ĐỀ TÀI
Sử dụng các mô hình kinh tế vĩ mô thích hợp để phân tích tác động của
một số chính sách cụ thể mà chính phủ Việt Nam đã thực hiện để
kiềm chế lạm phát trong giai đoạn hiện nay.
Mã lớp HP: 1123MAEC0111
Nhóm: 7
Phân chia công việc của các thành viên nhóm 7
STT Họ và tên Công việc
1 Vương Thị Liên Phân tích các số liệu liên quan đến lạm phát
giai đoạn 2007-2009, CSTT,CSTK
2 Phan Thị Loan Làm slide. Phân tích một số giải pháp khác của
chính phủ.
3 Phạm Thị Linh Một số khái niệm về lạm phát (khái niệm,
nguyên nhân, tác động).Phân tích CSTT
4 Lê Tuấn Linh Phân tích một số giải pháp khác mà chính phủ
đã sử dụng.
5 Nguyễn quang Linh Phân tích mô hình AD-AS, IS-LM.
6 Hoàng Văn Long Phân tích chính sách tài khóa mà nhà nước đã
sử dụng.
7 Lê Thị Mai Phân tích chính sách tài khóa mà nhà nước đã
sử dụng.
8 Đặng Thị Bình Minh Phân tích chính sách tiền tệ mà nhà nước đã sử
dụng.
9 Nguyễn Đình Minh Phân tích chính sách tiền tệ mà nhà nước đã sử
dung.
Bảng đánh giá thành viên nhóm 7
STT Họ và tên Mã sv Xếp loại
1 Vương Thị Liên
2 Phan Thị Loan
3 Phạm Thị Linh
4 Lê Tuấn Linh
5 Nguyễn quang Linh
6 Hoàng Văn Long
7 Lê Thị Mai
8 Đặng Thị Bình Minh
9 Nguyễn Đình Minh
Lời mở đầu
Lạm phát - một hồi chuông báo động về sự thay đổi của nền kinh tế cho tất cả các
quốc gia trên thế giới trong những thập niên gần đây. Trong nền kinh tế thị trường
hoạt động đầy sôi nổi và cạnh tranh gay gắt, để thu được lợi nhuận cao và đứng vững
trên thương trường, các nhà kinh tế cũng như các doanh nghiệp phải nhanh chóng tiếp
cận, nắm bắt những vấn đề mới của nền kinh tế mới. Bên cạnh các vấn đề cần có để
kinh doanh thì các hiện tượng kinh tế đang diễn ra hiện nay cũng không kém phần
quan trọng. Điển hình là diễn biến của chỉ số lạm phát. Nhận thức được điều đó Đảng
và nhà nước ta đã đưa ra các chính sách và tìm ra những phương án giải quyết các
chính sách đó như thế nào để kiềm chế lạm phát đồng thời thúc đẩy nền kinh tế phát
triển đi lên? Để giải quyết vấn đề này nhóm em đã lựa chon đề tài “Sử dụng các mô
hình kinh tế vĩ mô thích hợp để phân tích tác động của một số chính sách cụ thể mà
chính phủ Việt Nam đã thực hiện để kiềm chế lạm phát trong giai đoạn hiện nay”để
thảo luận.
1.Mục tiêu thảo luận
Tìm hiểu lạm phát trong giai đoạn 2007-2009, đánh giá tình hình lạm phát ở Việt
Nam hiện nay và các giải pháp mà Đảng nhà nước ta đã sử dụng để giải quyết vấn
đề kiềm chế lạm phát. Đồng thời đề xuất một số ý kiến để việc kiềm chế lạm phát
được thực hiện tốt và hiệu quả hơn trong thời gian tới.
2. Đối tượng nghiên cứu
Các giải pháp mà chính phủ thực hiện để kiềm chế lạm phát trong giai đoạn hiện
nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và các quan điểm, đường
lối chính sách của Đảng nhà nước ta nhằm kiềm chế lạm phát trong giai đoạn hiện
nay.phương pháp so sánh, phân tích…
I. Những vấn đề cơ bản về lạm phát
Trong giai đoạn 2007 – 2009, một vấn đề bức thiết gây chấn động địa cầu đã
xảy ra đó chính là cuộc khủng hoảng tài chính thế giới. Nó bắt nguồn từ cuộc
khủng hoảng tài chính Mỹ từ cuối năm 2007, kéo theo phản ứng dây chuyền
lêntoàn bộ nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển. Kết quả là các nước
đang phát triển trong đó có Việt Nam bị ảnh hưởng tiêu cực trên nhiều khía
cạnh. Lạm phát là một trong bốn yếu tố gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế của
một quốc gia (tăng trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán
có số dư). Tình hình lạm phát trong giai đoạn này ở Việt Nam lên tới mức báo
động là 2 con số, vượt qua ngưỡng lạm phát cho phép tối đa là 9% của mỗi
quốc gia vớimức lạm phát 12,63%(2007) và 22,3% (2008) . Điều này sẽ dẫn
đến nhiều tiêu cực trong đời sống kinh tế của chính phủ : làm suy vong nền
kinh tế quốc gia, tác động mạnh tới đời sống của người dân nhất là dân nghèo
khi vật giá ngày càng leo thang.Theo các số liệu của tổng cục thống kê, các
dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam trong năm 2007 có thể đạt 5,7 tỷ USD (8,1%
GDP), còn các dòng vốn khác có thể đạt khoảng 8,9 tỷ USD (12,7% GDP).
Cùng với đó, tăng trưởng tín dụng trong năm 2007 đạt mức 54%, thị trường
chứng khoán cũng phát triển bùng nổ. Ở các nước châu Á khác, giá lương thực
- thực phẩm tăng cao là nguyên nhân chính gây lạm phát, nhưng ở Việt Nam,
giá cả các mặt hàng phi lương thực cũng tăng tới trên 10% so với cùng kỳ năm
ngoái do tăng trưởng kinh tế cao, nhu cầu cao và thanh khoản dồi dào. Qua một
vài con số ấy thì ta đã phần nào thấy được tình hình lạm phát ở Việt Nam trong
giai đoạn này được coi là một ví dụ về “cú sốc” lạm phát. Vậy lạm phát là gì,
nguyên nhân hậu quả của nó như thế nào và chính phủ kiềm chế nó ra sao?
1. Khái niệm
Lạm phát là sự tăng lên liên tục của mức giá trung bình theo thời gian, là
tình trạng mức giá chung của nền kinh tế tăng trong một thời kì.
Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trung bình hay giảm sức
mua của đồng tiền và nó được biểu thị bằng chỉ số giá.
I
p
=∑i
p
×d
I
p
là chỉ số giá chung
i
p
là chỉ số giá cá thể của từng loại hàng, nhóm hàng
d là tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại, từng nhóm hàng và là
quyền số.
Trong phạm vi toàn cầu, khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm
phát là sự phá giá tiền tệ so với các loại tiền khác.
2. Nguyên nhân gây ra lạm phát trên lý thuyết gồm
- Lạm phát do cầu kéo: Là do sự tăng lên liên tục của tổng cầu. Tốc độ tăng
của tổng cầu nhanh hơn tốc độ tăng của tổng cung.
Ban đầu nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng tại
E(Y
*
, P
0
) tại đây AD=AS. Khi AD
0
tăng lên AD
1
lúc này AD∩AS=E
1
(Y
1
,P
1
). Sản lượng tăng từ Y
*
đến Y
1
và giả cũng tăng từ P
0
đến P
1
→ gây ra lạm phát.
Cụ thể ở Việt Nam :
Tổng đầu tư của toàn xã hội năm 2007 khoảng 493,6 nghìn tỉ đồng, chiếm 43%
GDP với số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được phê duyệt đạt 21,3 tỉ USD và
vốn thực hiện đạt 6,4 tỉ USD, cao hơn 77% so với năm 2006. Tổng chi ngân
E
1
E
0
AS
L
AS
L1
Y
*
→ Y
1
Y
AD
1
AD
0
0
P
P
1
P
0
sách nhà nước đạt 399,3 nghìn tỉ đồng, vượt khoảng 12% so với dự toán năm.
Bội chi ngân sách nhà nước 56,5 nghìn tỉ đồng, bằng 5% GDP. Thâm hụt cán
cân thương mại là 14,12 tỉ USD, bằng 29% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng gấp
hơn 2,5 lần so với năm 2006. → lạp phát.
- Lạm phát do chi phí đẩy: do giá của các yếu tố đầu vào tăng đặc biệt là các
yếu tố đầu vào cơ bản làm tổng cung suy giảm dẫn đến giá tăng.
Ban đầu nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng tại E(Y
*
,P
0
)
tại đây AD=AS. Khi AS giảm từ AS
L0
đến AS
L1
lúc này AD∩AS=E
1
(Y
1,
P
1
). Sản lượng giảm
từ Y
*
đến Y
1
và giá tăng từ P
0
đến P
1
.
→ gây ra lạm phát.
Thời kỳ 2007-2009 đồng USD yếu làm giá cả hàng hóa thế giới, đặc biệt từ các
nước xuất khẩu hàng sang Việt Nam tăng lên tương đối.
Giá dầu thô tháng từ mức 89,4 USD thùng vào tháng 12/2007 lên 135 USD đến
147 USD/ thùng, giá phôi thép tăng khiến các doanh nghiệp tranh thủ nhập
khẩu sợ giá có thể tăng lên tiếp.
- Lạm phát do dự kiến: là tỷ lệ lạm phát hiện tại mà mọi người dự kiến rằng nó
sẽ tiếp tục xảy ra trong tương lai. Tỷ lệ lạm phát này sẽ được đưa vào hợp đồng
kinh tế, các kế hoạch hay các thỏa thuận khác.
- Lạm phát do cung tiền tăng: do lượng tiền phát hành quá nhiều dẫn đến sự mất
cân đối giữa cung tiền và cầu tiền hay cung tiền lớn hơn cầu tiền. (Tốc độ tăng
tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng năm 2007 tăng gấp đôi so với
E
1
E
0
AS
L
AS
L1
AS
L0
AD
0
P
P
1
P
0
Y
1
Y
*
Y
tốc độ tăng của năm 2006. Tính đến 31-12-2007, tổng phương tiện thanh toán
tăng 46,7% so với 31/12/2006. Tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế năm 2007
tăng 58% so với năm 2006. Tổng lượng ngoại tệ ròng chảy vào nền kinh tế
trong năm 2007 ước chừng lên tới 22 tỉ USD, tương đương 30% GDP).
- Lạm phát do nhập khẩu quá nhiều: do nhu cầu nên nhập khẩu tăng nhanh dẫn
đến cầu ngoại tệ tăng làm cho giá ngoại tệ tăng nên cung tiền nội tệ tăng làm
cho đồng tiền mất giá và lạm phát xảy ra. Nhập siêu của 5 tháng/2008 đã trên
14,4 tỉ USD, cao hơn mức nhập siêu của cả năm 2007 (năm 2007 nhập siêu là
14,12 tỉ USD, bằng 29% kim ngạch xuất khẩu).
c).Tác hại của lạm phát
- Nếu lạm phát ở mức 2 – 5% sẽ có tác dụng kích thích sản xuất, bôi trơn nền
kinh tế và giúp nền kinh tế tăng trưởng.
- Nếu ở mức quá cao sẽ gây nên rất nhiều hậu quả:
+ Phân phối lại thu nhập và của cải một cách ngẫu nhiên giữa các cá nhân, tập
đoàn, các giai cấp trong xã hội.
+ Có những biến động về cơ cấu sản xuất và việc làm trong nền kinh tế.
+ Dẫn tới sự phản ứng mạnh mẽ của các tầng lớp dân cư, sự phản ứng của công
chúng xuất phát từ vấn đề kinh tế này có thể tác động tới sự ổn định về chính trị
của một quốc gia.
Do đó phản ứng kinh tế vĩ mô của các chính phủ là tìm mọi biện pháp chống
lạm phát và kiềm chế lạm phát.
II. Tình hình lạm phát ở Việt Nam thời gian qua.
1. Diễn biến lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua.
Ta có bảng số liệu tỷ lệ lạm phát từ 2001 đến 2008 (Đơn vị %)
Chỉ tiêu \ Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Tỷ lệ tăng GDP 6.89 7.08 7.24 7.7 8.4 8.17 8.48 6.23 5.32
Tỷ lệ lạm phát 0.8 4.0 3.0 9.5 8.4 6.6 12.63 22.3 6.52
Tăng trưởng GDP của Việt Nam giai đoạn 2001-2010
Diễn biến lãi suất huy động, cho vay bằng VND và lạm phát từ 2008-2009
2. Tác động của lạm phát đến nền kinh tế Việt Nam.
Từ những nguyên nhân trên đã gây ra tình trạng lạm phát cao ở nước ta
trong những năm gần đây cụ thể là:
+ Năm 2007, chỉ số CPI nước ta tăng 12.63% đặc biệt là những tháng cuối
năm.
+ Năm 2008, chỉ số CPI liên tục tăng đến cuối năm đạt 22.3%
+ Năm 2009, chỉ số CPI đạt 6.52%.
3. Một số giải pháp của chính phủ
Chính sách tài khóa chặt
Chính sách tiền tệ chặt
Giải pháp khác:
Cắt giảm đầu tư, chi phí không cần thiết
Đẩy mạnh sản xuất
Đảm bảo cân đối các mặt hàng chủ yếu, đẩy mạnh xuất khẩu,
chống nhập siêu
Triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dung
Quản lý thị trường, chống đầu cơ
Triển khai mở rộng các chính sách an sinh xã hội
Ổn định tình hình kinh tế xã hội.
III Phân tích một vài giải pháp cụ thể của chính phủ.
1. Sử dụng chính sách tài khóa thắt chặt
a) Khái niệm chính sách tài khóa (CSTK).
Chính sách tài khóa là việc chính phủ sử dụng thuế khóa và chi tiêu công
cộng để tiết kiệm mức chi tiêu chung trong nền kinh tế quốc dân nhằm hướng
tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế toàn dụng nhân công, bình ổn giá cả. Hai công
cụ chính của chính sách tài khóa là chi tiêu của chính phủ và hệ thống thuế.
b) CSTK trong mô hình tổng cung tổng cầu (AD-AS).
Khi nền kinh tế ở quá xa về bên trái hoặc về bên phải mức sản lượng tiềm năng
thì là lúc cần có tác động của chính sách tài khóa để đưa nền kinh tế về mức sản
lượng tiềm năng. Khi nền kinh tế đang trong trạng thái lạm phát tăng, chính phủ
có thể giảm chi tiêu, tăng thuế hoặc kết hợp cả giảm chi tiêu và tăng thuế nhờ
đó mức chi tiêu chung giảm đi, sản lượng giảm theo và lạm phát sẽ chững lại.
→ Mục tiêu của chính phủ là kiềm soát lạm phát.
Qua mô hình AD-AS ta thấy rõ rằng: giả sử ban đầu AD∩AS = E ( Y
0
,P
0
). Khi
nền kinh tế đang trong tình trạng lạm phát tăng hay AD →AD
1
.
AD
1
∩AS=E
1
(Y
01
,P
1
) lúc này mục tiêu của chính phủ là kiềm chế lạm phát do đó
chính phủ thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt tức là giảm chi tiêu của chính
phủ làm cho tổng cầu giảm từ AD
1
→AD, tổng cầu giảm làm cho sản lượng
giảm và giá cả giảm hay sản lượng và giá cả có xu hướng trở về trạng thái ban
đầu. Hoặc chính phủ tăng thuế làm cho chi tiêu và đầu tư giảm → AD↓ dẫn đến
P,Y có xu hướng trở về trạng thái ban đầu. Hoặc kết hợp giảm chi tiêu và tăng
thuế thì kết quả cũng tương tự là AD
1
→ AD.
Kết quả của chính sách tài khóa thắt chặt làm cho tổng cầu giảm, sản lượng và
giá giảm theo số nhân chi tiêu dẫn đến kiềm chế được lạm phát.
c) CSTK trong mô hình IS-LM
Giả sử ban đầu nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng đường IS cắt đường LM tại
điểm E (i
0
, Y
0
).
Khi chính phủ thực hiện chính sách tài khóa chặt làm cho tổng cầu giảm, dẫn
đến đường IS dịch chuyển song song sang trái thành đường IS
1
.
Kết quả:
Trong ngắn hạn đường IS
1
cắt đường LM tại điểm E
1
(i
1
, Y
01
). Tại điểm
E
1
ta có i
1
< i
0
và Y
01
< Y
0
.
Trong dài hạn i tăng làm cho đầu tư giảm dẫn đến tổng cầu giảm và sản
lượng giảm.
Tác động của chính sách tài khóa chặt làm cho tổng cầu giảm và kiềm chế được
lạm phát.
Về bản chất chính sách tài khóa tác động rất mạnh đến lạm phát đặc biệt là
với mô hình kinh tế như Việt Nam hiện nay, từ cả phía thu ngân sách, chi ngân
sách cũng như quy mô bội chi ngân sách nhà nước và cách thức bội chi ngân
sách nhà nước.
Theo nghị quyết số 02/2008/NQ-CP ngày 09 tháng 01 năm 2008 chính phủ
Việt Nam đã sử dụng chính sách tài khóa chặt: kiểm soát chặt chẽ, nâng cao
hiệu quả chi tiêu công.
- Điều hành chính sách tài khóa theo hướng tiết kiệm chi tiêu thường xuyên,
nâng cao hiệu quả vốn đầu tư ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các
doanh nghiệp nhà nước nhất là đầu tư vào các dự án không thuộc lĩnh vực sản
xuất, kinh doanh của chính phủ, phấn đấu giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách.
- Thực hiện việc cắt giảm, sắp xếp lại vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong kế
hoạch năm 2008 từ nguồn ngân sách nhà nước, trái phiếu chính phủ, tín dụng
đầu tư nhà nước và đầu tư của các doanh nhà nước, trước hết là các công trình
đầu tư kém hiệu quả, các công trình chưa thực sự cần thiết. Bộ Kế hoạch và
Đầu tư chủ trì cùng bộ Tài chính triển khai nội dung này ngay trong việc rà soát
lại và cân đối nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước. Các Bộ trưởng, Chủ tịch ủy
ban nhân dân các tỉnh, thành phố, Chủ tịch hội đồng quản trị, Tổng giám đốc
các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, theo chức năng nhiệm vụ được
giao thực hiện việc rà soát chặt chẽ các hạng mục đầu tư để cắt bỏ các công
trình đầu tư kém hiệu quả, tập trung vốn cho những công trình sắp hoàn thành,
những công trình đầu tư cho sản xuất hàng hóa thuộc mọi thành phần kinh tế để
đẩy nhanh tiến độ, sớm đưa vào sản xuất.
- Thực hiện tiết kiệm bình quân 10% chi phí hành chính của các cơ quan sử
dụng ngân sách nhà nước, thực hiện cắt giảm các khoản chi mua sắm chưa cần
thiết, giảm tối đa các hội nghị toàn quốc, giảm chi phí đi lại, tiết kiệm năng
lượng, phương tiện triệt để hơn nữa. Giảm các chi phí cho hoạt động lễ hội …
- Năm 2008 thu ngân sách vượt dự toán, giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách.
Nhờ những chính sách tài khóa thắt chặt này mà tỉ lệ lạm phát ở Việt Nam năm
2008 là 22,3% đến năm 2009 giảm xuống mức lạm phát một con số là 7%, nền
kinh tế Việt Nam phục hồi, tốc độ tăng trưởng GDP tăng trưởng trở lại.
Tuy nhiên chính sách tài khóa là công cụ vĩ mô tương đối cứng nhắc, thiếu độ
linh hoạt vì mỗi sự thay đổi dự toán chi ngân sách hay thay đổi thuế suất từng
sắc thuế đều phải thực hiện theo những quy trình tương đối phức tạp.
2. Sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt.
a) Khái niệm chính sách tiền tệ (CSTT)
Chính sách tiền tệ là hệ thống các giải pháp và công cụ quản lý vĩ mô của nhà
nước và tiền tệ của nhà nước do ngân hàng trung ương khởi thảo và thực thi
nhằm ổn định giá trị đồng tiền và hướng nền kinh tế vào sản lượng và việc làm
mong muốn.
Hai công cụ chính của chính sách tiền tệ là lãi suất và mức cung tiền.
Cụ thể là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ động, linh hoạt trong việc sử
dụng các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, kiểm soát chặt
chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng. Sử dụng linh hoạt các
công cụ chính sách tiền tệ để giảm dần lãi suất huy động theo hướng thực hiện
chính sách lãi suất thực dương. Tăng cường kiểm soát và giám sát chặt chẽ hoạt
động của các ngân hàng thương mại để bảo đảm việc tuân thủ đúng các quy
định về huy động, cho vay và chất lượng tín dụng. “Để hút bớt tiền ra khỏi lưu
thông, 13/2/2008 thống đốc NHNH đã ban hành quyết định 346 về việc ban
hành tín phiếu NHNN với tổng giá trị 20300 tỉ VNĐ dưới hình thức bắt buộc
đối với các NHTM. Nên lượng tiền được rút khỏi lưu thông khoảng 40000 –
60000 tỉ VNĐ.
+Tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc (r
b
). Giữa năm 2007 r
b
là 10% tăng gấp 2 lần so với
trước đó (2005)và đến 16/1/2008 thống đốc NHNN lại ra quyết định về việc
tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc 1% với các NHTM để hạn chế tăng trưởng tín dụng.
30/1/2008 NHNN đã thông báo điều chỉnh tăng các mức lãi suất cơ bản, lãi suất
tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu áp dụng từ 1/2/2008 Cụ thể: - Lãi suất cơ bản từ
8,25%/ năm tăng lên 8.75%/ năm
- Lãi suất tái cấp vốn từ 6,5%/ năm tăng lên 7,5%/ năm
- Lãi suất chiết khấu từ 4,5%/ năm tăng lên 6%/ năm
Sang năm 2009, để kiềm chế lạm phát chặt chễ hơn chính phủ đã phát hành
55.000 tỷ trái phiếu, đưa ra mức lãi suất cơ bản là 7%/năm và tăng lãi suất cho
vay lên tối đa là 10,5%/năm để giảm đầu tư.”
a) CSTT trong mô hình tổng cung tổng cầu.
Giả sử ban đầu thị trường tiền tệ cân bằng tại A(M
0
,i
0
)= MS∩LP hay A’(I
0
,i
0
).
Giả sử tại E(Y
0
,P
0
)=AD∩AS
S
nền kinh tế đang tăng trưởng nóng, AD tăng cao
lạm phát tăng, giá cả và sản lượng cũng đang tăng do đó mục tiêu mà chính phủ
đề ra lúc này là bình ổn giá cả kiềm chế lạm phát. Biện pháp mà chính phủ và
ngân hàng trung ương đưa ra lúc này là tăng r
b
, tăng lãi suất chiết khấu đồng
thời bán trái phiếu trên thị trường mở. Lúc này mức cung tiền MS sẽ giảm đến
MS
1
làm cho đầu tư I giảm từ I
0
→I
1
và lãi suất i tăng từ i
0
→i
1
và kết quả là AD↓
theo hệ số nhân chi tiêu → sản lượng và giá cả giảm. Điểm cân bằng mới
E
1
(Y
1
,P
1
)=AS
L
∩AD
1
) → kiềm chế được lạm phát.
b) CSTT trong mô hình IS-LM
Ban đầu nền kinh tế đạt TTCB tại E(Y
0
,i
0
)=IS∩LM. Khi chính phủ thực hiện
CSTT thắt chặt làm cho LM→LM
1
kết quả là:
Trong ngắn hạn: E
1
(Y
1
,i
1
)=IS∩LM
1
và tại đây i
1
>i
0
, Y
1
<Y
0
Trong dài hạn chính sách tiền tệ có hiệu quả tốt trong việc kiềm chế lạm
phát.
3. Sử dụng kết hợp CSTK thắt chặt và CSTT thắt chặt
Hiệu quả của việc sử dụng kết hợp 2 chính sách này là kiềm chế được lạm phát
nhanh chóng hơn. Điều đó được thể hiện rõ hơn qua mô hình IS-LM. Giả sử ban
đầu nền kinh tế đang ở trạng thái cân bằng E (Y
0
, i
0
) =IS∩LM.
Khi chính phủ thực hiện -Nếu kinh tế đạt trạng thái cân bằng tại điểm E(Yo;io)
= IS LM
_Để giảm bớt tốc độ tăng trưởng khống chế lạm phát chính phủ thực hiện
CSTK chặt => IS tịnh tiến sang trái IS1.
Điểm cân bằng mới E1(YO1;i1) = IS1 LM
_Để giảm bớt sản lượng được nhanh chóng chính phủ cần phối hợp với CSTT
chặt => LM tịnh tiến sang LM1
Điểm cân bằng mới E2(Y02;io) = IS1 LM1
Kết Qủa : giảm được sự phát triển quá nóng của nền kinh tế và ổn định lãi suất
4. Một số giải pháp khác mà chính phủ thực hiện.
Song song với 2 nhóm biện pháp nêu trên, Chính phủ cũng yêu cầu thực
hiện:
tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch
vụ, bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hóa
Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, giảm nhập siêu
(Chính phủ phải nới biên độ tỷ giá từ ±0,75% lên ±1% vào ngày
10/03/2008 và từ 1% lên 2% vào ngày 27/06/2008, tận dụng sự trượt
giá VND so USD thúc đẩy xuất khẩu, giảm nhập khẩu).
Triệt để thực hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dung.
Đồng thời tăng cường các biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống và sản
xuất của nhân dân.
Mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội và đẩy
mạnh thông tin và tuyên truyền một cách chính xác, ủng hộ các chủ
trương, chính sách của Nhà nước trên lĩnh vực nhạy cảm này, tránh
thông tin sai sự thật có tính kích động, gây tâm lý bất an trong xã
hội.
Trong năm 2008 CPI ở ba quí đầu năm liên tục tăng cao tuy nhiên với việc
phát hành 20.300 tỷ tín phiếu bắt buộc thì lượng tền trong lưu thông đã giảm
khoảng 40.000-60.000 tỷ VND. Bên cạnh đó việc chính phủ yêu cầu cắt giảm
10% chi tiêu hành chính đã tiết kiệm đươc hơn 300 tỷ VND và ngừng chi cho
các công trình kém hiệu quả, các dự án chưa cần thiết số tiền khoảng 599 tỷ
VND. Thì CPI ở quí IV năm đã giảm xuống so với các tháng trước, tháng 10
giảm 0,19%; tháng 11 giảm 0,76%, tháng 12 giảm 0.86%.
Đến năm 2009 cùng với sụ nỗ lực kiềm chế lạm phát của chính phủ giá tiêu
dùng 3/2009 đã giảm 0.17% so với tháng trước, trong những tháng tiếp theo chỉ
số giá có tăng lên nhưng nhờ có sự kiểm soát chặt chẽ của các chính sách nhằm
kiềm chế lạm phát của chính phủ, nền kinh tế duy trì được xu hướng tăng giảm
dần ở tháng 6,7,8 (tháng 6/2009 tăng 0,55%; tháng 7/2009 tăng 0,5%; tháng
8/2009 tăng 0,24%)
Việc kiềm chế lạm phát năm 2009 có thể được coi là đạt kết quả, khi giá
tiêu dùng tháng 12 năm nay so với tháng 12 năm trước chỉ tăng 6,52% (nếu tính
bình quân năm thì tăng 6,88%), thấp hơn nhiều so với kế hoạch ban đầu (dưới
15%) cũng như kế hoạch đã được điều chỉnh (dưới 10%).
Kết luận
Chúng ta nhận thức rằng quá trình lạm phát không đơn giản ngày một
ngày hai. Nó là vấn đề nan giải mà các nền kinh tế đang cố gắng kiềm chế,
nhưng việc xòa bỏ hoàn toàn lạm phát thì cái giá phải trả không tương xứng với
lợi ích đem lại. Do đó,tiếp tục hoàn thiện mục tiêu chống lạm phát và kìm chế
lạm phát là mục tiêu hàng đầu để giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, an sinh xã hội
và phát triển bền vững. Phát huy kết quả đạt được trong những năm qua, trong
thời gian tới cần thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu là: Nghiên cứu và đề xuất thực
hiện các chính sách bình ổn giá cả thị trường, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát.
Tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh mặt bằng giá, quan hệ giá sao cho phù hợp với
tình hình sản xuất và chi phí sản xuất, cũng như quan hệ cung - cầu và sự biến
động của giá cả thị trường thế giới.
Chính vì thế đảng và nhà nước phải luôn thận trọng với các chính sách kiềm
chế lạm phát như “chính sách tài khóa thắt chặt, chính sách tiền tệ thắt chặt ” để
nền kinh tế nước ta phát triển vững mạnh làm nền tảng để phát triển khoa học
giáo dục, đuổi kịp sự phát triển của các nước trong khu vực và thế giới.
Nhìn lại năm 2009: Kinh tế Việt Nam vượt qua giai đoạn suy giảm
Mặc dù chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn
cầu cùng với yếu kém nội tại của nền kinh tế, nhưng trong năm 2009, nhìn tổng
thể, nền kinh tế nước ta đã vượt qua giai đoạn suy giảm nhờ những giải pháp
kịp thời và linh hoạt.
ảnh minh họa
Trong vòng chưa đầy một năm, nền kinh tế nước ta đã có hai bước ngoặt về sử
dụng chính sách kinh tế vĩ mô để thích nghi với tình hình cụ thể, trong đó Chính
phủ chủ yếu sử dụng hai nhóm chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để điều
tiết vĩ mô, đặc biệt chính sách hỗ trợ lãi suất mang tính đặc thù của nền kinh tế
nước ta.
Thành công của gói kích thích kinh tế
Nếu căn cứ vào mục tiêu kinh tế - xã hội năm 2009 là ngăn chặn suy giảm kinh
tế, ổn định vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, thì kết quả của các giải pháp thực
hiện từ tháng 12-2008 đến nay là cơ bản đạt được, thể hiện các mặt sau đây:
Thứ nhất, đà suy giảm tốc độ tăng GDP đã dừng lại từ quý I-2009 nhờ các biện
pháp "ứng cứu" kịp thời, đúng đối tượng và tương đối đồng bộ trong hầu hết
các lĩnh vực như an sinh xã hội, kích thích tiêu dùng, hỗ trợ tín dụng để duy trì
sản xuất, kinh doanh, tăng đầu tư nhà nước về hạ tầng kỹ thuật và xã hội
Thứ hai, tuy còn nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ, HTX và
làng nghề tiểu thủ công nghiệp còn nhiều khó khăn, nhưng nhìn chung các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều duy trì được sản xuất, cá biệt
còn tăng quy mô và tốc độ tăng trưởng cao hơn năm 2008 nhờ nhận được nguồn
vốn tín dụng ngắn hạn hỗ trợ lãi suất. Hoàn toàn không xảy ra tình trạng hàng
loạt doanh nghiệp phải đóng cửa hay phá sản như đã cảnh báo hồi đầu năm
2009. Sức mua của thị trường vẫn tăng trưởng khá (tăng hơn 10%, nếu loại trừ
yếu tố tăng giá).
3. Những hạn chế của nền kinh tế VN và tác động tiêu cực của cuộc khủng
hoảng tài chính thế giới đến các mục tiêu phát triển
Mặc dù đạt được những thành tựu về phát triển kinh tế nêu trên, nhưng nền kinh
tế VN còn nhiều hạn chế, qui mô nền kinh tế nhỏ, dấu hiệu của phát triển thiếu
bền vững và hiệu quả chưa cao. Mặc dù, năm 2008 là năm đánh dấu VN thoát
ra khỏi nhóm nước nghèo nhưng theo xếp hạng của Ngân hàng thế giới tháng
10/2008 thì VN đứng hạng 170 về thu nhập bình quân đầu người tính theo tỷ
giá VNĐ/USD, và đứng thứ 156 về thu nhập bình quân tính đầu người theo
phương pháp sức mua tương đương (PPP) trong tổng số 207 nước, vùng lãnh
thổ. Quy mô GDP, qui mô xuất khẩu chiếm tỷ trọng tương ứng là 0,34% và
0,3% so với tổng giá trị nền kinh tế và xuất khẩu của toàn thế giới. Các chỉ số
xếp hạng về môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh, tham nhũng và chỉ số
phát triển giáo dục của VN đều có vị trí xếp hạng thấp trong các nền kinh tế thế
giới (xem Bảng 5).
Bảng 5 :Vị trí nền kinh tế VN trong nền kinh tế thế giới qua các chỉ số (2007)
Nguồn :WB, IMF và UNESCO
Kinh tế phát triển có biểu hiện thiếu bền vững đó là hiệu quả và chất lượng tăng
trưởng thấp qua các chỉ dưới đây. Thứ nhất, hiệu quả đầu tư thấp qua chỉ số
ICOR cao hơn các nước trong khu vực có tốc độ tăng trưởng cao theo các thời
kỳ (Bảng 6).
Bảng 6: Chỉ số ICOR của VN so với các nước trong khu vực
Nguồn: Tính toán từ số liệu thống kê của IMF và World Bank
Thứ hai, khoảng cách giữa tốc độ tăng cung tiền và tốc độ tăng GDP của VN
cao hơn nhiều so với các nước Trung Quốc và Thái Lan (Hình 5). Điều này giải
thích tại sao VN có tỷ lệ lạm phát cao hơn tỷ lệ lạm phát ở các nước này trong
ba năm qua (2006-2008) (Hình 6). Thứ ba, trong khi các nước Trung Quốc và
Thái Lan có cán cân thanh toán dương với qui mô lớn, tăng dần qua các năm,
thì VN có cán cân thanh toán là số âm lớn do nhập siêu cao và số nhập siêu
cũng tăng dần qua các năm (Bảng 6). Thứ tư, tỷ trọng hàng xuất khẩu của VN
năm 2007 chủ yếu là dầu thô chiếm 17,5%, hàng nông sản, hải sản chiếm trên
15%, còn lại là các hàng gia công như hàng may mặc, giầy dép…. . Điều này
thể hiện VN chưa có những sản phẩm xuất khẩu có giá trị gia tăng cao, năng
suất lao động của VN thấp, lợi thế xuất khẩu chỉ phụ thuộc vào tài nguyên và
lao động rẻ.
Hình 5: So sánh tốc độ tăng trưởng cung tiền và tăng trưởng GDP của ba
nước, lấy mốc năm 2004 bằng 100% (Cung tiền đo bằng M2)
Nguồn: Số liệu thống kê tài chính quốc tế của Tổ chức Tiền tệ Quốc tế, riêng số
liệu tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm 2007 của VN và Trung Quốc lấy từ
nguồn Economist Intelligent Unit.
Hình 6: Tỷ lệ lạm phát củaVN và một số nước trong khu vực (2006-2008)
Bảng 6: Cán cân thanh toán của VN và các nước (2006-2008)