Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

những nét cơ bản về hoạt động của vụ huy động vốn kho bạc nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.47 KB, 32 trang )

Lời mở đầu
Kể từ dấu mốc lịch sử năm 1986, nền kinh tế nước ta chuyển từ tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất
nước đã có nhiều đổi mới. Từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu chúng
ta đang trong quá trình xây dựng đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng luôn được duy trì ở
mức cao. Trong công cuộc xây dựng đất nước ấy không thể không nhắc đến vai
trò của Kho bạc Nhà nước. Trải qua gần 20 năm hoạt động, Kho bạc Nhà nước
Việt Nam đã vượt qua nhiều khó khăn, từng bước ổn định và phát triển, cùng
với toàn ngành Tài chính đạt được nhiều kết quả tích cực trong hoạch định
chính sách, quản lý, phân phối nguồ lực của đất nước. Có thể khẳng định rằng
hệ thống Kho bạc Nhà nước đã đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới nền tài
chính quốc gia thông qua những hoạt động cụ thể trong việc tập trung nhanh,
đầy đủ nguồn thu cho ngân sách nhà nước, thực hiện các chính sách xã hội và
đảm bảo an ninh quốc phòng, huy động một lượng vốn lớn cho đầu tư phát triển
kinh tế. Kho bạc Nhà nước đã đảm bảo cung cấp thông tin chính xác về tình
hình thu chi ngân sách phục vụ sự chỉ đạo điều hành của các cơ quan trung
ương và chính quyển địa phương, góp phần đắc lực vào việc nâng cao chất
lượng quản lý, hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước. Sau một thời gian được
thực tập tại Kho bạc Nhà nước cùng với sư hướng dẫn chỉ bảo của giáo viên
hướng dẫn và các cán bộ hướng dẫn thực tập, em đã hoàn thành báo cáo tổng
hợp về đơn vị.
Báo cáo thực tập tổng hợp gồm 3 phần
Chương 1: Tổng quan về Kho bạc Nhà nước
Chương 2: Những nét cơ bản về hoạt động của Vụ Huy động vốn Kho
bạc Nhà nước
Chương 3: Chiến lược phát triển Kho bạc Nhà nước
1
Chương I : Tổng quan về Kho bạc Nhà nước
1.1. Lịch sử phát triển hình thành của Kho Bạc Nhà nước Việt Nam.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, chuẩn bị cho sự


ra đời và hoạt động của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 28
tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ cách mạng lâm thời
quyết định thành lập ngành Tài chính của nước Việt Nam độc lập. Để có một
cơ quan chuyên môn, đặc trách nghiên cứu và giải quyết các vấn đề tài chính –
tiền tệ ngày 29 tháng 5 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số
75/SL thành lập Nha ngân khố trực thuộc Bộ Tài chính. Theo Sắc lệnh
Số75/SL, nhiêm vụ chủ yếu của Nha ngân khố là: Tập trung quản lý các khoản
thu về thuế, tiền thu công phiếu kháng chiến; đảm phụ quốc phòng (tiền ủng hộ
quân đội); Quản lý và giám sát các khoản cấp phát theo dự toán được duyệt;
chịu trách nhiệm về việc xác nhận và thanh toán kinh phí cho các đơn vị sử
dụng ngân sách; làm thủ tục quyết toán với cơ quan tài chính; Tổ chức phát
hành giấy bạc Việt Nam (tiền tài chính) trong toàn quốc; Ðấu tranh trên mặt
trận tiền tệ, thu hẹp và loại bỏ dần phạm vi lưu hành của tiền Ngân hàng Ðông
dương và các loại tiền khác của địch; Tích cực đấu tranh để thực hiện các
nguyên tắc cơ bản về thể lệ thu, chi và kế toán đại cương nhằm tăng cường
công tác quản lý tài chính ngay trong điều kiện đất nước đang có chiến tranh.
Với mục đích thực hiện chính sách động viên các nguồn lực tài chính
trong nước, từng bước ổn định nghĩa vụ đóng góp của nhân dân, phấn đấu thăng
bằng thu chi ngân sách; đồng thời đẩy mạnh tăng giá sản xuất, mở rộng giao
lưu hàng hóa, tiếp tục củng cố và ổn định tiền tệ, ngày 6 tháng 5 năm 1951, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã kí Sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt
Nam, đồng thời giải thể Nha Ngân Khố và Nha Tín dụng sản xuất trực thuộc Bộ
Tài chính. Để thực hiện các chủ trương và yêu cầu hiện tại, đồng thời nhằm cụ
thể hóa chức năng và nhiệm vụ của cơ quan quản lý quỹ ngân sách nàh nước
ngày 20 tháng 7 năm 1951, Thủ tướng Chính phủ đã ký Nghị định số 107/TTg
(ngày nay gọi là Quyết định) thành lập Kho bạc Nhà nước đặt trong Ngân hàng
Quốc gia Việt nam và thuộc quyền quản trị của Bộ Tài chính. Theo Nghị định
2
Số 107/TTg, nhiệm vụ chủ yếu của Kho bạc Nhà nước là quản lý thu chi Quỹ
ngân sách Nhà nước.

Ngày 27 tháng 7 năm 1964, Hội động Chính phủ đã ban hành Quyết
định sô 113/CP thành lập Vụ Quản lý quỹ ngân sách thuộc Ngân hàng Nhà
nước, thay thế cơ quan Kho bạc Nhà nước đặt tại Ngân hàng Quốc gia theo
quyết định số 107/TTg ngày ngày 20-7-1951 của Thủ tướng Chính phủ.
Ngày 4 tháng 1 năm 1990, Hội đồng Bộ trưởng đã ký Quyết định số
07/HÐBT tái thành lập hệ thống Kho bạc Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính với
chức năng và nhiệm vụ chủ yếu là Quản lý quỹ ngân sách Nhà nước và các quỹ
dự trữ tài chính Nhà nước; tổ chức huy động vốn cho ngân sách nhà nước và
cho đầu tư phát triển. Theo Quyết định Số 07/HÐBT, hệ thống Kho bạc Nhà
nước được tổ chức thành 3 cấp: ở Trung ương có Cục Kho bạc Nhà nước trực
thuộc Bộ Tài chính; ở tỉnh, thành phố (trực thuộc Trung ương) có Chi cục Kho
bạc Nhà nước; ở huyện, quận và cấp tương đương có Chi nhánh Kho bạc Nhà
nước. Ngày 1-4-1990, hệ thống Kho bạc Nhà nước được tổ chức khá hoàn
chỉnh về chức năng nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và chính thức đi vào hoạt động
trện phạm vi cả nước.
Trải qua hơn nửa thế kỷ ra đời và phát triển, kế thừa và phát huy những
truyền thống tốt đẹp vốn có của nền Tài chính cách mạng Việt Nam, Nha Ngân
khố trong những ngày đầu của Chính quyền cách mạng (thời kỳ1946 - 1951);
tiếp đến là Kho bạc nhà nước và Cơ quan quản lý Quỹ ngân sách Nhà nước trực
thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (thời kỳ 1951-1989), đặc biệt việc tái
thành lập hệ thống Kho bạc Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính (từ năm 1990
đến nay) đã không ngừng nỗ lực phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính
trị được giao, đóng góp có hiệu quả trong quá trình xây dựng và củng cố nền tài
chính độc lập tự chủ, trực tiếp tham gia vào công cuộc đổi mới, xây dựng và
phát triển đất nước Việt Nam ngày càng văn minh, giàu đẹp.
1.2.Vị trí và chức năng của Kho bạc Nhà nước.
1.2.1 Kho bạc Nhà nước là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính, thực hiện chức
năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính quản lý nhà nước về quỹ ngân
3
sách nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước và các quỹ khác của Nhà nước được

giao quản lý; quản lý ngân quỹ; tổng kế toán nhà nước; thực hiện việc huy động
vốn cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển thông qua hình thức phát
hành trái phiếu Chính phủ theo quy định của pháp luật.
1.2.2 Kho bạc Nhà nước có tư cách pháp nhân, con dấu có hình Quốc huy,
được mở tài khoản tại ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại theo
quy định của pháp luật, có trụ sở tại thành phố Hà Nội.
1.3 Nhiệm vụ và quyền hạn của Kho bạc Nhà nước.
1.1.1 Trình Bộ trưởng Bộ Tài chính để trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
xem xét, quyết định:
- Các dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị
quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; dự thảo nghị định của Chính phủ; dự
thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ về lĩnh vực quản lý của Kho bạc Nhà
nước;
- Chiến lược, quy hoạch, chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình hành
động, đề án, dự án quan trọng về quản lý quỹ ngân sách nhà nước, các quỹ tài
chính nhà nước và các quỹ khác của Nhà nước.
1.3.2 Trình Bộ trưởng Bộ Tài chính xem xét, quyết định:
- Dự thảo thông tư và các văn bản khác về lĩnh vực quản lý của Kho bạc Nhà
nước;
- Kế hoạch hoạt động hàng năm của Kho bạc Nhà nước.
1.3.3 Ban hành văn bản hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ, văn bản quy
phạm nội bộ, văn bản cá biệt thuộc phạm vi quản lý của Kho bạc Nhà nước.
1.3.4 Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án, đề án thuộc lĩnh vực quản lý quỹ ngân
sách nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước và các quỹ khác của Nhà nước sau
khi được cấp có thẩm quyền ban hành hoặc phê duyệt.
1.3.5 Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về lĩnh vực quản lý của Kho
bạc Nhà nước.
1.3.6 Quản lý quỹ ngân sách nhà nước, quỹ tài chính nhà nước và các quỹ
khác được giao theo quy định của pháp luật:

- Tập trung và phản ánh đầy đủ, kịp thời các khoản thu ngân sách nhà nước; tổ
chức thực hiện việc thu nộp vào quỹ ngân sách nhà nước các khoản tiền do các
4
tổ chức và cá nhân nộp tại hệ thống Kho bạc Nhà nước; thực hiện hạch toán số
thu ngân sách nhà nước cho các cấp ngân sách theo quy định của Luật Ngân
sách nhà nước và của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
- Kiểm soát, thanh toán, chi trả các khoản chi của ngân sách nhà nước và các
nguồn vốn khác được giao theo quy định của pháp luật;
- Quản lý quỹ ngoại tệ tập trung của ngân sách nhà nước, định kỳ công bố tỷ giá
hạch toán phục vụ cho việc hạch toán các khoản thu chi ngân sách nhà nước
bằng ngoại tệ;
- Quản lý, kiểm soát và thực hiện nhập, xuất các quỹ tài chính nhà nước và các
quỹ khác do Kho bạc Nhà nước quản lý; quản lý các khoản tạm thu, tạm giữ,
tịch thu, ký cược, ký quỹ, thế chấp theo quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền;
- Quản lý tài sản quốc gia quý hiếm được giao theo quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền; quản lý tiền, tài sản, các loại chứng chỉ có giá của Nhà
nước và của các đơn vị, cá nhân gửi tại Kho bạc Nhà nước.
1.3.7 Được trích tài khoản của tổ chức, cá nhân mở tại Kho bạc Nhà nước để
nộp ngân sách nhà nước hoặc áp dụng các biện pháp hành chính khác để thu
cho ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật; từ chối thanh toán, chi trả
các khoản chi không đúng, không đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật.
1.3.8 Tổ chức hạch toán kế toán ngân sách nhà nước, các quỹ và tài sản của
Nhà nước được giao quản lý, các khoản vay nợ, viện trợ, trả nợ của Chính phủ
và chính quyền địa phương theo quy định của pháp luật; báo cáo tình hình thực
hiện thu, chi ngân sách nhà nước cho cơ quan tài chính cùng cấp và cơ quan nhà
nước liên quan theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
1.3.9 Tổ chức thực hiện công tác thống kê kho bạc nhà nước và chế độ báo
cáo tài chính theo quy định của pháp luật.
1.3.10 Tổ chức quản lý, điều hành ngân quỹ kho bạc nhà nước tập trung, thống

nhất trong toàn hệ thống:
- Mở tài khoản, kiểm soát tài khoản tiền gửi và thực hiện thanh toán bằng tiền
mặt, chuyển khoản đối với tổ chức, cá nhân có quan hệ giao dịch với Kho
bạc Nhà nước;
5
- Mở tài khoản tiền gửi hoặc tài khoản thanh toán tại ngân hàng nhà nước và các
ngân hàng thương mại để thực hiện các nghiệp vụ thu, chi, thanh toán của Kho
bạc Nhà nước theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính;
- Được sử dụng ngân quỹ kho bạc nhà nước để tạm ứng cho ngân sách nhà nước
theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính;
- Xây dựng và phát triển hệ thống các công cụ, nghiệp vụ quản lý hiện đại theo
nguyên tắc đảm bảo an toàn và hiệu quả ngân quỹ kho bạc nhà nước.
1.3.11 Tổ chức huy động vốn cho ngân sách nhà nước và đầu tư phát triển
thông qua việc phát hành trái phiếu Chính phủ.
1.3.12 Tổ chức quản trị và vận hành hệ thống thông tin quản lý ngân sách và
kho bạc.
1.3.13 Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; xử lý theo thẩm quyền
hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật đối với
hành vi vi phạm pháp luật trong phạm vi quản lý nhà nước của Kho bạc Nhà
nước; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí trong việc sử dụng tài sản, kinh phí được giao theo quy định của pháp luật.
1.3.14 Hiện đại hoá hoạt động Kho bạc Nhà nước:
- Xây dựng cơ chế, chính sách và quy trình nghiệp vụ phù hợp với thông lệ quốc
tế và thực tiễn của Việt Nam;
- Tổ chức quản lý, ứng dụng công nghệ thông tin, kỹ thuật tiên tiến, hiện đại hoá
cơ sở vật chất của hệ thống Kho bạc Nhà nước.
1.3.15 Thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế thuộc lĩnh vực Kho bạc Nhà nước
theo phân công, phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tài chính và quy định của pháp
luật.
1.3.16 Thực hiện công tác tổ chức và cán bộ:

6
- Xây dựng tổ chức bộ máy và phát triển nguồn nhân lực bảo đảm yêu cầu cải
cách về cơ chế, chính sách và hiện đại hoá công nghệ quản lý;
- Quản lý tổ chức bộ máy, biên chế; thực hiện chế độ tiền lương và các chế độ,
chính sách đãi ngộ, thi đua khen thưởng, kỷ luật, đào tạo, bồi dưỡng đối với cán
bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý của Kho bạc Nhà nước theo
phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tài chính và quy định của pháp luật.
1.3.17 Quản lý kinh phí do ngân sách nhà nước cấp và tài sản được giao theo
quy định của pháp luật; được sử dụng các khoản thu phát sinh trong hoạt động
nghiệp vụ theo chế độ quản lý tài chính của Nhà nước.
1.3.18 Thực hiện cải cách hành chính theo mục tiêu và nội dung chương trình
cải cách hành chính được Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt.
1.3.19 Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác do Bộ trưởng Bộ Tài chính
giao và theo quy định của pháp luật.
1.4. Cơ cấu tổ chức.
Kho bạc Nhà nước được tổ chức thành hệ thống dọc từ Trung ương đến
địa phương theo đơn vị hành chính, bảo đảm nguyên tắc tập trung, thống nhất.
7
1.4.1.Cơ quan Kho bạc Nhà nước ở Trung ương
- Vụ Tổng hợp - Pháp chế;
- Vụ Kiểm soát chi ngân sách nhà nước;
- Vụ Huy động vốn;
- Vụ Kế toán nhà nước;
- Vụ Kho quỹ;
- Vụ Hợp tác quốc tế;
- Vụ Tổ chức cán bộ;
- Vụ Tài vụ - Quản trị;
- Văn phòng;
- Thanh tra;
- Sở Giao dịch Kho bạc Nhà nước;

- Cục Công nghệ thông tin;
- Trường Nghiệp vụ Kho bạc;
- Tạp chí Quản lý Ngân quỹ Quốc gia.
1.4.2. Cơ quan Kho bạc Nhà nước ở địa phương
- Kho bạc Nhà nước ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là Kho
bạc Nhà nước cấp tỉnh) trực thuộc Kho bạc Nhà nước;
- Kho bạc Nhà nước ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là
Kho bạc Nhà nước cấp huyện) trực thuộc Kho bạc Nhà nước cấp tỉnh.
Kho bạc Nhà nước được tổ chức điểm giao dịch tại các địa bàn có khối lượng
giao dịch lớn theo quy định của Bộ Tài chính.
8
Kho bạc Nhà nước cấp tỉnh, Kho bạc Nhà nước cấp huyện có tư cách pháp
nhân, con dấu riêng, được mở tài khoản tại ngân hàng nhà nước và các ngân
hàng thương mại theo quy định của pháp luật.
1.5. Mô hình Kho bạc Nhà nước Cộng hoà Pháp
Tháng 3 năm 1989, đoàn cán bộ Liên Bộ Tài chính – Ngân hàng Nhà
nước do đồng chí Chu Tam Thức, Thứ trưởng Bộ Tài chính và đồng chí Lê Hồ,
Phó Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước dẫn đầu đã trực tiếp nghiên cứu và
khảo sát mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống Kho bạc Nhà nước Cộng
hoà Pháp. Mặc dù tình hình kinh tế - tài chính của Việt Nam và Pháp có nhiều
điểm khác biệt, song mô hình tổ chức của Kho bạc Pháp được coi là phù hợp để
Bộ Tài chính nghiên cứu trình Chính phủ đề án xây dựng hệ thống Kho bạc
Nhà nước Việt Nam hiện nay.
Hệ thống Kho bạc Nhà nước Pháp bao gồm Vụ Kế toán công thuộc Bộ
Kinh tế - Tài chính và các đơn vị Kho bạc Nhà nước tại các địa phương ( trực
thuộc Vụ Kế toán công). Chức năng, nhiệm vụ của hệ thống Kho bạc Nhà nước
Pháp được quy định như sau:
1. Thực hiện tập trung các khoản thu và cấp phát thanh toán các khoản
chi của Nhà nước;
2. Quản lý tài chính và biên chế của các cơ quan nhà nước tại địa

phương;
3. Quản lý các khoản nợ của Chính phủ và các nghiệp vụ về ngân quỹ;
4. Theo dõi tiền gửi tiền gửi tiết kiệm;
5. Kiểm soát các tổ chức
6. Nghiên cứu kinh tế, tài chính và truyền tin;
7. Thực hiện, quản lý các hoạt động hợp tác đối ngoại;
Toàn bộ hệ thống Kho bạc Nhà nước Pháp có khoảng 60 ngàn người. Số
cán bộ làm việc ở Trung ương chỉ khoảng 3%. Số cán bộ làm việc ở địa phương
chiếm khoảng 97%.
Tổ chức bộ máy của hệ thống Kho bạc Nhà nước Pháp như sau:
9
- Ở Trung ương có Vụ Kế toán công chịu trách nhiệm về các khoản thu,
chi cho ngân sách nhà nước. Bên cạnh Vụ trưởng Vụ Kế toán công có kế toán
trưởng Kho bạc Nhà nước.
- Ở tỉnh, thành phố có Chi cục Kho bạc.
- Ở cấp huyện có Chi nhánh Kho bạc.
10
Chương II : Những nét cơ bản về hoạt động của Vụ Huy động vốn
Kho bạc Nhà nước
Vụ huy động vốn thực hiện nhiệm vụ huy động vốn cho ngân sách nhà
nước và cho đầu tư phát triển thông qua phát hành các loại trái phiếu. Vì vậy
hoạt động của Vụ huy động vốn chủ yếu gắn liền với công tác phát hành trái
phiếu Chính phủ.
2.1. Quá trình phát triển thị trường trái phiếu
Trước khi hệ thống Kho bạc Nhà nước ra đời, trái phiếu Chính phủ được
phát hành chủ yếu dưới hình thức công trái xây dựng Tổ quốc và do Ngân hàng
Nhà nước đảm nhiệm. Việc phát hành không thường xuyên và kết quả còn hạn
chế do đồng tiền chưa ổn định và nguồn tích lũy trong dân còn ở mức thấp.
Sau khi hệ thống Kho bạc Nhà nước được thành lập, trái phiếu Chính
phủ được tổ chức phát hành thường xuyên dưới nhiều hình thức và phương thức

khác nhau, đã mở ra một trang sử mới của công tác huy động vốn để đáp ứng
nhu cầu bù đắp bội chi ngân sách và tăng cường nguồn vốn cho đầu tư phát
triển kinh tế.
Quá trình phát triển của thị trường trái phiếu có thể được chia thành 3
giai đoạn chủ yếu sau:
Giai đoạn 1991 - 1994
Tín phiếu kho bạc lần đầu tiên được phát hành thí điểm tại thành phố Hải
Phòng loại kì hạn 3 tháng, lãi suất 5%/tháng và do Kho bạc Nhà nước bán trực
tiếp cho các tầng lớp dân cư. Kết quả phát hành rất khả quan: trong 6 tháng cuối
năm 1991 đã thu được 204,4 tỷ đồng. Từ thành công bước đầu đó, Bộ Tài chính
đã quyết định mở rộng địa bàn phát hành tín phiếu kho bạc ra các thành phố
lớn: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và từ cuối năm 1992 phát hàng rộng khắp
các tỉnh, thành phố trong cả nước. Nguồn tín phiếu được sử dụng chủ yếu để
cân đối ngân sách nhà nước.
Có thể nói đây là giai đoạn thử nghiệm trong việc sử dụng công cụ trái
phiếu Chính phủ để huy động vốn cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát
triển. Hánh lang pháp lý cho công tác phát hành trái phiếu Chính phủ chưa đầy
đủ, hiệu lực pháp lý chưa cao; các hình thức và phương thức phát hành còn sơ
11
khai… Mặc dù vậy, những kết quả đạt được trong giai đoạn này đã khẳng định
trái phiếu Chính phủ là một kênh huy động vốn hết sức quan trọng để bù đắp
bội chi ngân sách nhà nước và đầu tư các công trình trọng điểm quốc gia.
Giai đoạn 1995 - 1999
Để tạo hành lang pháp lý cho công tác huy động vốn, ngày 26/7/1994,
Chính phủ ban hành Nghị định 72/CP về quy chế phát hành trái phiếu Chính
phủ. Theo đó, cơ chế phát hành trái phiếu Chính phủ đã được cải tiến và mở
rộng với nhiều hình thức khác nhau: phát hành trực tiếp qua hệ thống Kho bạc
Nhà nước, đấu thầu qua Ngân hàng Nhà nước và đại lý phát hành.
Kho bạc nhà nước chỉ phát hành trực tiếp ra công chúng các loại trái
phiếu kho bạc có kỳ hạn từ 1-2 năm. Các đợt phát hành được thực hiện tương

đối liên tục trong năm tại tất cả các đơn vị Kho bạc Nhà nước.
Đối với tín phiếu kho bạc ngắn hạn ( dưới 1 năm), Kho bạc Nhà nước đã
phối hợp với Ngân hàng Nhà nước đưa vào hoạt động thị trường đấu thầu theo
hình thức chiết khấu. Đối tượng tham gia đấu thầu là các định chế tài chính, chủ
yếu là các ngân hàng thương mại và các công ty bảo hiểm
Hoạt động thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc tuy còn ở giai đoạn thử
nghiệm song đã mang lại những kết quả thiết thực. Khối lượng tín phiếu đấu
thầu tăng qua các năm và là nguốn quan trọng để bù đắp thiếu hụt ngân sách
nhà nước. Cơ chế đấu thầu đã bước đầu tạo ra cơ hội cạnh tranh, hình thành lãi
suất tín phiếu theo cơ chế thị trường. Tín phiếu phát hành theo hình thức ghi sổ
nên giảm bớt chi phí phát hành. Ngân hàng Nhà nước thực hiện việc quản lý sổ
sách và thanh toán tín phiếu đã cho phép rút ngắn thời gian thanh toán và tạo
thuận lợi cho việc chuyển giao tín phiếu trên thị trường thứ cấp. Nghiệp vụ
quản lý phát hành và thanh toán tương đối đơn giản, thuận lợi cho cả nhà phát
hành và các nhà đầu tư.
12
Giai đoạn 2000 đến nay
Nhằm tăng cường khả năng huy động các nguồn vốn trong nước cho đầu
tư phát triển kinh tế, đồng thời tạo hàng hóa cho thị trường chứng khoán đã
được thàng lập và đang đi vào hoạt động, ngày 13 tháng 1 năm 2000, Chính
phủ ban hành Nghị định số 01/2000/NĐ-CP về quy chế phát hành trái phiếu
Chính phủ, thay thế Nghị định 72/CP. Theo Nghị định mới, bên cạnh việc duy
trì phương thức đấu thầu tín phiếu qua Ngân hàng Nhà nước và phát hành trái
phiếu trực tiếp ra công chúng qua hệ thống Kho bạc nhà nước, trái phiếu Chính
phủ còn được phát hành theo hai phương thức mới: đấu thầu qua Trung tâm
Giao dịch chứng khoán và bảo lãnh phát hành.
2.2. Các loại trái phiếu Chính phủ và phương thức phát hành
2.2.1.Trái phiếu Chính phủ do Kho bạc Nhà nước phát hành bao gồm:
- Tín phiếu kho bạc: có thời gian dưới 1 năm, phát hành để huy động vốn bù đắp
thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước và tạo thêm công cụ cho thị trường

tiền tệ.
- Trái phiếu kho bạc: là loại trái phiếu Chính phủ có thời hạn từ 1 năm trở lên
mục đích huy động vốn cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển theo
dự toán ngân sách nhà nước đã được Quốc hội phê duyệt.
- Trái phiếu công trình Trung ương: là loại trái phiếu Chính phủ có thời hạn từ 1
năm trở lên phát hành để huy động vốn theo quyết định của Thủ tướng Chính
phủ, cho các dự án thuộc nguồn vốn đầu tư của ngân sách trung ương, đã ghi
trong kế hoạch nhưng chưa bố trí vốn ngân sách trong năm.
- Trái phiếu ngoại tệ: là loại trái phiếu Chính phủ có thời hạn từ 1 năm trở lên
phát hành để huy động vốn cho các mục tiêu theo chỉ định của Thủ tướng
Chính phủ.
- Công trái xây dựng Tổ quốc phát hành nhằm huy động nguồn vốn trong nhân
dân để đầu tư xây dựng những công trình quan trọng quốc gia và các công trình
13
thiết yếu khác phục vụ sản xuất, đời sống, tạo cơ sở vật chất, kỹ thuật cho đất
nước.
2.2.2.Phương thức phát hành
- Tín phiếu kho bạc đấu thầu qua NHNN: Ngân hàng Nhà nước là đại lý cho Bộ
Tài chính trong việc phát hành và thanh toán tín phiếu, thực hiện nghiệp vụ đấu
thầu tín phiếu kho bạc, tổ chức và giám sát thị trường mua bán tín phiếu kho
bạc sau khi đấu thầu. Tín phiếu có thời hạn dưới 1 năm. Đối với tượng tham gia
thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc chủ yếu là các ngân hàng thương mại.
Nguồn thu từ phát hành trái phiếu được các đơn vị trúng thầu chuyển vào tài
khoản của KBNN mở tại NHNN ngay trong ngày phát hành. Trước hạn thanh
toán tín phiếu 1 ngày, KBNN làm thủ tục chuyển tiền cho NHNN để thanh toán
cho chủ sở hữu tín phiếu.
- Trái phiếu kho bạc, trái phiếu ngoại tệ, trái phiếu công trình trung ương được
phát hành thông qua các phương thức: bán lẻ qua KBNN, đấu thầu qua NHNN,
đấu thầu qua Trung tâm Giao dịch chứng khoán và bảo lãnh phát hành:
* Đấu thầu trái phiếu ngoại tệ qua NHNN: cơ chế phát hành, thanh toán trái phiếu

tương tự như đối với đấu thầu tín phiếu kho bạc.
* Bán lẻ qua hệ thống KBNN: đã tạm dừng từ cuối năm 2006 để chuyển sang đấu
thầu, bảo lãnh.
* Đấu thầu qua Trung tâm Giao dịch chứng khoán: kỳ hạn trái phiếu trên 1 năm;
phương thức đấu thầu theo kiêu Hà Lan; lãi suất trái phiếu được hình thành qua
kết quả đấu thầu; đối tượng tham gia thị trường đấu thầu là các ngân hàng
thương mại, các công ty chứng khoán được Trung tâm Giao dịch chứng khoán
công nhận là thành viên thị trường.
Nguồn thu từ phát hành trái phiếu được các đơn vị trúng thầu chuyển
vào tài khoản của KBNN mở tại NHNN ngay trong ngày phát hành. Trái phiếu
sau khi phát hành được niêm yết tại Trung tâm Giao dịch chứng khoán và lưu
ký tại Trung tâm Lưu ký chứng khoán. Trước hạn thanh toán gốc, lãi trái phiếu
14
1 ngày, KBNN làm thủ tục chuyển tiền cho Trung tâm Lưu ký chứng khoán để
thanh toán cho chủ sở hữu trái phiếu.
* Bảo lãnh phát hành: Kỳ hạn trái phiếu từ 1 năm trở lên; việc lựa chọn các tổ
chức bảo lãnh được thực hiện thông qua đấu thầu lãi suất. Các tổ chức bảo lãnh
phần lớn là các ngân hàng và công ty chứng khoán có nhiệm vụ phân phối trái
phiếu ra công chúng và được hưởng tỷ lệ phí trên số tiền trái phiếu nhận bảo
lãnh.
Quy trình thu phát hành, lưu ký, niêm yết và thanh toán trái phiếu thực hiện
tương tự trái phiếu đấu thầu qua Trung tâm Lưu ký chứng khoán.
2.2.3. Quy trình xây dựng kế hoạch và thực hiện
Hàng năm, căn cứ vào nhiệm vụ huy động vốn cho ngân sách nhà nước
và cho đầu từ phát triển đã được Quốc hội phê duyệt, Bộ Tài chính giao kế
hoạch phát hành cho Kho bạc Nhà nước.
Căn cứ vào kế hoạch hàng năm, Kho bạc Nhà nước sẽ phối hợp với Vụ
Ngân sách Nhà nước xây dựng kế hoạch phát hành hàng quý, cụ thể theo các
phương thức phát hành theo từng loại trái phiếu, kỳ hạn, mục đích huy động.
Căn cứ vào kế hoạch quý, Kho bạc Nhà nước sẽ chủ động xây dựng kế

hoạch phát hành từng đợt để phối hợp với các đơn vị có liên quan (Ngân hàng
Nhà nước, Trung tâm Giao dịch chứng khoán,…) triển khai thực hiện.
2.3 Vài nét về tình hình hoạt động trong các năm qua của Vụ Huy động vốn
2.3.1. Hoạt động nghiệp vụ
Năm 2008, nhiệm vụ huy động vốn cho NSNN và đầu tư phát triển được
Bộ Tài chính giao là 63.200 tỷ đồng (NSNN: 42.300 tỷ đồng, cho đầu từ phát
triển: 20.000 tỷ đồng). Bước sang năm 2009 thì nhiệm vụ huy động vốn được
giao là 106.000 tỷ đồng ( NSNN: 50.000 tỷ đồng, cho đầu tư phát triển: 56.000)
và đã được điều chỉnh xuống còn 88.200 tỷ đồng tại Báo cáo Bộ Tài chính ngay
15
12/10/2009 của Vụ Ngân sách Nhà nước. Cụ thể có thể xem trong Bảng 1 và
Bảng 2.
Vụ Huy động vốn đã phối hợp tốt với Vụ Ngân sách Nhà nước trong
công tác xây dựng kế hoạch huy động vốn hàng quý để thông báo công khai
cho các thành viên thị trường, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư chủ động bố trí
vốn tham gia mua trái phiếu Chính phủ.
Phối hợp tốt với Vụ Tài chính ngân hàng tham mưu cho Bộ Tài chính
trong việc điều hành khung lãi suất trái phiếu Chính phủ hàng tháng; đồng thời
thường xuyên theo dõi tình hình thì trường, xác định rõ lãi suất huy động trái
phiếu tại các phiên đấu thầu, bảo lãnh hợp lý, qua đó tiết kiệm chi phí, nâng cao
hiệu quả công tác huy động vốn cho NSNN và đầu tư phát triển.
Phối hợp chặt chẽ với các đơn vị liên quan thuộc KBNN trong hoạt động
quản lý phát hành, thanh toán trái phiếu Chính phủ; tổ chức công tác thanh toán
gốc; lãi trái phiếu cho các chủ sở hữu trái phiếu chính xác, kịp thời, bảo đảm
quyền lợi của nhà đầu tư tham gia mua trái phiếu Chính phủ.
Đã phối hợp với Vụ Ngân sách Nhà nước, Vụ Tài chính Ngân hàng xây
dựng phương án, trình Bộ Tài chính ban hành quyết định sô 2324/QĐ-BTC
ngày 24/9/2009 phát hành trái phiếu kho bạc 2 năm, lãi suất 9,00%/năm bán lẻ
qua hệ thống KBNN.
Bảng 1: Tổng vốn huy động so với nhiệm vụ được giao

Đơn vị: tỷ đồng
Năm 2008 Năm 2009
Nhiệm vụ huy động vốn
được giao
62.300 106.000
Tổng vốn đã huy động 40.327 33.000
Tỷ lệ (huy động/ kế hoạch) 64,7% 31,1%
16
Một số nhận xét, đánh giá:
Thực hiện nhiệm vụ huy động vốn cho NSNN và cho đầu tư phát triển,
Vụ Huy động vốn đã triển khai đồng bộ các kênh đấu thầu và bảo lãnh phát
hành trái phiếu Chính phủ, duy trì đều đặn việc tổ chức các đợt phát hành theo
đúng lịch biểu đã công bố. Trong 2 năm 2008 và 2009 là thời gian mà nền kinh
tế thế giới cũng như trong nước lâm vào khủng hoảng, 8 tháng đầu năm 2008
nền kinh tế có nhiều diễn biến xấu, thị trường tài chính và giá cả luôn biến động
nên thị trường trái phiếu Chính phủ gặp rất nhiều khó khăn. Cụ thể có thể thấy
rằng kết quả huy động vốn rất thấp, năm 2008 là 64,7% và năm 2009 chỉ là
31,1%. Từ tháng 8 năm 2008, thị trường vốn có dấu hiệu phục hồi, Vụ huy
động vốn đã tổ chức phát hành tín phiếu, trái phiếu thường xuyên, số lượng
thành viên thị trường tham gia tương đối đều đặn, số phiên đấu thầu, bảo lãnh
thành công tăng lên đáng kể. Từ kết quả đó Bộ Tài chính đã giao nhiệm vụ huy
động vốn năm cho KBNN là 106.000 tỷ đồng nhưng do hậu quả của cuộc
khủng hoảng trong năm 2008, nền kinh tế vẫn chưa thể hồi phục hoàn toàn.
Chính phủ thực hiện các giải pháp kích cầu và hỗ trợ lãi suất, thị trường biến
động; đặc biệt những tháng cuối năm thị trường bất động sản, chứng khoán và
vàng rất nóng, thu hút vốn của các nhà đầu tư, các tổ chức tài chi chính, ngân
hàng thương mại, thị trường trái phiếu Chính phủ gặp rất nhiều khó khăn.
Trước tình hình thực tế nên nhiệm vụ huy động vốn năm 2009 đã được điều
chỉnh xuống 88.200 tỷ đồng. Tuy nhiên đến hết năm 2009, tổng vốn huy động
được vẫn chỉ dừng lại ở 33.000 tỷ đồng, chỉ đạt 37,4% so với kế hoạch điều

chỉnh.Vụ Huy động vốn đã tích cực đối thoại và vận động các thành viên thị
17
trường, chủ yếu là các ngân hàng thương mại; đồng thời thường xuyên báo cáo
lãnh đạo KBNN, lãnh đạo Bộ Tài chính về diễn biến tình hình thị trường để có
những chỉ đạo điều hành phù hợp về lãi suất, thời hạn trái phiếu.
Bảng 2: Tổng vốn huy động theo từng phương thức phát hành trái phiếu
Đơn vị: tỷ đồng
Phương thức phát
hành
Năm
2008
Năm
2009
Tăng tuyệt đối
Tăng tương đối
%
Đấu thầu tín phiếu
qua NHNN
18.465 10.000 - 8.464 - 45.84
Đấu thầu trái phiếu
qua TTGDCK
4.292 2.000 - 2.292 - 53.40
Bảo lãnh phát hành 15.070 4.000 - 11.070 - 73.46
BHXH mua 2500 6.000 3.500 140
Bán lẻ trái phiếu - 1.000 - -
18
Phát hành trái phiếu
ngoại tệ
- 10.000 - -
2.3.2. Công tác nghiên cứu, xây dựng đề án, chính sách

Thực hiện chỉ đạo của lãnh đạo, đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý,
Vụ Huy động vốn đã tích cực triển khai công tác nghiên cứu, xây dựng đề án
chính sách:
- Nghiên cứu xây dựng đề án phát hành bổ sung và tái cơ cấu trái phiếu
Chính phủ; đề án thí điểm sử dụng tồn ngân KBNN mua lại trái phiếu Chính
phủ trước hạn.
- Tham gia Tổ xây dựng dự thảo Luật Quản lý nợ công và các văn bản
hướng dẫn.
- Tham gia với Vụ Tài chính ngân hàng sửa đổi Nghị định
141/2003/NĐ-CP của Chính phủ.
- Tham gia có chất lượng với các đơn vị chủ trì thuộc KBNN, Bộ Tài
chính các đề án chính sách liên quan đến công tác huy động vốn và các hoạt
động nghiệp vụ KBNN.
2.3.3. Công tác chỉ đạo, điều hành hệ thống
Bên cạnh các hoạt động nghiệp vụ, công tác chỉ đạo điều hành hệ thống
cũng được tập trung vào công tác quản lý phát hành, thanh toán trái phiếu, công
trái qua hệ thống KBNN:
- Chủ trì phối hợp với các đơn vị liên quan trình lãnh đạo KBNN ký ban
hành Công văn số 548/KBNN-HĐV, Công văn số 549/KBNN-HĐV ngày
10/4/2009; hướng dẫn, chỉ đạo KBNN các tỉnh, thành phố tổ chức thanh toán
trái phiếu giao thông, thuỷ lợi phát hành năm 2003 bằng nội tệ và ngoại tệ từ
ngày 15/4/2009.
19
- Chủ trì phối hợp với các đơn vị liên quan trình ban lãnh đạo KBNN ký
ban hàng Công văn số 1724/KBNN-HĐV ngày 24/9/2009 hướng dẫn các
KBNN địa phương tổ chức triển khai phát hành trái phiếu kho bạc 2 năm. Ban
hành các công văn, công điện hướng dẫn, chỉ đạo các KBNN địa phương phát
hành giấy chứng nhận sở hữu trái phiếu, thực hiện công tác báo cá; đôn đốc các
KBNN địa phương, tích cực tuyên truyền, vận động các tầng lớp dân cư, doanh
nghiệp, ngân hàng mua trái phiếu kho bạc để hoàn thành chỉ tiêu được giao.

- Chủ trì, phối hợp với Vụ Tài chính ngân hàng, Cục quản lý giá trình Bộ
Tài chính ban hành công văn hướng dẫn Sở Tài chính, KBNN các tỉnh, thành
phố về căn cứ thanh toán công trái ghi thu bằng thóc, bằng vàng phát hành giai
đoạn 1983-1988.
- Hướng dẫn, trả lời các KBNN địa phương các nội dung liên quan đến
xử lý thanh toán trái phiếu, trái phiếu báo mất, phân phối chứng chỉ trái phiếu
kho bạc 2 năm theo đề nghị của các KBNN địa phương, hỗ trợ các KBNN địa
phương xử lý các vấn đề phát hành trái phiếu 2 năm, các giao dịch thanh toán
trên chương trình BMS, phục vụ kịp thời công tác phát hành, thanh toán trái
phiếu Chính phủ tại các địa phương.
2.4. Một số tồn tại, khó khăn, vướng mắc
Diễn biến tình hình thị trường tài chính, thị trường vốn năm 2009 không
thuận lợi cho công tác phát hành trái phiếu, lãi suất huy động vốn trên thị
trường tăng, các ngân hàng, thành viên thị trường rất hạn chế vốn khả dụng
trong điều kiện khung lãi suất hàng tháng của Bộ Tài chính điều chỉnh không
nhiều do đó việc huy động của KBNN đã gặp nhiều khó khăn. Mặt khác từ cuối
năm 2008 do khủng hoảng tài chính toàn cầu, các nhà đầu tư nước ngoài đã rút
khỏi thị trường trái phiếu Chính phủ Việt Nam khá nhiều và chưa quay trở lại
trong năm 2009. Phương thức phát hành trái phiếu còn chậm đổi mới làm giảm
tính thanh khoản của trái phiếu, không hấp dẫn các nhà đầu tư.
20
Một số thủ tục về phát hành, thanh toán, chuyển nhượng trái phiếu… đã
gây khó khăn cho các KBNN địa phương trong quá trình thanh toán trái phiếu
cho chủ sở hữu, đặc biệt đối với các loại trái phiếu ghi danh, mệnh giá nhỏ.
Việc thanh toán trái phiếu trên chương trình BMS tại các KBNN địa
phương cũng gặp khó khăn do phải xử lý các sai sót trong quá trình thanh toán
trong điều kiện khối lượng công việc, chứng từ nhiều, đặc biệt loại trái phiếu
Chính phủ phát hành cho giao thông thuỷ lợi năm 2004 có tem lĩnh lãi định kỳ.
2.5. Kế hoạch, giải pháp thực hiện nhiệm vụ năm 2010
2.5.1. Nhiệm vụ trọng tâm

- Tập trung nghiên cứu, triển khai các đề án, chính sách nhằm tiếp tục cải
tiến công tác phát hành trái phiếu Chính phủ, đáp ứng các yêu cầu đặt ra đối với
công tác huy động vốn cụ thể:
+ Triển khai phát hành bổ sung, tái cơ cấu trái phiếu đã phát hành và thí
điểm mua lại trái phiếu Chính phủ khi tình hình thị trường phù hợp.
+ Tiếp tục phối hợp với các đơn vị liên quan thuộc Bộ Tài chính dự thảo
Nghị định thay thế Nghị định 141/2003/NĐ-CP của Chính phủ, các thông tư
hướng dẫn và Quyết định sửa đổi, bổ sung Quyết định số 46/2006/QĐ-BTC.
- Tiếp tục tổ chức huy động vốn cho NSNN và cho đầu tư phát triển theo
nhiệm vụ Bộ Tài chính giao để bù đắp bội chi NSNN và cho các công trình giao
thông, thuỷ lợi, dự án y tế, giáo dục.
- Tổ chức chỉ đạo, hướng dẫn KBNN các địa phương tổ chức triển khai
thanh toán công trái giáo dục và trái phiếu giao thông, thuỷ lợi phát hành năm
2005.
2.5.2. Giải pháp triển khai thực hiện
- Nắm bắt và theo dõi thường xuyên tình hình thị trường vốn trong điều
kiện thị trường tài chính trong nước và quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, tổ
21
chức các phiên đấu thầu, bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ huy động tối
đã vốn cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển.
- Tăng cường việc phát hành trái phiếu Chính phủ theo lô lớn, tiến tới áp
dụng ở tất cả các đợt đấu thầu trái phiếu qua Sở giao dịch chứng khoán.
- Nghiên cứu với Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội nghiên cứu phương
án tái cấu trúc thị trường trái phiếu Chính phủ sau khi được Bộ Tài chính phê
duyệt.
- Phối hợp với Vụ Ngân sách Nhà nước xây dựng kế hoạch phát hành chi
tiết hàng quý năm 2010 để thông báo đến các thành viên thị trường.
- Phối hớp với Vụ Tài chính ngân hàng xây dựng khung pháp lãi suất trái
phiếu Chính phủ hàng tháng.
- Phối hợp với Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước duy trì và phát triển thị

trường trái phiếu chuyên biệt, nhằm nâng cao tính thanh khoản và khả năng huy
động trên thị trường sơ cấp.
- Phối hợp với các đơn vị liên quan thuộc KBNN thực hiện tốt công tác
tổng hợp, đối chiếu số liệu huy động vốn phục vụ công tác quản lý, thông tin,
báo cáo.
22
Chương III : Chiến lược phát triển Kho bạc Nhà nước
Xây dựng Kho bạc Nhà nước hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả và
phát triển ổn định vững chắc trên cơ sở cải cách thể chế, chính sách, hoàn thiện
tổ chức bộ máy, gắn với hiện đại hoá công nghệ và phát triển nguồn nhân lực để
thực hiện tốt các chức năng: quản lý quỹ ngân sách nhà nước và các quỹ tài
chính nhà nước; quản lý ngân quỹ và quản lý nợ Chính phủ; tăng cường năng
lực, hiệu quả và tính công khai, minh bạch trong quản lý các nguồn lực tài
chính của Nhà nước trên cơ sở thực hiện tổng kế toán nhà nước. Đến năm 2020,
các hoạt động Kho bạc Nhà nước được thực hiện trên nền tảng công nghệ thông
tin hiện đại và hình thành Kho bạc điện tử.
3.1. Quản lý quỹ ngân sách nhà nước và các quỹ tài chính nhà nước
- Gắn kết quản lý quỹ với quy trình quản lý ngân sách nhà nước từ khâu lập dự
toán, phân bổ, chấp hành, kế toán, kiểm toán và quyết toán ngân sách thông qua
cải cách công tác kế toán ngân sách nhà nước, hoàn thiện chế độ thông tin, báo
cáo tài chính;
- Thống nhất quản lý các quỹ tài chính nhà nước theo hướng phản ánh và hạch
toán kế toán đầy đủ trong hệ thống thông tin quản lý ngân sách và kho bạc; các
khoản thu, chi của các quỹ tài chính nhà nước đều được thực hiện thông qua tài
khoản thanh toán tập trung của Kho bạc Nhà nước;
- Hiện đại hoá quản lý thu ngân sách nhà nước qua Kho bạc Nhà nước theo
hướng đơn giản về thủ tục hành chính, giảm thiểu thời gian và thủ tục nộp tiền
cho các đối tượng nộp thuế. Ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin điện tử
tiên tiến vào quy trình quản lý thu ngân sách nhà nước với các phương thức thu
nộp thuế hiện đại, bảo đảm xử lý dữ liệu thu ngân sách nhà nước theo thời gian

thực thu;
- Đổi mới công tác quản lý, kiểm soát chi qua Kho bạc Nhà nước trên cơ sở xây
dựng cơ chế, quy trình quản lý, kiểm soát, thanh toán các khoản chi ngân sách
nhà nước qua Kho bạc Nhà nước phù hợp với thông lệ quốc tế để vận hành hệ
thống thông tin quản lý ngân sách và kho bạc; thực hiện kiểm soát chi theo kết
quả đầu ra, theo nhiệm vụ và chương trình ngân sách; thực hiện phân loại các
23
khoản chi ngân sách nhà nước theo nội dung và giá trị để xây dựng quy trình
kiểm soát chi hiệu quả trên nguyên tắc quản lý theo rủi ro; phân định rõ trách
nhiệm, quyền hạn của cơ quan tài chính, cơ quan chủ quản, Kho bạc Nhà nước
và các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước; có chế tài xử phạt hành chính đối
với cá nhân, tổ chức sai phạm hành chính về sử dụng ngân sách nhà nước;
Thống nhất quy trình và đầu mối kiểm soát các khoản chi của ngân sách nhà
nước, bao gồm các khoản chi từ nguồn vốn trong nước, nguồn vốn nước ngoài,
các khoản chi ngân sách nhà nước phát sinh ở trong và ngoài nước;
Tăng cường cải cách thủ tục hành chính trong công tác kiểm soát chi, bảo đảm
đơn giản, rõ ràng, minh bạch về hồ sơ, chứng từ, nội dung kiểm soát, tiến tới
thực hiện quy trình kiểm soát chi điện tử;
- Đổi mới công tác thống kê thu, chi quỹ ngân sách nhà nước; xác định rõ nội
dung các khoản thu, chi ngân sách nhà nước phù hợp với chuẩn mực quốc tế về
kế toán công và thống kê tài chính Chính phủ theo mẫu của IMF.
3.2. Quản lý ngân quỹ và nợ Chính phủ
- Đổi mới công tác quản lý ngân quỹ Kho bạc Nhà nước nhằm quản lý ngân quỹ
Kho bạc Nhà nước an toàn và hiệu quả; thực hiện mô hình thanh toán tập trung
theo hướng Kho bạc Nhà nước mở tài khoản thanh toán tập trung tại Ngân hàng
Nhà nước Trung ương để quản lý tập trung ngân quỹ của toàn hệ thống Kho bạc
Nhà nước; phát triển hệ thống các công cụ phục vụ công tác quản lý ngân quỹ
và quản lý nợ Chính phủ;
- Thực hiện tốt vai trò quản lý nợ thông qua kế toán đầy đủ, toàn diện qua Kho
bạc Nhà nước các khoản nợ, nghĩa vụ nợ dự phòng của Chính phủ và chính

quyền các cấp (bao gồm cả nợ trong nước, ngoài nước) theo nguyên tắc, thông
lệ quốc tế;
Đổi mới cơ chế, phương thức phát hành trái phiếu Chính phủ theo hướng hiện
đại, công khai, minh bạch và hoạt động theo nguyên tắc thị trường; gắn với sự
phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán; liên kết và hội nhập
với thị trường trái phiếu khu vực và quốc tế.
- Thực hiện mô hình Kho bạc chuyên quản lý ngân quỹ, quản lý nợ Chính phủ
với chức năng cơ bản là xây dựng các kế hoạch huy động vốn ngắn hạn và
24
trung hạn, tổ chức huy động vốn trên thị trường, thực hiện quản lý ngân quỹ và
luồng tiền, đầu tư ngân quỹ; thực hiện thanh toán, hạch toán, cung cấp thông
tin, báo cáo liên quan đến công tác quản lý nợ Chính phủ và quản lý ngân quỹ.
3.3. Công tác kế toán nhà nước
- Xây dựng hệ thống kế toán nhà nước thống nhất, hiện đại theo nguyên tắc dồn
tích, phục vụ yêu cầu quản lý ngân sách và tài chính công bảo đảm tính công
khai, minh bạch;
- Phát triển kế toán quản trị phục vụ cho yêu cầu phân bổ ngân sách theo kết quả
đầu ra, bảo đảm khả năng phân tích và tính toán được chi phí, hiệu quả của chi
tiêu ngân sách nhà nước cũng như yêu cầu lập ngân sách trên cơ sở dồn tích;
- Thực hiện hội nhập quốc tế về kế toán nhà nước, xây dựng chuẩn mực kế toán
nhànước phù hợp với hệ thống kế toán công;
- Nghiên cứu, xây dựng mô hình Kho bạc Nhà nước thực hiện chức năng tổng kế
toán nhà nước, theo hướng: là thành viên của Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc
gia; tổng hợp, xử lý dữ liệu kế toán từ tất cả các đơn vị thực hiện hệ thống kế
toán nhà nước; chịu trách nhiệm công bố và cung cấp các số liệu kế toán, tình
hình tài chính nhà nước; lưu trữ cơ sở dữ liệu kế toán tập trung.
3.4. Hệ thống thanh toán
- Hiện đại hóa công tác thanh toán của Kho bạc Nhà nước trên nền tảng công
nghệ thông tin hiện đại, theo hướng tự động hóa và tăng tốc độ xử lý các giao
dịch; bảo đảm dễ dàng kết nối, giao diện với các hệ thống ứng dụng khác; tham

gia hệ thống thanh toán điện tử song phương, thanh toán điện tử liên ngân hàng,
thanh toán bù trừ điện tử với các ngân hàng; ứng dụng có hiệu quả công nghệ,
phương tiện và hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tiên tiến của quốc tế.
Đến năm 2020, về cơ bản Kho bạc Nhà nước không thực hiện giao dịch bằng
tiền mặt;
- Nghiên cứu triển khai thực hiện mô hình thanh toán tập trung, theo hướng mọi
giao dịch của ngân sách nhà nước và các quỹ tài chính nhà nước đều được thực
hiện qua tài khoản thanh toán tập trung.
25

×