Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

tăng trưởng kinh tế việt nam thời gian quan có ảnh hưởng như thế nào đến vấn đề xóa đói giảm nghèo và công bằng xã hội. đưa ra các khuyến nghị về mặt chính sách

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.35 KB, 13 trang )

Đề tài: Tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời gian quan có ảnh hưởng
như thế nào đến vấn đề xóa đói giảm nghèo và cơng bằng xã hội. Đưa ra
các khuyến nghị về mặt chính sách.
Bài làm
Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường thường đem lại nền
kinh tế tăng trưởng và phát triển nhưng thường lại có những “tác dụng
phụ” khơng có lợi cho đơng đảo người lao động. Ngay ở các nước có nền
kinh tế phát triển thì cũng chưa có nước nào đạt được sự hài hòa giữa phát
triển kinh tế thị trường và tiến bộ xã hội. Sự phân hóa giàu nghèo thường
đồng hành với kinh tế thị trường. Do đó, cuộc đấu tranh cho bình đẳng xã
hội, cho sự phát triển bền vững đang là mục tiêu của tất cả nhân loại tiến
bộ trên thế giới.
Dưới góc độ chính sách xã hội, đối với đông đảo người lao động,
khi xây dựng nền kinh tế thị trường, nói chung ln ln có những xu
hướng hy sinh các chính sách xã hội, bỏ qua những văn hóa truyền thống
để tăng trưởng và phát triển. Sự tăng trưởng kinh tế ở việt nam trong
nhiều năm qua cũng có ảnh hưởng rất lớn đối với vấn đề xóa đói giảm
nghèo và cơng bằng xã hội cả về mặt tích cực và mặt tiêu cực. Vì vậy
dưới đây em đi tìm hiểu về đề tài: “Tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời
gian quan có ảnh hưởng như thế nào đến vấn đề xóa đói giảm nghèo
và cơng bằng xã hội. Đưa ra các khuyến nghị về mặt chính sách”.
I. Các khái niệm.
1.

khái niệm tăng trưởng kinh tế.

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong
một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Sự ra tăng được thể
hiện ở quy mô tốc độ. Quy mô tăng trưởng phản ánh sự ra tăng nhiều hay
ít, cịn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và
phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ. Thu nhập bằng giá


trị phản ánh qua các chỉ tiêu và được tính cho tồn thể nền kinh tế hoặc
13


tính bình qn trên đầu người. Như vậy, bản chất của tăng trưởng là phản
ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế.
2. khái niệm nghèo đói.
Nghèo đói theo nghĩa tương đối “ là mức sống trung bình của quốc
gia, thường được dùng để so sánh về sự bất bình đẳng trong thu nhập hoặc
chi tiêu của các tầng lớp dân cư, ví dụ lấy đường chéo đói tương đối bằng
40% mức thu nhập bình quân đầu người của quốc gia ”.
Nghèo đói theo nghĩa tuyệt đối “ là khơng đạt được mức sống tối
thiểu để duy trì được sự phát triển về thể chất và tâm lý bình thường ’’.
3. khái niệm công bằng xã hội.
Theo nghĩa rộng “ cơng bằng xã hội đồng nghĩa với bình đẳng xã
hội, đó là quyền ngang nhau giữa người với người về mọi phương diện xã
hội như kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa…” như vậy cơng bằng xã hội
hiểu theo nghĩa rộng khơng chỉ bó hẹp trong một lĩnh vực xã hội nào đó
mà nó là sự cơng bằng trong sự tham gia và hưởng thụ kết quả hoạt động
trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, dân tộc, giới… theo nghĩa
đó, bình đẳng xã hội gắn với sự phát triển toàn diện con người và là kết
quả của sự phát triển đó.
Theo nghĩa hẹp “ cơng bằng xã hội là sự ngang bằng nhau giữa
người với người về một phương diện hồn tồn xác định, đó là phương
diện quan hệ giữa nghĩa vụ với quyền lợi, giữa cống hiến với hưởng thụ
theo nguyên tắc cống hiến lao động ngang nhau thì được hưởng thụ ngang
nhau.
Trong tư duy phát triển hiện đại, nội hàm của công bằng xã hội
phải bảo gồm cả công bằng trong phân phối thu nhập và công bằng trong
các cơ hội phát triển, trong đó cơng bằng trong cơ hội phát triển là yếu tố

chi phối. Như vậy “ công bằng xã hội chính là việc đối xử ngang nhau
đối với các chủ thể có các cơ hội phát triển như nhau”

13


II. Thực trạng tăng trưởng kinh tế Việt Nam và sự ảnh hưởng
của nó đến vấn đề xóa đói giảm nghèo, công bằng xã hội.
Thực trạng tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời gian vừa
qua.

Bảng 2.1: tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam từ năm 2000 -2009
Tốc độ tăng trưởng ở Việt Nam luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao và
thường tăng qua các năm, ước tính GDP tăng bình quân 7,3%/năm ; GDP
tuyệt đối tăng 2 lần; GDP/ đầu người tăng 3,17 lần và đã vượt ngưỡng
1000 USD . Hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất ra tăng đáng kể: đóng
góp của yếu tố vốn vào tăng trưởng GDP đã giảm từ 70%(giai đoạn kế
hoạch 1991 -1995) xuống cịn khoảng 52% (giai đoạn 2006 -2010); đóng
góp của yếu tố lao động vào GDP đã tăng từ 16% (giai đoạn kế hoạch

13


1991 - 1995) lên khoảng 20% (giai đoạn 2006 - 2010); đóng góp của yếu
tố tăng trưởng tổng hợp (TFP) đã tăng từ 14% (giai đoạn kế hoạch 1991
-1995) lên khoảng 28% (giai đoạn 2006 -2010) các số liệu trên cho thấy,
hiệu quả quản lý nền kinh tế đất nước được nâng cao trong vòng 20 năm
qua, nền kinh tế đất nước tăng trưởng liên tục và thuộc nhóm “ thị trường
mới nổi” có nhiều tiềm năng; vị trí kinh tế của Việt nam trên trường quốc
tế được nâng cao đáng kể. tuy nhiên thu nhập bình quân của Việt Nam

vẫn ở mức thấp, năm 2008 mới chỉ đạt được 10,88 triệu đồng (giá cố định
1994) tương đương khoảng 1023USD / người / năm, Ở Trung Quốc
2300USD / người gấp trên 2 lần so với Việt Nam, Thái Lan gấp 4,5 lần,
Malaisya gấp 12 lần, Hàn Quốc gấp 23,5 lần… nói chung nên kinh tế việt
nam tăng trưởng nhanh, nhưng ở dưới mức tiềm năng, tăng trưởng chủ
yếu theo chiều rộng dựa vào tài nguyên thiên nhiên, lao đông và gia tăng
vốn. Năng lực cạnh tranh nền kinh tế nước ta cịn thấp và chậm được cải
thiện vì vậy nước ta cần phải tạo cho mình một tiềm lực kinh tế vững chắc
thông qua việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế hơn nữa.
2. Sự ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế việt nam đến vấn đề
xóa đói giảm nghèo.
Ở Việt Nam, đói nghèo vẫn đang là vấn đề kinh tế - xã hội bức
xúc. Xóa đói giảm nghèo tồn diện, bền vững ln ln được đảng, nhà
nước ta hết sức quan tâm và xác định mục tiêu xuyên suốt trong quá trình
phát triển kinh tế xã hội và là một trong những nhiêm vụ quan trọng góp
phần phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu cuối
cùng của mọi quốc gia hay mỗi địa phương là phấn đấu cho một xã hội
phát triển, trong đó điều trước hết là xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức
sống cho quảng đại quần chúng nhân dân. Mức sống của nhân dân chỉ có
thể được cải thiện khi tổng thu nhập của nền kinh tế tăng lên. Hơn nữa
mức tăng của tổng thu nhập xã hội phải nhanh hơn mức tăng của quy mơ
dân số. Điều này có nghĩa là tốc độ tăng trưởng dân số phải nhanh hơn tốc
13


độ tăng trưởng dân số. Tăng trưởng kinh tế trở thành điều kiện hàng đầu
cho việc nâng cao mức sống quảng đại quần chúng nhân dân và là điều
kiện để tỷ lệ nghèo giảm.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh của Việt Nam trong suốt thập kỷ
1990 đến nay đã có tác dụng quan trong đến việc xóa đói giảm nghèo và

phát triển xã hội. Tỷ lệ người nghèo, tính theo chuẩn nghèo quốc tế, đã
giảm liên tục từ hơn 60% vào năm 1990, xuống 58% năm 1993, 37% năm
1998, 32% năm 2000, 29% vào năm 2002 , còn 18,1% vào năm 2004 và
đến 2006 khoảng 10,8% số hộ được xếp vào loại thiếu ăn (nghèo lương
thực) theo chuẩn nghèo quốc tế. “những thành tựu giảm nghèo của Việt
Nam là một trong những câu chuyện thành công nhất trong phát triển kinh
tế” đó là đánh giá trong “báo cáo phát triển Việt Nam năm 2004” của
ngân hàng thế giới.
Theo tiêu chuẩn nghèo quốc gia do bộ lao động, thương binh xã hội
ban hành, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ hơn 30% năm 1990, 30% năm 1992,
15,7% năm 1998 xuống 17,2% năm 2001 với 2,8 triệu hộ và xuống còn
8,3% năm 2004 với 1,44 triệu hộ, bình quân mỗi năm giảm 34 vạn hộ,
đến cuối năm 2005 còn khoảng dưới 7% với 1,1 triệu hộ.
Từ năm 1992 đến 2004, tỷ lệ đói nghèo ở việt nam đã giảm từ 30%
xuống cịn 8,3%. Tính đến tháng 12-2004, trên địa bàn cả nước có 2 tỉnh
và thành phố cơ bản khơng cịn hộ nghèo theo tiêu chuẩn; có 18 tỉnh tỷ lệ
nghèo chiếm 3-5%; 24 tỉnh có tỷ lệ nghèo chiếm 5 – 10%... cho đến năm
2009, theo chuẩn nghèo trên, cả nước Việt Nam hiện có khoảng 2 triệu hộ
nghèo,đạt tỷ lệ 11% dân số.
Tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam dẫn đến kết quả của phần gia tăng
trong chi tiêu cá nhân lại không được phân bổ đều cho mọi thành viên
trong xã hội mà lại chỉ thuộc về một nhóm người trong xã hội, do có sự
khác biệt về lợi thế phát triển giữa các nhóm người trong xã hội. Những
người, những chủ thể kinh tế có những lợi thế khác nhau về điều kiện
13


kinh tế, tự nhiên, xã hội, gia đình, cá nhân, họ sẽ được hưởng phần lớn
phần thu nhập gia tăng. Trong khi đó, những người ở thế bất lợi về các
điều kiện nguồn lực thì lại khơng nhận được sự cải thiện thu nhập.

Điều này thể hiện khá rõ không những trong 1 quốc gia mà kể cả
giữa các nước, các nền kinh tế trên tồn thế giới.
Phần đơng người nghèo ở Việt Nam sống trong hoàn cảnh tách biệt
về mặt địa lý, dân tộc, ngôn ngữ, xã hội và kinh tế. Vì vậy nên lợi ích thực
sự của tăng trưởng kinh tế ít đến được với nhóm người chịu thiệt thòi này.
Ở nước ta, tỷ lệ hộ nghèo khu vực miền núi vẫn còn cao, gấp từ 1,7 đến 2
lần tỷ lệ hộ nghèo bình quân của các nước. Tỷ lệ hộ nghèo ở vùng đồng
bào dân tộc thiểu số trong tổng số hộ nghèo của cả nước có chiều hướng
tăng từ 21% năm 1992 lên 36% năm 2005. Tỷ lệ hộ nghèo tập trung chủ
yếu ở những vùng khó khăn, có nhiều yếu tố bất lợi như điều kiện tự
nhiên khắc nghiệt, kết cấu hạ tầng thấp kém, trình độ dân trí thấp, trình độ
sản xuất manh mún, sơ khai. Ngoài ra, xuất hiện một số đối tượng nghèo
mới ở những vùng đang đơ thị hóa và nhóm lao động nhập cư vào đô thị,
họ thường gặp nhiều khó khăn hơn và phải chấp nhận mức thu nhập thấp
hơn lao động sở tại. Đây là những điều kiện cơ bản làm tăng yếu tố tái
nghèo và tạo ra sự không đồng đều trong tốc độ giảm nghèo giữa các
vùng. Các vùng Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên có tốc độ giảm
nghèo nhanh nhất, song đây cũng là những vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao
nhất.
Tăng trưởng kinh tế ở nước ta đã làm chênh lệch về thu nhập giữa
các nhóm giàu và nhóm nghèo có xu hướng gia tăng (tỷ số Gini giảm)
trong những năm gần đây, chênh lệch về thu nhập giữa 20% nhóm giàu và
20% nhóm nghèo từ 4,3lần năm 1993 lên 8,14 lần năm 2002; chênh lệch
giữa 10% nhóm giàu nhất và 10% nhóm nghèo nhất từ 12,5 lần năm 2002,
tăng lên 13,5 lần năm 2004; mức độ nghèo còn khá cao, thu nhập bình
qn của nhóm hộ nghèo ở nơng thơn chỉ đạt 70% mức chuẩn nghèo mới.
13


Sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo sẽ làm cho tình trạng nghèo tương

đối trở nên gay gắt hơn, việc thực hiện các giải pháp để giảm nghèo sẽ
càng khó khăn hơn.
4. Những giải pháp xóa đói giảm nghèo
Ở nước ta để thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo phải tập trung
giải quyết là vấn đề kinh tế, đặc biệt là làm thế nào để cho chính người
nghèo và khun vực nghèo có nhiều tiềm lực kinh tế hơn trong q trình tự
vươn lên xóa bỏ đói nghèo. Trên quan điểm đó, chúng ta cần tập trung
vào những hướng chính sau đây:
Thứ nhất là thực hiện chiến lược tăng trưởng kinh tế nhanh, coi đây
là chìa khóa để giải bài tốn xóa đói giảm nghèo. Những hướng quan
trọng để vừa đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế vừa tác động tích cực
đến xóa đói giảm nghèo là (1) hướng trung tâm vào phát triển nông
nghiệp và nông thôn bằng những giải pháp tích cực trong chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nơng thơn. (2) thực hiện đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp
nhằm giảm tối đa rủi ro cho nông dân, để giải quyết vấn đề này, cần
hướng sản xuất nơng nghiệp theo đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi; (3)
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng việc làm phi nông
nghiệp thuộc lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ nông thôn; (4) bảo đảm
điều kiện thuận lợi cho việc hình thành các doanh nghiệp tư nhân ở địa
phương, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập các hiệp hội kinh
doanh cho các công ty tư nhân, cải thiện khả năng tiếp cận của các cơng
ty tư nhân đối với đất đai và tín dụng.
Thứ hai là tăng cường các hoạt động hỗ trợ cho người nghèo phát
triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế để tự vươn lên xóa đói giảm
nghèo. Người nghèo cần được trợ giúp những yếu tố sau đây: hỗ trợ về
vốn để người nghèo có khả năng mở rộng sản xuất nâng cao hiệu quả kinh
tế, hướng dẫn người nghèo làm kinh tế theo mơ hình “4 nhà” và thực hiện
có hiệu quả cơng tác khuyến nơng.
13



Thứ ba là tăng cường hoạt động đầu tư cơ sở hạ tậng kinh tế xã hội
cho các xã đặc biệt khó khăn. Việc thiếu cơ sở hạ tầng ở các vùng sâu
vùng xa có thể nói là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tỷ lệ nghèo đói cao
của các khu vực này. Nhà nước cần đầu tư cơ sở hạ tầng, trong đó thiết
yếu nhất là xây dựng đường giao thông đi lại đến các xã và đến các thôn
bản; phát triển hệ thống đài truyền thanh xã để phổ biến kinh nghiệm và
công khai các hoạt động của trương trình xóa đói giảm nghèo đến từng
người dân. Nhà nước cần chăm lo về giáo dục, y tế: trước hết cần thanh
tốn hiện tượng các xã khơng có trường tiểu học và tiếp tục mở các
trường phổ thông cơ sở cho các xã vùng cao. Đặc biệt phát triển hệ thống
y tế tuyến xã, xóa bỏ xã trắng y tế, tăng cường thiết bị và bồi dưỡng trình
độ cho cán bộ y tế thôn bản.
Thứ tư là thực hiện tốt việc xã hội hóa cơng tác xóa đói giảm
nghèo.(1) tuyên truyền giáo dục cho người dân nhận thức được cơng tác
xóa đói giảm nghèo là mang lại lợi ích thiết thực của bản thân họ; (2)
nâng cao năng lực cán bộ các cấp chính quyền và đồn thể, đặc biệt là các
cán bộ xã, thôn bản. (3) thực hiện quy chế dân chủ, cơng khai hóa tồn bộ
quỹ vốn vay và các nguồn hỗ trợ khác để nhân dân có thể tham gia vào
cơng tác kế hoạch hóa và sử dụng vốn; (4) xã hội hóa việc huy động và sử
dụng nguồn vốn cho xóa đói giảm nghèo và trợ cấp xã hội đối với người
nghèo; (5) thể chế hóa sự tham gia của các hội (phụ nữ, thanh niên, hội
nông dân, cựu chiến binh) vào việc tham gia thực hiện chính sách xóa đói
giảm nghèo.
5. Sự ảnh hưởng tăng trưởng kinh tế Việt Nam đến công bằng
xã hội.
Nếu tính từ cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta (năm 1991) đến nay, có thể thấy các nghị
quyết của Đảng đều quán xuyến quan điểm: gắn các vấn đề kinh tế với
tiến bộ và công bằng xã hội. Trong các kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế 13



xã hội qua từng thời kỳ, đặc biệt trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội
2001 -2010 và chiến lược tồn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo
( được thủ tướng chính phủ ban hành tháng 5 -2002), đều thể hiện rất rõ
quan điểm gắn mục tiêu tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và cơng
bằng xã hội trong bài tốn phát triển. Tuy nhiên, trên thực tế còn khoảng
cách giữa các mục tiêu và chính sách cụ thể; cũng như đang tồn tại và nảy
sinh nhiều vấn đề cần được tiếp tục giải quyết.
Thời kỳ trước đổi mới nền kinh tế nước ta phát triển theo mơ hình
nhấn mạnh vào cơng bằng xã hội. Nước ta coi các chính sách tạo ra sự
cơng bằng xã hội là điều phải làm trước tiên khi thu nhập của nền kinh tế,
tăng trưởng cịn ở tình trạng rất thấp và xem như đó là điều kiện là điểm
mấu chốt để thực hiện tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nhà nước ta đã
tiến hành quốc hữu hóa tài sản, nguồn lực được phân phối lại cho các đơn
vị kinh tế dưới hình thức sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể. Phân phối
theo lao động là hình thức cơ bản nhất, được thực hiện theo nguyên tắc “
làm theo năng lực, hưởng theo lao động. Ai làm nhiều hưởng nhiều, ai
làm ít hưởng ít, ai có sức lao động không làm không hưởng”. Kết quả là
chúng ta đã tạo ra được những thành tựu nhất định về bảo đảm những yêu
cầu cơ bản về phát triển con người, quyền bình đẳng trong xã hội được
coi trọng. Tuy vậy, mơ hình này đã dẫn đến sự phát triển rất thấp kém về
mặt kinh tế, một chế độ sở hữu nhà nước và sản xuất khơng vì mục tiêu
lợi nhuận, về lâu dài đã làm kìm hãm động lực nâng cao hiệu quả và tăng
trưởng kinh tế. Sự bình đẳng và cơng bằng xã hội được xây dựng trên cơ
sở mức sống thực sự thấp kém, nền kinh tế nói chung và đời sống kinh tế
của nhân dân rất khó khăn. Bắt đầu từ giữa thập niên 80 của thế kỷ trước
chúng ta bước vào thời kỳ cải tổ kinh tế, thực hiện cơ chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa với quan điểm gắn kết đồng thời cả
mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội trong tồn tiến trình phát triển.


13


Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường thường đem lại nền
kinh tế phát triển nhưng dưới góc độ chính sách xã hội, đối với đơng đảo
người lao động, khi xây dựng nền kinh tế thị trường, nói chung ln ln
có những xu hướng hy sinh các chính sách xã hội, bỏ qua những văn hóa
truyền thống để tăng trưởng và phát triển và thường là trong sự tăng
trưởng ấy, người nghèo, nhóm yếu thế của xã hội ít được hưởng thụ thành
quả của sự tăng trưởng kinh tế, mà ngược lại nhiều khi họ còn bị nghèo
hơn.
Những thành tựu đạt được: về kinh tế tốc độ tăng trưởng đạt mức
cao qua các năm luôn đạt vượt mức kế hoạch đề ra, GDP tăng đáng kể
qua các năm. Tiến bộ và công bằng xã hội thể hiện rõ nét hơn những
thành quả của tăng trưởng kinh tế. Thông thường, để đo tính chất cơng
bằng trong phát triển, người ta thường sử dụng ba loại thang đo: (1) – ngũ
phân vị (chia các tầng lớp dân cư làm 5 tầng); (2) – hệ số bất bình đẳng
GINI ( được tính từ 0 đến 1) và (3) - đường cong loren. Ở nước ta, cứ 2
năm một lần, tổng cục thống kê đều tiến hành điều tra và công bố sụ
chênh lệch giàu nghèo theo thang đo thứ nhất. Theo số liệu của tổng cục
thống kê (tháng 12 năm 2007), sự bất bình đẳng trong chi tiêu giữa các
tầng lớp dân cư ở nước ta từ năm 1993 đến năm 2006 ngày càng tăng.
Chênh lệch chi tiêu giữa nhóm người giàu nhất và nghèo nhất tăng từ 5
lần (năm 1993) lên 6 lần (năm 2006). Hệ số GINI tăng từ 0,34 (năm 1993)
lên 0,36 (năm 2006). Và có lẽ sự chênh lệch này vẫn chưa có dấu hiệu
dừng lại. Cũng theo số liệu của tổng cục thống kê năm 2007, 60% tầng
lớp dân cư nước ta có mức sống từ trung bình trở xuống chỉ chiếm 36,7%
tổng chi tiêu của cả nước và tiếp tục giảm còn 35,5% vào năm 2006;
trong khi đó, 20% tâng lớp dân cư giàu nhất chiếm 41,8% (năm 1993) và

tăng lên 43,3% năm 2006 tổng chi tiêu của cả nước.
Những vấn đề đang tồn tại:

13


Giữa chính sách kinh tế tài chính và chính sách xã hội chưa thực sự
gắn kết với nhau, dẫn đến sự phân hóa về thu nhập và tài sản ngày càng
lớn. Hiện ở nước ta chưa có cuộc điều tra nào về sự phân hóa thu nhập và
tài sản mà chỉ có điều tra về mức chị tiêu. Sự giàu nhanh của một bộ phận
dân cư, chủ yếu dựa vào sự bất cập của cơ chế yếu kém trong quản lý nhà
nước, chứ ko phải là dựa vào tài năng, sự sáng tạo và hiệu quả của lao
động. Chẳng hạn như trong 10 năm gần đây có nhiều người giàu nhanh là
do dựa vào lỗ hổng trong quản lý đất đai, nhất là ở khu vực đô thị lớn, đã
biến nguồn vốn xã hội này thành của cải của một thiểu số, tạo sự bất công
xã hội ngày càng gay gắt
Xu hướng tăng trưởng kinh tế nhưng chưa đi liền với công bằng xã
hội. Công bằng xã hội cũng là một tiêu chí cho phát triển bền vững được
cộng đồng quốc tế quan tâm và có trách nhiệm chung là mục tiêu của sụ
phát triển bền vững của mọi quốc gia trong thời đại ngày nay. Thế nhưng
trong quá trình phát triển ở nước ta, sự bất bình đẳng của xã hội ln ln
chưa có lời giải hữu hiệu và thường hy sinh sự công bằng xã hội cho phát
triển kinh tế. Sự khác biệt về điều kiện địa lý kinh tế giữa các vùng miền,
giữa thành thị và nông thơn, giữa những ngành, lĩnh vực có lợi nhuận cao
với những lĩnh vực xã hội ít sinh lời, sự đầu tư cơ sở hạ tầng, đầu tư ngân
sách, những điều kiện được đào tạo nghề nghiệp để có cơ hội kiếm đươc
việc làm, sự hưởng thụ những dịch vụ xã hội, điều kiện chăm sóc sức
khỏe, chữa bệnh, điều kiện học hành khác biệt cũng đã tạo ra sự bất bình
đẳng xã hội lớn. Độ mở cửa của nền kinh tế, kết quả của tồn cầu hóa và
hơi nhập kinh tế quốc tế ở nước ta có ảnh hưởng khác nhau đến các đối

tượng, nhóm người trong xã hội, nghèo chẳng những khơng được hưởng
lợi từ tự do hóa thương mại đầu tư mà ngược lại họ còn bị thiệt thịi với
những chính sách đó. Điều này giải thích tại sao nhân dân lao động nhiều
nước luôn luôn phản đối sự tồn cầu hóa và tự do thương mại quốc tế.

13


Xã hội hóa nhưng thực chất là thị trướng hóa nhiều dịch vụ và hoạt
động xã hội. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, từ chỗ Nhà nước muốn
ôm tất cả mọi dịch vụ và hoạt động mang tính phúc lợi xã hội, nay do
khơng có khả năng và khơng xuể, Nhà nước chủ trương xã hội hóa các
hoạt động này. Thế nhưng trong cơ chế mới với sự thống trị, chi phối của
đồng tiền, kiểu tiền trao cháo múc đã làm cho nhiều dịch vụ, hoạt động bị
thị trường hóa theo kiểu thuận mua vừa bán. Nhà nước ta tuy có biết
nhưng cũng khơng thể quản lý được những hoạt động mang tính thị
trường. Và như vậy những người ở nhóm yếu thế, người nghèo, người có
hồn cảnh khó khăn bị thiệt thịi hoặc khơng được tiếp cận với các dịch vụ
xã hội, nhất là dịch vụ đắt tiền, tốn kém.
6. Một số khuyến nghị về chính sách với vấn đề cơng bằng xã
hội.
Thứ nhất là chính sách khuyến khích tăng trưởng kinh tế nhanh,
thơng qua việc lựa chọn các mơ hình cơng nghiệp hóa và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế đất nước. Hướng nền kinh tế thông qua chính sách nhấn mạnh
vai trị của khu vực tư nhân và sự hỗ trợ tích cực của nhà nước trong
những lĩnh vực cần thiết.
Thứ hai là chính sách đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực của nền
kinh tế nhằm đảm bảo tăng trưởng nhanh nhưng không gây ra bất bình
đẳng. Nền kinh tế bắt đầu thời kỳ tăng trưởng nhanh bằng đầu tư cho
nơng nghiệp, kế theo đó là phát triển với nông nghiệp với công nghiệp và

cuối cùng là đầu tư theo chiều sâu cho toàn bộ nền kinh tế khi hiện tượng
thiếu lao động và giá cả lao động trở nên ngày càng đắt đỏ.
Thứ ba là chính sách xã hội nhằm giải quyết ngay từ đầu vấn đề xóa
đói giảm nghèo và cơng bằng xã hội. điều này được thể hiện trong các
chính sách về phân phối lại thu nhập, chính sách trợ cấp xã hội, các dự án
đầu tư cơ sở hạ tầng đường sá, giao thơng cho các vùng khó khăn… hệ
thống giáo dục bảo đảm cho tất cả trẻ em có trình độ phổ cập giáo dục
13


ngày càng được nâng cao, mạng lưới y tế chăm sóc sức khỏe được tổ chức
chu đáo. Tất cả đều nhằm mục tiêu tạo điều kiện sống có giá trị ngang
nhau ở tất cả các thành phần lãnh thổ trong cả nước.

13



×