Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật việt nam và công ước la hay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (324.44 KB, 59 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Nuôi con nuôi là một chế định quan trọng không chỉ trong hệ thống pháp
luật của nhiều nước mà còn thể hiện rất rõ trong pháp luật quốc tế. Chế định
nuôi con nuôi được các quốc gia và cộng đồng quốc tế quan tâm đặc biệt vì nó là
sự bảo vệ về pháp lý rất cần thiết nhằm đảm bảo những lợi ích tốt nhất cho
những trẻ em không những chỉ non nớt về thể chất và trí tuệ mà còn có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn cần được sự chăm sóc từ phía gia đình và xã hội.
Chính vì vậy, vấn đề nuôi con nuôi được nhiều quốc gia trên thế giới quan
tâm, thực hiện. Tuy mỗi nước có những quy định khác nhau về trình tự, thủ tục
giải quyết việc nuôi con nuôi, nhưng đều có chung một mục đích đó là nhằm
đảm bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ em.
Kể từ khi Nhà nước và nhân dân Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới
đất nước, quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng, giao lưu về mọi mặt giữa
công dân Việt Nam với người nước ngoài ngày càng phát triển, thì các quan hệ
về hôn nhân và gia đình của công dân Việt Nam với người nước ngoài, trong đó
có các quan hệ nuôi con nuôi, đã và đang trở thành một hiện tượng xã hội thu
hút sự quan tâm của nhiều người, cả ở trong và ngoài nước. Trong bối cảnh đó,
việc người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi đã và đang đặt ra
nhiều vấn đề cần phải tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện, không chỉ về pháp
luật mà có thể cả về các định chế. Qua tình hình người nước ngoài xin nhận trẻ
em Việt Nam làm con nuôi trong những năm vừa qua, một vấn đề có tính cấp
thiết được đặt ra đối với Việt Nam là cần nghiên cứu, tham gia các Công ước
quốc tế đa phương, ký kết các điều ước quốc tế song phương nhằm tạo ra một cơ
chế hợp tác quốc tế chặt chẽ giữa Việt Nam với các nước liên quan về lĩnh vực
này, đảm bảo cho trẻ em được nhận làm con nuôi có đủ điều kiện được hưởng
những gì tốt đẹp nhất, cũng như tạo thuận lợi hơn về mặt thủ tục cho cha mẹ
1
nuôi trong lĩnh vực này. Mặt khác cũng nhằm hạn chế đến mức tối đa những
hiện tượng tiêu cực có thể xảy ra trong lĩnh vực hết sức nhạy cảm này.
Hiện nay, Việt Nam đang đứng trước yêu cầu của công cuộc hội nhập
nhất là trong việc chuẩn bị gia nhập Công ước La Hay 1993 về bảo vệ trẻ em và


hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước, do đó việc làm cho pháp
luật Việt Nam hài hoà với thông lệ quốc tế cũng như pháp luật của nhiều nước
về nuôi con nuôi là việc làm cấp bách. Chính vì mục đích như vậy, mà em đã
chọn đề tài “ Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam và
Công ước La Hay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con
nuôi giữa các nước “, để thấy rõ những vấn đề bất cập trong pháp luật Việt
Nam với Công ước La Hay 1993. Để từ đó có những giải pháp phù hợp trong
quá trình Việt Nam gia nhập Công ước La Hay 1993.
Khoá luận được cấu thành bởi 3 chương :
Chương I : Những vấn đề lý luận về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Chương II : Quy định của pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
ở Việt Nam.
Chương III : Thực trạng và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Bài khóa luận được hoàn thiện dựa trên việc sử dụng phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin, kết hợp với các phương pháp như : phương pháp tổng
hợp, so sánh, phân tích, thống kê và đối chiếu để giải quyết những vấn đề đã
được xác định trong đề tài.
2
CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NUÔI CON NUÔI
CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
1.1 Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
1.1.1 Khái niệm nuôi con nuôi.
Nuôi con nuôi là một chế định quan trọng trong pháp luật về hôn nhân và
gia đình, nó góp phần vào việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ
em, đặc biệt là đối với trẻ em mồ côi, bị tàn tật, bị cha mẹ bỏ rơi. Việc nuôi con
nuôi, trước hết phải xuất phát từ mục đích quan trọng là vì lợi ích của người
được nhận làm con nuôi, nhằm mang lại cho đứa trẻ được nhận làm con nuôi
một mái ấm gia đình, được yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Bên
cạnh đó, việc nuôi con nuôi cũng xuất phát từ nhu cầu tình cảm của người nhận

nuôi, nhằm thiết lập quan hệ tình cảm gắn bó giữa cha, mẹ và con cái.
Xuất phát từ ý nghĩa xã hội và mục đích nhân đạo của việc nuôi con nuôi,
tại Điều 67 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định rất cụ thể về vấn
đề này. Điều 67 : “ Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa
người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho
người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục phù hợp với đạo đức xã hội “. Đây chính là khung pháp lý quan trọng nhằm
xác lập mối quan hệ giữa cha mẹ và con nuôi và là cơ sở để phát sinh quyền và
nghĩa vụ giữa họ với nhau.
1.1.2 Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là vấn đề hiện được nhiều nước trên thế
giới quan tâm. Đặc biệt trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài thực sự đã trở thành vấn đề nhân đạo mang tính toàn cầu và
đã được thể chế hoá trong pháp luật quốc tế và pháp luật trong nước.
Ở nước ta trong những năm gần đây nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
được Nhà nước đặc biệt quan tâm bằng việc ban hành nhiều chính sách, văn bản
quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
nhằm xử lý những sai phạm, làm cho việc cho trẻ em làm con nuôi người nước
3
ngoài thực sự mang tính nhân đạo, tìm mái ấm gia đình và hạnh phúc cho trẻ
em.
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một chế định của quan hệ hôn nhân
và gia đình có yếu tố nước ngoài. Mặt khác, quan hệ hôn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngoài chính là quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) phát sinh trong đời
sống quốc tế và quan hệ dân sự này luôn có đặc trưng là mang “ yếu tố nước
ngoài “. Yếu tố nước ngoài đã được khẳng định một cách rất rõ ràng trong Bộ
Luật Dân sự (Điều 826), Nghị định 60/CP ngày 6/6/1997 của Chính phủ hướng
dẫn thi hành các quy định của Bộ luật Dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài (Điều 1) đã khẳng định : “ Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được
hiểu là các quan hệ dân sự có người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài tham

gia hoặc căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó phát sinh ở nước
ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài ”. Cũng theo Nghị
Định 60/CP thì “ người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam, bao
gồm công dân nước ngoài và người không quốc tịch “.
Từ quy định trên, có thể suy ra rằng : quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
là quan hệ pháp luật thuộc một trong các trường hợp sau đây :
- Có người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài tham gia ;
- Căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài
- Tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
Yếu tố nước ngoài trong quan hệ hôn nhân và gia đình nói chung trong đó
có quan hệ nuôi con nuôi được quy định tại Khoản 14 - Điều 8 Luật hôn nhân và
gia đình năm 2000. Theo đó : Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài được hiểu là quan hệ hôn nhân và gia đình :
- Giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài;
- Giữa người nước ngoài thường trú tại Việt Nam với nhau;
- Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ xác lập, thay đổi,
chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên
quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
Ngoài ra, Điều 100-Khoản 4 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 còn ghi
nhận “ Các quy định của chương XI về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố
nước ngoài cũng được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công
dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài “.
4
Như vậy, theo quy định trên thì quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
bao gồm các quan hệ sau :
1. Quan hệ nuôi con nuôi giữa người nước ngoài với trẻ em Việt Nam cư
trú trên lãnh thổ Việt Nam hoặc cư trú ở nước ngoài.
2. Quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với trẻ em nước ngoài
ở Việt Nam hoặc ở nước ngoài.
3. Quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau mà một hoặc

cả hai bên định cư ở nước ngoài.
4. Quan hệ nuôi con nuôi giữa người nước ngoài với nhau phát sinh tại
Việt Nam.
Theo các trường hợp trên, quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đã
được mở rộng, không chỉ là quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với
người nước ngoài mà còn bao gồm quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt
Nam với nhau ở nước ngoài và quan hệ nuôi con nuôi giữa người nước ngoài
với nhau ở Việt Nam.
1.2 Đặc trưng của quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
1.2.1 Quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài luôn mang yếu tố nước
ngoài.
Như trên đã phân tích, quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài bao
gồm các loại quan hệ (phần 1.1.2), mà quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa hai bên chủ thể khác quốc tịch
hoặc cùng quốc tịch nhưng sự kiện nhận nuôi con nuôi xảy ra ở nước ngoài
nhằm bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội. Do vậy, yếu tố nước ngoài trong
quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài bao gồm :
1.2.1.1 Yếu tố chủ thể :
Khi đề cập đến yếu tố chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài, có hai loại chủ thể cơ bản :
Thứ nhất : Công dân Việt Nam khi tham gia vào quan hệ nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài phải có quyền năng chủ thể tức là có năng lực pháp luật và
năng lực hành vi trước tiên theo pháp luật Việt Nam. Năng lực pháp luật và năng
5
lực hành vi là những thuộc tính của chủ thể pháp luật, là đặc trưng không thể
thiếu của chủ thể pháp luật. Vấn đề năng lực pháp luật và năng lực hành vi ở đây
trước hết được xác định trên cơ sở các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam.
Thứ hai : Bên cạnh đó, người nước ngoài cũng là chủ thể cơ bản của quan
hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.

Pháp luật Việt Nam và pháp luật của nhiều nước trên thế giới có nét đặc
trưng chung là đều lấy dấu hiệu quốc tịch để định nghĩa người nước ngoài. Có
thể khái quát, người nước ngoài là người không có quốc tịch của nước sở tại. Để
tham gia vào quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài cũng như quan
hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài thì người nước ngoài phải có năng lực
pháp luật và năng lực hành vi trước tiên là theo pháp luật của nước mà người đó
là công dân hoặc pháp luật của nước mà người đó thường trú nếu người đó là
người không quốc tịch.
Tại Điều 830 Bộ luật Dân sự Việt Nam thì người nước ngoài có năng lực
pháp luật dân sự tại Việt Nam như công dân Việt Nam, trừ các trường hợp ngoại
lệ. Tuy nhiên, để người nước ngoài tham gia trực tiếp vào quan hệ nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài thì người nước ngoài phải có năng lực hành vi. Ở Việt
Nam năng lực hành vi được quy định tại Điều 831 Bộ Luật Dân sự. Như theo
Điều 831 thì Việt Nam đã sử dụng chủ yếu nguyên tắc luật quốc tịch để xác định
năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài. Ngoài ra, trong một số trường
hợp năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài được xác định theo pháp luật
dân sự Việt Nam.
1.2.1.2 Sự kiện pháp lí làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ nuôi
con nuôi xảy ra ở nước ngoài.
Sự kiện pháp lí làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ nuôi con
nuôi phải là sự kiện pháp lí xảy ra ở nước ngoài. Nó có thể là sự kiện, hành vi…
phù hợp với pháp luật Việt Nam hoặc pháp luật nước ngoài. Sự kiện pháp lí còn
là hành vi pháp lí. Hành vi pháp lí là hành vi hợp pháp xảy ra do các chủ thể
trong quan hệ nuôi con nuôi thực hiện (làm chấm dứt quan hệ về nhân thân và
tài sản của đứa trẻ với cha, mẹ đẻ và làm phát sinh những quan hệ đó giữa cha,
mẹ nuôi và con nuôi). Hành vi của những người tham gia quan hệ pháp luật
nuôi con nuôi nhằm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong lĩnh
6
vực nuôi con nuôi cần thiết phải có cả quyết định của cơ quan có thẩm quyền
công nhận sự kiện hoặc hành vi theo thủ tục luật định. Ví dụ : Để cho việc xác

nhận con nuôi làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa người nhận nuôi và con
nuôi thì cần thiết phải có quyết định về việc nhận con nuôi của Uỷ ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc Uỷ ban nhân xã nếu việc nuôi con
nuôi giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước
láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam.
Sự kiện pháp lí làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài là sự kiện pháp lí xảy ra ở nước ngoài. Về việc nhận
nuôi con nuôi ở nước ngoài, pháp luật Việt Nam thường sử dụng quy tắc luật nơi
thực hiện hành vi để giải quyết xung đột pháp luật phát sinh trong quan hệ này.
Trong trường hợp Việt Nam và nước hữu quan kí kết điều ước quốc tế thì xung
đột pháp luật trong vấn đề này được điều chỉnh theo các quy phạm pháp luật ghi
nhận trong các điều ước đó.
Như vậy, việc xác định đúng thời điểm mà sự kiện pháp lí làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi có ý nghĩa rất quan trọng, nó giúp cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xác định đúng luật áp dụng để giải quyết xung đột
pháp luật phát sinh giữa các bên, từ đó áp dụng luật chính xác trong việc giải
quyết tranh chấp liên quan đến các chủ thể tham gia quan hệ nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài.
1.2.1.3 Yếu tố cư trú của các bên đương sự.
Theo Pháp luật Việt Nam (Điều 826-Bộ Luật Dân Sự) chỉ nói đến ba yếu
tố nước ngoài. Nhưng trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định bổ
sung thêm yếu tố cư trú của các đương sự tham gia vào quan hệ gia đình có yếu
tố nước ngoài cũng như quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Vì vậy, khi
nói đến yếu tố cư trú của đương sự tham gia vào quan hệ nuôi con nuôi có yếu
tố nước ngoài có thể xảy ra hai trường hợp :
Thứ nhất : Công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài. Theo quy định tại
Điều 100 - Khoản 4 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì các quy định của
Chương XI (quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài) cũng được áp
dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với nhau
mà một bên hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài. Quy định này là hoàn toàn

7
phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện nay khi số lượng người Việt Nam cư
trú ở nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam ngày càng tăng. Do đó, quan hệ nuôi
con nuôi giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài và người Việt Nam định
cư ở nước ngoài cũng tăng lên. Do vậy, việc điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi
giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên cư trú ở nước
ngoài là hết sức cần thiết. Theo quy định tại Khoản 4 Điều 100 Luật hôn nhân và
gia đình, pháp luật được áp dụng để điều chỉnh quan hệ của họ là pháp luật Việt
Nam, tức là áp dụng quy tắc Luật quốc tịch. Việc quy định như vậy là hoàn toàn
hợp lí, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết
việc nuôi con nuôi khi họ tham gia tại Việt Nam.
Thứ hai : Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam. Hiện nay, quan hệ nuôi
con nuôi giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam phát sinh
ngày càng nhiều. Trước tình hình đó, pháp luật Việt Nam đã có quy định điều
chỉnh quan hệ giữa họ với nhau ở Việt Nam. Pháp luật áp dụng để điều chỉnh
quan hệ nuôi con nuôi khi họ tham gia tại Việt Nam là pháp luật Việt Nam, tức
là áp dụng quy tắc luật nơi cư trú của đương sự. Quy tắc này được ghi nhận tại
Điều 105 - khoản 2 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Việc áp dụng luật nơi
cư trú để điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi khi người nước ngoài tham gia tại
Việt Nam là phù hợp với thực tế vì khi họ cư trú tại Việt Nam các cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam áp dụng pháp luật Việt Nam sẽ giải quyết vụ việc
nhanh chóng và thuận lợi do không phải áp dụng pháp luật nước ngoài.
Như vậy, yếu tố nước ngoài trong quan hệ nuôi con nuôi được quy định
trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã được mở rộng hơn trước đây. Việc
mở rộng yếu tố nước ngoài là hết sức cần thiết, phù hợp với tình hình thực tế
hiện nay của nước ta trong tiến trình hội nhập quốc tế.
1.2.2 Phương pháp điều chỉnh.
Phương pháp điều chỉnh của pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu
tố nước ngoài trong đó có quan hệ nuôi con nuôi là phương pháp xung đột và
phương pháp thực chất. Hai phương pháp này được kết hợp hài hoà và tác động

tương hỗ với nhau trong điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
nhằm bảo đảm sự thuận lợi cho các bên trong quá trình giải quyết việc nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài.
1.2.2.1 Phương pháp xung đột.
8
Phương pháp xung đột là phương pháp điều chỉnh dựa vào các quy tắc
được ấn định để áp dụng pháp luật của một nước chỉ định nhằm giải quyết quan
hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài phát sinh thông qua các quy phạm xung
đột [3].
Phương pháp xung đột được hình thành và phát triển trên nền tảng hệ
thống các quy phạm xung đột của quốc gia và các quy phạm xung đột trong các
điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên. Quy phạm xung đột là quy phạm
pháp luật ấn định pháp luật của nước nào phải được áp dụng để điều chỉnh quan
hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trong một tình huống cụ thể. Như vậy,
quy phạm xung đột là loại quy phạm pháp luật “dẫn chiếu“, theo đó các cơ quan
có thẩm quyền chọn được hệ thống pháp luật tối ưu để điểu chỉnh quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài. Khác với các loại quy phạm pháp luật thông
thường, quy phạm xung đột được cấu thành bởi hai bộ phận là phạm vi (tương
tự phần “ giả định “) và hệ thuộc (tương tự phần “ quy định”), không có phần
chế tài.
Để giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài, các nước thường sử dụng một số kiểu hệ thuộc cơ bản sau : Luật
nhân thân (lex personalis) bao gồm luật quốc tịch (lex patriae) và luật nơi cư trú
(lex domicilii); luật nơi thực hiện hành vi (lex loci astus) và luật toà án (lex fori).
Ở Việt Nam, quy phạm xung đột về vấn đề nuôi con nuôi được ghi nhận
trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và một số văn bản khác. Ngoài ra,
quy phạm xung đột còn được ghi nhận trong Hiệp định tương trợ tư pháp
(HĐTTTP) Việt Nam đã kí kết với các nước. Ví dụ như : Theo Điều 29
HĐTTTP Việt Nam – Bungari; Điều 30 HĐTTTP Việt Nam – Ba lan ; Điều 29
HĐTTTP Việt Nam – Mông Cổ đều khẳng định “ việc nuôi con nuôi sẽ được áp

dụng pháp luật của nước kí kết mà người nhận nuôi là công dân”.
Phương pháp xung đột được áp dụng tương đối phổ biến để điều chỉnh
quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Phương pháp này được áp dụng
thông qua quy phạm xung đột. Quy phạm xung đột không trực tiếp quy định
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu
tố nước ngoài, mà nó chỉ ra việc áp dụng pháp luật của một nước nào đó để điều
chỉnh quan hệ này.
1.2.2.2 Phương pháp thực chất.
9
Phương pháp thực chất là phương pháp điều chỉnh dựa vào việc nhất thể
hoá các quy phạm luật thực chất, cách thức giải quyết quan hệ nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài trong pháp luật của từng nước, định rõ quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể trong quan hệ này dưới dạng định ra các quy phạm thực chất thống
nhất [3].
Quy phạm thực chất là quy phạm trực tiếp phân định quyền và nghĩa vụ
cụ thể giữa các bên tham gia quan hệ dân sự quốc tế. Quy phạm thực chất có thể
được xây dựng trong các điều ước quốc tế (gọi là các quy phạm thực chất thống
nhất). Việc xây dựng các quy phạm thực chất trong các điều ước quốc tế điều
chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài cũng như trong
quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là hết sức cần thiết. Nó làm hài hoà
sự khác biệt trong pháp luật của các quốc gia và có tính chất đơn giản hoá trong
việc điều chỉnh các quan hệ này. Khi các quốc gia kí kết với nhau điều ước quốc
tế trong đó có quy phạm thực chất thống nhất, cơ quan có thẩm quyền giải quyết
sẽ dựa vào đó để xem xét và giải quyết thực chất vấn đề trên cơ sở áp dụng ngay
quy phạm đó.Việc áp dụng các quy phạm thực chất sẽ loại trừ vấn đề phải chọn
luật và cả vấn đề áp dụng luật nước ngoài.
Quy phạm thực chất còn được xây dựng trong pháp luật quốc gia. Loại
quy phạm này gọi là quy phạm thực chất thông thường. Tuy nhiên, về vấn đề
này, trong khoa học pháp lí các nước chưa có quan điểm thống nhất. Song, cùng
với các quy phạm xung đột và quy phạm thực chất thống nhất, các quy phạm

thực chất thông thường là quy phạm được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, trong đó có quan hệ nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài. Các quy phạm thực chất này được ghi nhận trong các văn
bản pháp luật Việt Nam ban hành. Ví dụ như Khoản 1 - Điều 105 Luật hôn nhân
và gia đình năm 2000. Rõ ràng các quy phạm thực chất trong pháp luật quốc gia
điều chỉnh trực tiếp quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Tóm lại, để điều chỉnh trực tiếp quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài, các quốc gia thường sử dụng hai phương pháp xung đột và phương pháp
thực chất với các quy phạm xung đột và quy phạm thực chất. Hai loại quy phạm
này cùng tồn tại song song, hỗ trợ cho nhau với những chức năng khác nhau để
điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
10
1.3 Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của pháp luật điều
chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt nam.
Theo từng thời gian, để phù hợp với sự nghiệp cách mạng của đất nước,
phù hợp với tình hình phát triển của các điều kiện kinh tế, xã hội và thực tế của
các quan hệ hôn nhân và gia đình nói chung và quan hệ hôn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngoài nói riêng, trong đó có quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài. Nhà nước ta đã kịp thời ban hành các văn bản pháp luật về hôn nhân và
gia đình. Hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình dần được hoàn thiện, là công
cụ pháp lý của Nhà nước ta, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
1.3.1 Trước năm 1945
Pháp luật phong kiến nước ta từ thế kỉ XV đến thể kỉ XIX tiêu biểu là hai
bộ luật đó là : Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức được ban hành dưới
triều Lê) và Hoàng Việt luật lệ (còn gọi là Bộ luật Gia Long được ban hành dưới
triều Nguyễn).
Hai bộ luật này quy định khá cụ thể việc điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi
trong thời kỳ đó. Thể hiện rõ nét phong tục, tập quán truyền thống của người
Việt Nam về gia đình. Song các bộ luật này cũng không tránh khỏi hạn chế của
chế độ phong kiến đang suy tàn, xu hướng duy trì chế độ phụ hệ vững chắc, triệt

tiêu sự bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa con nuôi và con đẻ.
Dưới thời Pháp thuộc, đất nước ta bị chia làm ba kì là Bắc kì, Trung kì và
Nam kì. Sau khi xâm lược Việt Nam và đặt ách đô hộ ở Nam kì, thực dân Pháp
đã ban hành Bộ dân luật giản yếu Nam kì áp dụng ở Nam kì và ba thành phố Hà
Nội, Hải Phòng, Đã Nẵng. Bộ dân luật Bắc kì được ban hành vào ngày
30/03/1931 theo Nghị Định của Thống sứ Bắc kì để thi hành trên toàn Bắc kì từ
ngày 01/07/1931 thay cho Bộ luật Gia Long. Hoàng Việt Trung kì bộ luật được
ban hành năm 1939 thi hành trên toàn Trung kì. Về quan hệ gia đình, các bộ luật
này đã quy định về vấn đề nuôi con nuôi, quyền và nghĩa vụ giữa cha, mẹ và con
theo mô hình phương Tây. Song pháp luật dân sự thời kì này có những mặt hạn
chế nhất định đó là gia đình vẫn mang nặng tư tưởng phong kiến, trọng nam
khinh nữ, nhiều quy định về nghĩa vụ của con còn rất khắt khe.
1.3.2 Từ năm 1945 đến 1959
11
Ngay từ khi ra đời, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã quan tâm và
coi trọng việc xây dựng hệ thống pháp luật nhằm củng cố và bảo vệ thành quả
của cách mạng. Tuy chưa có văn bản riêng điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia
đình có yếu tố nước ngoài nhưng vấn đề này được quy định trong một số văn
bản pháp luật khác, như trong Sắc lệnh số 53/SL ngày 20/10/1945 về quốc tịch
Việt Nam. Hiến pháp năm 1959 là cơ sở pháp lí quan trọng để điều chỉnh quan
hệ gia đình trong thời kì này, tuy nhiên vẫn chưa có quy định cụ thể điều chỉnh
trực tiếp quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài.
Pháp luật trong nước về quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài còn hết
sức đơn giản, chưa tập hợp thành hệ thống. Nhà nước ta chủ trương chưa ban
hành văn bản pháp luật riêng để điều chỉnh trực tiếp quan hệ gia đình có yếu tố
nước ngoài mà chỉ điều chỉnh quan hệ gia đình trong nước theo Hiến pháp 1946.
Quan hệ hợp tác giữa nước Việt Nam dân chủ cộng hoà với các nước chủ
yếu là các nước xã hội chủ nghĩa ở giai đoạn này mới bắt đầu kiến lập và dần
được củng cố. Trong bối cảnh đó, các quan hệ xã hội có yếu tố nước ngoài phát
sinh, đòi hỏi phải được pháp luật điều chỉnh, tuy nhiên vấn đề quan hệ gia đình

có yếu tố nước ngoài chưa phải là yêu cầu bức xúc.
1.3.3 Từ năm 1959 đến 1986
Trong thời kì này, bản Hiến pháp mới của nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà đã được Quốc hội thông qua tại kì họp thứ 11 ngày 31/12/1959, tiếp tục ghi
nhận quyền bình đẳng giữa nam và nữ (Điều 24). Xuất phát từ tình hình thực tế
của quan hệ gia đình trong thời kì mới, Luật hôn nhân và gia đình đã được Quốc
hội thông tại kì họp thứ 11 ngày 29/12/1959. Luật đã điều chỉnh quyền và nghĩa
vụ giữa vợ chồng, giữa cha, mẹ và con. Tuy nhiên, Luật hôn nhân và gia đình
năm 1959 không có quy phạm điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài.
Ở miền Bắc, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 04 ngày 16/01/1961
kèm theo Điều lệ về đăng kí hộ tịch. Ngày 21/06/1961, Bộ nội vụ ban hành
Thông tư số 05/NV hướng dẫn thi hành Điều lệ về đăng kí hộ tịch nói trên. Tuy
nhiên, trong văn bản pháp luật này chưa quy định điều chỉnh quan hệ gia đình có
yếu tố nước ngoài đầy đủ nhưng những quy định này sẽ là nền móng cơ bản để
chúng ta giải quyết quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài, đặc biệt là vấn đề con
nuôi. Trong giai đoạn này, một số ít trường hợp người nước ngoài nhận trẻ em
12
Việt Nam làm con nuôi đã được giải quyết. Do vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài không được cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật nói trên nên khi
giải quyết các việc này các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của ta còn gặp
nhiều khó khăn và lúng túng.
Ở miền Nam, cũng trong giai đoạn này, chính quyền Nguỵ Sài Gòn đã
ban hành Bộ dân luật ngày 20/12/1972. Trong Bộ dân luật này đã quy định về
quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nói chung và quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng. Điều 248 Bộ dân luật Sài Gòn có quy
định về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, theo quy định này thì
“Người Việt Nam có thể lập người ngoại quốc làm con nuôi hay làm con nuôi
của người ngoại quốc “.
Sau khi đất nước thống nhất, quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước
ngày càng được mở rộng, do đó đã làm phát sinh ngày càng nhiều các quan hệ

gia đình có yếu tố nước ngoài, đòi hỏi phải được pháp luật điều chỉnh ngay. Để
xử lý tình hình này, Việt Nam đã tiến hành đàm phán và kí kết các hiệp định
tương trợ tư pháp với Cộng hoà dân chủ Đức (1980) , Liên Xô (1981), Tiệp
Khắc (1982), Cu Ba (1984)…Các hiệp định này đã tạo lập một khung pháp lí
khá hoàn chỉnh điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài như quan hệ
pháp lí giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con; vấn đề nuôi con nuôi; vấn đề xung
đột pháp luật và xung đột thẩm quyền được giải quyết khá cụ thể.
1.3.4 Từ năm 1986-2000
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nước
ta bước sang một thời kỳ mới, chuyển dần sang nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Trước những thay đổi mới to lớn của đất nước, Nhà
nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật kịp thời điều chỉnh những quan hệ
mới phát sinh. Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 ra đời, trong thời kỳ đổi mới
đất nước, kế thừa những nguyên tắc dân chủ và tiến bộ của chế độ hôn nhân gia
đình mới được thể chế hoá trong Luật hôn nhân và gia đình năm 1959. Đã góp
phần vào việc xây dựng và củng cố chế độ gia đình xã hội chủ nghĩa, giữ gìn và
phát huy những phong tục tập quán, truyền thống tốt đẹp về hôn nhân và gia
đình, từng bước nâng cao nhận thức và ý thức của nhân dân trong việc thi hành
các quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Về cơ bản, Luật hôn nhân và gia
13
đình năm 1986 kế thừa và tiếp tục phát huy những thành tựu lập pháp của Luật
hôn nhân và gia đình năm 1959, đồng thời bổ sung những chế định quan trọng
phù hợp với giai đoạn phát triển mới. Lần đầu tiên trong lịch sử pháp luật hôn
nhân và gia đình, Nhà nước ta đã dành một chương riêng (Chương IX) để quy
định về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Trong chương này,
các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được quy định tại Điều
52, 53 và 54. Đây là bước phát triển mới của Luật hôn nhân và gia đình năm
1986, đáp ứng nhu cầu của tình hình mới và phản ánh xu hướng mở rộng phạm
vi điều chỉnh của Luật hôn nhân và gia đình, bước đầu quy định về hôn nhân và
gia đình.

Trong khoảng thời gian này, Quốc hội đã thông qua một số văn bản pháp
lí có liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nói chung
và quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng như Luật quốc tịch năm
1988, Điều 14 quy định : trẻ em là công dân Việt Nam làm con nuôi người nước
ngoài không vì thế mà mất quốc tịch Việt Nam ; Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục
trẻ em quy định (Điều 7)“ Mọi trường hợp đưa trẻ em ra nước ngoài hoặc từ
nước ngoài vào phải theo quy định của pháp luật “; Pháp lệnh lãnh sự năm
1990, trong đó có quy định Cơ quan lãnh sự có thẩm quyền đăng kí kết hôn,
nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài.
Ngày 29/04/1992, Hội đồng bộ trưởng đã ban hành Quyết định số 145/
HĐBT quy định tạm thời về việc cho người nước ngoài nhận con nuôi là trẻ em
mồ côi, bị bỏ rơi, bị tàn tật ở các cơ sở nuôi dưỡng do ngành lao động thương
binh xã hội quản lí. Sau đó, ngày 19/01/1993, Bộ lao động - thương binh - xã
hội, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch số
01/TTLB hướng dẫn thi hành Quyết định 145/HĐBT. Quyết định 145/HĐBT là
văn bản pháp luật trong nước đầu tiên của Việt Nam cụ thể hoá nuôi con nuôi
giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài. Tuy nhiên trong quá trình thực
hiện việc cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi, Quyết định
145/HĐBT đã bộc lộ một số hạn chế.
Ngày 02/12/1993 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh hôn
nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài, trong đó Pháp
lệnh có đề cập đến nuôi con nuôi tại Điều 16, Điều 17 với nội dung quy định cơ
chế giải quyết tranh chấp và xác định quyền và nghĩa vụ của người nuôi và con
14
nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi. Để thi hành Pháp lệnh, ngày 30/11/1994 Nhà
nước đã ban hành Nghị Định 184/CP quy định về thủ tục kết hôn, nhận con
ngoài giá thú, nuôi con nuôi, nhận đỡ đầu giữa công dân Việt Nam và người
nước ngoài. Theo Điều 16 của Nghị Định trên thì trẻ em được nhận làm con
nuôi bao gồm trẻ ở cơ sở nuôi dưỡng, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn được cha
mẹ đồng ý và cả trường hợp trẻ em bị bỏ lại ở các cơ sở y tế.

Tiếp đó, ngày 25/05/1995, liên Bộ Tư pháp - Bộ Ngoại giao - Bộ Nội vụ
đã ban hành Thông tư số 503/TTLB hướng dẫn chi tiết thi hành Nghị Định số
184/CP. Ngày 28/08/1995, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 337/TT-PLQT
hướng dẫn thi hành một số quy định của Thông tư số 503 nói trên.
Cũng trong giai đoạn này, ngày 01/02/2000 Việt Nam đã kí kết Hiệp định
song phương với Cộng hoà Pháp hợp tác về lĩnh vực nuôi con nuôi. Hiệp định
đã quy định các vấn đề về đối tượng nhận con nuôi, cho làm con nuôi ; thẩm
quyền giải quyết việc nuôi con nuôi và luật áp dụng ; trình tự, thủ tục giải quyết
nuôi con nuôi… Hiệp định hợp tác về lĩnh vực nuôi con nuôi này tạo điều kiện
thuận lợi trong quá trình giải quyết cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam
làm con nuôi.
Như vậy, trong giai đoạn này Việt Nam đã xây dựng được hệ thống pháp
luật khá đầy đủ, đồng bộ và tương đối chi tiết điều chỉnh các vấn đề thuộc quan
hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Các văn bản này đã góp phần vào việc
thực hiện chính sách đối ngoại mở rộng của Nhà nước ta trong thời kỳ mới.
Đồng thời đã định ra một cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Tư pháp với các Uỷ
ban nhân dân tỉnh trong giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
1.3.5 Từ năm 2000 đến nay.
Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 đã đóng góp một phần to lớn trong
việc điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, trong giai đoạn
đổi mới hiện nay, nhiều quy định trong Luật hôn nhân và gia đình năm 1986
không còn phù hợp nữa do đó cần được nghiên cứu và bổ sung. Để đáp ứng yêu
cầu trong nước và quốc tế trong giai đoạn mới, Luật hôn nhân và gia đình năm
2000 được Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua
ngày 9/6/2000 tại kỳ họp thứ 7 khoá X. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày
1/1/2001. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thay thế cho Luật hôn nhân và
15
gia đình năm 1986, Pháp lệnh 1993, Nghị Định 184/CP và các văn bản hướng
dẫn thi hành Nghị Định.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã dành một chương (chương XI) quy

định quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Chương này gồm 7
điều từ Điều 100 đến Điều 106. Trong đó quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài được quy định tại Điều 105 “ Người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt
Nam hoặc nhận trẻ em nước ngoài thường trú tại Việt Nam làm con nuôi phải
tuân theo quy định của Luật này và quy định trong pháp luật của nước mà
người đó là công dân về điều kiện nhận nuôi con nuôi.” Sự ra đời của Luật hôn
nhân và gia đình năm 2000 đã đáp ứng được yêu cầu thực tế trong việc giải
quyết quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nói chung và quan hệ
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng, nó có phạm vi điều chỉnh rộng
hơn so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Pháp lệnh 1993 và Nghị Định
184/CP. Ngày 10/07/2002, Nghị Định 68/2002/NĐ-CP của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân
và gia đình có yếu tố nước ngoài đã được Chính phủ thông qua. Ngày
16/12/2000, Bộ Tư pháp ra thông tư số 07/2000/TT-BTP hướng dẫn thi hành
một số điều của Nghị Định 68/2002/NĐ-CP. Các văn bản pháp lí này đã tạo
điều kiện cho việc áp dụng dễ dàng và thống nhất các quy định về hôn nhân và
gia đình có yếu tố nước ngoài của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Như vậy, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi
hành luật này đã tạo khung pháp lí hoàn chỉnh cho việc nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài được thực hiện một cách dễ dàng và nhanh chóng đáp ứng nhu cầu
hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài.
16
CHƯƠNG II QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU
TỐ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM.
2.1 Pháp luật Việt nam điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu
tố nước ngoài.
2.1.1 Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được quy
định tại Điều 35 - Nghị Định 68/2002/NĐ-CP thể hiện quan điểm cơ bản, chủ

đạo xuyên suốt trong quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài tại Việt Nam.
- Theo quy định tại Điều 35- Nghị Định 68/2002/NĐ-CP bao gồm 2
nguyên tắc :
Thứ nhất , Việc cho, nhận con nuôi chỉ được thực hiện trên tinh thần
nhân đạo, nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất cho trẻ em và tôn trọng các quyền cơ
bản của trẻ em. Nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi nhằm mục đích bóc lột
sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi
khác.
Đây là nguyên tắc chưa được khẳng định trong Nghị định 184/CP, là sự
khác biệt cơ bản của Nghị Định 68/2002/NĐ-CP, thể hiện sự quan tâm của Đảng
và Nhà nước đối với thế hệ trẻ em hôm nay. Đồng thời, nguyên tắc này được ghi
nhận trong Công ước La Hay về hợp tác nuôi con nuôi 1993. Từ đó, có thể thấy
nguyên tắc cơ bản của việc giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài dựa
trên nguyên tắc của Công ước La Hay 1993. Quy định này nhằm đảm bảo đúng
mục đích của của việc nuôi con nuôi. Bởi vì trong thời gian qua, một số trường
hợp người nhận con nuôi đã lợi dụng việc nuôi con nuôi, có các hành vi bóc lột
sức lao động của con nuôi, xâm phạm tình dục đối với con nuôi. Những việc làm
đó là hoàn toàn trái với mục đích của việc nhận nuôi con nuôi, trái pháp luật và
đạo đức xã hội. Quy định này của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 chính là
cơ sở để phòng ngừa, ngăn chặn, và xử lý những hiện tượng xã hội tiêu cực đó.
Thứ hai, Việc cho người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận trẻ
em có quốc tịch Việt Nam làm con nuôi được xem xét, giải quyết nếu Việt Nam
và nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú đã ký kết hoặc cùng gia nhập
17
điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi ( trừ trường hợp là xin trẻ đích danh
theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 36 – Nghị Định 68/2002/NĐ-CP ).
Đây chính là điểm mới của NĐ 68/2002 so với NĐ 184/CP, mà trước đây
nghị định 184/CP đã không quy định nguyên tắc này. Đây là nguyên tắc hết sức
quan trọng vì nó yêu cầu việc giải quyết con nuôi phải đặt ở tầm quan hệ giữa

hai nhà nước, chứ không còn là quan hệ giữa người xin con nuôi, người cho con
nuôi và cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thông qua cơ chế hợp tác này, Hiệp
định bảo đảm về cả phía ta và phía nước ngoài quản lý tốt hơn cha mẹ nuôi và
con nuôi, cũng như toàn bộ trình tự thủ tục giải quyết. Điều này làm tăng độ tin
cậy đối với hồ sơ, cũng như toàn bộ quy trình giải quyết cho con nuôi, phù hợp
với các nguyên tắc, mục đích cao cả của Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ
em ngày 20/11/1989 và Công ước La Hay về hợp tác nuôi con nuôi năm 1993.
Bên cạnh những nguyên tắc được quy định tại Điều 35 của Nghị Định
68/2002/NĐ-CP, trong quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi cần đảm bảo các
nguyên tắc sau :
a. Nguyên tắc bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở
nước ngoài phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật nước sở tại, pháp luật
và tập quán quốc tế. Đồng thời không phân biệt đối xử với người nước ngoài
trong quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài cũng như quan hệ nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài ở Việt Nam.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 100 Luật hôn nhân và gia đình năm
2000: “Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, người nước ngoài tại Việt Nam
được hưởng các quyền và nghĩa vụ như công dân Việt Nam, trừ trường hợp
pháp luật Việt Nam có quy định khác “. Theo nguyên tắc này, khi người nước
ngoài tham gia vào quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài sẽ được hưởng
các quyền và nghĩa vụ như công dân Việt Nam, trừ một số trường hợp cụ thể mà
pháp luật Việt Nam có quy định khác. Như vậy, Nhà nước Việt Nam đã áp dụng
chế độ đãi ngộ như công dân đối với người nước ngoài trong quan hệ nuôi con
nuôi được thực hiện tại Việt Nam
Bên cạnh việc thừa nhận và bảo hộ quyền lợi của công dân nước ngoài,“
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân Việt Nam ở nước ngoài trong quan hệ hôn nhân và gia đình phù
hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật của nước sở tại, pháp luật và tập quán
18
quốc tế” (Khoản 3 Điều 100 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000). Quy định

này rất có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay, tạo cơ sở pháp lý thống nhất để Nhà
nước tiến hành bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân ta trong quan
hệ hôn nhân và gia đình bao gồm quan hệ nuôi con nuôi ở nước sở tại. Việc bảo
hộ quyền lợi của công dân Việt Nam được thực hiện thông qua Cơ quan đại diện
ngoại giao, Cơ quan lãnh sự của ta ở nước ngoài. Điều này hoàn toàn phù hợp
với quy định của Công ước Viên 1961 về quan hệ ngoại giao và Công ước Viên
1963 về quan hệ lãnh sự mà Việt Nam đã gia nhập.
Như vậy, trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, Nhà nước
Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên không
phân biệt họ là người Việt Nam hay người nước ngoài. Việc bảo vệ quyền lợi
của các bên đều được thực hiện trên cơ sở các quy định của pháp luật về hôn
nhân và gia đình của Việt Nam, các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết và
tham gia. Việt Nam cũng bày tỏ kiên quyết trong đấu tranh chống các hành vi
lợi dụng quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nhằm mục đích mua bán,
bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục đối với trẻ em hoặc vì mục đích trục
lợi khác.
b. Nguyên tắc áp dụng pháp luật nước ngoài đối với quan hệ hôn nhân và
gia đình có yếu tố nước ngoài (Điều 101).
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một chế định của quan hệ hôn nhân
và gia đình có yếu tố nước ngoài, do đó trong quá trình giải quyết việc nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài cũng phải tuân theo nguyên tắc này. Do bản chất của
quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nên có ít nhất hai hệ thống pháp luật
(pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài hữu quan) cùng có thể được áp
dụng để điều chỉnh quan hệ đó. Việc áp dụng pháp luật nước nào không phải do
ý chí chủ quan của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà là do sự dẫn chiếu của
quy phạm xung đột. Theo Điều 101, trong các trường hợp sau, pháp luật nước
ngoài được áp dụng :
a. Một là, khi quy phạm xung đột trong Luật hôn
nhân và gia đình dẫn chiếu áp dụng pháp luật nước ngoài.
b. Hai là, trong các văn bản khác của Việt Nam (bao gồm cả các văn

bản hướng dẫn thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000) dẫn
19
chiếu áp dụng pháp luật nước ngoài để điều chỉnh quan hệ hôn nhân
và gia đình.
c. Ba là, điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia dẫn chiếu
áp dụng pháp luật nước ngoài.
Do vậy, căn cứ để áp dụng pháp luật nước ngoài, trước hết phải dựa trên
các quy phạm xung đột được quy định trong pháp luật Việt Nam hoặc trong điều
ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Việc áp dụng pháp luật nước
ngoài bắt buộc phải bảo đảm điều kiện không trái với các nguyên tắc của Luật
hôn nhân và gia đình Việt Nam.
Tóm lại, có thể nói việc giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại
Việt Nam phải tuân theo một số nguyên tắc pháp lí nhất định. Những nguyên tắc
này được cụ thể hoá trong các quy định của pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài của Việt Nam. Việc tuân thủ các nguyên tắc này không chỉ bảo vệ
lợi ích của quốc gia trong quan hệ quốc tế mà còn bảo vệ quyền lợi chính đáng
của các chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
2.1.2 Điều kiện nuôi con nuôi.
Như chúng ta đã biết, mục đích của việc nuôi con nuôi nói chung cũng
như nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng là nhằm gắn bó tình cảm giữa
người nuôi và con nuôi trong quan hệ cha, mẹ và con, đảm bảo cho người con
chưa thành niên được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục tốt phù hợp
với đạo đức xã hội [19]. Do vậy, việc nuôi con nuôi là biện pháp hữu hiệu nhằm
tạo ra mái ấm gia đình, sự yêu thương chăm sóc, giáo dục của cha, mẹ nuôi đối
với con nuôi. Để việc nuôi con nuôi được thực hiện theo đúng mục đích tốt đẹp
đó, đồng thời đảm bảo sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước, pháp luật Việt Nam
quy định về điều kiện nhận nuôi con nuôi bao gồm điều kiện đối với người nhận
nuôi con nuôi và điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi.
20
2.1.2.1 Điều kiện đối với người nhận con nuôi.

Theo khoản 1- Điều 105 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000: “ Người
nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam hoặc nhận trẻ em nước ngoài thường trú
tại Việt Nam làm con nuôi phải tuân theo quy định của Luật này và quy định
trong pháp luật của nước mà người đó là công dân về điều kiện nhận nuôi con
nuôi “. Như vậy, pháp luật Việt Nam đã kết hợp giữa nguyên tắc nơi cư trú và
nguyên tắc quốc tịch để điều chỉnh điều kiện của người nhận nuôi. Theo quy
định tại Khoản 2 Điều 35 Nghị Định 68/2002/NĐ-CP, người nước ngoài cư trú
ở nước ngoài chỉ có thể nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi nếu Việt Nam và
nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú đã kí kết hoặc cùng gia nhập điều
ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi (bao gồm trẻ em sống tại gia đình và cơ sở
nuôi dưỡng). Đối với người nước ngoài thường trú tại nước chưa kí kết hoặc
cùng gia nhập với Việt Nam điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi thì chỉ
được nhận trẻ em Việt Nam đang sống tại gia đình làm con nuôi trong trường
hợp xin đích danh trẻ em thuộc trường hợp bị mồ côi, bị tàn tật, trẻ em có quan
hệ họ hàng thân thích với người xin nhận con nuôi. Và cũng tại Nghị định số
68/CP, Khoản 1 - Điều 37 thì điều kiện đối với người xin nhận con nuôi bao
gồm “ Người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi phải có đủ
điều kiện để nuôi con nuôi theo quy định tại Điều 69 của Luật hôn nhân và gia
đình Việt Nam và pháp luật của nước nơi người đó thường trú”. Như vậy, người
nước ngoài phải đáp ứng được các điều kiện tại Điều 69 Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000 tức là phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; hơn con nuôi từ
hai mươi tuổi trở lên; có tư cách đạo đức tốt; có điều kiện thực tế bảo đảm việc
trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; không phải là người đang
bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên…[19].
Việc quy định như vậy là hết sức cần thiết. Bảo đảm cho người con nuôi
được sống trong môi trường gia đình lành mạnh, được chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục tốt bảo đảm cho sự hình thành và phát triển tốt về nhân cách cho người
con nuôi. Đồng thời, bảo đảm cho việc nuôi con nuôi đạt được mục đích của nó
và phù hợp với ý nghĩa của việc nuôi con nuôi. Do vậy, khi nhận con nuôi,
người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện đó. Trong trường hợp vợ chồng

xin nhận con nuôi thì vợ chồng đều phải có đủ các điều kiện quy định tại Điều
69 của Luật hôn nhân và gia đình (Điều 70-Luật hôn nhân và gia đình , Khoản
2-Điều 37 Nghị Định 68/2002/NĐ-CP ).
21
2.1.2.2 Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi.
Trước đây, Nghị Định 184/CP không có quy định hạn chế về đối tượng
trẻ em được cho làm con nuôi nên trong một thời gian dài bất cứ người nước
ngoài nào cũng có thể vào Việt Nam để xin trẻ em từ các cơ sở nuôi dưỡng, cơ
sở y tế hoặc từ gia đình có con nuôi. Do đó, hiện tượng môi giới, trung gian về
nuôi con nuôi đã xuất hiện, gây mất trật tự an ninh, xã hội nghiêm trọng. Để
khắc phục hiện tượng này, Nghị Định 68/2002/NĐ-CP ngoài việc quy định về
điều kiện đối với người nhận con nuôi còn quy định điều kiện đối với người
được nhận làm con nuôi là trẻ em Việt Nam bao gồm :
* Phải là người từ đủ 15 tuổi trở xuống.
Quy định này xuất phát từ cơ sở những người chưa thành niên từ 15 tuổi
trở xuống là người chưa có năng lực hành vi đầy đủ, họ chưa nhận thức được
đầy đủ hành vi của mình, quan hệ nuôi con nuôi sẽ bảo đảm cho người con nuôi
có được sự giám hộ của cha mẹ nuôi. Hơn nữa, căn cứ vào đặc tính thể chất, ở
lứa tuổi này, các em chưa có khả năng tự lập nên cần được nuôi dưỡng, quan
tâm chăm sóc và giáo dục. Nếu các em ở độ tuổi này rơi vào tình trạng không
còn cha mẹ, không xác định được cha mẹ hoặc cha mẹ rơi vào tình trạng không
có khả năng lao động hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì các em có quyền
được nhận làm con nuôi để cha mẹ nuôi chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục các
em. Theo quy định tại Điều 1 Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em ( 12/08/1991) và
Công ước quốc tế về quyền trẻ em thì đây là lứa tuổi các em cần được đặc biệt
quan tâm bảo vệ.
* Trẻ em trên 15 tuổi có thể được nhận làm con nuôi nếu là trẻ em
tàn tật hoặc mất năng lực hành vi dân sự. Việc quy định như vậy nhằm tạo cho
các em có một cơ hội chăm sóc, nuôi dưỡng tốt hơn.
* Đối tượng trẻ em được nhận làm con nuôi

Trẻ em được cho làm con nuôi thuộc một trong các đối tượng sau :
a. Trẻ em đang sống tại cơ sở nuôi dưỡng được thành lập hợp pháp tại các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Quy định này là hoàn toàn hợp lý, để tránh tình trạng buôn bán trẻ em
dưới hình thức nuôi con nuôi. Mặt khác, để Nhà nước có thể quản lý thống nhất
hoạt động nuôi con nuôi từ Trung ương đến địa phương.
22
b. Trẻ em đang sống tại gia đình thuộc diện mồ côi, bị tàn tật hoặc có
quan hệ họ hàng, thân thích với người xin nhận con nuôi.
Như vậy, Nghị Định 68/2002/NĐ-CP không cho phép cơ sở y tế trực tiếp
cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài như Nghị Định 184/CP trước đây,
nhằm giới hạn đối tượng con nuôi về một mối thống nhất để dễ quản lý, ngăn
chặn các hiện tượng tiêu cực có thể phát sinh.
2.1.3 Quyền và nghĩa vụ giữa cha, mẹ và con nuôi.
Khi quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được xác lập thì vấn đề tất
yếu là xác định nội dung các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi.
Để giải quyết xung đột pháp luật về vấn đề này, khoản 2 Điều 105 Luật hôn
nhân và gia đình năm 2000 quy định :
Thứ nhất : Nếu việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được thực hiện
tại Việt Nam thì quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi được xác lập
theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 và các văn
bản hướng dẫn thi hành. Điều 74 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định
“ Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con
theo quy định của Luật này, kể từ thời điểm đăng kí việc nuôi con nuôi “. Việc
pháp luật Việt Nam khẳng định vị trí con nuôi như con trong giá thú có ý nghĩa
rất quan trọng, đảm bảo sự chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục của cha, mẹ nuôi
đối với con nuôi.
Thứ hai : Nếu việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được thực hiện tại
nước không phải là Việt Nam thì quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con
nuôi được xác định theo quy định của pháp luật nước nơi người con nuôi thường

trú. Quy định này hoàn toàn khác với Pháp lệnh 1993 về hôn nhân và gia đình
giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài. Theo Khoản 2 - Điều 16 Pháp
lệnh 1993 thì quyền và nghĩa vụ của người nuôi và con nuôi giữa công dân Việt
Nam với người nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước mà người
nuôi là công dân nếu cha mẹ nuôi có quốc tịch khác nhau thì áp dụng pháp luật
của nước nơi thường trú của con nuôi.
Như vậy, pháp luật Việt Nam sử dụng hệ thuộc luật nơi thường trú (lex
domicilli) của con nuôi để xác định quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi khi việc
nuôi con nuôi được thực hiện ở nước ngoài.
23
2.1.4 ChÊm dứt việc nuôi con nuôi.
Việc nuôi con nuôi không chỉ là một biện pháp phúc lợi cho trẻ em mà
còn là một biện pháp xã hội và pháp lý để bảo vệ trẻ em nhằm tạo ra mái ấm gia
đình, sự thương yêu đùm bọc của cha mẹ nuôi để cứu giúp những đứa trẻ bất
hạnh như các trẻ em mồ côi, trẻ em lang thang cơ nhỡ, trẻ em bị cha mẹ bỏ rơi…
Việc chấm dứt việc nuôi con nuôi nằm ngoài sự mong đợi của cha mẹ
nuôi và con nuôi. Nhưng để nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên cũng như ý
nghĩa xã hội của chế định nuôi con nuôi mà pháp luật về hôn nhân và gia đình
Việt Nam quy định những trường hợp chấm dứt nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài tại Việt Nam. Cụ thể là :
- Cha mẹ nuôi và con nuôi đã thành niên cùng tự nguyện chấm dứt quan hệ
nuôi con nuôi.
- Con nuôi bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,
nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc có
hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi.
- Cha mẹ nuôi đã lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động, xâm
phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác ; bị hạn chế hoặc
bị kết án mà chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính
mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người khác ; ngược đãi hành hạ ông
bà, vợ, chồng, cha, mẹ, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình ; dụ dỗ, ép

buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp ; mua bán, đánh tráo,
chiếm đoạt trẻ em ; các tội xâm phạm tình dục đối với trẻ em ; có hành vi xúi
giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
* Thẩm quyền chấm dứt việc nuôi con nuôi.
Cơ quan có thẩm quyền chấm dứt việc nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài ở Việt Nam hiện nay là Toà án nhân dân cấp tỉnh nơi thường trú của con
nuôi. Trong trường hợp trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài đã xuất
cảnh ra nước ngoài cùng cha mẹ nuôi, thì việc chấm dứt nuôi con nuôi do Toà
án hoặc Cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài nơi tiến hành việc nuôi con
nuôi đó, thực hiện theo pháp luật nước ngoài.
* Việc chấm dứt nuôi con nuôi có những hệ quả pháp lý :
Nếu việc chấm dứt nuôi con nuôi được tiến hành tại Tòa án Việt Nam, thì
các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi hoàn toàn chấm dứt. Giữa
24
cha mẹ nuôi và con nuôi không còn tồn tại mối quan hệ pháp lý giữa cha mẹ và
con nữa; nếu con nuôi là người chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật,
mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động hoặc không có tài sản
để tự nuôi mình, thì Toà án quyết định giao người đó cho cha mẹ đẻ hoặc cá
nhân, tổ chức trông nom, nuôi dưỡng. Nếu con nuôi có tài sản riêng thì được
nhận lại tài sản của mình. Nếu con nuôi đã thay đổi họ, tên, thì được lấy lại họ
tên cũ của mình do cha mẹ đẻ đặt.
Nếu việc chấm dứt nuôi con nuôi do Toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền
khác của nước ngoài tiến hành thì thường phát sinh những hệ quả pháp lý sau :
1. Quan hệ pháp lý giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chấm dứt tức là cha mẹ
nuôi và con nuôi không còn tồn tại mối quan hệ pháp lý giữa cha mẹ
và con, không có các quyền và nghĩa vụ đối với nhau kể cả về cấp
dưỡng, thừa kế.
2. Quan hệ pháp lý giữa cha mẹ đẻ (nếu có) và con nuôi được khôi phục
lại.
3. Con nuôi được lấy lại họ của cha mẹ đẻ.

4. Khôi phục lại các quan hệ gia đình giữa con nuôi và gia đình gốc của
mình kể cả quan hệ thừa kế.
Sau khi Toà án hoặc Cơ quan có thẩm quyền khác của nước ngoài quyết
định việc chấm dứt nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước
ngoài, để đảm bảo lợi ích tốt nhất của trẻ em, nếu cha mẹ nuôi hoặc cơ quan có
thẩm quyền của nước ngoài yêu cầu nhận trẻ em về Việt Nam do hậu quả của
việc chấm dứt nuôi con nuôi đó, thì cha mẹ đẻ, người giám hộ hoặc cơ sơ nuôi
dưỡng đã giao trẻ em đó trước đây có trách nhiệm làm thủ tục tiếp nhận trẻ em.
2.1.5 Trình tự và thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi tại Việt Nam
Nghị định 68/CP quy định chi tiết hơn rất nhiều về trình tự, thủ tục giải
quyết các vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Nhiều quy định được thể
hiện trong các mẫu hồ sơ ban hành kèm theo thống nhất trên phạm vi cả nước.
Các loại giấy tờ, thời hiệu, trình tự giải quyết được quy định hợp lý hơn, thuận
lợi hơn cho người xin con nuôi, đảm bảo sự yên tâm cho người xin con nuôi và
người cho con nuôi, đồng thời cũng đảm bảo lợi ích tốt nhất của đứa trẻ bởi một
đứa trẻ đã bị bỏ rơi và khi được người khác nhận làm con nuôi thì không phải
chịu thêm bất hạnh một lần nữa do việc xin con nuôi không thành.
25

×