Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

nghiên cứu ảnh hưởng nông độ khóa đa lượng đến sự hình thành và phát triển chồi lan phalaenopsis yubidan và lan đẻnobiumsonia trong hiij thống nuôi cấy ngập tạm thời

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.19 MB, 105 trang )

Đồ án tốt nghiệp GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh
LỜI MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Hoa lan là một trong những giống hoa rất được yêu thích không chỉ về màu
sắc, kiểu dáng mà còn mang một nét đẹp rất sang trọng và trang nhã. Chính vì
vậy hiện nay, rất nhiều hộ gia đình đang có thú chơi hoa lan. Nguyên nhân của
trào lưu trên là do cuộc sống ngày càng phát triển, nhu cầu tạo góc vườn nhỏ,
mang màu xanh cây lá thiên nhiên vào trong nhà của những người dân ngày càng
cao. Với ưu điểm ít chiếm diện tích, không quá khó trồng, cho hoa đẹp lại lâu tàn
nên việc chọn, trồng và tạo một vườn lan nhỏ trong khuôn viên nhà là sự lựa chọn
của nhiều người.
Bên cạnh đó, hoa lan là sản phẩm cây trồng có giá trò kinh tế cao, ngày
càng có nhiều cơ sở kinh doanh hoa lan mọc lên, kinh doanh nhiều chủng loại.
Nhưng làm sao để có số lượng lớn cây giống, đồng đều, chất lượng cao là một
vấn đề khó.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của công nghệ sinh học,
ngành vi nhân giống cây đặc biệt trên đối tượng cây hoa lan từng bước phát triển,
nhiều đơn vò nhà nước cũng như tư nhân đã mạnh dạn đầu tư để sản xuất cây
giống phục vụ cho nông dân. Tuy nhiên qui mô cũng như những hạn chế về đội
ngũ kỹ thuật cũng như kiến thức về lónh vực này có hạn, vì thế cây giống có chất
lượng thấp không đồng đều, không đáp ứng được nhu cầu của thò trường. Hầu hết
các giống hoa lan phải nhập giống từ Thái Lan, trong đó Hồ điệp chủ yếu được
nhập từ Đài Loan.
Hiện nay, việc nghiên cứu và nhân giống hoa lan đã được tiến hành ở nhiều
nơi, nhưng hầu hết đều chưa có thành tựu nào đột biến để ngành nhân giống hoa
lan phát triển đáp ứng được nhu cầu của thò trường. Những thành công hiện
nay thường là nhân giống với qui mô sản xuất nhỏ. Trong đó kỹ thuật nhân giống
SVTH: Đào Thò Lý
-1-
Đồ án tốt nghiệp GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh
hoa lan phổ biến hiện nay là nhân giống trên môi trường thạch. Phương pháp này


có nhược điểm là chi phí giá thành cây giống cao do thời gian nuôi cấy dài, độä
đồng đều cây giống thấp, khó áp dụng sản xuất theo qui mô công nghiệp.
Hiện nay trên Thế giới nhiều nước có ngành Công nghệ Sinh học phát triển
đã ứng dụng các công nghệ cao để nhân nhanh giống cây trồng như: hệ thống
fermenter, bioreactor, quang tự dưỡng,… Ở nước ta các công nghệ này mới chỉ
thực hiệân ở phòng thí nghiệm của một số trường Đại Học, Viện Nghiên cứu hoặc
Trung tâm Công nghệ Sinh học trong mấy năm gần đây. Tuy nhiên việc nghiên
cứu xác đònh môi trường thích hợp cho từng cây trồng nhân bằng các hệ thống
này còn rất hiếm.
Để từng bước áp dụng công nghệ mới trong sản xuất cây lan giống ở nước
ta, đẩy nhanh tiến độ sản xuất cây giống theo qui mô công nghiệp, góp phần khắc
phục sự thiếu hụt cây giống trong sản xuất hiện nay. Chúng tôi tiến hành đề tài:
"Nghiên cứu ảnh hưởng nồng độ khoáng đa lượng đến sự hình thành và phát triển
chồi lan Hồ điệp (Phalaenopsis Yubidan) và lan Dendrobium Sonia trong hệ thống
nuôi cấy ngập tạm thời TIS (Temporary Immersion System)".
2. Mục tiêu nghiên cứu
Xác đònh ảnh hưởng nồng độ các khoáng đa lượng trong môi trường nuôi
cấy mô Murashige & Skoog (MS) đến sự hình thành và phát triển chồi lan
Phalaenopsis Yubidan và lan Dendrobium Sonia, nhằm thiết lập môi trường thích
hợp để nhân chồi lan (Phalaenopsis Yubidan) và lan Dendrobium Sonia trong hệ
thống nuôi cấy ngập tạm thời TIS (Temporary Immersion System).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nồâng độ các khoáng đa lượng trong môi trường MS lỏng
ảnh hưởng tới chồi nhân bằng hệ thống nuôi cấy ngập tạm thời TIS, đối với hai
giống lan Hồ điệp (Phalaenopsis Yubidan) và lan Dendrobium Sonia. Đây là vật
liệu nền rất quan trọng trong nuôi cấy mô vi nhân giống hoa lan.
SVTH: Đào Thò Lý
-2-
Đồ án tốt nghiệp GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh
4. Ý nghóa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu

Ý nghóa khoa học:
Hệ thống nuôi cấy ngập tạm thời TIS thuộc dạng bioreactor đơn giản. Nhiều
nghiên cứu trên Thế giới đã xác đònh áp dụng công nghệ TIS trong vi nhân giống
cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao, chất lượng cây giống tốt, nâng hệ số
nhân chồi gấp 3-20 lần so với phương pháp nhân truyền thống, rút ngắn được thời
gian nuôi cấy trong phòng, góp phần làm giảm giá thành sản phẩm cây giống.
Ý nghóa thực tiễn:
Áp dụng công nghệ TIS trong vi nhân giống hoa lan ở nước ta là một công
nghệ mới, nó sẽ mở ra một triển vọng cho việc sản xuất cây giống theo qui mô
công nghiệp, đáp ứng đủ lượng cây giống với chất lượng cao cho sản xuất trong
nước và cho xuất khẩu.
Cây lan giống sản xuất bằng hệ thống TIS trong nước giúp người nông dân
chủ động sản xuất, hạn chế nhập cây giống từ nước ngoài, góp phần ngăn chặn
được dòch bệnh lây lan từ nước ngoài qua con đường cây giống.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài thực hiện nhân chồi trong hệ thống nuôi cấy ngập tạm thời TIS,
nghiên cứu 6 môi trường nuôi cấy lỏng với các nồng độ khoáng đa lượng khác
nhau trên giống lan Phalaenopsis Yubidan và giống lan Dendrobium Sonia. Thí
nghiệm bố trí kiểu đầy đủ ngẫu nhiên hoàn toàn, gồm 6 nghiệm thức và 3 lần lặp
lại.
SVTH: Đào Thò Lý
-3-
Đồ án tốt nghiệp GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh
TÓM TẮT
Trong nuôi cấy mô vi nhân giống lan, chồi là nguyên liệu nền rất quan
trọng hình thành cây giống. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng và chất lượng
cây giống. Sự hình thành và phát triển của chồi phụ thuộc vào các yếu tố trong
môi trường nuôi cấy. Đề tài nghiên cứu nồng độ các khoáng đa lượng trong môi
trường nuôi cấy MS ảnh hưởng đến chồi hai giống lan Phalaenopsis Yubidan và
lan Dendrobium Sonia. Kết quả đã xác đònh được ảnh hưởng của khoáng đa

lượngđến hệ số nhân chồi hai giống lan nhiên cứu. Nếu giảm ½ khoáng đa lượng
trong môi trường MS, bổ sung 1mg/ml BA, 0,5mg/l NAA, 0.5g/l PVP, 1g/l
tryptone và 30g/l sucrose sẽ tạo số chồi cao, chất lượng chồi tốt cho cả hai giống
lan. Đối với lan Phalaenopsis Yubidan, nếu tăng dần khoáng đa lượng: ¼, ½ , 1 ở
giai đoạn: 2 tuần, 4-6 tuần, 8 tuần sẽ thúc đẩy nhanh khả năng tạo chồi.
SVTH: Đào Thò Lý
-4-
Đồ án tốt nghiệp GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh
CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. GIỚI THIỆU VỀ HOA LAN VÀ KỸ THUẬT NHÂN GIỐNG
1.1.1. Tình hình sản xuất hoa lan trên thế giới và ở Việt Nam
1.1.1.1. Tình hình sản xuất hoa lan trên thế giới
Hoa lan được mệnh danh là nữ hoàng của các loài hoa, thò trường tiêu thụ
hoa lan rộng khắp thế giới, mang lại lợi nhuận kinh tế cao cho nhiều nước.
Thò trường tiêu thụ hoa lan của khối châu Âu rất hấp dẫn. Năm 2006 khối
EU có sản lượng xuất khẩu hoa lan trên thế giới đạt 55 tỉ sản phẩm, mang lại giá
trò kim ngạch xuất khẩu hoa lan là 73 tỉ EUR. Trong đó, Hà Lan là một quốc gia
duy nhất ở Châu Âu có công nghiệp trồng lan xuất khẩu, do trồng trong nhà kính
nên Hà Lan có thể xuất khẩu hoa quanh năm, đồng thời là đầu mối trung gian
nhập khẩu hoa lan (37%) từ các nước khác trên thế giới. Năm 2006, Hà Lan xuất
khẩu hoa lan chiếm 95% (52.049 ngàn sản phẩm) tổng sản lượng hoa lan trong
khối EU (Nguồn: AIPH/Union Fluers: Internaational Statistics Flowers and Plants
2007).
Mặc dù, khối châu Âu có sản lượng xuất khẩu hoa lan cao hơn so với các
khối khác, nhưng do nhu cầu tiêu thụ hoa lan trong khối EU cao nên trong năm
2006 sản lượng nhập khẩu hoa lan từ các nước lên tới trên 155 tỉ sản phẩm, giá trò
kim ngạch nhập khẩu đạt gần 90 tỉ EUR (Nguồn: AIPH/Union Fluers:
Internaational Statistics Flowers and Plants 2007).
Hoa lan hiện nay đang là mặt hàng xuất khẩu chiến lược, mang lại nguồn

lợi kinh tế cho nhiều Quốc gia Châu Á. Thái Lan là nước xuất khẩu chủ yếu là
hoa lan nhiệt đới, đặc biệt là Dendrobium, phổ biến nhất là Dendrobium Sonia và
jumbo White. Ngoài ra cũng còn còn một số loài nổi tiếng khác như Aranda,
SVTH: Đào Thò Lý
-5-
Đồ án tốt nghiệp GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh
Mokara, Oncidium và Vanda. Hơn 80% Dendrobium trên thò trường Thế giới là từ
Thái Lan. Chỉ với loại hoa lan chủ lực là Dendrobium, Thái Lan đạt doanh thu
mỗi năm gần 600 triệu USD từ giá trò xuất khẩu loại hoa này.
Giá trò xuất khẩu năm 2000 khoảng 1.765 triệu baht. Dendrobium được chọn
là sản phẩm vô đòch bởi vì sản phẩm của nó xuất khẩu liên tục trong năm. Hiện
tại, Thái Lan là nước đứng đầu thế giới về hoa lan. Nó trở thành niềm kiêu hãnh
của người trồng hoa lan của Thái Lan. Hiện nay, Thái Lan có khoảng 24 triệu m
2
trang trại trồng hoa lan (Nguồn: Thailand orchid export.htm).
Hiện nay, hoa lan của Thái Lan chiếm lónh rộng trên thò trường thế giới: Bắc
Mỹ, Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, Canada, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Ba Lan, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, và một số nước Trung Đông và Châu Phi. Khách
hàng chính vẫn là: Nhật, Ý, và Mỹ.
Trong khi đó, Đài Loan là nước đứng đầu thế giới về sản xuất và xuất khẩu
hoa lan Hồ điệp bằng qui trình công nghệ cao, giá trò doanh thu từ xuất khẩu loại
hoa này hàng năm khoảng 43 triệu USD. Trên thò trường thế giới, sản phẩm chủ
yếu của hoa lan Hồ điệp là hoa chậu, sản phẩm này có giá trò kinh tế cao gấp
nhiều lần so với hoa Hồ điệp cắt cành.
Hàng năm, Đài Loan sản xuất được 36 triệu Phalaenopsis. Trong đó, 12
triệu hoa lan được xuất khẩu ra các nước như: 3 triệu đến Nhật Bản; 3 triệu đến
Trung Quốc; 2,5 triệu tới Hoa Kỳ và 3,5 triệu cho các quốc gia khác. Trong tháng
6/2004, Hoa Kỳ đã cung cấp giấy phép xuất khẩu Phalaenopsis cho Đài Loan trên
thò trường Hoa Kỳ (Nguồn: The world’s fascination with potted orchids-
Floraculture Int.htm).

1.1.1.2. Tình hình sản xuất lan ở Việt Nam
SVTH: Đào Thò Lý
-6-
Đồ án tốt nghiệp GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh
Diện tích trồng hoa ở Việt Nam hiện nay là 2.500 ha nhưng hoa lan chỉ
chiếm 5–6%. Nước ta bắt đầu sản xuất và thương mại hoa lan tập trung khoảng 6
năm trở lại đây nhưng tốc độ phát triển khá nhanh. Chỉ riêng TP.HCM diện tích
vườn lan tới nay đã gần 80 ha, hoa lan đang mang lại thu nhập cao cho nhiều
nông hộ. Tuy nhiên hiện nay do cây giống trong nước không đủ cung cấp cho sản
xuất, các nhà vườn nhập cây giống ồ ạt từ nước ngoài như: Thái Lan, Đài Loan,
Trung Quốc (Nguồn: Báo cáo điều tra thống kê của Sở NN & PTNT TP. HCM năm
2008).
Theo thống kê của Sở NN & PTNT TP. HCM trong năm 2003 doanh số kinh
doanh hoa lan cây kiểng chỉ đạt 200-300 tỉ đồng nhưng đến năm 2005 đã tăng đến
600-700 tỉ đồng và ngay từ đầu năm 2006 doanh số đạt được là 400 tỉ đồng.
Theo TS. Dương Hoa Xô - Trung tâm Công nghệ sinh học, đến nay đã hoàn
thiện quy trình nhân giống in vitro cho 7 nhóm giống hoa lan, có khả năng cung
cấp 200.000 cây con hoa lan cấy mô thuộc các nhóm Mokara, Dendrobium,
Phalaenopsis, Catlleya. Năm 2007, đã cung cấp cho các nhà vườn khoảng 50.000
cây hoa lan cấy mô các loại. Năm 2008, sản xuất 100.000 cây giống hoa lan cấy
mô, tập trung cho nhóm hoa lan cắt cành Mokara, Dendrobium và một số giống
lan rừng quý.
Đến 2009, chiếm lónh thò trường hoa tết là những loại hoa mới, lạ, và cao
cấp như: tiểu quỳnh, lily, tulip, đòa lan, Hồ điệp nhân giống bằng công nghệ in
vitro.
Hiện nay, rất nhiều loại hoa đã được sản xuất bằng phương pháp nuôi cấy
mô tại Việt Nam, như: lan dendro, lan Hồ điệp, vanda, catleya, vũ nữ, vạn thọ
Pháp, cúc Đài Loan, hoa salem, cẩm chướng, hoàng thảo, hoa đồng tiền nhập nội
(các giống Tamara, Banesa, Caliente, Redbull) Thò trường tiêu thụ hoa trong
nước ngày càng mở rộng, mỗi năm tiêu thụ hàng triệu cây hoa các loại, riêng hoa

lan cũng gần 2 triệu cây.
SVTH: Đào Thò Lý
-7-
Đồ án tốt nghiệp GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh
Đặc biệt Đà Lạt là nơi sản xuất hoa lan sớm nhất cả nước với nguồn cây
giống phong phú săn tìm trong rừng sâu. Lâm Đồng dẫn đầu cả nước về nguồn lợi
lan rừng với 101 chi và 396 loài, chiếm 55,3% về chi và 76,5% về loài lan rừng
của Việt Nam. Không ít loài lan được phát hiện lần đầu tiên trên thế giới mang
tên Đà Lạt, 10/12 loài lan quý của Việt Nam phân bố ở vùng rừng Lâm Đồng.
Những năm 1980, Đà Lạt đã xuất khẩu số lượng lớn cành hoa sang các nước
Đông Âu.
Những năm gần đây, ngành sản xuất hoa lan ở Đà Lạt đã hồi sinh và phát
triển mạnh mẽ nhờ ứng dụng kỹ thuật công nghệ cao vào sản xuất. Với công
nghệ hiện đại, đã giúp làm giảm chi phí trồng từ 40.000-70.000 đồng/gốc lan
trước đây, xuống chỉ còn 4.000-7.000 đồng/gốc. Sử dụng công nghệ nuôi cấy mô,
và đặc biệt bằng phương pháp gây vết thương kết hợp nuôi cấy lỏng.
TS. Dương Tấn Nhựt cùng các cộng sự ở Phân viện Sinh học Đà Lạt đã
nhân giống thành công Hồng hài - loài lan hài duy nhất trên thế giới có hương
thơm, được Tổ chức Bảo vệ động thực vật hoang dã thế giới đưa vào danh mục
thực vật cần bảo vệ bởi chỉ phân bố hẹp ở Việt Nam, khó sống, khó sinh sản.
Theo TS. Dương Tấn Nhựt, Thành phố Đà Lạt là cỗ máy điều hòa khổng lồ
cho phép sản xuất đòa lan trong thiên nhiên theo hướng công nghiệp với chi phí
sản xuất chỉ bằng 1/10 so với các quốc gia phải trồng lan trong nhà kính, có hệ
thống điều hòa nhiệt độ.
Lan Đà Lạt đã và đang mở rộng thò trường ra nhiều châu lục, trong đó có
những thò trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan Nhiều doanh nghiệp
trong và ngoài nước đang tiến hành khảo sát lập trang trại sản xuất hoa lan quy
mô lớn bởi tiềm năng, triển vọng đầu tư tại Đà Lạt là rất lớn so với Trung Quốc
và các nước ASEAN khác.
1.1.2. Giới thiệu về giống lan Hồ điệp

SVTH: Đào Thò Lý
-8-
Đồ án tốt nghiệp GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh
Lan Hồ điệp là một trong những giống lan rất được yêu thích không chỉ về
màu sắc, kiểu dáng mà còn mang một nét đẹp rất sang trọng và trang nhã. Chính
vì vậy, nó đã nhanh chóng trở thành sản phẩm trồng trọt mang lại hiệu quả kinh
tế cao không chỉ ở Việt Nam mà còn nhiều nước trên thế giới như Đài Loan, Nhật
Bản, Hà Lan, Mỹ…
Loài hoa đẹp này thường trồng chậu và người ta thường có dòp gặp nhiều
nơi như trên ti vi, trong nhà, trong vườn, tạp chí, nơi bạn làm việc và thậm chí
được dùng làm quà tặng cao cấp giá trò. Bên cạnh đó hoa Hồ điệp rất lâu tàn, độ
bền bông cao nên là sự lựa chọn làm vật trang trí, tạo cảnh quan trong các ngày
lễ, tết.
1.1.2.1. Phân loại
Vò trí phân loại:
Giới Plantae Thực vật
Ngành Magnoliophyto Ngọc Lan
Lớp Lipliopsida Hành
Phân lớp Liliidae Hành
Bộ Orchidales Lan
Họ Orchidaceae Lan
Chi Phalaenopsis Lan Hồ điệp
1.1.2.2. Nguồn gốc và sự phân bố
Phalaenopsis Hồ điệp, có tên từ chữ Grec Phalaina có nghóa là bướm và
Opsis có nghóa là sự giống nhau. Lan Hồ điệp là lan có hoa giống bươm bướm
phất phơ rất đẹp. Giống Hồ điệp có trên 70 loài và ngày càng được lai tạo ra rất
nhiều. Hồ điệp là một loại lan đại chúng được xếp vào bậc nhất. Hoa to, hình
dáng đẹp, nhiều màu, dễ trồng. Vì những đặc điểm trên Hồ điệp hiện nay rất
được ưa chuộng.
SVTH: Đào Thò Lý

-9-
Đồ án tốt nghiệp GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh
Hồ điệp được khám phá năm 1750, đầu tiên được ông Rumphius đặt tên là
Angraecum album. Năm 1753 Linne đổi tên thành Epidendrum. Năm 1825 nhà
thực vật Hà Lan đònh danh lại là Phalaenopsis.
Hồ điệp phân bố chủ yếu ở Malay, Indo, Philippine, phía đông Ấn Độ và
Úc. Ở Việt Nam cũng có một số loài vì có hoa nhỏ nên được gọi là tiểu Hồ điệp.
Hồ điệp có thể mọc ở khí hậu nhiệt đới và đồi núi cao 2000 m nên vừa chòu được
khí nóng ẩm vừa chòu được khí hậu mát.
Một số loại lan Hồ Điệp rừng ở Việt Nam:
Hồ điệp dẹt (Phalaenopsis Coenu). Cây sống phụ, rễ lớn, không có thân, lá
hình bầu dục thuôn dài. Phát hoa dài 30 cm, hoa màu vàng xanh, có từ 6- 12 hoa,
hoa nở rất lâu tàn và có hương thơm. Cây mọc ở miền Trung, có dáng đẹp có thể
trồng ở Đà Lạt. Hoa nở vào mùa thu.
Hồ điệp ấn (Phalaenopsis Mannii). Cây mảnh, có lá dạng bầu thuôn, hơi
cong, màu xanh bóng. Phát hoa dài thường buông thòng xuống, hoa tập trung ở
đỉnh cánh màu vàng nghệ với vân màu đỏ. Cây mọc ở Trung Bộ, Đà Lạt- Lâm
Đồng. Hoa nở vào mùa hè.
Lan Hồ điệp trung (Phalaenopsis parishii). Cây nhỏ, lá hình trái xoan, màu
xanh bóng, rụng vào mùa khô. Phát hoa mọc thẳng đứng, mang 3-9 hoa ở đỉnh
màu vàng nhạt môi hồng tươi, giữa có 2 vạch nâu. Cây mọc đẹp, hoa đứng, màu
sắc sặc sở nên được trồng làm cảnh, trang trí trong phòng hợp. Hoa nở mùa xuân.
Lan tiểu Hồ điệp hay Hồ điệp nhài (Phalaenopsis Pulcherrima). Cây nhỏ
sống trên đất cát trong các rừng chồi, rễ mập khỏe, lá hình trái xoan. Phát hoa nở
dài mang hoa ở đỉnh. Hoa có màu trắng, hồng tím… Hoa nhỏ, cánh bầu dục, lưỡi
có màu đậm hơn, họng màu tím. Cây mọc ở miền Trung, Đồng Nai, Bình Châu…
Cây ra hoa vào mùa mưa.
SVTH: Đào Thò Lý
-10-
Đồ án tốt nghiệp GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh

Ngoài ra còn một số cây như: Phalaenopsis manni, Phalaenopsis gibbosa,
Phalaenopsis lobbii, Phalaenopsis fuscata, Phalaenopsis cornu cervi, Phalaenopsis
petelotii Những cây này thường có hương thơm.
Một số cây Hồ điệp ngoại nhập có hoa đẹp:
Ph. Pilong Cardino + Phuket beauty có hoa chùm to đẹp, đài và cánh đều
trắng tinh, lưỡi đỏ uốn cong, có hai râu dài rất đẹp, hoa rất lâu tàn.
Ph. Gaint Forst “ Snowbound” đài và cánh đều trắng tuyền, to, kín, lưỡi
nhọn màu vàng, rất đẹp.
Phalae- Rousserol “Francois Lecouple”, đài và cánh màu hồng có rất nhiều
chấm đỏ, lưỡi vàng rất đẹp.
Ph. Sujianna Wijanto “Sunshine” toàn màu vàng tươi có đốm đỏ nhỏ rất đẹp.
1.1.2.3. Đặc điểm thực vật
Hồ điệp là loài lan đơn thân, mập, ngắn, lá to, dày mọc sát vào nhau. Đây
là giống gồm các loài có hoa lớn, đẹp. Phát hoa mọc từ nách lá, dài, đơn hay
phân nhánh, cánh hoa phẳng, trải rộng, hoa nở từng cái, 3 đài to tròn, 2 cánh xòa
rộng kín. Môi cong, dẹp, có 2 râu dài. Trụ có hình bán nguyệt với 2 phân khối u
lên chứa đầy phấn hoa. Ngày nay Hồ điệp được lai tạo với nhiều màu sắc và kích
thước đa dạng: trắng, tím, đỏ, vàng, hồng.
Lan có rễ khí sinh phát triển mạnh, màu lục, phía ngoài có một lớp mô xốp
dày gọi là màng bao - có tác dụng dự trữ nước và bảo vệ rễ khỏi bò khô. Lá đơn
nguyên, dày, không cuống và có bẹ, dạng bầu dục, màu xanh bóng, đậm và nhẵn.
Hoa mọc thành cụm, lưỡng tính, đối xứng hai bên. Bao hoa dạng cánh, rời
nhau, xếp thành hai vòng: ba mảnh vòng ngoài và hai mảnh vòng trong bé hơn,
mảnh thứ ba có hình dạng và màu sắc khác hẳn gọi là cánh môi. Gốc cánh môi
thường kéo dài ra, chứa tuyến mật. Nhò và nhụy dính liền thành cột nhò nhụy. Hạt
phấn thường dính lại thành khối phấn. Hai khối phấn ngăn cách nhau bởi trung
SVTH: Đào Thò Lý
-11-
Đồ án tốt nghiệp GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh
đới. Bộ nhụy gồm 3 lá noãn dính nhau thành bầu dưới, mang nhiều noãn, đính

bên.
Quả của lan Hồ điệp thuộc loại quả nang, mở bằng các khe nứt dọc theo hai
bên đường của giá noãn. Quả lan chứa rất nhiều hạt, tùy vào giống, loài mà hạt
có thể từ vài trăm đến vài ngàn hạt. Hạt cần trải qua 130 – 150 ngày để hạt
trưởng thành, hạt mở sau 90 ngày. Hạt nhỏ được gió mang xa như hạt bụi, phần
lớn hạt bò chết vì chứa phôi chưa phân hóa. Theo Bernard (1909), hạt lan muốn
nảy mầm phải nhiễm nấm Rhizoctonia vì loại nấm này có tác dụng khởi phát sự
tái lập phân bào. Trong thực nghiệm, người ta có thể đánh thức các “phôi sơ
khai” (protocorm) khi sử dụng sốc thẩm thấu bằng cách nuôi cấy hạt trên môi
trường chứa sucrose (Bùi Trang Việt, 2002).
Keiki: Keiki chỉ một cây con mọc từ một mấu trên cuống hoa. Một số loài
có hoa nhỏ như P. lueddemanniana thường tạo keiki trên cuống hoa. Hiện tượng
này được Williams mô tả lần đầu tiên vào năm 1894 (Williams và Williams,
1894).
Keiki còn có thể được hình thành ở nhiều loài Phalaenopsis và một số loài
thuộc các chi lai. Chẳng hạn trong The Genus Phalaenopsis (Sweet, 1980) có trình
bày rõ khả năng phát triển cây con từ đốt phát hoa Phalaenopsis kunstleri ở Kew
Gardens. Keiki còn có thể hình thành từ rễ ở các loài Philippine P. stuartiana
(Williams và Williams, 1894) và Phalaenopsis schilleriana (Davis và Steiner,
1952). Các cây Phalaenopsis dưới điều kiện nuôi trồng không thuận lợi sẽ tạo ra
keiki trên cuống hoa, đặc biệt khi đỉnh đã bò cắt bỏ.
1.1.2.4. Điều kiện sinh thái.
a. Nhiệt độ và độ ẩm
Hồ điệp là loại hoa của nhiệt đới, nhiệt độ tối thiểu 22
o
C- 25
o
C ban ngày và
18
o

C vào ban đêm. Tuy nhiên Hồ điệp là loại lan chòu nóng nhiều hơn đa số các
SVTH: Đào Thò Lý
-12-
Đồ án tốt nghiệp GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh
loài khác. Cây có thể phát triển tốt ở nơi có nhiệt độ cao 35
o
C vào ban ngày và
25
o
C vào ban đêm. Nhiệt độ lý tưởng để phát triển tốt là 25
o
C-27
o
C.
Hồ điệp chòu ẩm cao, tối thiểu 60% nhưng không chòu nước. Làm giàn che
phải che 70% nắng. Ẩm độ này rất phù hợp với điều kiện khí hậu Việt Nam. Khi
trồng nên tạo độ ẩm vừa cho vườn lan vừa cho môi trường xung quanh.
Nhiệt độ trong suốt quá trình xử phát hoa nếu vượt quá 26
o
C có thể gây ảnh
hưởng trực tiếp lên phát hoa, làm chột đỉnh hoặc giảm số lượng hoa.
b. Nhu cầu nước tưới.
Hồ điệp là cây đơn thân nên không có giả hành để dự trữ dinh dưỡng và
nước. Nước thường tập trung chủ yếu ở lá, vì Hồ điệp có lá lớn, diện tích tiếp xúc
nhiều nên rất dễ thoát hơi nước.
Trong những ngày trời nắng không để cây khô quá lâu như vậy cây sẽ kiệt
sức. Vào mùa nắng có thể tưới 3 lần/ngày: sáng, trưa, chiều. Nước tưới có độ pH
khoảng 5-6 là tốt nhất. Nên dùng vòi phun sương tưới nhẹ rồi di chuyển qua một
lượt rồi mới tưới trở lại để cho nước thắm đều vào chất trồng.
Đối với những vườn lan trồng trong kính thì tưới nước rất ít khoảng 3-5

ngày/lần. Tóm lại, Hồ điệp cần ẩm nhiều hơn nước nên chỉ tưới vừa đủ là được.
c. Ánh Sáng.
Hồ điệp cần ánh sáng yếu vì đây là loài ưa bóng mát, biên độ ánh sáng
biến thiên khá rộng 5.000 – 15.000 lux, ánh sáng chỉ cần 20%-30% là đủ. Tuy
nhiên không trồng Hồ điệp ở nơi quá râm mát vì ánh sáng rất cần cho sự sinh
trưởng và trổ hoa.
Cần chú ý không để cây bò cây ánh sáng trực tiếp chiếu vào, vì như vậy cây
sẽ cháy (phỏng) lá. Nếu bò nhẹ thì cây bò cháy lá, chậm phát triển nặng có thể
làm chết cây. Ta có thể nhận biết được cây thiếu hay đủ ánh sáng qua màu của
lá. Nếu cây thiếu nắng lá sẽ màu sậm hơn, đọt phát triển yếu. Nếu cây dư ánh
sáng lá sẽ hơi vàng, thậm chí có thể làm cháy lá.
SVTH: Đào Thò Lý
-13-
Đồ án tốt nghiệp GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh
d. Độ thông thoáng.
Rất cần thiết cho Hồ điệp, Hồ điệp hay bò bệnh thối nhũn lá (phõng lá), sự
thông thoáng giúp lá cây mau khô sau khi tưới và bộ rễ không bò úng nước nên
hạn chế bệnh rất nhiều.
Đối với những vườn lan trồng trong nhà kính có thể dùng quạt hơi nước vừa
tạo độ ẩm vừa tạo sự thông thoáng cho vườn lan. Gió sẽ làm cho lớp không khí
nóng trên bề mặt lá được luân chuyển giúp cho cây lan giảm sự thoát hơi nước.
e. Dinh dưỡng.
Hồ điệp cần dinh dưỡng thường xuyên, quanh năm nên không có mùa nghỉ.
Hồ điệp cần phân bón tưới với nồng độ loãng và có thể tưới nhiều lần trong tuần.
Có thể tưới phân hữu cơ như: bánh dầu 15 ngày/lần, vitamin B1, kích thích ra
rễ,
1.1.2.5. Giá trò kinh tế và tình hình sản xuất lan Hồ điệp .
a. Giá trò kinh tế của hoa lan Hồ điệp
Hồ điệp không chỉ phổ biến ở Nam Mó, trong những năm gần đây, Hồ điệp
trở thành loại hoa trồng chậu có giá trò nhất trong ngành công nghiệp trồng hoa ở

Đài Loan. Chúng còn là những món quà xa xỉ ở các nước Châu Á, đặc biệt là
Nhật Bản. Ngoài ra các loài hoa đẹp, xa xỉ cũng được nhập vào Mỹ để trang trí
chậu hoặc dưới dạng quà tặng cao cấp.
Ngày nay, hoa lan chậu đã trở nên khá phổ biến ở hầu hết các nước trên thế
giới. Người ta có thể thấy Hồ điệp ở mọi nơi, trên truyền hình, trong nhà, trong
vườn, tạp chí thậm chí nơi bạn làm việc. Chứng tỏ, càng ngày con người càng
nhận thức được tầm quan trọng của những chậu hoa trong cuộc sống thường nhật
của mình. Lan Hồ điệp là một loài lan có độ bền bông cao trong điều kiện thích
hợp, cũng là một loài cây rất thích hợp để trồng trong nhà.
Hơn nữa, trong vài thập kỉ gần đây nền công nghệ trồng lan phát triển giúp
người trồng đã giảm giá thành đáng kể đối với loại lan này nên giá cả phù hợp
SVTH: Đào Thò Lý
-14-
Đồ án tốt nghiệp GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh
với những người mê hoa hay người mới tập trồng cho nên Hồ điệp ngày càng
được ưa chuộng và được trồng ở nhiều nơi.
Trước đây, Hồ điệp có giá khá cao, nên được xem là một loại hàng hoá cao
cấp trên thò trường. Trong 20 năm trở lại đây, công nghệ hiện đại và các nghiên
cứu đã giúp cho loại sản phẩm này trở nên phổ biến với người tiêu dùng, đặc biệt
là trong các ngày lễ. Thêm vào đó, công nghệ lai giống và gieo hạt ngày càng tạo
nên nhiều chủng loại giống mới, nổi bật về màu hoa, kích thước hoa… Điều này
làm cho người tiêu dùng rất thích thú với thú chơi lan và tạo nên những cơn sốt
hoa lan trên thò trường thế giới.
Hồ điệp được trồng ở mọi nơi trên thế giới, hầu hết là ở Đức, Nhật bản,
Phần Lan, Đài Loan, Thái Lan và Mỹ. Cây con được nuôi cấy mô ở các nước
Phần Lan, Thái Lan, Đài Loan sau đó cây con lại được xuất khẩu cho các nước
khác với cả Mỹ để trồng ra hoa.
Hàng ngàn các giống được lai và tạo dòng rất có giá trò trên thò trường. Các
nhà nhân giống đã gieo hạt được rất nhiều giống Hồ điệp có chất lượng hoa và
cây giống rất có giá trò như các tính trạng qui đònh màu sắc hoa, và cấu trúc hoa,

nhiều nhánh, nhiều vòi hoa, và gần đây là các giống có hương thơm. Cuộc chạy
đua diễn ra hầu hết tại Đài Loan, điều này dẫn đến một hệ quả là các giống có
giá trò hiện nay có thể không còn giá trò chỉ trong vài năm nữa.
Màu sắc hoa tập trung ở các màu chủ đạo như: trắng, vàng, xanh, màu mơ
chín, hồng, đỏ tươi hay nâu sẫm. Hoa có thể chỉ có một màu hay sự pha trộn giữa
các màu này với nhau, chủ yếu là khác nhau ở vùng giữa, hay mép cánh hoa với
nhiều cấu trúc khác nhau như chấm hay sọc trên từng cánh bông. Loại hoa mới
được lai tạo gần đây nhất là Harlequin, có màu trắng hay vàng với các mép cánh
bông được điểm xuyết bởi các chấm tròn ngẫu nhiên có giá rất cao trên thò trường
hiện nay.
b. Tình hình sản xuất lan Hồ điệp .
SVTH: Đào Thò Lý
-15-
Đồ án tốt nghiệp GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh
Lan Hồ điệp là loài hoa đẹp, có giá trò kinh tế cao, là sản phẩm được cả thò
trường trong nước và thế giới ưa chuộng, là loài lan nhiệt đới, đơn thân, chu kỳ
sinh trưởng ngắn (thời gian từ trồng đến ra hoa khoảng 18-20 tháng tùy thuộc điều
kiện chăm sóc và vùng trồng), dễ áp dụng sản xuất theo qui mô công nghiệp. Vì
vậy từ lâu lan Hồ điệp đã được rất nhiều nhà sản xuất hoa trong nước quan tâm.
Tuy nhiên việc sản xuất loài hoa này ở nước ta hiện nay vẫn còn rất hạn chế do
nhiều nguyên nhân.
TPHCM mấy năm gần đây được xem như là đơn vò đi đầu trong cả nước về
sản xuất hoa lan cắt cành theo qui mô tập trung. Chiến lược phát triển nông
nghiệp của Thành phố tới năm 2010 sẽ sản xuất khoảng 300 ha hoa lan phục vụ
cho nhu cầu nội đòa và xuất khẩu. Hoa lan trồng ở TPHCM chủ yếu là giống
Mokara nhập từ Thái Lan, hiện nay loại hoa này đang bò xuống giá mạnh do sản
phẩm của chúng trên thò trường hoa trong nước gần đạt tới mức bão hòa. Vì vậy
nhiều nhà vườn, trang trại đang chuyển dần sang trồng hoa lan chậu có giá trò
kinh tế cao hơn như Hồ điệp, Vũ nữ, Catleya, đáp ứng cho thò trường.
Tuy nhiên, các cơ sở sản xuất cây giống hoa lan trong nước hiện nay còn rất

hạn chế, không đủ cây giống cung cấp cho sản xuất. Vì vậy các nhà vườn nhập
cây giống ồ ạt từ một số nước trong khu vực như: Thái Lan, Đài Loan, Trung
Quốc, bằng nhiều hình thức khác nhau để sản xuất. Phần lớn các cây giống
nhập nội bò nhiễm bệnh, chất lượng kém, một số đã bò loại thải từ nước ngoài do
bò nhiễm bệnh hoặc kiểu dáng lỗi thời. Trong khi các cơ quan kiểm dòch thực vật
trong nước chưa có các qui chế cụ thể để kiểm soát mặt hàng cây giống mới này.
Điều này sẽ gây ảnh hưởng xấu đến ngành sản xuất hoa lan ở TP.HCM nói riêng
và cả nước nói chung nếu không có giải pháp kòp thời.
Hiện nay tại TP.HCM cây lan Hồ điệp được xem là cây trồng chiến lược
trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng và vật nuôi. Đây là cây trồng đem lại hiệu
quả cao gấp 2-3 lần so với việc trồng lúa, hoa màu Trong xu thế đất trồng ngày
SVTH: Đào Thò Lý
-16-
Đồ án tốt nghiệp GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh
càng hẹp thì cây lan không chiếm diện tích đất nhiều nên là giải pháp rất hiệu
quả. Không chỉ đẹp về màu sắc, hình dáng, hoa lâu tàn… giá thành rẻ nên ngày
càng được ưa chuộng và nuôi trồng.
Tại TP.HCM và các tỉnh lân cận có rất nhiều vườn trồng Hồ điệp với qui
mô từ vài trăm đến vài nghìn cây. Điển hình là Công ty Lâm Thăng của Đài Loan
đầu tư và Công ty Kim Ngân chuyên trồng về lan Hồ điệp, hàng năm có thể cung
ứng cho thò trường từ vài ngàn đếm vài chục ngàn cây, nhất là vào dòp Tết
Nguyên Đán. Tuy nhiên do không có sự liên kết giữa các nhà vườn nên sản phẩm
làm ra không tìm được thò trường tiêu thụ, giữa cung và cầu không hợp lý.
Về nguồn cây giống thì ở nước ta do không đầu tư nên cây giống không đạt
chất lượng tốt, giống mới không nhiều nên các nhà vườn thường nhập giống từ
các nước như Thái Lan, Đài Loan…
Ngoài ra hàng năm việc nhập khẩu hoa từ các nước này ước tính tiêu tốn
hàng triệu USD. So với các nước có ngành trồng lan phát triển như Đài Loan hay
Thái Lan thì ngành trồng ở nước ta cần phải học hỏi nhiều và cần phải có chính
sách phát triển hợp lý nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn.

1.1.3. Giới thiệu về giống lan Dendrobium
1.1.3.1. Phân loại
Vò trí phân loại:
Lớp một lá mầm Monocotyledones
Bộ Orchidales
Họ Orchidaceae
Họ phụ Epidendroideae
Tông Epidendreae
Giống Dendrobium
Phong lan có vùng phân bố rộng lớn, trải dài từ đường xích đạo cho đến Bắc
cực, từ đồng bằng cho đến các vùng núi băng tuyết. Họ phong lan (Orchidaceae)
SVTH: Đào Thò Lý
-17-
Đồ án tốt nghiệp GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh
với 750 chi và hơn 25000 loài là họ lớn thứ hai sau họ cúc (Asteraceae) trong
ngành hạt kín (Angiospermae) và cũng là họ lớn nhất trong lớp một lá mầm.
Việc phân loại phong lan khá phức tạp. Theo truyền thống cổ điển các nhà
khoa học trước đây phân loại Dendrobium thuộc tông Epidendreae, họ phụ
Epiden droideae, phân họ Orchidaceae (Trích Nguyễn Thò Hồng Nhật, 2004).
Theo Nguyễn Xuân Linh (1998) phân loại lan Dendrobium như sau:
- Dendrobium crassinode (Hoàng thảo u lồi).
- Dendrobium draconis (Hoàng thảo nhất điểm hồng).
- Dendrobium farmeri (Hoàng thảo thủy tiên).
- Dendrobium hercoglossum (Hoàng thảo tím huế).
- Dendrobium heterocrrpun (Hoàng thảo nhất điểm hoàng).
- Dendrobium parciflorum (Hoàng thảo xương cá).
- Dendrobium parisshii (Hoàng thảo tím hồng).
- Dendrobium parishii (Hoàng thảo hạc vó).
- Dendrobium primulim (Hoàng thảo long tu).
- Dendrobium pumilum (Hoàng thảo phù dung).

1.1.3.2. Sự phân bố
Họ Orichiaceae có khoảng 750 chi, 20.000 đến 25.000 loài, chiếm vò trí thứ
hai sau họ Cúc trong ngành thực vật hạt kín và là họ lớn nhất trong một lá mầm.
Các loài trong hệ thống này phân bố rộng, do đó hình thái và cấu tạo cũng hết
sức phức tạp và đa dạng.
Giống Dendrobium có khoảng 16.000 loài và đã được lai tạo thêm nhiều
loại mới. Tên Dendrobium có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp: “Dendro”-có nghóa là gỗ
“bio”- có nghóa là sống. Dendrobium hầu hết là thực vật biểu sinh, sống bám trên
vỏ cây. Ở Việt Nam, người ta còn gọi là Hoàng Lan, hay còn gọi là Đăng Lan.
SVTH: Đào Thò Lý
-18-
Đồ án tốt nghiệp GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh
Dendrobium chỉ được tìm thấy ở Đông Bán Cầu, trải dài từ Australia, xuyên
suốt nam Thái Bình Dương, Philippine, Ấn Độ, xuất hiện một ít ở Nhật Bản và
xuất hiện nhiều nhất ở Đông Nam Á.
Do quá đa đạng nên Dendrobium tập trung thành hai dạng chính:
- Dạng đứng (Dendrobium Phalaenopsis): thường mọc ở xứ nóng, chòu
ẩm, siêng hoa. Tp. Hồ Chí Minh trồng rất nhiều loại này.
- Dạng thòng (Dendrobium Nobile): chòu khí hậu mát mẻ ở vùng đồi núi
cao như Đà Lạt, Lâm Đồng…
Ở Việt Nam, Dendrobium có đến 100 loài, xếp trong 14 tông, được phân
biệt bằng thân (giả hành), lá và hoa.
Lan rừng Việt Nam có rất nhiều nhóm Dendrobium:
Nhóm có giả hành rất dài, to, đứng thẳng như lan Thái Bình (Dendrobium
Pulchellum);
Nhóm có giả hành dài thòng xuống như Long Tu (D. Primilium);
Nhóm có giả hành to ngắn như Kim Điệp (D. Chrysotosum), Thủy Tiên (D.
Farmeri), Vảy Cá (D. Lindleyi)…
Các loại này đều sống phụ sinh, sống bám trên thân cây, dạng bụi, có nhiều
giả hành mọc sát nhau như mía và còn có thể nhảy con từ mắt của lóng nên còn

gọi là lan mía hoặc lan tre. Lá hình thuôn dài, mọc xen, màu xanh, hoa có thể
mọc từ thân thành chùm hay cô độc. Có nhiều loại rụng hết lá mới ra hoa. Các
phát hoa không những mọc trên giả hành mới mà cũng có thể mọc lên từ các giả
hành cũ đã ra hoa rồi. Các giống lan rừng này thường trồng bám vào thân cây,
vào miếng dớn hoặc xơ dừa. Giá thể phải thông thoáng, phải để lan vào chỗ hơi
râm mát. Tưới nước ngày 2 lần, tưới phân 10 ngày 1 lần như phân 30.10.10, hoặc
phân bánh dầu, đều tốt. Muốn cho ra hoa phải tạm ngưng tưới nước, tưới phân để
cho cây rụng hết lá, sau đó mới ra hoa.
Lan Dendrobium nhập nội:
SVTH: Đào Thò Lý
-19-
Đồ án tốt nghiệp GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh
Ở TPHCM nhập rất nhiều lan Dendrobium từ Thái Lan, Úc về trồng vì phát
hoa dài cho rất nhiều hoa, màu sắc đẹp lại lâu tàn. Các loại Dendrobium nhập đã
được lai tạo thuần hoá nên có hoa quanh năm, không có mùa nghỉ. Thường thì
trồng vào chậu đất nung có nhiều lỗ chung quanh, giá thể gồm than, gạch, xơ dừa,
dớn, vỏ cây
Cây Dendrobium nhập nội rất đẹp như: Rakpaibulsombat Wahite có phát hoa
dài, nhiều hoa, hoa to màu trắng tuyền, kín rất đẹp, Thái Lan White, Rasem White
cũng đều có hoa màu trắng rất đẹp và lâu tàn.
Dendrobium Thonglor Beauty có hoa màu tím đỏ, lưỡi đỏ rất siêng hoa.
Dendrobium Pink Magic "T-orchids" có hoa to, cánh màu đỏ tươi tròn kín,
lưỡi đỏ nhung, họng trắng rất đẹp.
Dendrobium Somsak, hoa tròn cánh trắng, họng đỏ.
Dendrobium Kultana "Oldbhue" hoa màu xanh tím, họng nhung đen rất lạ.
Dendrobium Kaasem Gold cánh vàng tươi, họng đỏ.
D. Kurniati "Golden Gold" hoa to cánh vàng tươi, lưỡi đỏ, ở cây này, đài và
cánh đều vàng cả bên trong lẫn bên ngoài rất đẹp.
D.Thonglor`s Delight 2 màu, cánh đỏ có sọc trắng, đài màu trắng hồng.
D.Candy Stripe đài và cánh đều màu hồng, có nhiều sọc đỏ theo chiều dọc

cánh, rất đẹp.
Loại Dendrobium thật là đa dạng, không thể nào kể hết ra được.
Ở Thái Lan chuyên trồng Dendrobium cắt cành, trồng đại trà ở dưới đất.
Ngày nay, ở TPHCM cũng có nhiều vườn lan chuyên trồng Dendrobium cắt
cành. Trồng các loại nhập từ Thái Lan thì rất siêng hoa, mỗi phát hoa có từ 15
hoa trở lên, một giả hành có thể luân phiên ra từ 5-10 vòi hoa.
1.1.3.3. Đặc điểm hình thái
Dendrobium có số lượng khá lớn, phân bố rộng rãi nên đặc điểm hình thái
đa dạng, do đó không có một hình dạng chung nhất nào về hoa và dạng cây. Nhìn
SVTH: Đào Thò Lý
-20-
Đồ án tốt nghiệp GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh
chung, lan thuộc giống Dendrobium đều có các bộ phận sinh dưỡng như rễ, thân,
giả hành, lá và cơ quan sinh sản như hoa, trái.
a. Rễ
Sự đa dạng về hình thái và cấu trúc rễ làm cho Dendrobium phù hợp với
nhiều điều kiện sống: rễ mập, thân rễ bò dài hay ngắn khi sống ở đất.
Ở một số loài có lối sống phụ bì, bám lơ lửng trên vỏ cây khác, nên thân rễ
có thể dài hay ngắn, mập hay mảnh mai giúp đưa thân bò đi xa hay chụm lại
thành các bụi dài.
Cây có hệ rễ khí sinh, có một lớp mô hút ẩm dày bao quanh gồm những lớp
tế bào chết chứa đầy không khí nên rễ ánh lên màu xám bạc. Vì vậy rễ hút được
nước mưa hay chảy dọc trên vỏ cây hấp thụ dinh dưỡng và chất khoáng, mặt khác
giúp cây bám chặt vào giá thể, không bò gió cuốn. Có khi hệ rễ đan bện thành búi
chằng chòt nhằm thu gom mùn của vỏ cây làm nguồn dự trữ chất dinh dưỡng.
Một loài có thân lá kém phát triển thậm chí tiêu giảm hoàn toàn, có hệ rễ
chứa diệp tố giúp cây hấp thu đủ ánh sáng cần thiết cho sự ra hoa và quang hợp.
Ở loài sống hoại thì rễ có dạng búi nhỏ dày đặc có vòi hút ngắn để hút dinh
dưỡng từ đám xác thực vật (sau khi được nấm phân hủy).
Rễ của lan Dendrobium không chòu được lạnh, nếu bò lạnh trong thời gian

dài, rễ cây sẽ bò mục nát và cây bò chết.
b. Thân
Dendrobium thuộc nhóm đa thân (còn gọi là nhóm hợp trục) có hệ thống
nhánh nằm ngang bò dài trên giá hoặc nằm sâu trong đất gọi là thân rễ.
Thân nhẵn hay có nhiều vảy là do thoái hoá và một phần thẳng đứng mang
lá. Các lá này bao nhau hợp thành thân giả hay còn gọi là giả hành.
c. Giả hành
Giả hành là những đoạn phình to, bên trong có các mô mềm chứa dòch nhày
làm giảm sự mất nước và dự trữ chất dinh dưỡng để nuôi cấy trong điều kiện khô
SVTH: Đào Thò Lý
-21-
Đồ án tốt nghiệp GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh
hạn khi cây sống bám trên cao. Ngoài ra giả hành còn chứa diệp lục tố nên có thể
quang hợp được.
Hình dạng và kích thước của giả hành rất đa dạng: từ nhỏ như chiếc đinh
găm đến lớn như mũ người lớn, hình cầu, thuôn dài, hay hình trụ xếp chồng lên
nhau tạo thành thân giả có lá mọc xen kẽ. Trên thân giả có nhiều mắt ngủ nên
Dendrobium có thể nhân giống nhanh hơn các giống lan khác theo phương pháp
chiết nhánh thông thường. Một số loài ở xứ lạnh chỉ có nhiệm vụ dự trữ chất dinh
dưỡng nên giả hành không có màu xanh nhưng phía trên có mang lá.
d. Lá
Các lá mọc xen kẽ nhau và ôm lấy thân giả do lá có tận cùng bằng một
cuống hay thuôn dài xuống thành bẹ ôm thân. Hình dạng và cấu trúc lá rất đa
dạng.
Lá có hình kim, trụ có rãnh hay phiến mỏng. Dạng lá mềm mại, mọng nước,
dai, có màu xanh bóng, đậm hay nhạt tùy thuộc vò trí sống của cây.
Phiến lá trải rộng hay gấp lại theo gân vòng cung như cái quạt hay chỉ gấp
lại theo gân giữa như hình chữ V, những lá sát dưới gốc đôi khi giảm đi chỉ còn bẹ
không phát triển hay giảm hẳn thành vảy.
e. Hoa

Dendrobium thuộc nhóm phụ ra hoa ở nách.
Chồi hoa mọc từ các mắt ngủ giữa các đọt lá trên
thân ngọn và cả trên ngọn cây gọi Keiki.
Biểu hiện trước khi ra hoa khác biệt như có
nhiều loài rụng lá trước khi ra hoa. Thời gian ra
hoa đầu mùa mưa hay đầu tết.
SVTH: Đào Thò Lý
-22-
1-đài hoa đứng ; 2-cánh
hoa; 3-môi hoa;4-đài hoa
bên; 5- trụ hoa
Đồ án tốt nghiệp GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh
Hoa mọc thành chùm đơn hay chùm kép hay từng hoa riêng lẻ. Cành hoa
dạng rũ hay dạng thẳng đứng. Giống Dendrobium có hoa lâu tàn, trung bình 1-2
tháng.
Thời gian ra hoa có khi nở suốt năm. Mặt khác, số lượng cành hoa trên cây
nhiều nên Dendrobium được xem là giống chủ đạo để cung cấp lan cắt cành.
Cấu trúc hoa thì cực kì phong phú và hấp dẫn về hình dạng và màu sắc, tuy
nhiên luôn có điểm chung sau:
Bao quanh có vòng và ba mảnh bao gồm ba cánh đài và ba cánh tràng. Ba
cánh đài thường có dạng ba cánh hoa giống nhau hay cánh đài lưng dài hơn cánh
đài bên. Các cánh đài dựng đứng hay trải ra. Ba cánh tràng có hai cánh bên rất
giống với cánh đài, rời hay dính với cánh đài bên, cánh tràng giữa còn được gọi là
cánh môi, có màu sắc biến đổi sặc sỡ, hấp dẫn côn trùng giúp hoa thụ phấn. Sự
đa dạng về màu sắc và hình dạng có sự đóng góp của cánh môi rất lớn. Cánh môi
có các dạng nguyên chia thùy, khía răng, có tua viền hay chia thành các sợi
mảnh.
Ở Dendrobium và hầu hết các chi phong lan khác có cấu trúc cột nhụy, nằm
chính giữa hoa là dấu hiệu cơ bản để đònh loại hoa phong lan. Trong khoảng nhỏ
của cột nhụy có đính một khối phấn có hàng trăm nghìn hạt phấn đính lại. Khối

phấn có thể chia thành hai hoặc bốn, được xếp thành đôi một trong khoang.
Thường có tinh bột, sáp hoặc có sừng cứng bao quanh khối phấn.
f. Trái
Họ Orchidaceae đều có quả thuộc loại quả nang. Khi hạt chín, các nang
bung ra chỉ còn đính lại với nhau ở đỉnh và gốc. Ở một số loài, khi quả chín không
nứt ra nên hạt chỉ ra khỏi vỏ khi quả bò mục nát.
g. Hạt
Một quả chứa từ 10.000 đến 100.000 hạt. Đôi khi đến 3 triệu hạt nên hạt có
kích thước rất nhỏ (trước đây phong lan còn được xem là họ tử vi–
SVTH: Đào Thò Lý
-23-
Đồ án tốt nghiệp GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh
microspermeae) nên phôi hạt chưa phân hoá. Sau 12-8 tháng, hạt chín và phát tán
nhờ gió. Khi gặp nấm cộng sinh tương thích trong điều kiện phù hợp, hạt nảy
mầm.
1.1.3.4. Điều kiện sinh thái
a. Ánh sáng
Dendrobium là giống ưa ánh sáng, có thể trồng trong điều kiện ánh sáng
trực tiếp hay ánh sáng khuếch tán, ánh sáng hữu hiệu cho giống Dendrobium là
70%, vì thế giàn che với độ che sáng 30% dưới đất, và 40% ở trên cao như sân
thượng thích hợp cho sự phát triển.
Ánh sáng rất cần thiết cho sự tăng trưởng và ra hoa. Lượng ánh sáng cần
thiết bằng khoảng 50% ánh sáng mặt trời (tùy theo điều kiện nuôi trồng trong nhà
hay trong nhà kính). Nếu dùng ánh sáng nhân tạo thì cần 4 đèn neon 40 watt và 2
đèn tròn 40 watt chiếu trực tiếp lên phía cây. Có thể nói Dendrobium là loài ưa
sáng (60 - 70%), có những loài yêu cầu ánh sáng tới 80 - 90%.
b. Nhiệt độ
Dendrobium ưa những vùng đất thấp và ấm áp như vùng khí hậu nhiệt đới
và cận nhiệt đới. Cây trưởng thành cần sự chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm
là 6-9

0
C. Nhiệt độ thích hợp nhất cho sự phát triển của Dendrobium là: ngày 27-
32
0
C, đêm từ 16-18
0
C. Trong điều kiện độ ẩm và thoáng khí tăng thì nhiệt độ 35
-38
0
C là rất tốt. Nhiệt độ dưới 10
0
C có thể làm rụng lá.
Cây lan Dendrobium có biên độ nhiệt độ rất rộng, người ta chia làm 2 hai
nhóm chính:
Nhóm ưa lạnh: nhiệt độ lý tưởng là 15
0
C sống chủ yếu ở vùng cao nguyên
trên 1000 m. Những loài lan này có thể ra hoa ở nhiệt độ cao.
Nhóm ưa nóng: nhiệt độ thích hợp nhất là 25
0
C. Ngoài ra còn có giống lan
thích hợp ở nhiệt độ 20
0
C có thể ra hoa ở vùng nóng và vùng lạnh.
c. Nước
SVTH: Đào Thò Lý
-24-
Đồ án tốt nghiệp GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh
Nước rất quan trọng cho cây để tăng trưởng. Nếu thiếu nước cây sẽ không
phát triển và có thể bò chết khô. Nhìn thấy thân cây hay lá cây bò nhăn nheo, là

cây thiếu nước. Còn quá nhiều nước cây bò úng, thối rễ, là điều kiện tốt cho vi
khuẩn, nấm xâm nhập làm cây chết.
Nước giúp duy trì độ ẩm trong giai đoạn tăng trưởng. Nếu giữ khô ráo giữa
các lần tưới nước sau giai đoạn tăng trưởng sẽ làm cây cứng cáp hơn.
d. Độ ẩm
Dendrobium cần độ ẩm trong khoảng 50 – 60%. Nếu trồng trong nhà kính
thì nên dùng máy tạo ẩm độ nếu điều kiện quá khô hanh.
Độ ẩm rất cần cho cây tăng trưởng nhanh hơn và hoa tươi lâu, lâu tàn.
e. Giá thể
Giá thể dùng trồng lan phải xốp, thoáng khí và không giữ nước quá lâu. Có
thể sử dụng một loại giá thể hoăc trộn các giá thể với nhau như vỏ cây khô, đá
núi lửa, xơ dừa hoặc đá.
f. Phân bón
Nhiều người lầm tưởng rằng cây lan chỉ cần có khí trời và nước là có thể
sống và phát triển được. Thật ra cây lan cũng như các loại cây trồng khác đều
phải có đầy đủ chất dinh dưỡng và kích thích tố. Thường có công thức chung: N-
P-K cân bằng nhau (10-10–10), (12–12-12)… cho mỗi tuần trong thời kì tăng
trưởng của chúng.
Trung bình chỉ nên tưới mỗi tuần một lần (tùy theo mùa mưa hay khô, nơi
nắng ít hay râm mát) và tưới từ nồng độ thấp đến nồng độ cao.
1.1.3.5. Giá trò sử dụng
a. Giá trò sử dụng của lan ở một số nước trên thế giới
SVTH: Đào Thò Lý
-25-

×