Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại công ty xây dựng công trình giao thông 874

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.47 KB, 72 trang )

Chuyên đề thực tập GVHD: PGS.Ts Nguyễn Hữu Tài
Lời mở đầu
Trước xu thế mở cửa nền kinh tế đón nhận những văn minh văn hoá,
khoa học kỹ thuật từ bên ngoài, trước xu thế hội nhập nền kinh tế quốc tế,
nhu cầu phát triển kinh tế của tất cả các quốc gia trên thế giới trong đó có
Việt Nam ngày càng lớn. Nhu cầu phát triển kinh tế ngày càng cao hoạt
động đầu tư ngày càng nhiều trong đó chủ yếu là đầu tư theo dự án. Cụ thể,
hầu hết các dự án đầu tư lớn nhỏ tại Việt Nam trong những năm gần đây
đều đầu tư theo dự án. Tuy nhiên thực trạng hoạt đông đầu tư theo dự án
vẫn còn tràn lan, dàn trải, chưa hiệu quả gây lãng phí nguồn tài chính quốc
gia.
Nhận thức được tầm quan trọng của các dự án trong sự phát triển kinh
tế của quốc gia nói chung và lợi ích của doanh nghiệp nói riêng cụ thể tại
đơn vị tôi thực tập là công ty công trình giao thông 874 (thuộc tổng 8- bộ
giao thông vận tải) tôi đã lựa chọn đề tài “ nâng cao chất lượng thẩm định
tài chính dự án tại công ty công trình giao thông 874” làm đề tài luận văn
tốt nghiệp của mình. Tại công ty xây dựng công trình giao thông 874 các
hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản hầu hết đầu tư theo các dự án.Việc đầu
tư theo dự án có hiệu quả quyết định phần lớn sự thành bại của công ty. Do
đó mà thẩm định tài chính dự án là công việc hết sức quan trọng đối với
công ty. Tuy đã được chú trọng song do tính phức tạp riêng có mà công tác
thẩm định tài chính dự án tại công ty còn gặp nhiều bất cập. Sau thời gian
thực tập tốt nghiệp tại công ty tôi đã nhận thấy được tầm quan trọng của
công việc thẩm định tài chính dự án do đó tôi đã chọn đề tài “nâng cao
chất lượng thẩm định tài chính dự án tại công ty” với mong muốn đóng góp
một phần công sức của mình vào sự thành công của công ty. Thông qua đề
tài này tôi cũng muốn áp dụng những kiến thức đã được học trên giảng
đường đại học vào thực tế để nâng cao kỹ năng của mình.
Phạm Thị Phương Lớp TCDN44A
1
Chuyên đề thực tập GVHD: PGS.Ts Nguyễn Hữu Tài


Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài: nghiên cứu các dự án đầu
tư mà công ty xây dựng công trình giao thông 874 thực hiện trong những
năm gần đây và tiến hành phân tích một dự án điển hình: Dự án nâng cấp
mở rộng QL 32A, QL 32B, QL 37 đoạn Cổ Tiết- Thu Cúc- Mường Tơi-
Gia Phù( Phú Thọ) đoạn Km108- Km118.
Phương pháp nghiên cứu đề tài: phương pháp duy vật biện chứng,
phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp thống kê, so sánh cùng với việc
sử dụng các số liệu thực tế minh hoạ, đồng thời có sự tham khảo các tài
liệu liên quan đến lĩnh vực tài chính.
Kết cấu của đề tài: ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm có 3
phần:
Phần I : Những vấn đề cơ bản về dự án và thẩm định tài chính dự án của
doanh nghiệp.
Phần II: Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án tại công ty xây
dựng công trình giao thông 874.
Phần III: Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại
công ty xây dựng công trình giao thông 874.
Phạm Thị Phương Lớp TCDN44A
2
Chuyên đề thực tập GVHD: PGS.Ts Nguyễn Hữu Tài
PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỰ ÁN VÀ THẨM
ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN CỦA DOANH NGHIỆP
1.1 DỰ ÁN CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.1 Khái niệm dự án
Doanh nghiệp là một thực thể của xã hội. Giống như những thực thể
khác trong xã hội, doanh nghiệp có những hoạt động riêng để tự tồn tại và
phát triển. Có nhiều cách hiểu khác nhau về doanh nghiệp.Doanh nghiệp có
thể hiểu là chủ thể kinh tế độc lập hoặc là một cách thức tổ chức hoạt động
kinh tế của nhiều cá nhân hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm làm
tăng giá trị của chủ sở hữu. Theo luật doanh nghiệp Việt Nam, doanh

nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn
định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, nhằm mục
đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Như vậy, doanh nghiệp có thể
thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường. Mục tiêu
hoạt động của doanh nghiệp là tối đa hóa giá trị của chủ sở hữu.
Để thực hiện được mục tiêu đó doanh nghiệp phải tiến hành các hoạt
động. Những hoạt động đó có thể là hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt
động cung ứng các dịch vụ và hoạt động đầu tư. Trong đó đầu tư là một
hoạt động vô cùng quan trọng của bất kỳ tổ chức nào trong nền kinh tế. Có
thể hiểu một cách đơn giản đầu tư là hoạt động bỏ vốn với hy vọng đạt
được lợi ích tài chính, kinh tế xã hội trong tương lai. Muốn đạt được mục
tiêu là tối đa hóa giá trị của mình, doanh nghiệp phải tiến hành hoạt động
đầu tư. Lấy ví dụ về hoạt động đầu tư của doanh nghiệp: doanh nghiệp mới
thành lập thường đầu tư vào cơ sở hạ tầng, mua trang thiết bị, nguyên nhiên
vật liệu để có thể tiến hành sản xuất kinh doanh. Đối với những doanh
nghiệp đã thành lập, có thể bỏ vốn xây dựng mới cơ sở hạ tầng, đổi mới
dây truyền công nghệ, phát triển sản phẩm mới.
Phạm Thị Phương Lớp TCDN44A
3
Chuyên đề thực tập GVHD: PGS.Ts Nguyễn Hữu Tài
Ngày nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, nhằm tối đa hóa hiệu
quả đầu tư, các hoạt động đầu tư đều được thực hiện theo dự án. Vậy dự án
là gì? Theo WORLD BANK (ngân hàng thế giới) dự án là tổng thể các
chính sách, hoạt động và chi phí có liên quan với nhau được hoạch định
nhằm đạt được những mục tiêu nào đó trong thời gian nhất định. Theo từ
điển về quản lý dự án AFNOR, dự án là hoạt động đặc thù tạo nên một thực
thể mới một cách có phương pháp với các nguồn lực đã định. Theo nghị
định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08 tháng 07 năm 1999 của Chính phủ về đầu
tư và xây dựng, dự án là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc

bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định
nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao
chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định.
Một cách tổng quát nhất, dự án được hiểu là một tập hợp các hoạt
động đặc thù liên kết chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau nhằm đạt được trong
tương lai ý tưởng đã đặt ra(mục tiêu nhất định) với nguồn lực và thời gian
xác định.
Mỗi doanh nghiệp phải tự tìm kiếm và lựa chọn dự án cho riêng mình.
Việc tìm kiếm dự án phụ thuộc vào mục tiêu, lĩnh vực kinh doanh và khả
năng tìm kiếm của doanh nghiệp. Trong các dự án tìm kiếm được doanh
nghiệp sẽ lựa chọn đầu tư vào dự án đem lại lợi ích lớn nhất, không chỉ
dừng lại ở lợi ích kinh tế mà cả lợi ích xã hội. Như vậy có thể thấy dự án có
vai trò rất quan trọng đối với các chủ đầu tư, các nhà quản lý, các tổ chức
tài chính, nhà nước và các đối tượng có liên quan khác.
1.1.2 Vai trò của dự án
Trong nền kinh tế hiện đại, nhu cầu đầu tư, nhu cầu phát triển ngày
càng tăng. Nhu cầu đó được đặt trong môi trường cạnh tranh cực kỳ khốc
liệt. Nguồn lực ngày càng khan hiếm, thời gian và thông tin trở thành
những thước đo của sự thành công. Để không lãng phí nguồn lực và chắc
chắn sẽ thành công, người ta thường đầu tư theo dự án. Vì hầu hết các dự
Phạm Thị Phương Lớp TCDN44A
4
Chuyên đề thực tập GVHD: PGS.Ts Nguyễn Hữu Tài
án đều được thẩm định trước khi được triển khai nên đầu tư theo dự án sẽ
giảm thiểu rủi ro cho chủ đầu tư. Dự án giúp chủ đầu tư quản lý vốn, vật tư,
lao động trong quá trình thực hiện đầu tư một cách dễ dàng hơn. Không chỉ
có vậy, hoạt động đầu tư theo dự án còn làm gia tăng giá trị của doanh
nghiệp và tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Đối với đơn vị quản lý vĩ mô như nhà nước thì dự án cũng có vai trò
rất quan trọng. Dự án tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế xã hội.

Nếu không có dự án, nền kinh tế sẽ khó nắm bắt được cơ hội phát triển. Dự
án giúp gia tăng tổng thu nhập quốc dân, tạo công ăn việc làm cho người
lao động, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo.
Dự án còn là căn cứ để các tổ chức tài chính đưa ra quyết định tài trợ,
các cơ quan chức năng của Nhà nước phê duyệt và cấp giấy phép đầu tư.
1.1.3 Phân loại dự án
Dự án và đầu tư có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đầu tư là nguồn
gốc ra đời của dự án, việc xây dựng và thực hiện dự án sẽ kiểm nghiệm
tính đúng đắn của quyết định đầu tư. Trong nền kinh tế có rất nhiều loại
hình doanh nghiệp hoạt động trong rất nhiều các lĩnh vực khác nhau. Mỗi
doanh nghiệp lại có những quyết định đầu tư riêng của mình. Do vậy có thể
thấy trong nền kinh tế có rất nhiều loại dự án khác nhau. Các dự án rất đa
dạng về lĩnh vực, loại hình,cấp độ,quy mô, thời hạn…. Do đó để đưa ra
được cách phân loại dự án một cách hiệu quả để thấy hết được sự khác
nhau giữa các dự án là vô cùng khó khăn. Tuy nhiên người ta có thể phân
loại dự án theo các tiêu thức sau:
- Theo lĩnh vực dự án: Dự án được phân loại thành dự án xã hội, dự án
kinh tế, dự án quốc gia, dự án quốc tế.
- Theo loại hình dự án: Dự án được phân loại thành dự án Nghiên cứu
và phát triển, dự án Giáo dục đào tạo, dự án đổi mới.
- Theo thời hạn: Dự án ngắn hạn, dự án trung hạn, dự án dài hạn.
- Theo cấp độ: Dự án được phân loại thành dự án lớn, dự án nhỏ.
Phạm Thị Phương Lớp TCDN44A
5
Chuyên đề thực tập GVHD: PGS.Ts Nguyễn Hữu Tài
Ngoài ra người ta còn có rất nhiều cách khác để phân loại dự án. Đây là
cách phân loại tổng hợp nhất đối với các dự án. Ở Việt Nam, theo “Quy
chế quản lý đầu tư và xây dựng” ban hành kèm theo Nghị định số
12/2000/NĐ-CP ngày 5/5/2000 dự án được phân loại cụ thể thành các dự
án nhóm A, dự án nhóm B, dự án nhóm C.

1.1.4 Các giai đoạn của dự án
Thực hiện một dự án phải thông qua rất nhiều các giai đoạn riêng
biệt. Các dự án có thể bao gồm các giai đoạn giống hoặc khác nhau. Thông
thường các giai đoạn của dự án bao gồm: Xác định dự án, phân tích và lập
dự án, duyệt dự án, thực hiện dự án, nghiệm thu tổng kết giải thế. Các giai
đoạn này gắn kết một cách chặt chẽ với nhau, đan xen nhau theo một tiến
trình logic. Để hiểu một cách toàn diện và hệ thống, người ta nghiên cứu
chúng một cách độc lập tương đối và trên các góc độ khác nhau.
1.1.4.1 Xác định dự án
Giai đoạn xác định dự án đối với một doanh nghiệp rất quan trọng.
Đây là giai đoạn hình thành ý tưởng đầu tư. Tùy thuộc vào chiến lược phát
triển của mình, cũng như xem xét thông tin, chiến lược phát triển kinh tế
của cả nước, của từng ngành, từng lĩnh vực, doanh nghiệp hình thành ý
tưởng đầu tư, lựa chọn dự án để đầu tư cho phù hợp. Sự phù hợp ở đây thể
hiện ở mặt không gian và thời gian cũng như về kinh tế. Việc xác định các
dự án để đầu tư đối với một doanh nghiệp là vô cùng quan trọng bởi lẽ thực
hiện một dự án thường tốn rất nhiều tiền, thời gian và công sức của doanh
nghiệp. Một dự án đầu tư sai thường đem lại hậu quả rất lớn cho doanh
nghiệp có thể dẫn đến phá sản. Vì vậy mà các doanh nghiệp phải thật thận
trọng trước khi lựa chọn dự án đầu tư.
Phạm Thị Phương Lớp TCDN44A
6
Chuyên đề thực tập GVHD: PGS.Ts Nguyễn Hữu Tài
1.1.4.2 Phân tích và lập dự án đầu tư
Giai đoạn phân tích và lập dự án bao gồm nghiên cứu tiền khả thi và
nghiên cứu khả thi.
- Nghiên cứu tiền khả thi: Doanh nghiệp nghiên cứu sơ bộ ban đầu về
nhu cầu, khả năng tiến hành dự án và kết quả của dự án. Trong đó
doanh nghiệp nghiên cứu sự cần thiết, điều kiện thuận lợi cũng như
khó khăn của doanh nghiệp khi thực hiện dự án có thể gặp phải. Bên

cạnh đó doanh nghiệp dự kiến quy mô đầu tư( tổng mức vốn đầu tư),
hình thức đầu tư, khả năng tự tài trợ, các phương án huy động vốn và
phương án trả nợ của doanh nghiệp. Phân tích lựa chọn sơ bộ công
nghệ, kỹ thuật, nguồn cung nguyên vật liệu, năng lượng cần thiết cho
dự án cũng được tiến hành trong giai đoạn này.
- Nghiên cứu khả thi: đây là giai đoạn nghiên cứu một cách cụ thể
những gì đã được nghiên cứu trong giai đoạn tiền khả thi. Giai đoạn
này doanh nghiệp xác định phương án được lựa chọn như phương án
kỹ thuật, công nghệ, phương án thiết kế thi công, phương án tài trợ
cho dự án, các mốc thời gian thực hiện đầu tư và các hình thức quản
lý dự án.
Sau khi phân tích và lập dự án, khâu quan trọng tiếp theo là thẩm định dự
án. Việc phân tích và lập dự án càng được thực hiện một cách chi tiết và
chính xác thì việc thẩm định càng có hiệu quả. Vấn đề về thẩm định dự án
sẽ được đề cập riêng ỏ mục sau.
1.1.4.3 Duyệt dự án
Đây là giai đoạn doanh nghiệp đưa ra quyết định có đầu tư vào dự án
hay không. Việc đưa ra quyết định này chủ yếu dựa vào những kết luận đã
được tổng hợp từ các giai đoạn trước đặc biệt là giai đoạn thẩm định dự án.
Nếu dự án được khẳng định là có hiệu quả và khả thi thì doanh nghiệp sẽ
quyết định đầu tư và ngược lại nếu dự án không có hiệu quả hoặc không
khả thi thì không có lý do gì doanh nghiệp lại đầu tư. Đối với những dự án
Phạm Thị Phương Lớp TCDN44A
7
Chuyên đề thực tập GVHD: PGS.Ts Nguyễn Hữu Tài
mang tính cộng đồng, có thể dự án không có tính khả thi nhưng nó mang
lại lợi ích xã hội lớn có thể vẫn được đầu tư. Chủ đầu tư vào những dự án
này thường là Nhà nước.
1.1.4.4 Thực hiện dự án
Giai đoạn này bao gồm một số công đoạn: thi công xây dựng dự án,

vận hành dự án(dự án sinh lời), kết thúc dự án. Đây là giai đoạn doanh
nghiệp biến những gì đã được dự đoán, tính toán ở các giai đoạn trước vào
thực tế. Để đạt được đúng chỉ tiêu cũng như chất lượng công trình đã được
đưa ra nhà quản lý dự án phải giám sát chặt chẽ quá trình thực hiện dự án
giảm thiểu các rủi ro có thể gặp phải.
1.1.4.5 Nghiệm thu, tổng kết và giải thể
Mục tiêu của giai đoạn này là đánh giá một cách toàn diện những
thành công và thất bại từ giai đoạn đầu của dự án đến khi kết thúc dự án.
Trong đó doanh nghiệp cần phải phân tích rõ các nguyên nhân thất bại,
cách khắc phục những sai phạm để làm kinh nghiệm, rút ra bài học, quản lý
tốt hơn các dự án sau này.
1.2 THẨM ĐỊNH DỰ ÁN
1.2.1 Khái niệm thẩm định dự án
Thẩm định dự án là một khâu của quá trình phân tích và lập dự án-
một giai đoạn của dự án. Thẩm định dự án là việc rà soát lại, kiểm tra lại
một cách khoa học, khách quan và toàn diện mọi nội dung của dự án và
liên quan đến dự án nhằm khẳng định tính hiệu quả cũng như tính khả thi
của dự án trước khi quyết định đầu tư. Trong quá trình phân tích và lập dự
án thường không thể tránh khỏi những khiếm khuyết, sai lệch. Thẩm định
dự án để xem xét, phát hiện, sửa chữa các sai lệch, từ đó khẳng định một
cách chắc chắn hơn sự hợp lý, hiệu quả cũng như tính khả thi của dự án.
Thẩm định dự án giúp cho quyết định đầu tư thực hiên dự án hiệu quả hơn
tránh những sai lầm đáng tiếc có thể xảy ra. Như vậy việc thẩm định dự án
Phạm Thị Phương Lớp TCDN44A
8
Chuyên đề thực tập GVHD: PGS.Ts Nguyễn Hữu Tài
là không thể thiếu đối với bất kỳ một dự án nào cho dù dự án đó là nhỏ hay
lớn, ở tầm vi mô hay vĩ mô.
Phạm Thị Phương Lớp TCDN44A
9

Chuyên đề thực tập GVHD: PGS.Ts Nguyễn Hữu Tài
1.2.2 Nội dung thẩm định dự án
Nội dung của thẩm định dự án là những công việc chính mà người
thẩm định phải làm khi tiến hành thẩm định dự án. Thẩm định dự án được
tiến hành chủ yếu đối với các giai đoạn xác định dự án, phân tích dự án và
lập dự án, duyệt dự án. Nội dung thẩm định dự án thường bao gồm: thẩm
định kỹ thuật, thẩm định kinh tế xã hội và thẩm định tài chính, thẩm định
thị trường.
1.2.2.1 Thẩm định kỹ thuật
Thẩm định kỹ thuật là việc thẩm định những yếu tố thuộc về mặt kỹ
thuật của dự án như quy mô dự án, công nghệ và trang thiết bị của dự án,
phương án thi công, địa điểm xây dựng dự án, phương án kiến trúc, nguồn
nguyên liệu và các yếu tố đầu vào khác của dự án. Trong đó người thẩm
định phải xác định được mức độ phù hợp của các yếu tố trên với thực tế
yêu cầu đặt ra. Ví dụ như quy mô của dự án phải phù hợp với công suất sử
dụng, khả năng đáp ứng vốn, khả năng cung ứng nguyên vật liệu cũng như
khả năng quản lý dự án của các nhà quản lý. Nguồn nguyên liệu và các yếu
tố đầu vào phải phù hợp với dây truyền công nghệ máy móc thiết bị được
sử dụng trong dự án. Việc chọn địa điểm xây dựng có thuận tiện về nguồn
nguyên liệu, hệ thống giao thông, cơ sở hạ tầng, mức độ đền bù giải phóng
mặt bằng? Ngoài những nội dung trên người thẩm định còn phải xem xét
nhiều yếu tố khác như quản lý dự án…
1.2.2.2 Thẩm định kinh tế xã hội
Đây là việc đánh giá lại hiệu quả của dự án dưới giác độ toàn bộ nền
kinh tế, xem xét sự tác động của dự án tới môi trường, tới các đối tượng
khác trong xã hội. Một dự án mặc dù hiệu quả đối với doanh nghiệp song
có thể vẫn không được thực hiện do nó tác động xấu tới các đối tượng khác
trong xã hội như làm ảnh hưởng đến môi trường, gây nguy hại đến sức
khỏe của người dân nơi dự án được thực hiện. Song cũng cần phải đánh
giá những đóng góp của dự án đối với toàn bộ nền kinh tế như giải quyết

Phạm Thị Phương Lớp TCDN44A
10
Chuyên đề thực tập GVHD: PGS.Ts Nguyễn Hữu Tài
công ăn việc làm, cải thiện đời sống cho nhân dân, làm tăng thu nhập quốc
dân, đóng góp vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Nhà đầu tư phải xem xét
chênh lệch lợi ích mà dự án mang lại với những thiệt hại mà nó gây ra đối
với nền kinh tế để đưa ra quyết định đầu tư đúng. Việc thẩm định kinh tế
xã hội của dự án khá phức tạp và khó khăn song không thể thiếu nhất là
trong điều kiện nền kinh tế toàn cầu như hiện nay.
1.2.2.3 Thẩm định thị trường
Thẩm định thị trường là việc phân tích các kết quả nghiên cứu thị
trường nhằm đưa ra kết luận hợp lý, chính xác về thị trường tiêu thụ sản
phẩm của doanh nghiệp. Thẩm định thị trường bao gồm:
- Thẩm định nhu cầu hiện tại và tương lai về sản phẩm của dự án trên
thị trường dự kiến thâm nhập.
- Thẩm định nguồn và kênh đáp ứng nhu cầu.
- Thẩm định các yếu tố về sản phẩm tiêu thụ.
- Thẩm định sự cạnh tranh.
1.2.2.4 Thẩm định tài chính dự án
Thẩm định tài chính dự án là một nội dung lớn trong thẩm định dự án.
Thẩm định tài chính dự án sẽ được trình bày chi tiết, cụ thể trong các phần
tiếp theo.
1.3 THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN
1.3.1 Khái niệm, mục đích ý nghĩa của thẩm định tài chính dự án
Thẩm định tài chính dự án là rà soát, đánh giá một cách khoa học và
toàn diện mọi khía cạnh tài chính dự án trên giác độ của nhà đầu tư,
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế khác, các cá nhân. Thẩm định tài chính
dự án là nội dung rất quan trọng của thẩm định dự án. Dựa vào kết luận của
thẩm định tài chính dự án và các kết luận của các nội dung khác trong thẩm
định dự án như thẩm định kinh tế, thẩm định kinh tế xã hội nhà đầu tư sẽ

đưa ra quyết định đầu tư của mình. Thẩm định tài chính dự án là căn cứ
Phạm Thị Phương Lớp TCDN44A
11
Chuyên đề thực tập GVHD: PGS.Ts Nguyễn Hữu Tài
quan trọng để quyết định bỏ vốn đầu tư, xây dựng kế hoạch đầu tư và theo
dõi quá trình thực hiện đầu tư.
Một dự án thường tồn tại trong vòng nhiều năm kể từ khi xác định dự
án, thực hiện dự án đến khi dự án sinh lời và kết thúc dự án. Nghiên cứu
vấn đề tài chính của dự án trong từng giai đoạn, thẩm định tài chính dự án
giúp nhà đầu tư nắm bắt được tình hình tài chính của dự án không chỉ trong
một kỳ sản xuất kinh doanh mà là một khoảng thời gian dài từ khi bắt đầu
đến khi kết thúc dự án.
13.2 Nội dung của thẩm định tài chính dự án
1.3.2.1 Dự toán vốn đầu tư
Trước tiên chúng ta sẽ tìm hiểu thế nào là vốn đầu tư. Như đã khẳng
định ở phần trên, doanh nghiệp hình thành và hoạt động với mục tiêu là tối
đa hóa giá trị của chủ sở hữu, của doanh nghiệp.Và một trong những hoạt
động chủ yếu của doanh nghiệp đó là hoạt động đầu tư. Nếu chúng ta xem
xét giá trị của doanh nghiệp là một hàm của các quyết định đầu tư, quyết
định tài trợ và quyết định hoạt động, thì giá trị của doanh nghiệp được xác
định như sau:
V = S + B
Trong đó:
- V là giá trị doanh nghiệp
- S là giá trị vốn chủ sở hữu
- B là giá trị nợ
Để tối đa hóa giá trị của doanh nghiệp(V) bước đầu tiên là phải có
được các quyết định đầu tư hiệu quả.
Muốn cho bất kỳ một hoạt động nào được thực hiện nhất là hoạt động đầu
tư đều phải cần vốn đầu tư. Ở đây chúng ta chỉ nghiên cứu vốn đầu tư dưới

giác độ của dự án. Theo đó, vốn đầu tư là tổng số tiền được chi tiêu để
hình thành nên các tài sản cố định và tài sản lưu động cần thiết. Những tài
Phạm Thị Phương Lớp TCDN44A
12
Chuyên đề thực tập GVHD: PGS.Ts Nguyễn Hữu Tài
sản này được sử dụng trong việc tạo ra doanh thu, chi phí, thu nhập suốt
vòng đời hữu ích của dự án.
Như vậy, vốn đầu tư bao gồm vốn đầu tư vào tài sản cố định, vốn
đầu tư vào tài sản lưu động. Hoặc người ta có thể chia vốn đầu tư thành vốn
tự có, nợ và sự kết hợp giữa hai hình thức đó. Đây là cách phân loại vốn
đầu tư theo tính chất sở hữu hay nguồn hình thành. Ngoài ra còn có nhiều
cách khác phân loại vốn đầu tư.
Không phải với bất kỳ quy mô vốn nào dự án đều được thực hiện và
đều có hiệu quả. Với một quy mô vốn đầu tư quá lớn hoặc quá nhỏ có thể
sẽ làm hỏng một dự án tốt. Vì vậy mỗi một dự án cụ thể đòi hỏi phải có
một quy mô vốn thích hợp. Cán bộ thẩm định tài chính dự án khi dự toán
vốn đầu tư không chỉ xác định quy mô vốn mà còn phải xác định cơ cấu
vốn tối ưu cho dự án. Đó là việc xác định xem dự án nên được tài trợ bằng
vốn chủ sở hữu hay vốn vay hay kết hợp cả hai hình thức đó. Nếu kết hợp
cả vốn chủ sở hữu và vốn vay thì vốn vay chiếm bao nhiêu phần trăm là
hợp lý. Để xác định được quy mô vốn thích hợp hay một cơ cấu vốn tối ưu
cho dự án không phải là chuyện đơn giản. Cán bộ thẩm định cần phải căn
cứ vào nhiều yếu tố khác nhau thuộc dự án hoặc liên quan đến dự án. Các
yếu tố này chính là căn cứ để lập dự toán.
- Xét các yếu tố thuộc dự án như quy mô dự án, mức độ quan trọng
của dự án. Rõ ràng dự án xây dựng một chiếc cầu của nhà nước sẽ có quy
mô lớn và quan trọng hơn dự án đổi mới dây truyền công nghệ của một
doanh nghiệp nào đó. Nhu cầu vốn thực tế của dự án là một yếu tố quan
trọng nhất. Từ việc xác định các chi phí cần thiết cho dự án như chi phí
mua nguyên vật liệu, chi phí thuê công nhân, chi phí vận hành máy móc

thiết bị, chi phí bảo dưỡng… cán bộ thẩm định sẽ tính được nhu cầu vốn
thực tế của dự án và dự toán được vốn đầu tư.
- Xét các yếu tố không thuộc dự án nhưng liên quan đến dự án như
chính sách kinh tế, thị trường cạnh tranh, chính sách tài chính, công nghệ,
Phạm Thị Phương Lớp TCDN44A
13
Chuyên đề thực tập GVHD: PGS.Ts Nguyễn Hữu Tài
và khả năng tài chính của doanh nghiệp. Đây là các yếu tố sẽ ảnh hưởng
gián tiếp đến nhu cầu vốn của dự án. Sự thay đổi trong chính sách phát
triển kinh tế của Nhà nước ảnh hưởng tới hoạt động nói chung của doanh
nghiệp và ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư nói riêng. Do đó mà cần phải dự
báo được những ảnh hưởng của yếu tố này đến hoạt động của doanh nghiệp
trong tương lai từ đó tiến hành lập dự toán vốn một cách có hiệu quả.
Tương tự như vậy, sự thay đổi trong chính sách tài chính của Nhà nước như
chính sách thuế, chính sách lãi suất sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chi phí vốn và
cơ cấu vốn của dự án. Doanh nghiệp cần phải dự báo chính xác sự thay đổi
của các yếu tố này, thay đổi như thế nào và thay đổi bao nhiêu để có thể dự
toán vốn thẩm định cho dự án. Nghiên cứu thị trường hay các yếu tố cạnh
tranh cũng rất quan trọng trong việc dự toán vốn đầu tư. Yếu tố tiến bộ
khoa học công nghệ ảnh hưởng rất lớn đến việc lựa chọn các trang thiết bị,
phương pháp khấu hao tài sản cố định, chất lượng và giá thành sản phẩm.
Nếu không xét đến yếu tố này thì sản phẩm của doanh nghiệp mặc dù chưa
ra đời song có thể không được thị trường chấp nhận do công nghệ lạc hậu.
Cuối cùng là khả năng tài chính của doanh nghiệp. Quyết định đầu tư phải
xem xét trong giới hạn về khả năng huy động vốn của doanh nghiệp và dự
báo các nhu cầu đầu tư khác của doanh nghiệp trong tương lai.
Tóm lại, dự toán vốn đầu tư là một nội dung quan trọng trong thẩm
định tài chính dự án của doanh nghiệp. Đặc điểm của các dự án là thường
yêu cầu một lượng vốn lớn và sử dụng trong thời gian dài. Sai lầm trong
việc dự toán vốn đầu tư có thể dẫn tới tình trạng lãng phí vốn lớn, gây hậu

quả nghiêm trọng đối với doanh nghiệp. Dựa vào các căn cứ dự toán và sử
dụng phương pháp dự toán thích hợp cán bộ thẩm định phải dự toán chính
xác vốn đầu tư cho dự án.
1.3.2.2 Dự tính các dòng tiền của dự án
Dòng tiền của một dự án được hiểu là các khoản chi và thu được kỳ
vọng xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau trong suốt chu kỳ của dự
Phạm Thị Phương Lớp TCDN44A
14
Chuyên đề thực tập GVHD: PGS.Ts Nguyễn Hữu Tài
án. Lấy khoản tiền thu được trừ đi khoản chi ra thì chênh lệch này được
doanh nghiệp gọi là dòng tiền của dự án tại các mốc thời gian khác nhau.
Chu kỳ của dự án là toàn bộ khoảng thời gian tính từ khi dự án bắt đầu
được triển khai, dự án sinh lãi và kết thúc dự án.
Ta có:
COF - IFCNCF =
Trong đó:
-
NCF
là dòng tiền của dự án
-
IFC
là dòng tiền vào của dự án
-
COF
là dòng tiền ra của dự án
Do tiền có giá trị về thời gian nên chúng ta không thể so sánh các
dòng tiền xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau mà phải quy chúng về
một mốc để so sánh. Nếu quy các dòng tiền xuất hiện tại các mốc khác
nhau về hiện tại người ta gọi là hiện tại hóa dòng tiền, nếu quy về thời điểm
tương lai ta có khái niệm tương lai hóa dòng tiền. Việc quy các dòng tiền

về hiện tại là cơ sở để tính NPV(giá trị hiện tại ròng của dự án).
0
2
2
1
1
)1()1()1(
CF
k
CF
k
CF
k
CF
NPV
n
n

+
+⋅⋅⋅+
+
+
+
=
Trong đó:
-
NPV
là giá trị hiện tại ròng của dự án
-
k

là lãi suất chiết khấu
-
1
CF
,
2
CF
,
n
CF⋅⋅⋅
là dòng tiền ròng xuất hiện tại các thời điểm khác
nhau của dự án
-
0
CF
là chi phí vốn đầu tư được hiện tại hóa tại thời điểm ban đầu
Dòng tiền là cơ sở để định giá doanh nghiệp cũng như xác định giá
cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp. Từ việc xác định dòng tiền người ta
có thể biết được giá trị hiện tại của dự án.
Như vậy, để xác định được dòng tiền tại các thời điểm khác nhau của
dự án ta phải tính toán được dòng tiền vào ra của dự án tại các thời điểm
Phạm Thị Phương Lớp TCDN44A
15
Chuyên đề thực tập GVHD: PGS.Ts Nguyễn Hữu Tài
đó. Dòng tiền vào của dự án thường xuất hiện khi dự án trong giai đoạn
sinh lãi. Đó thường là các khoản thu từ dự án. Dòng tiền ra của dự án đó là
những khoản chi phí phát sinh do việc thực hiện dự án tạo ra. Câu hỏi đặt
ra trong khi xác định dòng tiền ra của dự án là các chi phí như chi phí
chìm(chi phí đã xuất hiện từ trước mà không thể bù đắp cho dù dự án có
được chấp thuận hay không), chi phí cơ hội(lợi nhuận lớn nhất bị bỏ qua

khi đầu tư vào dự án) có được đưa vào trong quá trình tính dòng tiền ra của
dự án hay không? Theo quan điểm của người làm luận văn thì những chi
phí này không nên đưa vào trong quá trình tính dòng tiền ra của dự án. Lý
do của vấn đề này sẽ được giải thích rõ trong phần lãi suất chiết khấu.
Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu phương pháp xác định dòng tiền của
dự án với những phương thức tài trợ khác nhau.
* Khi dự án được tài trợ hoàn toàn bằng vốn chủ sở hữu:
Theo phương pháp từ trên xuống
NCF = Lợi nhuận sau thuế + KH
NPV = ∑NCF được hiện tại hóa – VCSH(
0
t
)
* Khi dự án được tài trợ bằng nợ và VCSH
- Nếu phương thức trả nợ là trả gốc và lãi hàng năm:
NCF = Lợi nhuận sau thuế + KH - Trả vốn vay
NPV = ∑NCF được hiện tại hóa – VCSH(
o
t
)
- Nếu phương thức trả nợ là trả lãi hàng năm, trả gốc vào cuối năm
NCF = Lợi nhuận sau thuế + KH
NPV = ∑NCF được hiện tại hóa – VCSH(
o
t
)
* Khi TSCĐ của dự án được hình thành thông qua thuê
NCF = Lợi nhuận sau thuế
NPV = ∑NCF
Khi dự toán vốn đầu tư nhà thẩm định đã xác định được cơ cấu vốn tài

trợ cho dự án. Với những phương pháp tài trợ khác nhau của dự án ta có
các cách tính dòng tiền khác nhau.
Phạm Thị Phương Lớp TCDN44A
16
Chuyên đề thực tập GVHD: PGS.Ts Nguyễn Hữu Tài
1.3.2.3 Xác định lãi suất chiết khấu
Trước khi nghiên cứu về lãi suất chiết khấu chúng ta hãy tìm hiểu về
giá trị trị thời gian của tiền. Đây là một khái niệm rất phổ biến trong lĩnh
vực tài chính tiền tệ. Theo nguyên tắc giá trị thời gian của tiền, một đồng
hôm nay sẽ có giá trị khác một đồng hôm qua, khác với một đồng ngày
mai.
Nguyên nhân cơ bản của sự thay đổi về giá trị của tiền đó là do tác
động của lạm phát hoặc giảm phát và chi phí cơ hội của việc giữ tiền. Nếu
nền kinh tế có lạm phát thì một đồng hôm nay có giá trị cao hơn một đồng
ngày mai và ngược lại nếu do tác động của giảm phát thì một đồng hôm
nay có giá trị thấp hơn một đồng ngày mai. Tương tự chi phí cơ hội cũng
làm cho tiền tại các thời điểm khác nhau có giá trị khác nhau.
Do tiền xuất hiện tại các thời điểm khác nhau có giá trị khác nhau, nên
để có thể so sánh các dòng tiền xuất hiện tại các thời điểm khác nhau với
nhau, người ta sử dụng lãi suất chiết khấu để qui đổi các dòng tiền đó về
cùng một mốc để so sánh. Khi quy đổi các dòng tiền về thời điểm hiện tại,
gọi là hiện tại hóa dòng tiền. Khi quy đổi vể thời điểm tương lai gọi là
tương lai hóa dòng tiền. Vậy lãi suất chiết khấu là gì? Và được xác định
như thế nào?
Khi thực hiện một dự án, nhà đầu tư sẽ bỏ qua lợi tức kỳ vọng của các
dự án hay tài sản khác có cùng mức rủi ro. Chính vì vậy, nhà đầu tư sẽ đòi
hỏi một tỷ lệ sinh lời cần thiết đối với dự án đó. Đó chính là lãi suất chiết
khấu.Vậy, lãi suất chiết khấu là tỷ lệ sinh lời cần thiết mà nhà đầu tư yêu
cầu đối với một dự án, là cơ sở để chiết khấu các dòng tiền trong việc xác
định giá trị hiện tại ròng của dự án.

Về bản chất lãi suất chiết khấu của một dự án chính là chi phí vốn của
dự án đó. Với mỗi dự án có phương thức tài trợ khác nhau, chi phí vốn của
các dự án đó cũng khác nhau do đó mà lãi suất chiết khấu được sử dụng để
Phạm Thị Phương Lớp TCDN44A
17
Chuyên đề thực tập GVHD: PGS.Ts Nguyễn Hữu Tài
chiết khấu dòng tiền cũng khác nhau. Việc xác định chi phí vốn đã khó
khăn, việc xác định chính xác lãi suất chiết khấu cũng không dễ dàng hơn.
* Nguyên tắc dự tính lãi suất chiết khấu:
- Mối quan hệ giữa rủi ro và lợi tức kỳ vọng:
Lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn. Quy tắc đó không còn xa lạ đối
với bất kỳ nhà kinh tế nào. Để thuận lợi trong việc xác định lãi suất chiết
khấu của dự án, người ta so sánh mức độ rủi ro của dự án này với các dự án
mà công ty thực hiện trước đây. Tùy vào kết quả so sánh mà sẽ lựa chọn lãi
suất chiết khấu của dự án hiện tại bằng cách giữ nguyên hay điều chỉnh lãi
suất chiết khấu của các dự án trước.
- Mối quan hệ giữa cơ cấu vốn của dự án và cơ cấu vốn của doanh nghiệp:
Đối với một doanh nghiệp, cơ cấu vốn khác nhau thì chi phí vốn
trung bình(WACC) khác nhau do đó lãi suất chiết khấu cũng khác nhau.
Trong quá trình thẩm định tài chính dự án người ta giả định rằng mức độ
rủi ro và cơ cấu vốn đầu tư của dự án hiện tại tương tự như đối với doanh
nghiệp. Khi đó chúng ta có thể xem WACC của doanh nghiệp là lãi suất
chiết khấu của dự án. Dự án đang xem xét phải đặt trong mối tương quan
với các TSTC và dự án khác có cùng mức độ rủi ro.
- Nguyên tắc nhất quán:
Theo nguyên tắc này dòng tiền thuộc về chủ thể nào thì việc xác định
lãi suất chiết khấu không thể biệt lập với chủ thể đó.
Qua phân tích cho thấy lãi suất chiết khấu phụ thuộc chủ yếu vào ba yếu
tố là khả năng sinh lời của dự án, mức độ rủi ro của dự án, cơ cấu vốn tài
trợ cho dự án. Khi xác định lãi suất chiết khấu cán bộ thẩm định phải phân

tích rõ tầm ảnh hưởng của các yếu tố này để xác định lãi suất chiết khấu
cho phù hợp.
Một cách tổng quát:
Lãi suất chiết khấu = Lợi tức phi rủi ro + Phần bủ rủi ro
Phạm Thị Phương Lớp TCDN44A
18
Chuyên đề thực tập GVHD: PGS.Ts Nguyễn Hữu Tài
- Khi vốn đầu tư là nợ thì lãi suất chiết khấu của dự án thường được coi là
lãi suất lãi vay.
- Khi vốn đầu tư là VCSH thì lãi suất chiết khấu của dự án chính là chi phí
cơ hội của việc sử dụng đồng vốn đó hay tỷ lệ sinh lời tốt nhất bị bỏ qua.
- Khi sử dụng kết hợp cả VCSH và nợ thì lãi suất chiết khấu chính là chi
phí vốn trung bình(WACC)
1.3.2.4 Xét các chỉ tiêu thẩm định tài chính dự án
Nội dung tiếp theo của công việc thẩm định tài chính dự án chính là
việc tính toán các chỉ tiêu tài chính dự án và dựa vào đó để đưa ra kết luận
cuối cùng có nên thực hiện dự án hay không. Có rất nhiều các chỉ tiêu.
Dưới đây chúng ta sẽ nghiên cứu một vài chỉ tiêu quan trọng.
* Giá trị hiện tại ròng( NPV)
NPV(net present vaule)- giá trị hiện tại ròng- là chênh lệch giữa tổng
giá trị hiện tại của các dòng tiền thu được trong từng năm thực hiện dự án
với vốn đầu tư bỏ ra được hiện tại hóa ở mốc 0. NPV có thể mang giá trị
dương, âm hoặc bằng không. NPV mang giá trị dương có nghĩa là việc thực
hiên dự án sẽ tạo ra giá trị tăng thêm cho chủ đầu tư. Nếu NPV âm, dự án
không đủ bù đắp vốn đầu tư, đem lại thua lỗ cho chủ đầu tư.
+ Công thức xác định:
0
2
2
1

1
)1()1()1(
CF
k
CF
k
CF
k
CF
NPV
n
n

+
+⋅⋅⋅+
+
+
+
=
Trong đó:
-
NPV
: Giá trị hiện tại ròng của dự án.
-
k
: Lãi suất chiết khấu, giả định là không đổi trong các năm.
-
1
CF
,

2
CF
,
n
CF⋅⋅⋅
: Dòng tiền ròng xuất hiện tại các thời điểm khác
nhau của dự án.
-
0
CF
: Vốn đầu tư bỏ ra ban đầu.
-
n
: Số năm thực hiện dự án.
+ Tiêu chuẩn lựa chọn dự án là NPV dương.
Phạm Thị Phương Lớp TCDN44A
19
Chuyên đề thực tập GVHD: PGS.Ts Nguyễn Hữu Tài
NPV phản ánh giá trị tăng thêm cho chủ đầu tư hay nói một cách
khác nó mang ý nghĩa về tài chính. Đối với những dự án mang tính xã hội
thì NPV lại chưa phản ánh hết được lợi ích tăng thêm từ việc thực hiện dự
án. Lúc đó phải lượng hóa các tác động của xã hội lên dòng tiền của dự án.
Đây không phải là một công việc dễ dàng. Hơn thế nữa theo công thức tính
NPV thì ta chỉ có thể so sánh được những dự án có thời hạn giống nhau,
vốn đầu tư tương tự nhau. Những dự án có thời hạn khác nhau và vốn đầu
tư khác nhau rõ ràng NPV của chúng là khác nhau và việc dùng chỉ tiêu
NPV để so sánh là không chính xác.
* Tỷ suất hoàn vốn nội bộ(IRR)
Tỷ suất hoàn vốn nội bộ là giá trị của lãi suất chiết khấu(tính theo
công thức đã đưa ra ở phần NPV), tại giá trị lãi suất chiết khấu đó NPV

bằng không. IRR phản ánh tỷ suất hoàn vốn của dự án, dựa trên giả định
các dòng tiền thu được trong các năm được tái đầu tư với lãi suất bằng lãi
suất chiết khấu.
+ Công thức xác định:
( )
21
121
1
kIRR
NPVNPV
kkNPV
+

+=
+ Tiêu chuẩn lựa chọn dự án là IRR lớn hơn lãi suất chiết khấu.
* Chỉ số doanh lợi(PI)
Chỉ số doanh lợi( profit index) là chỉ số phản ánh khả năng sinh lợi
của dự án, tính bằng tổng giá trị hiện tại của các dòng tiền trong tương lai
chia cho vốn đầu tư bỏ ra ban đầu. PI cho biết một đồng vốn đầu tư bỏ ra sẽ
tạo ra bao nhiêu đồng thu nhập. Thu nhập này chưa tính đến chi phí vốn
đầu tư đã bỏ ra.
+ Công thức xác định:
0
1
)1(
CF
k
CF
PI
n

t
t
t

=
+
=
Phạm Thị Phương Lớp TCDN44A
20
Chuyên đề thực tập GVHD: PGS.Ts Nguyễn Hữu Tài
+ Tiêu chuẩn lựa chọn dự án là PI càng cao càng dễ chấp nhận, nhưng tối
thiểu phải bằng lãi suất chiết khấu.
Tiêu chuẩn này khắc phục được những nhược điểm của NPV. Nó có
thể sử dụng trong việc so sánh các dự án có thời hạn khác nhau và vốn đầu
tư khác nhau. Song vì là một chỉ tiêu tương đối nên nó không phản ánh
được quy mô gia tăng giá trị cho chủ đầu tư.
* Thời gian hoàn vốn(PP)
Thời gian hoàn vốn là thời gian để chủ đầu tư thu hồi được số vốn đã
đầu tư vào dự án. PP phản ánh thời gian thu hồi vốn đầu tư vào dự án, nó
cho biết sau bao lâu thì dự án thu hồi đủ số vốn đầu tư.
Vì mỗi dự án có mức rủi ro khác nhau, thời gian thu hồi vốn là khác
nhau do đó khó có thể đưa ra một tiêu chuẩn chun nhất cho việc lựa chọn
dự án theo PP. Nhưng đối với chủ đầu tư dự án có thời hạn hoàn vốn càng
ngắn càng tốt.
PP cho biết khả năng tạo thu nhập của dự án từ khi thực hiện dự án
cho đến khi thu hồi đủ vốn song lại không xem xét đến khả năng tạo ra thu
nhập sau khi dự án đã thu hồi vốn đầu tư.
* Lợi nhuận kế toán bình quân(AAP)
Lợi nhuận kế toán bình quân là lợi nhuận kế toán bình quân trong các
năm của dự án. AAP phản ánh khả năng tạo ra lợi nhuận về mặt kế toán

trong các năm thực hiện của dự án. AAP cho biết dự án tạo ra bao nhiêu lợi
nhuận bình quân trong các năm của dự án.
+ Cách xác định:
AAP =∑( Doanh thu – Chi phí - Thuế thu nhập doanh nghiệp )\n
Trong đó:
- n: số năm thực hiện dự án.
+ Tiêu chuẩn lựa chọn: AAP càng cao thì dự án càng mang lại nhiều thu
nhập.
Phạm Thị Phương Lớp TCDN44A
21
Chuyên đề thực tập GVHD: PGS.Ts Nguyễn Hữu Tài
Hạn chế của AAP đó là chỉ xem xét lợi nhuận thuần túy mà không tính
đến giá trị thời gian của tiền. Đây là chỉ tiêu ít khi được sử dụng và chỉ
được dùng như một chỉ tiêu bổ trợ.
* Điểm hòa vốn( BP)
Điểm hòa vốn là mức sản lượng mà tại đó nhà đầu tư thu hồi đủ vốn
đầu tư. BP cho biết phải sản xuất và tiêu thụ bao nhiêu đơn vị sản phẩm thì
thu hồi đủ vốn.
+ Cách xác định:
AVCP
FC
Q
hv

=
Trong đó:
hv
Q
: Sản lượng hoàn vốn
FC

: Tổng chi phí cố định
AVC
: Chi phí biến đổi tính trên một đơn vị sản phẩm
P
: Giá bán
+ Tiêu chuẩn lựa chọn dự án là mức sản lượng tiêu thụ dự tính lớn hơn sản
lượng hòa vốn của dự án.
1.3.2.5 Đánh giá rủi ro của dự án
Rủi ro được hiểu một cách chung nhất là khả năng mà một sự kiện
không có lợi nào đó xuất hiện.
Rủi ro của dự án là khả năng một sự kiện không có lợi nào đó xuất
hiện làm cho lợi tức thực tế nhỏ hơn lợi tức dự kiến.
Lợi tức của dự án là chỉ tiêu cuối cùng để xét tính hiệu quả của một
dự án. Lợi tức của dự án chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khách quan và
chủ quan. Giữa các yếu tố đó cũng có sự tác động, bù trừ cho nhau. Do đó
mà để đánh giá được chính xác rủi ro của dự án là việc không dễ dàng.
Phân loại rủi ro:
Phạm Thị Phương Lớp TCDN44A
22
Chuyên đề thực tập GVHD: PGS.Ts Nguyễn Hữu Tài
- Rủi ro loại 1: Đây là loại rủi ro riêng của chính bản thân dự án hay rủi ro
của một tài sản khi nó là tài sản duy nhất của doanh nghiệp. Rủi ro này
được đo bằng sự biến thiên lợi tức dự kiến của dự án.
- Rủi ro loại 2: Rủi ro này thể hiện ở sự ảnh hưởng của dự án đối với rủi ro
của doanh nghiệp. Rủi ro này được đo bằng sự tác động của dự án đối với
sự biến thiên thu nhập của doanh nghiệp.
- Rủi ro loại 3: Đây là phần rủi ro của dự án mà không thể loại bỏ được
bằng việc đa dạng hóa đầu tư. Rủi ro này được đó lường thông qua hệ số β
của dự án. β càng lớn thì rủi ro loại 3 càng lớn.
Các rủi ro của dự án vừa có tính độc lập tương đối vừa có mối liên

hệ chặt chẽ với nhau. Điều đó có thể thấy ở một dự án có mức rủi ro loại 2
cao thì chưa chắc rủi ro loại 1 và loại 3 sẽ cao.
Nghiên cứu rủi ro người ta không mong muốn có thể triệt tiêu được
chúng bởi thực tế cho thấy công việc đó là không thể. Tuy nhiên đo lường
và phòng ngừa rủi ro của dự án là hoàn toàn có thể. Công việc của các nhà
thẩm định là làm sao phát hiện được những rủi ro có thể xảy ra và tối thiểu
hóa tác động của chúng đến kết quả thẩm định tài chính dự án. Đối với
những loại rủi ro khác nhau có những phương pháp đánh giá khác nhau.
Đối với rủi ro loại 1, người ta thường dùng phương pháp phân tích
độ nhạy để đánh giá. Đo lường rủi ro loại 1 tức là đo lường sự biến động
của dòng tiền của dự án. Về mặt lý thuyết cũng như trên thực tế cho thấy có
rất nhiều yếu tố ảnh hưởng và tác động đến dòng tiền của dự án. Các yếu tố
tác động đến dòng tiền được thiết lập trên cơ sở của sự phân bố xác suất và
tính kỳ vọng toán chứ không phải biết chúng một cách chắc chắn. Thực
hiện phương pháp tính độ nhạy là chỉ ra chính xác các chỉ tiêu tài chính
thay đổi như thế nào khi các biến đầu vào thay đổi. Ví dụ như khi biến số
lượng bán hàng thay đổi sẽ dẫn đến dòng tiền thay đổi và khi đó NPV, IRR
của dự án cũng thay đổi.
Phạm Thị Phương Lớp TCDN44A
23
Chuyên đề thực tập GVHD: PGS.Ts Nguyễn Hữu Tài
Các biến đầu vào của dự án có thể là số lượng bán hàng, các loại chi
phí như chi phí cố định, chi phí biến đổi và nhiều biến khác. Trong số các
biến đầu vào này có thể chỉ có một biến thay đổi hoặc cũng có thể nhiều
biến thay đổi cùng một lúc. Trường hợp một biến thay đổi, người ta chọn
biến có khả năng thay đổi và sẽ có tác động đến dòng tiền cho nó thay đổi
còn các biến khác được giữ nguyên để xem xét tác động của nó đến NPV
và IRR. Tính toán được giới hạn của sự thay đổi cũng là yếu tố quan trọng
để đánh giá tác động của chúng đến NPV, IRR. Trong thực tế trường hợp
một biến thay đổi là ít khi xảy ra, thường các biến sẽ thay đổi đồng thời. Do

vậy, các nhà phân tích cũng phải phân tích và xem xét sự thay đổi của
nhiều yếu tố tác động đồng thời đến NPV và IRR trên cơ sở đó đánh giá sự
an toàn, phòng ngừa rủi ro và quản lý tốt dự án.
Rủi ro loại 2 chính là ảnh hưởng của dự án đối với rủi ro của doanh
nghiệp. Đối với loại rủi ro này, nhà phân tích sẽ xác định lợi tức của các cổ
đông khi thực hiện dự án và so sánh với lợi tức vốn của doanh nghiệp. Nếu
lợi tức khi thực hiện dự án lớn hơn lợi tức vốn thì doanh nghiệp có thể đầu
tư vào dự án và ngược lại.
Đối với rủi ro loại 3 (còn gọi là rủi ro thị trường), người ta phân tích
rủi ro trên góc độ của một tổng thể đầu tư. Người ta đã thiết lập ra phương
trình:
)(
FMF
RRRR −+=
β
Trong đó:
R
: Là tỷ suất sinh lời của nhà đầu tư.
F
R
: Là tỷ suất sinh lời phi rủi ro và được tính bằng lãi suất trái
phiếu dài hạn của chính phủ.
M
R
: Là tỷ suất sinh lời của danh mục thị trường.
β
: Là rủi ro của khoản đầu tư.
Với các giá trị
F
R

,
M
R
có thể dự tính được và bằng các ước lượng giá
trị
β
của doanh nghiệp, tỷ suất sinh lời của doanh nghiệp khi thực hiện dự
Phạm Thị Phương Lớp TCDN44A
24
Chuyên đề thực tập GVHD: PGS.Ts Nguyễn Hữu Tài
án (
R
)hoàn toàn có thể xác định. Theo đó, doanh nghiệp sẵn sàng đầu tư
vào những dự án có mức độ rủi ro trung bình nếu doanh nghiệp dự tính
kiếm được một tỷ suất sinh lời lớn hơn hoặc bằng
R
. Những dự án có mức
độ rủi ro trung bình là những dự án có mức độ rủi ro tương tự như tài sản
hiện có của doanh nghiệp. Khi xác định NPV của một dự án có mức rủi ro
trung bình, doanh nghiệp có thể lấy giá trị
R
làm lãi suất chiết khấu.
1.4 Chất lượng thẩm định tài chính dự án
Chất lượng là một khái niệm tương đối trừu tượng, mỗi người, mỗi tổ
chức có thể có những các hiểu khác nhau về chất lượng. Theo hệ thống
quản lý chất lượng ISO: chất lượng là mức độ của một tập hợp các đặc tính
vốn có đáp ứng các yêu cầu. Theo khái niệm đó về chất lượng ta có thể rút
ra :
- Thứ nhất: Chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu.
- Thứ hai : Do chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu mà nhu

cầu thì luôn luôn biến đổi nên chất lượng cũng luôn biến đổi theo
thời gian, không gian.
- Thứ ba : Khi đánh giá chất lượng của một đối tượng phải xét và chỉ
xét điều kiện sử dụng và mọi đặc tính của đối tượng có liên quan đến
sự thỏa mãn một nhu cầu cụ thể.
- Thứ tư : Nhu cầu có thể được công bố rõ ràng dưới dạng các quy
định, tiêu chuẩn nhưng cũng có nhu cầu không thể miêu tả rõ ràng,
người sử dụng chỉ có thể cảm nhận chúng qua quá trình sử dụng.
- Thứ năm: Chất lượng không phải chỉ là thuộc tính của sản phẩm,
hàng hóa mà nó còn áp dụng cho mọi thực thể, thực thể đó có thể là
sản phẩm, hành động, quá trình, doanh nghiệp hoặc con người.
Theo đó chất lượng thẩm định tài chính dự án là tập hợp các tiêu chí
bao gồm các nội dung thẩm định tài chính, quy trình thẩm định, kỹ thuật
Phạm Thị Phương Lớp TCDN44A
25

×