Tải bản đầy đủ (.docx) (94 trang)

Luận văn thạc sỹ - Hoàn thiện công tác phân tích báo cáo tài chính khách hàng doanh nghiệp trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Thái Hà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459.51 KB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
------------

NGUYỄN HÀ PHONG

HỒN THIỆN CƠNG TÁC PHÂN TÍCH BÁO CÁO
TÀI CHÍNH KHÁCH HÀNG DOANH NGHIỆP TRONG
HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG TMCP ĐẦU TƯ
VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM - CHI NHÁNH THÁI HÀ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KẾ TOÁN

Hà Nội – 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
------------

NGUYỄN HÀ PHONG

HỒN THIỆN CƠNG TÁC PHÂN TÍCH BÁO CÁO
TÀI CHÍNH KHÁCH HÀNG DOANH NGHIỆP TRONG
HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG TMCP ĐẦU TƯ
VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM - CHI NHÁNH THÁI HÀ

CHUYÊN NGÀNH: KẾ TOÁN, KIỂM TOÁN VÀ PHÂN TÍCH
Mã ngành: 8340301

LUẬN VĂN THẠC SĨ KẾ TỐN



Người hướng dẫn khoa học:

TS. NGUYỄN THỊ MAI ANH

Hà Nội – 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi
cam kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này này do tôi tự thực hiện và
không vi phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật.
Tác giả luận văn

Nguyễn Hà Phong


MỤC LỤC


5

CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Nền kinh tế Việt Nam trong nhiều năm qua đã có nhiều bước phát triển tích
cực, gặt hái được nhiều thành tựu đáng kể. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm
2019 đạt 7,02% đã vượt kế hoạch Nhà nước đề ra. Đây là năm thứ hai liên tiếp tăng
trưởng kinh tế đạt trên 7% kể từ năm 2011. Tuy nhiên, 6 tháng đầu năm 2020, do
dịch bệnh hoành hành nền kinh tế nước ta đã hứng chịu những tác động tiêu cực.

Trong bối cảnh vừa chống dịch, vừa duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh GDP cả
nước tăng trưởng 1,81% trong 6 tháng đầu năm.
Ngành Ngân hàng cũng khơng nằm ngồi tình trạng chung của nền kinh tế.
Mặc dù Nhà nước và các Ngân hàng đã triển khai nhiều gói tín dụng nhằm hỗ trợ
doanh nghiệp, tuy nhiêntăng trưởng tín dụng Ngân hàng tồn ngành 6 tháng đầu
năm 2020 chỉ đạt 2,8%. Một số Ngân hàng có mức tăng trưởng tín dụng âm so với
cùng kỳ quý 2 năm 2019 như: Dư nợ tại Eximbank tăng trưởng âm 9%; Cho vay
khách hàng tại Saigonbank giảm 2,79%; Tín dụng Agribank tăng trưởng âm 1,3%.
Trong chiều hướng ngược lại, Nợ xấu ngân hàng ngày càng "phình to". Cụ thể đến
hết quý 2 năm 2020, tình hình nợ xấu của một số Ngân hàng như sau: Kienlongbank
nợ xấu tăng 5,5 lần từ 1,02% lên 6,59%; tỷ lệ nợ xấu của VIB tăng từ 1,96% lên
2,3%; một số Ngân hàng như BacAbank, Sacombank, Vietcombank ghi nhận nợ
xấu tăng 11-19%, đẩy mạnh trích lập dự phịng.
Từ trước đến nay, hoạt động cho vay tại các Ngân hàng Thương mại Cổ phần
(TMCP) luôn luôn cần được chú trọng, tập trung tối đa các nguồn lực để kiểm soát
rủi ro do chứa đựng nhiều rủi ro và cũng là hoạt động mang lại tỷ trọng lợi nhuận
lớn nhất ở nhiều Ngân hàng, cụ thể hơn là mảng "cho vay Khách hàng doanh
nghiệp", nhất là trong bối cảnh tình hình kinh tế phức tạp như hiện nay. Tuy nhiên
hoạt động "cho vay Khách hàng doanh nghiệp" lại chứa đựng rất nhiều rủi ro bởi
nhiều nguyên nhân khác nhau. Một trong số các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến


6

những rủi ro đáng tiếc trong quá trình cho vay và có thể Ngân hàng khơng thu hồi
được vốn vay chính là chất lượng phân tích báo cáo tài chính của khách hàng doanh
nghiệp trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát
triển Việt Nam - Chi nhánh Thái Hà (BIDV Thái Hà) là một đơn vị cung cấp sản
phẩm Cho vay Khách hàng doanh nghiệp nổi bật trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Nhận biết được tầm quan trọng của công tác phân tích báo cáo tài chính Khách hàng

doanh nghiệp đối với ngân hàng, tác giả đã lựa chọn đề tài “Hoàn thiện cơng tác
phân tích báo cáo tài chính khách hàng doanh nghiệp trong hoạt động cho vay
tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh
Thái Hà” làm đề tài nghiên cứu luận văn của mình.
1.2. Tổng quan các cơng trình nghiên cứu có liên quan
Phân tích báo cáo tài chính là một vấn đề mà có nhiều các cơng trình nghiên
cứu trước kia đã đề cập đến. Các đề tài trước kia của nhiều tác giả cũng đã khái quát
cơ sở lý luận về phương pháp và nội dung phân tích tài chính, cùng với đó là áp
dụng cơ sở lý luận vào tình hình của doanh nghiệp cụ thể. Tuy nhiên các đề tài
trước đây phần lớn tập trung vào phân tích tài chính doanh nghiệp đứng trên góc độ
của Nhà quản lý, Chủ doanh nghiệp... Các đề tài thảo luận về công tác thẩm định
khách hàng tại Ngân hàng đi sâu vào phân tích cơng tác chung, quy trình chung
trong việc thẩm định khách hàng tại các Ngân hàng mà chưa tập trung vào một
trong các bước quan trọng nhất của quy trình đó.
Vì vậy luận văn này ra đời là cần thiết để nghiên cứu một trong những bước
quan trọng nhất của việc thẩm định khách hàng doanh nghiệp, đứng trên góc nhìn
của các Tổ chức tín dụng, Ngân hàng hay còn gọi là "Người cho vay" là: Phân tích
báo cáo tài chính khách hàng doanh nghiệp.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lí luận cơ bản về phân tích báo cáo tài chính khách
hàng doanh nghiệp phục vụ hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
- Phân tích, đánh giá tình hình phân tích báo cáo tài chính các khách hàng
doanh nghiệp, phục vụ hoạt động cho vay tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển


7

Việt Nam - Chi nhánh Thái Hà. Qua đó chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn
chế và nguyên nhân.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện nội dung phương pháp phân tích báo cáo

tài chính khách hàng doanh nghiệp tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt
Nam - Chi nhánh Thái Hà.
1.4. Câu hỏi nghiên cứu
- Cơ sở lý luận về phân tích báo cáo tài chính khách hàng doanh nghiệp trong
hoạt động cho vay tại ngân hàng thương mại gồm những nội dung nào?
- Thực trạng phân tích báo cáo tài chính khách hàng doanh nghiệp phục vụ
hoạt động cho vay tại Ngân hàng TMCP ĐT&PT Việt Nam - Chi nhánh Thái Hà cụ
thể như thế nào? Những tồn đọng hiện tại?
- Những giải pháp nào cho việc hồn thiện cơng tác phân tích báo cáo tài
chính khách hàng doanh nghiệp phục vụ hoạt động cho vay tại Ngân hàng TMCP
Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Thái Hà?
1.5. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu cơng tác phân tích báo cáo tài chính
khách hàng doanh nghiệp trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng TMCP ĐT&PT
Việt Nam - Chi nhánh Thái Hà.
- Đối tượng nghiên cứu: Cơng tác phân tích báo cáo tài chính khách hàng
doanh nghiệp trong hoạt động cho vay tại ngân hàng.
1.6. Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Đề tài nghiên cứu dựa trên các Thơng tư, Nghị định của
Chính phủ liên quan đến báo cáo tài chính doanh nghiệp và giáo trình, sách báo,
website đáng tin cậy, Quy định của Ngân hàngvề phân tích báo cáo tài chính doanh
nghiệp.
- Phương pháp tiếp cận: phương pháp phân tích, diễn giải, đánh giá các số
liệu, tài liệu thu thập được, phương pháp so sánh, phân tích các tỷ số và phân tích
các thơng tin liên quan đến phân tích báo cáo tài chính khách hàng doanh nghiệp
trong hoạt động cho vay tại ngân hàng.
- Dữ liệu thứ cấp:
+ Các Quy định, Thông tư, Nghị định của Nhà nước về hoạt động cho vay,



8

quy chế cho vay tại các Ngân hàng Thương mại;
+ Các quy định nội bộ của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam về
Quy định cho cấp tín dụng, Chính sách cấp tín dụng, Hệ thống xếp hạng tín dụng nội
bộ, Hướng dẫn phân tích Báo cáo tài chính doanh nghiệp trong thẩm định khách hàng
+ Các giáo trình, sách báo, website về Phân tích báo cáo tài chính doanh
nghiệp
+ Lịch sử hình thành, phát triển...; các số liệu thống kê, tình hình hoạt động
của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Thái Hà giai đoạn
2018-2020.
+ Báo cáo tài chính 2018-2019, Hồ sơ năng lực của một Doanh nghiệp thực
tế đang có Quan hệ tín dụng tại BIDV Thái Hà: Cơng ty Cổ phần Xây dựng và Kỹ
thuật Toàn Thịnh.
1.7. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
- Về lý luận: Hệ thống hóa, làm rõ cơ sở lý luận về phân tích báo cáo tài
chính của Khách hàng doanh nghiệp trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng thương
mại.
- Về thực tiễn: Nghiên cứu đưa ra được những giải pháp hoàn thiện. Qua đó,
góp phần làm cho cơng tác phân tích báo cáo tài chính khách hàng doanh nghiệp ở
Ngân hàng TMCP ĐT&PT Việt Nam- Chi nhánh Thái Hà được bổ sung, hồn thiện,
cung cấp thơng tin được đầy đủ hơn cho các quyết định cấp tín dụng.
1.8. Kết cấu của Đề tài nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh
mục chữ viết tắt, phụ lục, luận văn được kết cấu thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về đề tài nghiên cứu
Chương 2: Những vấn đề lý luận về phân tích báo cáo tài chính Khách hàng
doanh nghiệp trong hoạt động cho vay ở Ngân hàng thương mại.
Chương 3: Thực trạng phân tích báo cáo tài chính Khách hàng doanh nghiệp
trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi

nhánh Thái Hà


9

Chương 4: Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định báo cáo tài chính Khách
hàng doanh nghiệp trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát
triển Việt Nam - Chi nhánh Thái Hà

CHƯƠNG 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH BÁO CÁO
TÀI CHÍNH KHÁCH HÀNG DOANH NGHIỆP TRONG
HOẠT ĐỘNG CHO VAY Ở NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1. Một số vấn đề chung về Ngân hàng thương mại
2.1.1. Khái niệm và vai trò của Ngân hàng thương mại
2.1.1.1. Khái niệm.
Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 ngày 16/6/2010, sửa đổi bởi luật
số 17/2017/QH14 nêu rõ:
- "Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các
hoạt động ngân hàng theo Quy định này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các
loại hình Ngân hàng bao gồm: Ngân hàng thương mại, Ngân hàng chính sách, Ngân
hàng hợp tác xã"
- "Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các
hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này
nhằm mục tiêu lợi nhuận."
- "Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một
hoặc một số các nghiệp vụ sau đây:
a) Nhận tiền gửi;
b) Cấp tín dụng;
c) Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản."

2.1.1.2. Vai trị của Ngân hàng thương mại
Như vậy chức năng chính của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế là
trung gian tài chính. Thơng qua các hoạt động của mình, có thể rút ra các vai trị
chính của Ngân hàng thương mại như sau:
- Cung cấp, phân bổ nguồn vốn cho nền kinh tế, biến tiết kiệm thành đầu tư.


10

- Đẩy nhanh và rút ngắn q trình lưu thơng hàng hố và tiền tệ thơng qua
các hình thức thanh tốn đa dạng và tiện lợi. Ngồi ra Ngân hàng thương mại cịn
giúp nền kinh tế lưu thơng trơi chảy, liền mạch, không bị gián đoạn.
- Ngân hàng thương mại tham gia kiểm soát các hoạt động kinh tế dựa trên
các hoạt động của mình, đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế nhưng vẫn tuân thủ
Quy định của Pháp luật.
- Tham gia vào sự ổn định của thị trường tài chính và thị trường chứng
khốn.
- Cung cấp thơng tin, tư vấn và đầu tư.
2.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
Căn cứ vào vai trò của Ngân hàng thương mại, có thể phân chia các hoạt
động chính của Ngân hàng thương mại cụ thể như sau:
- Hoạt động huy động vốn: Một Ngân hàng thương mại bất kì nào cũng bắt
đầu hoạt động của mình bằng việc huy động nguồn vốn. Đối tượng huy động của
Ngân hàng thương mại là nguồn tiền nhàn rỗi trong các tổ chức kinh tế, dân cư.
Nguồn vốn quan trọng nhất,và chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn của
Ngân hàng thương mại là tiền gửi của khách hàng. Các Ngân hàng thương mại nhận
tiền gửi của các cá nhân, các tổ chức kinh tế xã hội, thậm chí cả nguồn tiền của các
Ngân hàng khác. Khi những người có tiền chưa sử dụng đến họ có thể đem ra đầu
tư hoặc gửi Ngân hàng để nhận tiền lãi. Thơng thường họ gửi tiền vào Ngân hàng,
vì đây là cách đơn giản, ít tốn kém chi phí để tìm kiếm cơ hội đầu tư mà vẫn có lãi

và đây là cách ít rủi ro nhất. Ngồi ra người gửi tiền vào Ngân hàng cũng mong
muốn được sử dụng các dịch vụ của Ngân hàng như chuyển tiền cho người thân ở
nơi khác, thanh toán hộ các hoá đơn phát sinh, bảo quản các tài sản có giá trị lớn...
Khi gửi tiền vào Ngân hàng, người gửi tiền có thể vay Ngân hàng một khoản tiền
mà không cần thế chấp vì họ đã có một số tiền gửi nhất định ở Ngân hàng, coi như
một khoản đảm bảo. Còn Ngân hàng có thể muốn tìm kiếm thêm thu nhập từ lệ phí
nhận tiền gửi, tuy nhiên lý do chính Ngân hàng nhận tiền gửi để tạo nguồn cho vay,
từ đó Ngân hàng có thể đầu tư, kinh doanh tìm kiếm được những khoản thu nhập


11

lớn hơn. Hoạt động nhận tiền gửi của Ngân hàng có ý nghĩa to lớn với người gửi
tiền, nền kinh tế, cũng như bản thân Ngân hàng. Thông qua hoạt động này mà Ngân
hàng có thể tập hợp được các khoản tiền nhàn rỗi, nhỏ bé, phân tán tạm thời chưa sử
dụng với các thời hạn hết sức khác nhau thành nguồn tiền lớn tài trợ cho nền kinh
tế, hoặc cho các cá nhân có nhu cầu sử dụng. điều khó khăn nhất mà Ngân hàng
phải thực hiện là sử dụng các khoản tiền gửi có thời hạn rất khác nhau để cho vay
những món có thời hạn xác định,vì thế mà Ngân hàng phải quản lí tốt thời hạn của
các nguồn vốn của mình thì mới duy trì được hoạt động có hiệu quả, tránh được
những rủi ro về khả năng thanh toán. Việc tập hợp được những nguồn tiền nhàn rỗi
trong dân chúng để đưa vào kinh doanh đã góp phần tiết kiệm và sử dụng có hiệu
quả nguồn lực của nền kinh tế. Ngoài ra hoạt động nhận tiền gửi của Ngân hàng
cũng góp phần tiết kiệm chi phí lưu thơng tiền tệ. Đặc biệt trong nền kinh tế phát
triển nếu dân chúng có thói quen gửi tiền vào Ngân hàng để sử dụng các dịch vụ
của Ngân hàng thì điều này sẽ góp phần giúp chính phủ quản lí được thu nhập của
người dân. Một trong những nguồn vốn không kém phần quan trọng, là nguồn vốn
phát hành kì phiếu, trái phiếu. Việc phát hành kì phiếu hay trái phiếu phụ thuộc vào
quy mô vốn cần huy động , thời gian huy động vốn, cơ cấu nợ và tài sản của Ngân
hàng. Các hoạt động huy động nguồn vốn trên đây hình thành nên tài sản nợ của

Ngân hàng và Ngân hàng phải có trách nhiệm chi trả đối với tất cả các nguồn vốn
huy động được theo yêu cầu của khách hàng. Quy mô và cơ cấu nguồn vốn quyết
định đến hoạt động của Ngân hàng. Do đó quản lí nguồn vốn phù hợp và sử dụng
vốn có hiệu quả là một vấn đề mang tính chiến lược đối với mỗi Ngân hàng.
- Hoạt động sử dụng vốn: Khi đã huy động được vốn rồi, nắm trong tay
một số tiền nhất định thì các Ngân hàng thương mại phải làm như thế nào để hiệu
quả hố những nguồn này, nghĩa là tìm cách để những khoản tiền đó được đầu tư
đúng nơi, đúng chỗ, có hiệu quả, an toàn, đem lại nhiều lợi nhuận cho Ngân hàng.
Và hoạt động sử dụng vốn của Ngân hàng bằng những cách sau: Ngân hàng đã tài
trợ lại cho nền kinh tế dưới dạng cho vay (cấp tín dụng), hoặc Ngân hàng đầu tư
trực tiếp, Ngân hàng tham gia góp vốn cùng kinh doanh hay cho thuê tài sản,Ngân


12

hàng gửi tiền tại các Ngân hàng khác- tại Ngân hàng Nhà nước- những tổ chức tín
dụng khác, Ngân hàng đầu tư trên thị trường chứng khoán , Ngân hàng nắm giữ
chứng khốn vì chúng mang lại thu nhập cho Ngân hàng và có thể bán đi để ra tăng
ngân quỹ khi cần thiết... Những đối tượng tài trợ không chỉ có các tổ chức kinh tế
thực hiện hoạt động trong lĩnh vực thương mại mà cịn có cả các cá nhân tiêu dùng,
thậm chí Chính phủ cũng được Ngân hàng tài trợ dưới những hình thức: Ngân hàng
thương mại mua tín phiếu kho bạc, trái phiếu của chính phủ trên thị trường tiền tệ.
Sự phát triển của hoạt động cho vay, đã giúp Ngân hàng có vị trí ngày càng quan
trọng trong sự phát triển của nền kinh tế. Hơn nữa thông qua hoạt động cho vay,
Ngân hàng thương mại có khả năng “tạo tiền” hay mở rộng lượng tiền cung ứng.
Tuy nhiên hoạt động cho vay của Ngân hàng chứa đựng nhiều yế tố rủi ro nên Ngân
hàng thường áp dụng các nguyên tắc hoạt động và quản lý tiền vay một cách chặt
chẽ. Lãi thu được từ hoạt động cho vay, Ngân hàng sẽ dùng nó để trả lãi suất cho
nguồn vốn đã huy động và đi vay, thanh tốn những chi phí trong hoạt động, phần
cịn lại sẽ là lợi nhuận của Ngân hàng. Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt

của Ngân hàng thương mại để tạo ra lợi nhuận, chỉ có lãi suất thu được từ cho vay
mới bù nổi chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí vốn trơi nổi, chi
phí thuế các loại và chi phí rủi ro đầu tư. Kinh tế ngày càng phát triển, lượng cho
vay của Ngân hàng thương mại ngày càng tăng nhanh và loại hình cho vay cũng trở
nên vơ cùng phong phú và đa dạng. Tại hầu hết các nước cơng nghiêp trong nhóm
những nước hàng đầu thế giới, cho vay của các Ngân hàng thương mại đã chuyển
dần từ cho vay ngắn hạn sang cho vay dài hạn. Ngược lại, ở các nước đang phát
triển, cho vay ngắn hạn vẫn chiếm bộ phận lớn hơn cho vay dài hạn, xuất phát từ
chỗ thiếu an toàn cho các khoản đầu tư dài hạn (trong đó có các tác nhân chủ yếu
như tình hình tăng trưởng, lạm phát,...). So với hoạt động cho vay thì hoạt động đầu
tư của Ngân hàng có quy mơ và tỷ trọng nhỏ hơn trong mục tài sản sinh lời của
Ngân hàng thương mại. Phải sang đến những năm đầu thế kỷ XIX các Ngân hàng
thương mại mới quan tâm mở rộng hoạt động của mình sang lĩnh vực đầu tư vào
các ngành công nghiệp. So với hoạt động cho vay hoạt động đầu tư đem lại thu


13

nhập cao hơn nhưng rủi ro cao hơn do thu nhập từ hoạt động đầu tư không được xác
định trước vì phải phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp mà Ngân
hàng đầu tư vào. Ngồi ra thì trong hoạt động đầu tư , Ngân hàng được lựa chọn
doanh mục đầu tư có lợi nhất cho mình. Bên cạnh hoạt động cho vay và đầu tư,
Ngân hàng có thể tham gia vào thị trường chứng khoán tuỳ quy định của từng quốc
gia. Ngân hàng thương mại có thể tham gia như một người cung cấp hàng hoá cho
thị trường chứng khốn hay đóng vai trị là nhà đầu tư, mua bán chứng khốn vì
mục tiêu kiếm lời cho chính Ngân hàng. Hoặc thực hiện kinh doanh chứng khốn
thơng qua uỷ thác của khách hàng.
- Hoạt động các dịch vụ trung gian: Đây làhoạt động có số lượng tương
đối đa dạng của Ngân hàng thương mại. Ngân hàng nắm vai trị ở giữa, đóng vai trị
thoả mãm nhu cầu của khách hàng, đồng thời cũng là cầu nối giúp lưu thông lượng

tiền trong nền kinh tế, giúp nền kinh tế vận hành ổn định, trơi chảy. Có thể kể đến
các dịch vụ như: chuyển tiền, thanh toán, nhờ thu, chi hộ, cho thuê két... Các dịch
vụ này đóng góp một phần không nhỏ trong doanh thu và lợi nhuận của Ngân hàng.
Điều cần lưu ý là dịch vụ Ngân hàng sẽ giúp Ngân hàng phát triển toàn diện.Tại các
nước phát triển, các Ngân hàng thương mại cạnh tranh với nhau bằng con đường
“phi giá”, tức là ln có những dịch vụ mới cung cấp tiện nghi cho khách hàng,
không ngừng tìm tịi những dịch vụ mới cung cấp tiện nghi cho khách hàng. Dịch
vụ Ngân hàng càng phát triển, thể hiện xã hội càng văn minh, nền công nghiệp càng
phát triển. Lợi nhuận các Ngân hàng không chỉ ở nghiệp vụ cho vay, mà phân nửa
từ các hoạt động dịch vụ mang lại, nhưng lại là lĩnh vực ít rủi ro.
2.2. Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
2.2.1. Khái niệm
Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 ngày 16 tháng 6 năm 2010 của
Quốc hội, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2011, được sửa đổi, bổ sung bởi
tuật số 17/2017/QH14 ngày 20 tháng 11 năm 2017 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 01 năm
2018 đã quy định rõ:
"Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền


14

hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo ngun tắc có hồn trả bằng
nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho th tài chính, bao thanh tốn, bảo lãnh ngân
hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác."
"Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết
giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một
thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hồn trả cả gốc và lãi."
Hoạt động cho vay là một hoạt động kinh doanh truyền thống của các Ngân
hàng thương mại từ trước đến nay. Đối với nhiều Ngân hàng thương mại, hoạt động

này đóng góp tỷ trọng doanh thu và lợi nhuận chính trong bức tranh chung về tình
hình kinh doanh của Ngân hàng. Tuy nhiên song hành cùng với hoạt động cho vay,
các Ngân hàng ln ln phải tìm mọi cách để kiểm sốt rủi ro, phòng tránh nợ xấu
để đảm bảm hiệu quả kinh doanh.
2.2.2. Phân loại các hình thức cho vay tai Ngân hàng thương mại
2.2.2.1. Phân loại theo mục đích sử dụng vốn
- Cho vay tiêu dùng: Vay tiêu dùng là 1 sản phẩm cho vay dưới dạng tín chấp
hoặc thế chấp nhằm hỗ trợ nguồn tài chính cho các nhu cầu mua sắm và các nhu cầu
tất yếu khác trong cuộc sống hàng ngày.
- Cho vay sản xuất kinh doanh: Là hình thức Ngân hàng cho các khách hàng
vay để phục vụ hoạt động kinh doanh của mình, nhằm mở rộng sản xuất hay đáp
ứng một nhu cầu nào đó về tiền của khách hàng. Dựa vào đặc điểm của từng ngành
mà Ngân hàng sẽ thiết lập các điều kiện cho vay, phương thức cho vay, cách thức
trả nợ dựa trên nguồn thu tiền bán hàng của khách hàng.
2.2.2.2. Phân loại theo thời hạn cho vay
- Cho vay ngắn hạn: Là các khoản cho vay có thời hạn tối đa 01 (một) năm.
- Cho vay trung hạn: Là các khoản vay có thời hạn trên 01 (một) năm và tối
đa 05 (năm) năm.
- Cho vay dài hạn: Là các khoản vay có thời hạn trên 05 (năm) năm.
(Theo văn bản số 39/2016/TT-NHNN của Ngân hàng nhà nước Việt Nam
quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước


15

ngồi đối với khách hàng).
2.2.2.3. Phân loại theo độ tín nhiệm của khách hàng
- Cho vay có bảo đảm: Đây là những khoản cho vay mà bên cạnh việc cho
khách hàng vay vốn, Ngân hàng còn nắm giữ tài sản của người vay với mục đích xử
lý tài sản đó để thu hồi vốn vay khi người đi vay vi phạm hợp đồng tín dụng. Q

trình cung ứng vốn của Ngân hàng thương mại, khơng kể dưới hình thức nào đều
làm tăng khối lượng tiền vào nền kinh tế, làm tăng khối lượng hàng hố trên thị
trường. Ngồi ra khi thực hiện việc cho vay Ngân hàng không trực tiếp quản lý
nguồn vốn của mình vì thế có rất nhiều rủi ro xảy ra, nguy cơ không thu hồi đủ vốn
vay là rất cao vì thế các Ngân hàng khi cho vay thường yêu cầu người vay phải có
tài sản bảo đảm cho khoản vay. Trong cho vay kinh doanh nguồn thu lợi thứ nhất là
doanh thu đối với vay vốn lưu động, hoặc là khấu hao, lợi nhuận đối với những
khoản vay trung và dài hạn. Cho vay tiêu dùng nguồn thu nợ thứ nhất của Ngân
hàng là thu nhập cá nhân như tiền lương, các khoản thu nhập tài chính và các khoản
thu nhập khác. Khi đánh giá các hoạt động của khách hàng, nếu Ngân hàng nhận
thấy là nguồn thu nhập thứ nhất khơng có cơ sở chắc chắn thì Ngân hàng phải yêu
cầu thiết lập thêm chính sách pháp lý để có thêm nguồn thu nợ thứ hai, chính là tài
sản đảm bảo cho khoản vay đó.
- Cho vay khơng có bảo đảm: Là khoản cho vay mà Ngân hàng không nắm
giữ tài sản của người đi vay để xử lý nhằm thu hồi nợ mà thay vào đó là điều kiện
ràng buộc khác khi ký hợp đồng tín dụng. Những điều kiện này có thể là: người đi
vay không được giao dịch với Ngân hàng nào khác, hoạt động kinh doanh của
người đi vay phải được Ngân hàng quản lý. Có như vậy Ngân hàng mới quản lý
được tình hình tài chính của người đi vay. Thơng thường chỉ có những khách hàng
có quan hệ lâu năm với Ngân hàng hoặc những khách hàng có uy tín, hay những
khách hàng mà Ngân hàng có tham gia góp vốn vào thì mới được cho vay khơng có
đảm bảo.
2.2.2.3. Phân loại theo phương thức cho vay
- Cho vay từng lần: Là một phương thức cho vay mà mỗi lần vay khách hàng


16

và tổ chức tín dụng làm thủ tục vay vốn cần thiết và kí kết hợp đồng tín dụng.
Phương thức này áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu và đề nghị vay vốn từng

lần, khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên hoặc khách hàng mà ngân
hàng xét thấy cần thiết phải áp dụng cho vay từng lần để giám sát kiểm tra quản lý
việc sử dụng vốn vay chặt chẽ an toàn.
- Cho vay theo hạn mức: Là cách thức cho vay bằng cách ngân hàng xác định
cho khách hàng của mình một hạn mức tín dụng trong một khoảng thời gian nhất
định để làm căn cứ cho việc phát tiền vay. Phương thức này chỉ áp dụng đối với
những khách hàng có tình hình sản xuất kinh doanh ổn định vay vốn trả nợ thường
xun, có tín nhiệm với ngân hàng. Trách nhiệm của kế toán phải theo dõi chặt chẽ
dư nợ của tài khoản cho vay để dư nợ của tài khoản cho vay khơng vượt q hạn
mức tín dụng đã kí kết.
2.2.3. Đặc điểm hoạt động cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp của các
ngânhàng thương mại
Cho vay đối với doanh nghiệp là một trong những mục tiêu mở rộng tín dụng
của các ngân hàng hiện nay. Không chỉ ở các nước đang phát triển như ở nước ta
mà ở các nước phát triển thì khách hàng doanh nghiệp cũng là một đối tượng khách
hàng cần chú ý vì đây là một thị trường rất tiềm năng vì các doanh nghiệp ngày
càng gia tăng trên khắp cả nước và nhu cầu vay của khối doanh nghiệp rất lớn.
Cũng như các đối tượng cho vay khác thì cho vay doanh nghiệp có đầy đủ các
phương thức cho vay, tuy nhiên nó có phần nào chặt chẽ hơn về quy trình nghiệp vụ
và giám sát.Có thể liệt kê một số đặc điểm cơ bản cho vay doanh nghiệp như sau:
Thứ nhất, cho vay doanh nghiệp có chứa đựng nhiều rủi ro vì hoạt động của
các doanh nghiệp chịu nhiều yếu tố tác động, đặc biệt là sự biến động của kinh tế thị
trường, đồng thời các hầu hết doanh nghiệpthiếu các tài sản thế chấp. Chính vì vậy
nên các ngân hàng chưa thực sự mặn mà với đối tượng khách hàng này, nhất là
trong thời điểm hiện nay, khi mà xu hướng ngân hàng bán lẻ đang phát triển, rất
nhiều ngân hàng đã chuyển đổi mơ hình từ ngân hàng bán bn sang ngân hàng bán
lẻ, theo đó, khách hàng mũi nhọn của ngân hàng là khai thác khối khách hàng cá


17


nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khi đó, các doanh nghiệp lớn sẽ
ít được ngân hàng tập trung khai thác hơn.
Thứ hai, số lượng khách hàng doanh nghiệp vay vốn tại NH chiếm tỷ trọng
thấp, nhưng dư nợ cho vay doanh nghiệp luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ
cho vay của NH. Trong nền kinh tế, số lượng doanh nghiệp thấp hơn nhiều so với số
lượng cá nhân. Do đó, số lượng khách hàng doanh nghiệp vay vốn tại ngân hàng
cũng thấp hơn nhiều so với số lượng khách hàng cá nhân. Tuy nhiên, nếu như các
món vay của khách hàng cá nhân thường có quy mơ nhỏ thì món vay của doanh
nghiệp lại khá lớn. Chính vì vậy dư nợ của khối khách hàng doanh nghiệp chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng dư nợ của Ngân hàng.
Thứ ba, thơng tin khách hàng có độ tin cậy hơn khách hàng cá nhân, hộ gia
đình. Các doanh nghiệp cần phải công khai thông tin, đăng ký thông tin với Sở kế
hoạch và đầu tư các địa phương, mặt khác lại chịu sự quản lý của cơ quan thuế. Các
doanh nghiệp hằng năm đều phải tuân thủ các quy định về chế độ báo cáo, kiểm
toán,... Do vậy thông tin mà doanh nghiệp đã được kiểm chứng qua cơ quan thuế,
cơ quan kiểm tốn nên có sự tin cậy hơn.
Thứ tư, đối tượng cho vay doanh nghiệp của NH rất đa dạng vì DN hoạt
động trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Các doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng
có thể tới từ các địa bàn khác nhau, quy mô kinh doanh khác nhau, ngành nghề
kinh doanh khác nhau.
Thứ năm, nhu cầu vay của doanh nghiệp thường rất lớn trong khi khả năng
đáp ứng về tài sản bảo đảm nợ vay của DN có giới hạn. Thơng thường, để bổ sung
nhu cầu thiếu hụt vốn kinh doanh, nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp khá nhiều.
Tuy nhiên, trong các loại tài sản mà doanh nghiệp nắm giữ thì chỉ có một số loại tài
sản nhất định có thể đảm bảo điều kiện đảm bảo nợ vay.
Thứ sáu, chi phí tổ chức cho vay doanh nghiệp thường cao hơn cho vay cá
nhân, hộ gia đình. Các khoản vay của doanh nghiệp thường lớn nên tiềm ẩn nhiều
rủi ro hơn. Trong khi đó, vốn vay của doanh nghiệp được sử dụng cho mục đích
kinh doanh nên nguồn trả nợ thường là dự tính khơng chắc chắn trong tương lai.



18

Chính vì vậy, khâu thẩm định khách hàng, giải ngân cũng như theo dõi khoản vay
thường phức tại và tốn kém chi phí hơn.
2.3. Phân tích báo cáo tài chính Khách hàng doanh nghiệp
trong hoạt động cho vay
2.3.1. Bản chất và mục tiêu phân tích báo cáo tài chính khách hàng doanh
nghiệp
2.3.1.1. Báo cáo tài chính
BCTC là sản phẩm quan trọng nhất trong quy trình kế tốn, đó là những báo
cáo tổng hợp nhất về tình hình tài sản, vốn chủ sở hữu, cơng nợ cũng như tình hình
tài chính, kết quả kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. BCTC được hình thành từ
nhu cầu cung cấp thơng tin tổng quát, hữu ích về thực trạng của doanh nghiệp, là
phương tiện nối doanh nghiệp với các đối tượng quan tâm.
Hệ thống BCTC của doanh nghiệp cung cấp cho các đối tượng sử dụng thơng tin
về tình hình kinh tế, tài chính thơng qua việc đánh giá, phân tích và dự đốn tình hình tài
chính, kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đây cũng là báo cáo được công
khai và sử dụng như nguồn dữ liệu chính khi phân tích báo cáo tài chính của doanh
nghiệp.
BCTC có ý nghĩa to lớn không những đối với các cơ quan, đơn vị và cá nhân
bên ngồi doanh nghiệp mà cịn có ý nghĩa trong việc chỉ đạo, điều hành hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Nó khơng những cho biết tình hình tài chính của
doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo mà còn cho thấy kết quả hoạt động mà doanh
nghiệp đạt được trong hồn cảnh đó.
Những thơng tin trên BCTC là những căn cứ quan trọng trong việc phân tích,
phát hiện những khả năng tiềm tàng về kinh tế. Trên cơ sở đó dự đốn tình hình
hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng như xu hướng phát triển của doanh nghiệp. Đó
là căn cứ quan trọng, giúp cho việc đưa ra quyết định cho quản lý, điều hành hoạt

động sản xuất kinh doanh của các nhà quản trị doanh nghiệp hoặc là những quyết
định của các nhà đầu tư, các chủ nợ, các cổ đông tương lại của doanh nghiệp.
Xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn đó, hệ thống BCTC ban hành theo Thông tư


19

200/2014/TT-BTC ngày 22/12/2014 của Bộ tài chính Hướng dẫn chế độ kế toán
doanh nghiệp định kỳ bắt buộc doanh nghiệp phải lập, nộp. Theo chế độ kế toán
hiện hành, hệ thống BCTC áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh vực,
mọi thành phần kinh tế trong cả nước Việt Nam bao gồm 04 mẫu biểu báo cáo sau
đây:
- Bảng cân đối kế toán (CĐKT) - Mẫu số B01-DN
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh - Mẫu số B02-DN
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (LCTT) - Mẫu số B03-DN
- Bản thuyết minh báo cáo tài chính - Mẫu số B09-DN
Đối với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa áp dụng hệ thống BCTC
ban hành kèm theo Quyết định số 48/2006/QĐ-BTC ngày 14/9/2006 của Bộ tài
chính. Về cơ bản hệ thống báo cáo này cũng tương tự như hệ thống báo cáo theo
Thông tư số 200/2014/TT-BTC ngày 22/12/2014 Hướng dẫn chế độ kế toán doanh
nghiệp của Bộ tài chính, tuy nhiên số lượng báo cáo và nội dung cũng có những
khác biệt nhất định.
Tuy có sự khác biệt về hệ thống BCTC áp dụng với những loại hình doanh nghiệp
khác nhau, nhưng nội dung và hình thức thể hiện BCTC nhìn chung đều bao gồm:
- Bảng cân đối kế toán: là BCTC phản ánh tổng quát tình hình tài sản của
doanhnghiệp theo giá trị ghi sổ của tài sản và nguồn hình thành tài sản tại thời điểm
lập BCTC. Căn cứ bảng CĐKT người đọc có thể nhận xét, đánh giá chung tình hình
tài chính, năng lực kinh doanh cũng như khả năng tự chủ về tài chính, khả năng
thanh tốn các khoản nợ của doanh nghiệp.
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh: là BCTC tổng hợp, phản ánh tổng

quát tình hình và kết quả kinh doanh trong một kỳ kế toán của doanh nghiệp, chi tiết
theo hoạt động kinh doanh và các hoạt động khách. Báo cáo này cung cấp cho
người sử dụng những thơng tin về doanh thu, chi phí, lợi nhuận phát sinh từ hoạt
động kinh doanh thông thường hay cả những thu nhập, chi phí, lợi nhuận phát sinh
từ những hoạt động kinh doanh khác của doanh nghiệp trong một kỳ kinh doanh
nhất định. Từ sự phân tích các số liệu trên báo cáo kết quả kinh doanh giúp nhà
quản trị doanh nghiệp và các đối tượng sử dụng thông tin đánh giá được các thay


20

đổi tiềm tàng về các nguồn lực kinh tế mà doanh nghiệp có thể kiểm sốt trong
tương lai, đánh giá khả năng sinhlợi của doanh nghiệp, hoặc đánh giá tính hiệu quả
của các nguồn lực bổ sung mà doanh nghiệp có thể sử dụng.
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: Cung cấp thơng tin về biến động tài chính trong
doanh nghiệp, giúp việc phân tích các hoạt động đầu tư, tài chính, kinh doanh của
doanh nghiệp, nhằm đánh giá khả năng tạo ra nguồn tiền và các khoản tương đương
tiền trong tương lai, cũng như việc sử dụng các nguồn tiền này cho các hoạt động
kinh doanh, đầu tư tài chính của doanh nghiệp.
- Thuyết minh BTCT: Cung cấp những thơng tin chi tiết hơn về tình hình sản
xuất kinh doanh, về tình hình tài chính của doanh nghiệp giúp cho việc phân tích
một cách cụ thể một số chỉ tiêu, phản ánh tình hình tài chính mà các BCTC khác
khơng thể trình bày được.
Như vậy, có thể nói hệ thống BTCT là “bức tranh sinh động nhất, đầy đủ
nhất”. Nó cung cấp tồn bộ những thơng tin kế tốn hữu ích, giúp cho việc phân
tích thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Đồng thời phản ánh khả năng hoạt động
mọi nguồn vốn vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai.
Trên cơ sở đánh giá và nhận định, quản trị doanh nghiệp có thể căn cứ vào
kết quả phân tích báo cáo tài chính của doanh nghiệp để đề ra những quyết định
trong quản lý kinh doanh nhằm đạt được kết quả cao nhất trong hoạt động sản xuất

kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời cũng là q trình thực hiện việc kiểm tra,
kiểm sốt đối với các hoạt động tài chính, đảm bảo mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp đạt kết quả cao, đúng hướng, đúng pháp luật.
2.3.1.2. Mục tiêu
Như chúng ta đã biết mọi hoạt động kinh tế của doanh nghiệp đều nằm trong
thể tác động liên hoàn với nhau. Bởi vậy, chỉ có thể phân tích báo cáo tài chính của
doanh nghiệp mới đánh giá đầy đủ và sâu sắc mọi hoạt động kinh tế trong trạng thái
thực của chúng. Trên cơ sở đó, nêu lên một cách tổng hợp về trình độ hồn thành
các mục tiêu- biểu hiện bằng hệ thống chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật tài chính của doanh
nghiệp. Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mơ của


21

nhà nước, các doanh nghiệp đều bình đẳng trước pháp luật trong kinh doanh. Mỗi
doanh nghiệp đều có rất nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của mình
như các nhà đầu tư, nhà cho vay, nhà cung cấp.... Mỗi đối tượng này quan tâm đến
tình hình tài chính của doanh nghiệp trên những góc độ khác nhau. Song nhìn
chung, họ đều quan tâm đến khả năng tạo ra dòng tiền mặt, khả năng sinh lời, khả
năng thanh toán và mức lợi nhuận tối đa. Bởi vậy phân tích báo cáo tài chính của
doanh nghiệp phải đạt được các mục tiêu sau:
- Phân tích báo cáo tài chính phải cung cấp đầy đủ những thơng tin hữu ích
cho các nhà đầu tư, các chủ nợ và những người sử dụng khác để họ có thể ra các
quyết định về đầu tư, tín dụng và các quyết định tương tự. Thơng tin phải dễ hiểu
đối với những người có trình độ tương đối về kinh doanh và về các hoạt động kinh
tế mà muốn nghiên cứu các thông tin này.
- Phân tích báo cáo tài chính cũng nhằm cung cấp thông tin quan trọng nhất
cho chủdoanh nghiệp, các nhà đầu tư, các chủ nợ và những người sử dụng khác
đánh giá số lượng, thời gian và rủi ro của những khoản thu bằng tiền từ cổ tức hoặc
tiền lãi. Vì các dịng tiền của các nhà đầu tư liên quan với các dịng tiền của doanh

nghiệp nên q trình phân tích phải cung cấp thơng tin để giúp họ đánh giá số
lượng, thời gian và rủi ro của các dòng tiền thu thuần dự kiến của doanh nghiệp.
- Phân tích báo cáo tài chính cũng phải cung cấp tin về các nguồn lực kinh tế,
vốnchủ sở hữu, các khoản nợ, kết quả của các quá trình, các tình huống làm biến
đổi các nguồn vốn và các khoản nợ của doanh nghiệp. Đồng thời qua đó cho biết
thêm nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với các nguồn lực này và các tác động của
những nghiệp vụ kinh tế, giúp cho chủ doanh nghiệp dự đốn chính xác q trình
phát triển doanh nghiệp trong tương lai.
Qua đó cho thấy, phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp là q trình kiểm
tra, đối chiếu số liệu, so sánh số liệu về tài chính thực có của doanh nghiệp với q
khứ để định hướng trong tương lai. Từ đó, có thể đánh giá đầy đủ mặt mạnh, mặt
yếu trong công tác quản lý doanh nghiệp và tìm ra các biện pháp sát thực để tăng
cường các hoạt động kinh tế và còn là căn cứ quan trọng phục vụ cho việc dự đoán,
dự báo xu thế phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.


22

Đối với Ngân hàng, việc phân tích báo cáo tài chính là vơ cùng quan trọng
trong việc ra quyết định cho vay đối với doanh nghiệp. Các ngân hàng trước khi
quyết định cho doanh nghiệp (DN) vay vốn cần phải đảm bảo được khả năng thu nợ
nếu không muốn bị tồn nợ xấu. Thu nhập tài chính của DN chính là lãi suất từ vốn
DN đã vay. Với các khoản vay vốn dài hạn và vay vốn ngắn hạn cần những phân
tích tài chính khác nhau, cụ thể:
- Với các khoản vay vốn ngắn hạn, các ngân hàng thường quan tâm tới khả
năng thanh toán của DN khi đến hạn trả nợ vay.
- Với các khoản vay vốn dài hạn, các ngân hàng cấp vốn vay sẽ phải thẩm
định và đánh giá hiệu quả tài chính của dự án đầu tư của DN. Họ cần phải quản lý
tốt quá trình giải ngân để nắm bắt được khả năng thanh toán nợ vay của DN thông
qua khả năng sinh lời của dự án DN.

2.3.2. Phương pháp sử dụng để phân tích báo cáo tài chính
khách hàng doanh nghiệp


Phương pháp so sánh:
So sánh là phương pháp được sử dụng rộng rãi, phổ biến trong phân tích
nhằm đánh giá kết quả, xác định xu hướng phát triển và mức độ biến động của các
chỉ tiêu kinh tế giữa các kỳ kinh doanh khác nhau.Khi sử dụng phương pháp so sánh
cần đảm bảo những nội dung sau:
- Điều kiện so sánh: Số liệu của các chỉ tiêu sử dụng trong q trình phân tích
phải đảm bảo tính thống nhất, nghĩa là phải cùng nội dung kinh tế, cùng phương
pháp tính tốn,đơn vị đo lường, thời gian và quy mô không gian xác định.
- Gốc so sánh: Tiêu chuẩn so sánh là chỉ tiêu của một kỳ được chọn làm căn
cứ để sosánh (được gọi là gốc so sánh hay số liệu kỳ gốc). Tuỳ thuộc vào mục đích
phân tíchvà điều kiện phân tích cụ thể mà lựa chọn gốc so sánh thích hợp, gốc so
sánh có thể xét theo mặt thời gian và khơng gian.
+ Về thời gian, gốc so sánh được lựa chọn là các kỳ đã qua (kỳ trước, năm
trước) hay kế hoạch, dự toán. Cụ thể:
Khi xác định xu hướng và tốc độ phát triển của chỉ tiêu phân tích, gốc so


23

sánh đượcxác định là trị số của chỉ tiêu phân tích ở kỳ trước hoặc hàng loạt kỳ trước
(năm trước). Lúc này sẽ so sánh trị số chỉ tiêu giữa kỳ phân tích với trị số chỉ tiêu ở
các kỳ gốc khác nhau.
Khi đánh giá tình hình thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra, gốc so sánh là trị
số kế hoạch của chỉ tiêu phân tích. Khi đó, tiến hành so sánh giữa trị số thực tế với
trị số kế hoạch của chỉ tiêu nghiên cứu.
+ Về mặt không gian: Gốc so sánh có thể là chỉ tiêu trung bình ngành, bình

qn khu vực kinh doanh; có thể so sánh từng bộ phận với tổng thể để thấy được
mức độ phổ biến của bộ phận.
- Dạng so sánh: Phải xác định rõ mục tiêu so sánh là gì. Quá trình so sánh
giữa các chỉ tiêu được thể hiện dưới ba hình thái: số tuyệt đối, số tương đối và số
bình quân.Mỗi một hình thái ứng với một mục tiêu so sánh tương ứng. Nếu như so
sánh bằngsố tuyệt đối phản ánh biến động về mặt quy mô hoặc khối lượng của các
chỉ tiêu phân tích, thì so sánh bằng số tương đối phản ánh mối quan hệ tỷ lệ, kết cấu
của từng chỉ tiêu trong tổng thể, hoặc biến động về mặt tốc độ của chỉ tiêu đang
xem xét giữa các kỳ với nhau. Trong khi đó việc sử dụng số bình qn sẽ cho thấy
tính phổ biến của chỉ tiêu phân tích. Trong phân tích các nhà phân tích thường sử
dụng các dạng so sánh bằng số tương đối khác nhau, như: so sánh bằng số tương đối
giản đơn, so sánhbằng số tương đối động thái, so sánh bằng số tương đối kết cấu và
so sánh bằng số tương đối hiệu suất.


Phân tích hệ số tài chính
Một trong những phương pháp phân tích thường được sử dụng để đánh giá
tình hình tài chính của doanh nghiệp là phân tích hệ số tài chính. Việc phân tích
các hệ số tài chính cho phép đánh giá tổng quan tình hình tài chính của một doanh
nghiệp thơng qua các hệ số sau:
- Hệ số khả năng thanh toán
- Hệ số hoạt động kinh doanh
- Hệ số khả năng sinh lời
- Hệ số kết cấu tài chính


24




Phương pháp DUPONT
Phương pháp Dupont dùng để phân tích mối liên hệ giữa các chỉ tiêu tài
chính,thơng qua đó người ta phát hiện ra những nhân tố đã ảnh hưởng đến chỉ tiêu
phântích theo một trình tự lơgic chặt chẽ. Theo phương pháp này, các nhà phân
tích sẽtách các tỷ số tổng hợp phản ánh sức sinh lợi của vốn chủ sở hữu thành
tích số củachuỗi các tỷ số có mối quan hệ nhân quả với nhau. Điều này cho
phép phân tíchảnh hưởng của từng tỷ số với tỷ số tổng hợp. Cụ thể, khi tiến
hành phân tích sức sinh lời của vốn chủ sở hữu (ROE) ta dựa vào mối liên hệ
giữa sức sinh lời của vốn chủ sở hữu với sức sinh lời của doanh thu (ROS) và
sức sinh lời của tài sản (ROA) để phân tích. Mối quan hệ giữa chúng được thể
hiện theo phương trình Dupont như sau:
Ta có:
Tỷ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu (ROE) =
Tỷ suất sinh lời của doanh thu (ROS) =
Tỷ suất sinh lời của tài sản (ROA) =
Mối quan hệ giữa ROE, ROA, ROS được thể hiện như sau:
ROE = x x x
=> ROE = Hệ số tài sản trên vốn chủ sở hữu x Số vòng quay của tài sản x
ROS
Khi áp dụng phương pháp Dupont, trước hết nhà phân tích cần thu nhập số
liệu kinh doanh từ bộ phận tài chính, tiếp đó thực hiện tính tốn các số liệu để đưa
ra kết luận. Nếu kết luận xem xét không chân thực, cần kiểm tra số liệu và tính
tốn lại. Điều kiện để áp dụng phương pháp Dupont là số liệu kế tốn phải đáng tin
cậy.
Mơ Hình Dupont có nhiều ưu điểm như:
- Tính đơn giản: là một công cụ rất tốt để cung cấp cho mọi người kiến thức
căn bản giúp tác động tích cực đến kết quả kinh doanh của cơng ty.
- Có thể dễ dàng kết nối với các chính sách đãi ngộ đối với nhân viên.
- Có thể được sử dụng để thuyết phục cấp quản lý thực hiện một vài bước



25

cải tổ nhằm chuyên nghiệp hóa chức năng thu mua và bán hàng. Đôi khi điều cần
làm trước tiên là nên nhìn vào thưc trạng của cơng ty. Thay vì tìm cách thơn tính
cơng ty khác nhằm tăng thêm doanh thu và hưởng lợi thế nhờ quy mô, để bù đắp
khả năng
sinh lợi yếu kém.
2.3.3. Nội dung phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp trong thẩm định của
Ngân hàng thương mại
2.3.3.1 Thẩm định mức độ tin cậy của Báo cáo tài chính
Khi Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường và trở thành thành viên
chính thức của tổ chức thương mại thế giới – WTO thì vấn đề minh bạch hố tình
hình tài chính trong các quan hệ kinh tế nói chung và trong lĩnh vực tài chính nói
riêng trở thành một vấn đề bức xúc và có tầm quan trọng đặc biệt. Một báo cáo tài
chính sẽ trở nên vơ nghĩa đối với ngân hàng khi nó được làm đẹp, các thông tin trên
báo cáo là không trung thực dẫn đến phản ánh khơng chính xác tình hình tài chính
thực tế của doanh nghiệp. Vì vậy, trước khi tiến hành thẩm định tình hình tài chính
doanh nghiệp, Ngân hàng phải tiến hành thẩm định mức độ tin cậy của các báo cáo
tài chính do doanh nghiệp cung cấp. Đây là yếu tố quyết định đến chất lượng thẩm
định.
Các cán bộ QLKH cần phải kiểm tra và có các đánh giá sơ bộ về tình hình tài
chính doanh nghiệp thơng qua các báo cáo tài chính mà doanh nghiệp vay vốn gửi
lên. Trước khi tiến hành thẩm định, Ngân hàng cần thẩm định mức độ tin cậy của
các báo cáo tài chính, Ngân hàng sẽ tiến hành kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của
các báo cáo tài chính, ví dụ như các báo cáo tài chính gửi cho ngân hàng có giá trị
hợp lý hay khơng, các số liệu trong các báo cáo tài chính có đảm bảo phù hợp
khơng hay có mâu thuẫn với nhau khơng, chế độ kế toán và phương pháp kế toán
mà doanh nghiệp áp dụng có tuân thủ đúng quy định của pháp luật hay khơng.
Sau khi đã hồn tất cơng việc kiểm tra sơ bộ, Ngân hàng sẽ tiến hành kiểm

tra một cách cụ thể hơn các báo cáo tài chính. Giữa các báo cáo tài chính có mâu
thuẫn, hỗ trợ và bổ sung cho nhau nên cán bộ cần tiến hành so sánh đối chiếu các


×