủi
21
ro. Sự phối hợp giữa Bộ tài chính và Ngân hàng Nhà nước vừa qua chưa chặt chẽ,
nhất là về cơ chế xác định lãi suất của thị trường tiền tệ (Vẫn lệ thuộc vào lãi suất
cơ bản của Ngân hàng Nhà nước). Do vậy, Chính phủ và Ngân hàng nhà nước và
Bộ tài chính cần tiếp tục giải phóng đối với lãi suất, chuyển sang áp dụng cơ chế thị
trường xác định lãi suất. Điều này cũng phù hợp với xu hướng xóa bỏ tài chính
kiềm chế, thực hiện hội nhập quốc tế về ngân hàng tài chính một cách chủ động và
tích cực.
2.3. Hỗ trợ các ngân hàng thương mại trong quá trình thực hiện hội
nhập quốc tế.

Ngân hàng Nhà nước tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác đa phương, song
phương nhằm khơi thông các quan hệ ngân hàng và tận dụng các nguồn vốn từ các
nước và các tổ chức quốc tế như: tham gia các điều ước quốc tế về ngân hàng, các
thỏa thuận ngân hàng trung ương, các diễn đàn khu vực và quốc tế về ngân hàng,
các thỏa thuận ngân hàng trung ương, các diễn đàn khu vực và quốc tế về dịch vụ
ngân hàng. Cải cách lại hệ thống kế toán cho phù hợp với các chuẩn mực kiểm toán
quốc tế. Chú trọng đến việc đầu tư cho hạ tầng cơ sở của các ngân hàng như hệ
thống thông tin, mạng máy tính. Kết hợp với sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế để
tiếp tục hoàn thiện hệ thống thông tin, kế toán và xử lỹ thông tin kế toán ngân hàng,
hệ thống chuyển tiền tự động.
Rà soát để xây dựng các môi trường pháp lý và môi trường kinh doanh thuận
lợi, bình đẳng, an toàn cho các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng hoạt động
trên lãnh thổ Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng.
Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối cho phù hợp với tiến trình hội
nhập quốc tế về tài chính - ngân hàng theo hướng xây dựng cơ chế quản lý ngoại
hối mở. Trên cơ sở đó, tạo điều kiện phát triển các nghiệp vụ trên thị trường ngoại
hối, đặc biệt là các nghiệp vụ phòng chống rủi ro về hối đoái trong cơ cấu tài sản
của ngân hàng và bảo vệ lợi ích của khách hàng.
Về phía các cơ quan Nhà nước cần xây dựng hệ thống thông tin về pháp luật,
thị trường của các quốc gia khác, thu thập thông tin về sự thay đổi của thị trường,
pháp lý của các quốc gia đó. Các cơ quan đại diện cho Nhà nước ở các thị trường
phải trực tiếp nắm bắt thông tin về các doanh nghiệp, pháp lý, thị trường để cung
cấp cho doanh nghiệp Việt Nam. Chính những nguồn thông tin này là một kênh
quan trọng để doanh nghiệp trong nước phòng tránh, giảm thiểu được rủi ro khi
tham gia các hoạt động thương mại quốc tế.
II. Một số giải pháp hạn chế rủi ro với các nhà xuất nhập khẩu
1. Giải pháp chung đối với cả hai bên.
- Tìm hiểu bạn hàng kỹ lưỡng, bao gồm năng lực tài chính, tiểu sử hoạt động
sản xuất kinh doanh, lĩnh vực xuất nhập khẩu
- Tham khảo ý kiến ngân hàng về quá trình kinh doanh của đối tác.

22
- Nghiên cứu kỹ quy định về điều khoản phạt trong hợp đồng (Penalty),
trong đó quy định phạt bên nào không thực hiện nghĩa vụ của mình một cách đầy
đủ.
- Yêu cầu cả hai bên ký quỹ tại một ngân hàng để đảm bảo thực hiện hợp
đồng.
Ngoài ra, trong hoạt động thanh toán quốc tế cung thường xảy ra tranh chấp
liên quan đến pháp lý. Để khắc phục, hạn chế những rủi ro pháp lý, các nhà xuất
nhập khẩu cần:
Thứ nhất, phải tự nâng cao nhận thức của mình về pháp luật thương mại
quốc tế; chủ động tìm hiểu về những quy định pháp lý liên quan đến xuất nhập
khẩu tại các thị trường lớn để đưa ra cho mình những đối sách hợp lý.
Thứ hai, có kế hoạch, phòng chống rủi ro pháp lý bằng các xây dựng pháp
chế doanh nghiệp chuyên nghiệp với những nhân viên đủ năng lực, trình độ để ký
kết hợp đồng giao thương với nước ngoài.
Thứ ba, tạo thói quen sử dụng tư vấn của luật sư, chuyên gia pháp lý trong
hoạt động thương mại quốc tế.
Thứ tư, kiểm tra xác minh tư cách pháp lý và năng lực tài chính của đối tác
nước ngoài trước khi chính thức ký hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế hoặc khi
thiết lập các quan hệ hợp tác khác với đối tác nước ngoài.
Thứ năm, riêng trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, doanh nghiệp xuất nhập
khẩu nên sử dụng dịch vụ thanh toán quốc tế của các ngân hàng lớn trong nước để
thực hiện phương thức thanh toán với nước ngoài.
Trên cơ sở đó các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nên lựa chọn một phương
thức thanh toán quốc tế để bảo vệ quyền, lợi ích của mình. Tuy nhiên cũng cần có
một vài phương thức thanh toán dự phòng trong trường hợp không thỏa thuận được
với đối tác phương thức tối ưu có lợi cho mình.
2. Những giải pháp hạn chế rủi ro đối với nhà nhập khẩu:
Nếu đối tác không tin cậy hay đối tác có chủ ý “lừa đảo”, rất có thể bạn sẽ
gặp rắc rối bởi những loại giấy tờ giả. Ngoài ra, vấn đề mâu thuẫn giữa hàng và

chứng từ cũng là yếu tố cần để ý, bởi rất có thể hàng hoá khi nhập khẩu sẽ bị hải
quan tịch thu do không có sự trùng khớp với giấy tờ. Để tránh những rủi ro này,
bạn cần:
- Đưa ra các yêu cầu chặt chẽ, thống nhất giữa nội dung và hình thức
chứng từ, không yêu cầu chung chung. Đặc biệt là điều khoản sau:
+ Hàng hóa: phải nêu rõ đặc điểm hàng hóa, quy cách phẩm chất, nguồn gốc
xuất xứ, số lượng cụ thể
23
+ Phương thức giao hàng: Nếu nhà xuất khẩu là người thuê phương tiện vận
tải thì phải quy định rõ phương thức vận chuyển là gì, yêu cầu chất lượng đối với
phương tiện chuyên chở ví dụ: tuổi tàu…., phương thức đóng gói hàng hóa, các ký
hiệu cụ thể trên bao bì đóng gói để hướng dẫn bốc xếp và đặc biệt phải quy định rõ
phí bốc xếp do bên nào chịu.
+ Thời gian giao hàng: Ghi cu thể thời gian giao hàng. Nên ghi cụ thể ngày
giao hàng cuối cùng. Điều khoản phạt nên ghi rõ nếu giao hàng chậm thì bên bán
phải trả khoản tiền phạt là bao nhiêu.
+ Thanh toán: Ghi rõ phương thức thanh toán. Người mua nên chọn phương
thức an toàn đặc biệt đối với đối tác lần đầu giao dịch. Người mua nên quy định:
thanh toán bao nhiêu % khi nhận chứng từ, bao nhiêu % sau khi nhận hàng. Nên
quy định rõ đồng tiền tính toán, đồng tiền thanh toán.
+ Nơi giải quyết tranh chấp: cố gắng thỏa thuận nếu có tranh chấp sẽ giải
quyết tại nước của nhà nhập khẩu.
+ Bảo hiểm hàng hóa: phải quy định rõ loại bảo hiểm, thường là loại A (Bảo
hiểm tất cả các rủi ro)
- Vận đơn do hãng tàu đích danh lập. Khi xếp hàng hoá phải có sự giám sát của đại
diện phía nhà nhập khẩu để kịp thời đối chiếu sự thật giả của vận đơn và lịch trình
tàu (đối với lô hàng có giá trị lớn).
- Ðề nghị nhà xuất khẩu gửi thẳng 1/3 bộ vận đơn gốc (bản chính)
- Hoá đơn thương mại đòi hỏi phải có sự xác nhận của đại diện phía nhà nhập khẩu
hoặc của Phòng Thương mại hoặc hoá đơn lãnh sự (Consulars invoice).

- Giấy chứng nhận chất lượng do cơ quan có uy tín ở nước xuất khẩu hoặc quốc tế
cấp hoặc có sự kiểm tra giám sát và ký xác nhận vào giấy chứng nhận của đại diện
phía nhà nhập khẩu.
- Cung cấp giấy kiểm định chất lượng và số lượng hàng hóa (Certificate of
inspection)
Trên hợp đồng phải quy định rõ: Hàng hóa phải được kiểm định bởi một tổ
chức kiểm định có uy tín nhưng kết quả kiểm định cuối cùng để giải quyết tranh
chấp (nếu có) phải do tổ chức kiểm định tại nước nhập khẩu.
- Yêu cầu phải đưa ra những công cụ đảm bảo an ninh thanh toán của ngân
hàng như Standby L/C, Bank Guarantee, Performance Bond (chỉ áp dụng đối với
những hợp đồng lớn và khách hàng không quen biết nhau) để đảm bảo quyền lợi
của nhà nhập khẩu.
- Đối với các rủi ro trong quá trình vận chuyển như: lựa chọn hãng tàu không tin
cậy, hư hỏng hàng hóa do xếp hàng không đúng quy định, có thể hạn chế bằng
cách:
24
- Giành quyền chủ động thuê tàu, chỉ định hãng tàu nổi tiếng. Đặc biệt nên
thuê tàu của các hãng có văn phòng giao dịch tại nước mình, nên quy định tuổi tàu
(nếu nhà xuất khẩu thuê)
- Mua bảo hiểm cho hàng hóa.
- Trong hợp đồng nên rằng buộc trách nhiệm của nhà xuất khẩu trong vấn đề
lên tàu như nhập khẩu theo điều kiện FOB, CFR, hay CIF (được quy định trong
Incorterms 2000).
3. Những giải pháp hạn chế rủi ro với nhà xuất khẩu:
Đối với nhà xuất khẩu rủi ro lớn nhất là khách hàng không thanh toán hoặc
thanh toán chậm khi hàng đã được chuyển cho người nhập khẩu. Để giảm các rủi ro
này, ngoài một số giải pháp chung như đã nêu ở trên. Người xuất khẩu cần:
- Lựa chọn loại hình thanh toán an toàn cho người xuất khẩu: Điện chuyển
tiền trong trường hợp trả trước khi giao hàng, L/C trong trường hợp thanh toán khi
nhận hàng. Nhìn chung nếu người xuất khẩu không thể yêu cầu người nhập khẩu

thanh toán trước nên yêu cầu người nhập khẩu thanh toán bao nhiêu % trước khi
giao hàng, bao nhiêu % khi bên mua nhận chứng từ. Trong một số trường hợp
người xuất khẩu có thể sử dụng phương thức bao thanh toán.
- Trong trường hợp tỷ giá đồng tiền thanh toán tăng, người nhập khẩu sẽ bị
thiệt hại do phải bỏ nhiều đồng nội tệ của nước nhập khẩu để mua đồng tiền thanh
toán để trả cho người xuất khẩu. Trong trường hợp này rủi ro người nhập khẩu
không thanh toán/ hủy hợp đồng là khá lớn. Bên cạnh đó khi tỷ giá giảm, số tiền
thực thu bằng đồng nội tệ của nước người xuất khẩu lại ít đi. Để tránh trường hợp
này, nhà nhập khẩu nên lựa chọn đồng tiền thanh toán là đồng tiền có tính ổn định
cao hoặc sử dụng rổ tiền tệ và các công cụ phái sinh như: hợp đồng quyền chọn,
hợp đồng tương lai…
- Trên hợp đồng nên quy định rõ thời hạn thanh toán và điều khoản phạt khi
thanh toán chậm. Người xuất khẩu cũng nên quy định nơi giải quyết tranh chấp tại
nước người xuất khẩu.
- Để tránh trường hợp người nhập khẩu từ chối thanh toán do hàng thiếu mặc
dù với số lượng không nhiều (vì nhiều nguyên nhân khách quan như: hao hụt trong
quá trình vận chuyển, cân đong đo đếm…), người xuất khẩu nên quy định đúng sai
số lượng hàng giao có thể chấp nhận được trong hợp đồng và trên các chứng từ
giao hàng.
- Các khoản phí như: phí bốc xếp hàng lên/xuống phương tiện vận tải, phí tu
chỉnh L/C,… cung nên nêu rõ trong hợp đồng để tránh các tranh chấp, hoặc chần
chừ trong việc thanh toán các khoản phí này.
- Nhà xuất khẩu nên quy định rõ ràng các trường hợp bất khả kháng trong
hợp đồng mà người xuất khẩu có thể được miễn trách nếu gặp phải. Trong quá trình
25

×