Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tài liệu Môn Kinh Tế Môi Trường doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.37 KB, 17 trang )

BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THÔNG VẬN TẢI TP HCM

Bài tiểu luận
Môn Kinh Tế Môi Trường
Đề tài :
1. Thế nào là biến đổi môi trường ?
2. Các dạng biến đổi của môi trường?
3. Thế nào là ô nhiễm. Các dạng chất ô nhiễm.
4. Trình bày hoạt động vận tải gây ra ô nhiễm môi trường như thế nào?
GVHD : Nguyễn Quốc Thịnh
Nhóm : 04
Tp HCM, Ngày 17 tháng 01 năm 2013
Nội Dung
- 1 -
1. Thế nào là biến đổi môi trường ?
Chất phát thải ra môi trường là các chất thải sau sản xuất hay tiêu dùng của hoạt động kinh tế được
đưa trực tiếp vào môi trường, khi vượt quá khả năng hấp thụ của môi trường chúng sẽ làm thay đổi
chất lượng môi trường ở xung quanh, gây ra thiệt hại cho con người và sinh vật trong vùng bị ảnh
hưởng.
2. Các dạng biến đổi của môi trường?
2.1. Ô nhiễm môi trường.
Theo luật bảo vệ môi trường của Việt Nam, ô nhiễm môi trường được định nghĩa như sau :
“Ô nhiễm môi trường là sự làm thay đổi tính chất của môi trường, vi phạm tiêu chuẩn của môi
trường”.
Quan niệm của thế giới cho rằng: “ô nhiễm môi trường được hiểu là việc chuyển rác, chất
thải hoặc năng lượng vào môi trường đến mức có khả năng gây hại đến sức khỏe con người, đến
sự phát triển của sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng môi trường. các tác nhân gây ô nhiễm
bao gồm các chất thải ở dạng khí ( khí thải ), lỏng ( nước thải ), rắn ( chất thải rắn ) chưa hóa chất
hoặc tác nhân vật lý, sinh học và các dạng năng lượng như nhiệt độ, bức xạ hoặc cường độ các
tác nhân trên đạt đến mức có khả năng tác động xấu đến con người, sinh vật và vật liệu.


2.2. Suy thoái môi trường.
Theo luật bảo vệ môi trường của Việt Nam suy thoái môi trường được định nghĩa như sau : “
Suy thoái môi trường là sự làm thay đổi chất lượng của thành phần môi trường, gây ảnh hưởng
xấu cho đời sống của con người và thiên nhiên “.
Trong đó, thành phần môi trường được hiểu là các yếu tố tạo thành môi trường bao gồm :
không khí, nước, đất, âm thanh, ánh sáng, lòng đất, núi, rừng, sông, hồ, biển, sinh vật, các hệ sinh
thái, các khu dân cư, khu sản xuất, khu bảo tồn thiên nhiên, cảnh quan thiên nhiên, danh lam
thắng cảnh, di tích lịch sử và các hình thái vật chất khác.
2.3. Sự cố môi trường : Đánh giá rủi ro.
Theo luật bảo vệ môi trường của Việt Nam, sự cố môi trường được định nghĩa như sau : “ Sự
cố môi trường là các tai biến hoặc rủi ro xảy ra trong quá trình hoạt động của con người hoặc
biến đổi bất thường của thiên nhiên gây suy thoái môi trường nghiêm trọng”.
sự cố môi trường xảy ra do :
- Bão, lũ lụt, hạn hán, nứt đất, động đất, trượt đất, sụt lở đất, núi lửa phun, mưa axit, mưa đá,
biến động khi hậu và thiên tai khác.
- Hỏa hoạn, cháy rừng, sự cố kĩ thuật gây nguy hại về môi trường của cơ sở sản xuất, kinh
doanh, công trình kinh tế, khoa học, kĩ thật, văn hóa, an ninh, quốc phòng.
- Sự cố trong tìm kiếm, thăm dò, khai thác và vận chuyển khoáng sản, dầu khí, sập hầm lò,
phụt dầu, tràn dầu, vỡ đường ống dẫn dầu, dẫn khí, đắm tàu, sự cố tại cơ sở lọc dầu và các cơ
sở công nghiệp khác.
- Sự cố trong lò phản ứng hạt nhân, nhà máy điện nguyên tử, nhà máy sản xuất, tái chế nhiên
liệu hạt nhân, kho chứa chất phóng xạ.
 Đánh giá rủi ro là đánh giá về số lượng và chất lượng của rủi ro ảnh hưởng tới sức khỏe con
người và hệ sinh thái, gây ra do độc hại môi trường tiềm năng hoặc thực tế.
3.
4. Thế nào là ô nhiễm. Các dạng chất ô nhiễm.
4.1. Thế nào là ô nhiễm môi trường?
“Ô nhiễm môi trường là sự làm thay đổi tính chất của môi trường; gây tác hại tới đời sống, sức
khoẻ của con người, đến sự phát triển của các sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng môi trường”.
- 2 -

Ô nhiễm môi trường chủ yếu do hoạt động của con người gây ra (như các chất thải trong sinh
hoạt, công nghiệp, nông nghiệp, giao thông…); ngoài ra, ô nhiễm còn do một số hoạt động của tự
nhiên: núi lửa phun nham thạch (gây nhiều bụi bẩn), thiên tai lũ lụt (tạo điều kiện cho nhiều loài vi
sinh vật gây bệnh phát triển)…nó chuyển các chất thải hoặc năng lượng vào môi trường, các tác nhân
ô nhiễm n ày bao gồm các chất thải ở dạng khí (khí thải), lỏng (nước thải), rắn (chất thải rắn) chứa
hóa chất hoặc tác nhân vật lý, sinh học và các dạng năng lượng như nhiệt độ, bức xạ.
Tuy nhiên, môi trường chỉ được xem là bị ô nhiễm nếu trong đó hàm lượng, nồng độ hoặc cường
độ các tác nhân trên đạt đến mức có khả năng tác động xấu đến con người, sinh vật và vật liệu.
4.2. Các dạng ô nhiễm môi trường.
4.2.1. Ô nhiễm môi trường đất:
Nguyên nhân chủ yếu của ô nhiễm đất đến từ các chất thải công nghiệp do các hoạt động sản
xuất, khai thác khoáng sản, các chất khí độc hại được thải ra ngoài môi trường, các chất thải hữu cơ.
Thứ hai là các loại chất thải sinh hoạt của con người hàng ngày mà trong đó đặc biệt nguy hại là chất
thải y tế và các loại chất thải có tính độc hại khác mà hiện nay vẫn chưa được xử lí triệt để trước khi
thải ra ngoài. Thứ ba ô nhiễm do chất thải nông nghiệp, chúng tích lũy dần trong đất và các loại cây
trộng và chất độc tăng lên rất lớn khi đi vào cơ thể con người ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe con
người.
4.2.2. Ô nhiễm môi trường nước:
Ô nhiễm nước là sự thay đổi theo chiều xấu đi các tính chất vật lý – hoá học – sinh học của nước,
với sự xuất hiện các chất lạ ở thể lỏng, rắn làm cho nguồn nước trở nên độc hại với con người và
sinh vật. Làm giảm độ đa dạng sinh vật trong nước.
Nước bị ô nhiễm ở các khu vực nướpc ngọt và các vùng ven biển, vùng biển khép kín. Do lượng
muối khoáng và hàm lượng các chất hữu cơ quá dư thừa làm cho các quần thể sinh vật trong nước
không thể đồng hoá được. Kết quả làm cho hàm lượng ôxy trong nước giảm đột ngột, các khí độc
tăng lên, tăng độ đục của nước, gây suy thoái thủy vực. Ở các đại dương là nguyên nhân chính gây ô
nhiễm đó là các sự cố tràn dầu Ô nhiễm nước có nguyên nhân từ các loại chất thải và nước thải công
nghiệp được thải ra lưu vực các con sông mà chưa qua xử lí đúng mức; các loại phân bón hoá học và
thuốc trừ sâu ngấm vào nguồn nước ngầm và nước ao hồ; nước thải sinh hoạt được thải ra từ các khu
dân cư ven sông gây ô nhiễm trầm trọng,ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân trong khu vực.
 Nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường đất và nước:

 Nguồn gốc tự nhiên:
Trong các khoáng vật hình thành nên đất thường chứa một hàm lượng nhất định kim loại nặng,
trong điều kiện bình thường chúng là những nguyên tố trung lượng và vi lượng không thể thiếu cho
cây trồng và sinh vật đất, tuy nhiên, trong một số điều kiện đặc biệt chúng vượt một giới hạn nhất
định và trở thành chất ô nhiễm.
Do phun trào núi lửa, mưa bảo gây ngập úng đất đai, đất bị nhiễm mặn do xâm thực thủy triều,
đất bị vùi lấp do cát bay hoặc hạn hán…
 Nguồn gốc nhân tạo:
- 3 -
- Áp lực tăng dân số đòi hỏi nhu cầu tăng lương thực, thực phẩm ngày càng nhiều và phải tăng
cường khai thác độ phì nhiêu của đất bằng nhiều biện pháp:
- Tăng cường sử dụng hóa chất như bón phân vô cơ, thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu.
- Sử dụng chất kích thích sinh trưởng làm giảm thất thoát và tạo nguồn lợi cho thu hoạch.
- Mở rộng các hệ thống tưới tiêu.
- Việc đẩy mạnh đô thị hóa, công nghiệp hóa và mạng lưới giao thông.
 Ô nhiễm do các chất thải sinh hoạt:
Chất thải rắn đô thị cũng là một nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường đất nếu không được quản
lý thu gom và kiểm soát đúng quy trình kỹ thuật.Chất thải rắn đô thị rất phức tạp, nó bao gồm các
thức ăn thừa, rác thải nhà bếp, làm vườn , đồ dùng hỏng , gỗ, thủy tinh, nhựa, các loại giấy thải,các
loạirác đường phố bụi, bùn, lá cây…
Ở các thành phố lớn , chất thải rắn sinh hoạt được thu gom , tập trung ,phân loại và xử lý. Sau khi
phân loại có thể tái sử dụng hoặc xử lý rác thải đô thị để chế biến phân hữu cơ, hoặc đốt chôn. Cuối
cùng vẫn là chôn lấp và ảnh hưởng tới môi trường.
Ô nhiễm môi trường đất tại các bãi chôn lấp có thể do mùi hôi thối sinh ra do phân hủy rác làm
ảnh hưởng tới sinh vật trong đất, giảm lượng oxi trong đất.
Các chất độc hại sản phẩm của quá trình lên men khuếch tán , thấm và ở lại trong đất.
Nước rỉ từ các hầm ủ và bãi chôn lấp có tải lượng ô nhiễm chất hữu cơ rất cao cũng như các kim
loại nặng như Cu , Zn, Pb, Al ,Fe, Cd , Hg và cả các chất như P ,N, … cũng cao. Nước rỉ này sẽ
ngấm xuống đất gây ô nhiễm đất và nước ngầm.
Ô nhiễm môi trường đất, nước còn có thể do bùn cống rãnh của hệ thống thoát nước của thành

phố là mà thành phần các chất hữu cơ , vô cơ, kim loại tạo nên các hỗn hợp các phức chất và đơn
chất khó phân hủy.
 Ô nhiễm do chất thải công nghiệp:
Các hoạt động công nghiệp rất phong phú và đa dạng, chúng có thể là nguồn gây ô nhiễm.
Bảng 3: Nguồn gốc công nghiệp của một số kim loại nặng.
Kim loại nặng Nguồn gốc công nghiệp
As Nước thải công nghiệp thủy tinh, sản xuất phân bón
Cd Luyện kim, mạ điện, xưởng thuốc nhuộm, hơi thải chứa Cd
Cu Luyện kim, công nghiệp chế đồ uống, sản xuất thuốc bảo vệ thực
- 4 -
vật( BVTV)
Cr Luy Luyện kim, mạ, nước thải xưởng in và nhuộm
Hg Xưởng sản xuất hợp chất có chứa Hg, thuốc BVTV có chứa Hg
Nước thải luyện kim, BVTV, Nhà máy sản xuất pin, ắc quy, khí thải
chứa Pb
Zn Nước thải luyện kim, xưởng dệt, nông dược chứa Zn và Phân lân
Ni Nước thải luyện kim, mạ, luyện dầu, thuốc nhuộm
F Nước thải sau khi sản xuất phân lân
Muối kiềm Nước thải nhà máy giấy, nhà máy hóa chất
Axit Nước thải nhà máy sản xuất axit sunfuric, đá dầu, mạ điện
- Những tác động về vật lý như: gây xói mòn, nén chặt đất và phá hủy cấu trúc đất do kết quả của
các hoạt động xây dựng, sản xuất khai thác mỏ.
- Những tác động về hóa học như: các chất thải rắn, lỏng và khí tác động đến đất.Các chất thải
độc hại có thể được tích lũy trong đất trong thời gian dài gây ra nguy cơ ô nhiễm môi trường đất
nghiêm trọng.
 Ô nhiễm do chất thải nông nghiệp:
Áp lực tăng dân số đòi hỏi nhu cầu tăng lương thực, thực phẩm ngày càng tăng và phải tăng
cường khai thác độ phì nhiêu của đất bằng nhiều biện pháp : Tăng cường sử dụng hóa chất như phân
bón vô cơ, thuốc trừ sâu, diệt cỏ, sử dụng chất kích thích sinh trưởng làm giảm thất thoát và tạo
nguồn lợi cho thu hoạch, mở rộng các hệ tưới tiêu.

Tuy nhiên trong phân bón và thuốc bảo vệ thực vật thường có sẵn kim loại nặng và chất khó phân
hủy, khi tích lũy đến một giới hạn nhất định, chúng sẽ thành chất ô nhiễm.
 Ô nhiễm do phân bón hóa học:
* Sử dụng phân vô cơ:
- Nhiều kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng, cây trồng chỉ sử dụng hữu hiệu tối đa 30% lượng phân
bón vào đất. Phần còn lại sẽ bị rửa trôi theo nước hoặc nằm lại trên đất gây ô nhiễm môi trường.
Ví dụ:
+ Phân lân rất dễ chuyển hóa thành nitrat NO3 Một phần nitrat được thực vật hấp thụ làm chất
dinh dưỡng nhưng nếu tích lũy quá nhiều nitrat NO3-sẽ sinh ra quá trình đềnitrat (khử nitrat) bởi vi
sinh tạo nên nitrit NO2- là chất sẽ theo dây chuyền thực phẩm đi vào động vật gây ảnh hưởng tới sức
- 5 -
khỏe. Mặt khác, các anion NO3- và NO2- ít bị hấp phụ trong đất (vì hầu hết các keo trong đất là keo
âm) sẽ đi vào nước, gây ô nhiễm nước
+ Hàm lượng (NH4)2SO4, K2SO4, KCl, superphotphat còn tồn dư acid nếu bón liên tục mà
không có biện pháp trung hòa sẽ làm chua đất, nghèo kiệt các ion bazơvà xuất hiện nhiều độc tố đối
với cây trồng (như: Al3+, Fe3+, Mn2+…) làm giảm hoạt tính sinh học của đất.
* Sử dụng phân hữu cơ:
Trong phân chuồng cũng có chứa rất nhiều các loại kim loại nặng và các vi sinh vật gây hại. Ở
Việt Nam, phân chuồng thường ít được ủ đúng kỹ thuật và bón đúng liều lượng nên dễ gây ô nhiễm
môi trường đất, gây hại cho động vật và người. Bởi vì trong phân bón này có chứa nhiều giun sán,
trứng giun, sâu bọ, vi trùng, và các mầm bệnh dễ lây lan. Khi bón vào đất chúng có điều kiện phát
triển làm ô nhiễm môi trường sinh thái qua lan truyền trong nước mặt hoặc bốc hơi trong không khí.
 Ô nhiễm do thuốc bảo vệ thực vật:
Việc lạm dụng và sử dụng một cách không phù hợp đã trở thành nguyên nhân gây ô nhiễm môi
trường đất, nước.
Các thuốc bảo vệ thực vật thường là những hóa chất độc, khả năng tồn dư lâu trong đất tươi, tác
động tới môi trường đất, sau đó đến sản phẩm nông nghiệp, đến động vật và người, theo kiểu tích tụ,
ăn sâu và bào mòn. Hiện nay do sử dụng và bảo quản thuốc BVTV chưa đúng quy định nên đã gây ô
nhiễm môi trường đất, nước, không khí và nông sản gây nhiều hậu quả nghiêm trọng.
Đất, nước một khi đã bị ô nhiễm thì việc xử lí là vô cùng khó khăn và mất nhiều công sức, tiền

của. Do đó cần phải có biện pháp ngăn chặn ô nhiễm đất, nước trong đó giải pháp quan trọng nhất là
nâng cao ý thức của con người trong việc thải bỏ chất thải,ý thức xử dụng thốc trừ sâu, phân bón hóa
học của những người nông dân. Đồng thới cần khuyến khích sử dụng phân bón sinh học, sử dụng các
giống cây trồng không có sâu bệnh để hạn chế việc sử dụng thuốc trừ sâu và phân bón hóa học, tuyên
truyền cho người dân thực hiện luật môi trường để bảo vệ môi trường đất, nước bảo vệ các sinh vật
sinh sống trên Trái Đất để cuộc sống của chúng ta ngày càng tốt đẹp hơn.
4.2.3. Ô nhiễm không khí:
Hằng năm có khoảng 20 tỉ tấn CO2 + 1,53 triệu tấn SiO2 + Hơn 1 triệu tấn Niken + 700 triệu tấn
bụi + 1,5 triệu tấn Asen + 900 tấn coban + 600.000 tấn Kẽm (Zn), hơi Thuỷ ngân (Hg), hơi Chì (Pb)
và các chất độc hại khác. Làm tăng đột biến các chất như CO2, NOX, SO3 …
Các chất ô nhiễm phát xuất từ nhiều nguồn khác khau; ô nhiễm không khí rất khó phân tích vì chất ô
nhiễm thay đổi nhiều do điều kiện thời tiết và địa hình; nhiều chất còn phản ứng với nhau tạo ra chất
mới rất độc.
 Ảnh hưởng đến môi trường đa dạng và phong phú. Vì vậy, xử l ý kh í th ải là điều rất cần thiết.
- 6 -
 Tác hại đến con người:
 Tác hại của bụi:
- Thành phần hóa học, thời gian tiếp xúc là các yếu tố ảnh hưởng đến các cơ quan nội tạng.
- Mức độ bụi trong bộ máy hô hấp phụ thuộc vào kích thước, hình dạng, mật độ hạt bụi và cá
nhân từng người.
- Bụi vào phổi gây kích thích cơ học, xơ hóa phổi dẫn đến các bệnh về hô hấp như khó thở, ho và
khạc đờm, ho ra máu, đau ngực …
- TCVN 2005 qui định bụi tổng cộng trong không khí xung quanh 0,5 mg/m3.
Ví dụ:
+ Bụi đất đá không gây ra các phản ứng phụ: tính trõ, không có tính gây độc. Kích thước lớn (bụi
thô), nặng, ít có khả năng đi vào phế nang phổi, ít ảnh hưởng đến sức khỏe.
+ Bụi than: thành phần chủ yếu là hydrocacbon đa vòng (VD: 3,4-benzenpyrene), có độc tính
cao, có khả năng gây ung thư, phần lớn bụi than có kích thước lớn hơn 5 micromet bị các dịch nhầy
ở các tuyến phế quản và các lông giữ lại. Chỉ có các hạt bụi có kích thước nhỏ hơn 5 mm vào được
phế nang.

 Tác hại của SO2 và NOX:
- SO2, NOX là chất kích thích, khi tiếp xúc với niêm mạc ẩm ướt tạo thành axít (HNO3, H2SO3,
H2SO4). Các chất khí trên vào cơ thể qua đường hô hấp hoặc hòa tan vào nước bọt rồi vào đường
tiêu hoá, sau đó phân tán vào máu tuần hoàn.
- Kết hợp với bụi => bụi lơ lửng có tính axít, kích thước < 2-3µm sẽ vào tới phế nang, bị đại thực
bào phá hủy hoặc đưa đến hệ thống bạch huyết.
- SO2 nhiễm độc qua da làm giảm dự trữ kiềm trong máu, đào thải amoniac ra nước tiểu và kiềm
ra nước bọt.
- 7 -
- Độc tính chung của SO2 thể hiện ở rối loạn chuyển hóa protein và đường, thiếu vitamin B và C,
ức chế enzym oxydaza.
- Giới hạn phát hiện thấy bằng mũi SO2 từ 8 – 13 mg/m3.
- Giới hạn gây độc tính của SO2 là 20 – 30 mg/m3, giới hạn gây kích thích hô hấp, ho là
50mg/m3.
- Giới hạn gây nguy hiểm sau khi hít thở 30 – 60 phút là từ 130 đến 260mg/m3
- Giới hạn gây tử vong nhanh (30’ – 1h) là 1.000-1.300mg/m3.
- Tiêu chuẩn cho phép của Bộ Y Tế Việt Nam đối với SO2, SO3, NO2 týõng ứng là 0,5; 0,3 và
0,085 mg/m3 (nồng độ tối đa 1 lần nhiễm).
 Tác hại của HF:
- HF sinh ra do quá trình sản xuất hóa chất (HF) và là một tác nhân ô nhiễm quan trọng khi nung
gạch ngói, gốm sứ.
- Không khí bị ô nhiễm bởi HF và các hợp chất fluorua gây ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống
sinh vật và sức khoẻ của người. Các hợp chất fluorua gây ra bệnh fluorosis trên hệ xương và răng.
 Tác hại của CO:
- Ôxít cacbon (CO) kết hợp với hemoglobin (Hb) trong máu thành hợp chất bền vững là cacboxy
hemoglobin (HbCO) làm cho máu giảm khả năng vận chuyển ôxy dẫn đến thiếu ôxy trong máu rồi
thiếu ôxy ở các tổ chức.
- Mối liên quan giữa nồng độ CO và triệu chứng nhiễm độc tóm tắt dưới đây:

 AMONIAC (NH3):

- 8 -
- NH3 không ăn mòn thép, nhôm, tan trong nước gây ăn mòn kim loại màu: kẽm, đồng và các
hợp kim của đồng. NH3 tạo với không khí một hỗn hợp có nồng độ trong khoảng từ 16 đến 25% thể
tích sẽ gây nổ.
- NH3 là khí độc có khả năng kích thích mạnh lên mũi, miệng và hệ thống hô hấp.
- Ngưỡng chịu đựng đối với NH3 là 20 – 40 mg/m3.
- Tiếp xúc với NH3 với nồng độ 100 mg/m3 trong khoảng thời gian ngắn sẽ không để lại hậu qủa
lâu dài.
- Tiếp xúc với NH3 ở nồng độ 1.500 – 2.000 mg/m3 trong thời gian 30’ sẽ nguy hiểm đối với
tính mạng.
 HYDRO SUNFUA (H2S):
- Phát hiện dễ dàng nhờ vào mùi đặc trưng.
- Xâm nhập vào cơ thể qua phổi, H2S bị oxy hoá => sunfat, các hợp chất có độc tính thấp. Không
tích lũy trong cơ thể. Khoảng 6% lượng khí hấp thụ sẽ được thải ra ngoài qua khí thở ra, phần còn lại
sau khi chuyển hóa được bài tiết qua nước tiểu.
- Ở nồng độ thấp, H2S có kích thích lên mắt và đường hô hấp.
- Hít thở lượng lớn hỗn hợp khí H2S, mercaptan, ammoniac… gây thiếu oxy đột ngột, có thể dẫn
đến tử vong do ngạt.
- Dấu hiệu nhiễm độc cấp tính: buồn nôn, rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy, mũi họng khô và có mùi
hôi, mắt có biểu hiện phù mi, viêm kết mạc nhãn cầu, tiết dịch mủ và giảm thị lực.
- Sunfua được tạo thành xâm nhập hệ tuần hoàn tác động đến các vùng cảm giác – mạch, vùng
sinh phản xạ của các thần kinh động mạch cảnh.
- Thường xuyên tiếp xúc với H2S ở nồng độ dưới mức gây độc cấp tính có thể gây nhiễm độc
mãn tính. Các triệu chứng có thể là: suy nhược, rối loạn hệ thần kinh, hệ tiêu hóa, tính khí thất
thường, khó tập trung, mất ngủ, viêm phế quản mãn tính…
 Tác hại của HYDROCACBON:
- Hơi dầu có chứa các chất hydrocacbon nhẹ như metan, propan, butan, sunfua hydro.
- Giới hạn nhiễm độc của các khí như sau: Metan 60-95 %, Propan 10 %, Butan 30 %, Sulfua
hydro 10 ppm.
- Tiêu chuẩn của Bộ Y Tế Việt Nam năm 1977 qui định tại nơi lao động: dầu xăng nhiên liệu là

100mg/m3, dầu hỏa là 300mg/m3. TCVN 5938-2005 qui định nồng độ xăng dầu trong không khí
xung quanh tối đa trong 1 giờ là 5mg/m3.
- Nồng độ hơi xăng, dầu từ 45% (thể tích) trở lên sẽ gây ngạt thở do thiếu ôxy. Triệu chứng
nhiễm độc như say, co giật, ngạt, viêm phổi, áp xe phổi.
- 9 -
- Dầu xăng ở nồng độ trên 40.000 mg/m3 có thể bị tai biến cấp tính với các triệu chứng như tức
ngực, chóng mặt, rối loạn giác quan, tâm thần, nhức đầu, buồn nôn, ở nồng độ trên 60.000 mg/m3 sẽ
xuất hiện các cơn co giật, rối loạn tim và hô hấp, thậm chí gây tử vong.
- Người nhạy cảm xăng dầu: tác động trực tiếp lên da (ghẻ, ban đỏ, eczema, bệnh nốt dầu, ung
thư da).
- Các hợp chất hữu cơ bay hơi:Dưới ánh sáng mặt trời, các hợp chất hữu cơ với NOx tạo thành
ozon hoặc những chất oxy hóa mạnh khác. Các chất này có hại tới sức khỏe (rối loạn hô hấp, đau
đầu, nhức mắt), gây hại cho cây cối và vật liệu.
 Tác hại của FORMALDEHYDE:
- Formaldehyde với nồng độ thấp kích thích da, mắt, đường hô hấp, ở liều cao có tác động toàn
thân, gây ngủ.
- Nhiễm theo đường tiêu hoá với liều lượng cao hơn 200mg/ngày sẽ gây nôn, choáng váng.
- Người bị nhiễm độc mãn tính có tổn thương rất đặc trưng ở móng tay: móng tay màu nâu, mềm
ra, dễ gẫy, viêm nhiễm ở xung quanh móng rồi mưng mủ.
- Nồng độ tối đa cho phép của hơi formaldehyde trong không khí là 0,012mg/m3 (TCVN 5938-
1995), trong khí thải là 6 mg/m3.
- Tổ chức Y tế Thế giới: nồng độ giới hạn formandehyde là 100 mg/m3 trong không khí với thời
gian trung bình 30phút.
 Tác hại của ô nhiễm không khí tới động thực vật:
- Ô nhiễm không khí gây ảnh hưởng tai hại cho tất cả sinh vật.
- Thực vật rất nhạy cảm đối với ô nhiễm không khí.
- SO2, NO2, ozon, fluor, chì… gây hại trực tiếp cho thực vật khi đi vào khí khổng, làm hư hại hệ
thống giảm thoát nước và giảm khả năng kháng bệnh.
- Ngăn cản sự quang hợp và tăng trưởng của thực vật; giảm sự hấp thu thức ăn, làm lá vàng và
rụng sớm.

- Đa số cây ăn quả rất nhạy đối với HF. Khi tiếp xúc với nồng độ HF lớn hơn 0,002 mg/m3 thì lá
cây bị cháy đốm, rụng lá.
- Mưa acid còn tác động gián tiếp lên thực vật và làm cây thiếu thức ăn như Ca và giết chết các vi
sinh vật đất. Nó làm ion Al được giải phóng vào nước làm hại rễ cây (lông hút) và làm giảm hấp thu
thức ăn và nước.
- Ðối với động vật, nhất là vật nuôi, thì fluor gây nhiều tai họa hơn cả. Chúng bị nhiễm độc do hít
trực tiếp và qua chuỗi thức ăn.
 Tác hại của ô nhiễm môi trường tới tài sản:
- 10 -
- Làm gỉ kim loại.
- Ăn mòn bêtông.
- Mài mòn, phân huỷ chất sõn trên bề mặt sản phẩm.
- Làm mất màu, hư hại tranh.
- Làm giảm độ bền dẻo, mất màu sợi vải.
- Giảm độ bền của giấy, cao su, thuộc da.
4.2.4. Ô nhiễm tiếng ồn:
Những thí dụ minh họa cho các chỉ số dB :
10-20 dB Gió vi vu qua lá cây được xem là trạng thái yên tỉnh
30 dB Thì thầm (trong phòng ngủ)
40 dB Tiếng nói chuyện bình thường
50 dB
Tiếng máy giặt, ồn ở siêu thị, có gây phiền nhưng còn chịu được
55 dB -80
dB
Động cơ xe hơi, xe máy, gây khó chịu, mệt mỏi
80 dB - 85
dB
Máy cắt cỏ, hút bụi, cắt gỗ, làm rất khó chịu
90 dB -
100 dB

phát ra ở Công trường xây dựng, ồn ở mức nguy hiểm
120dB -
140 dB
Máy bay lúc cất cánh, ồn quá lớn gây tổn thương tâm trí
Hậu quả ô nhiễm tiếng ồn: ô nhiểm tiếng ồn có hại về sinh lý, tâm lý và có tầm ảnh hưởng xã hội.
- Về sinh lý, trên một mức nào đó, tiếng ồn gây thương tích tai, làm điếc. Trong môi trường ồn,
ta dễ bị bệnh về giấc ngủ (không ngủ được, cấu trúc của giấc ngủ bị rối loạn).
- Sống trong tiếng ồn, ta có thể bị đau đầu, lâu dần thành bệnh kinh niên, mất khả năng làm
việc, hay là ít nhất là mất giá trị sống. Nguy hại hơn nữa là những bệnh về tim mạch và huyết áp.
- 11 -
- Về tâm lý, môi trường ồn có thể gây cho ta stress, căng thẳng thần kinh, dễ cáu, nóng nảy,
hung hăng, dễ bị kích động,
- Về xã hội, ở trong tiếng ồn ta hay phán đoán người khác, nghi ngờ và lo sợ trước người khác,
khó tiếp xúc với người khác,
Đó là những kết quả đã được các nghiên cứu nghiêm chỉnh đưa ra. Dĩ nhiên các kết luận này phải
được vận dụng có chừng mực, dè dặt . Hậu quả của tiếng ồn còn tùy thuộc thời gian chịu ồn và phản
ứng hay khả năng “thích ứng” độ ồn của từng cá nhân.
 Nguyên nhân của tiếng ồn
 Do nguồn gốc thiên nhiên: Do hoạt động của núi lửa và động đất. Tuy nhiên đây chỉ là nguyên
nhân thứ yếu do hoạt động của núi lửa và động đất xảy ra một cách ngẫu nhiên, chỉ tác động đến
một khu vực nhất định.
 Do nguồn gốc nhân tạo: là nguyên nhân chủ yếu gây ra ô nhiễm tiếng ồn.
• Giao thông: Hiện nay phương tiện giao thông đang ngày càng tăng với mức độ chóng mặt,
mật độ xe lưu thông trên đường phố ngày càng lớn gây nên ô nhiễm về tiếng ồn do tiếng của động
cơ, tiếng còi cũng như tiếng phanh xe, số lượng phương tiện kém chất lượng lưu thông trên đường
phố
• Xây dựng, công nghiệp sản xuất: Hiện nay, việc sử dụng các loại máy móc trong xây dựng,
sản xuất khá phổ biến. Tuy nhiên do sự thiếu ý thức của các cơ sở đã làm cho mức độ ô nhiễm tiếng
ồn đang ngày càng tăng cao.
• Sinh hoạt: Việc bật máy nghe nhạc quá lớn cũng tác động không nhỏ đến thính giác của

người xung quanh, nhất là trong các vũ trường hay quán bar…
4.2.5. Ô nhiễm tiếng phóng xạ
Năng lượng nguyên tử và các chất phóng xạ có khả năng gây đột biến ở người và sinh vật, gây
ra một số bệnh đột biến, di truyền và ung thư.
Nguồn ô nhiễm phóng xạ chủ yếu là từ chất thải của công trường khai thác chất phóng xạ, các
nhà máy điện nguyên tử, và qua những vụ thử vủ khí hạt nhân.
4.3. Các dạng chất ô nhiễm.
4.3.1. Chất ô nhiễm luỹ tích và chất ô nhiễm không luỹ tích .
Một đặc trưng quan trọng và đơn giản của chất ô nhiễm môi trường là chúng được tích luỹ theo
thời gian hay có xu hướng tiêu tan ngay sau khi được phát ra. Ví dụ, tiếng ồn. Khi nguồn gây tiếng
ồn hoạt động thì tiếng ồn phát ra và lan truyền vào không gian xung quanh, nhưng ngay khi tắt
nguồn thì tiếng ồn cũng mất. ở đầu này chất ô nhiễm được phát ra, thì ở đầu kia chúng ta sẽ có chất ô
nhiễm môi trường với số lượng gần như lúc chúng phát ra. Như chất thải phóng xạ chẳng hạn, chúng
- 12 -
phân rã theo thời gian, nhưng với tốc độ hết sức chậm so với đời sống của con người, cho nên chúng
sẽ tồn tại vĩnh viễn với chúng ta. Chúng là loại chất ô nhiễm cực kỳ lũy tích. Hay chất dẻo cũng vậy.
Mặc dù trong nhiều thập kỷ qua, người ta đã tiến hành nghiên cứu để tìm ra các chất dẻo thoái hoá
được, nhưng chất dẻo vẫn là một chất phân huỷ rất chậm. Nó cũng là chất ô nhiễm luỹ tích. Nhiều
loại hoá chất là chất ô nhiễm luỹ tích, mỗi khi phát ra, về cơ bản, chúng vẫn tồn tại với chúng ta.
Xen kẽ giữa chất ô nhiễm luỹ tích và không luỹ tích là loại chất ô nhiễm lũy tích đến một mức độ
nhất định nào đó, chứ không luỹ tích hoàn toàn.
Ví dụ: Chất thải hữu cơ phát ra vào môi trường nước của các nhà máy xử lý chất thải đô thị. Mỗi
khi phát ra, chất thải chịu tác động của quá trình hoá học tự nhiên, có xu hướng phá vỡ cấu trúc của
nó, làm cho nó trở nên vô hại. Nói cách khác, nước có khả năng đồng hoá tự nhiên nên có thể tiếp
nhận các chất hữu cơ và làm cho chúng ít có hại hơn.
Nếu như không vượt quá khả năng đồng hoá đó, chúng ta có thể cắt nguồn chất thải đi thì trong
một thời gian nhất định, nước sẽ trở lại bình thường. Đương nhiên, tự nhiên có một ít khả năng đồng
hoá không có nghĩa là chúng ta có các chất ô nhiễm hoàn toàn không tích luỹ. Khi chất thải phát ra
đã vượt quá khả năng đồng hoá thì có nghĩa là chúng ta chuyển vào quy trình lũy tích. Ví dụ: Khí
quyển của Trái Đất có một khả năng nhất định hấp thụ CO2 do hoạt động của con người phát ra,

miễn là không vượt quá khả năng đó. CO2 là một chất ô nhiễm không luỹ tích. Nhưng, nếu khả năng
đồng hoá CO2 của Trái Đất bị vượt quá, thì tất yếu chúng ta sẽ lâm vào tình thế chất phát ra lũy tích
theo thời gian.
4.3.2. Chất ô nhiễm địa phương, vùng và toàn cầu
Các chất phát thải có phạm vi ảnh hưởng rất khác nhau. Một số chất phát thải mang tính cục bộ, chỉ
có ảnh hưởng trong một vùng nhỏ hẹp. Ví dụ: ô nhiễm tiếng ồn, suy thoái cảnh quan môi trường
mang tính địa phương và thiệt hại do bất cứ nguồn nào gây ra cũng thường được giới hạn bởi các
nhóm dân cư nhỏ sinh sống tại một vùng nhất định. Ngược lại, một số chất phát thải khác lại lan
truyền ô nhiễm trong cả một vùng rộng lớn, có thể ảnh hưởng đến môi trường toàn cầu. Chẳng hạn,
mưa axít là một vấn đề mang tính vùng; các chất phát thải tại một vùng nào đó ở Mỹ hoặc Châu Âu
có ảnh hưởng đến dân cư của các vùng khác trong nước hay nước khác. Hiệu ứng làm suy giảm tầng
ôzôn của Clo, Fluo, Các bon phát ra từ nhiều nước phát triển do những thay đổi hoá học ở tầng bình
lưu của Trái Đất là ảnh hưởng mang tính toàn cầu. Đương nhiên, các vấn đề môi trường địa phương
dễ giải quyết hơn so với các vấn đề môi trường vùng và quốc gia. Đến lượt mình, các vấn đề môi
trường vùng và quốc gia dễ quản lý và giải quyết hơn so với các vấn đề môi trường toàn cầu. Nếu tôi
đun bếp than thì làm ảnh hưởng đến hàng xóm và giữa tôi và hàng xóm có thể giải quyết được với
nhau hoặc nếu không thì chúng tôi nhờ các nhà chức trách. Nhưng nếu tôi gây ô nhiễm ở phạm vi
rộng hơn thì sẽ khó giải quyết hơn. Trong những năm gần đây, nhân loại đang phải đối đầu với
những vấn đề môi trường toàn cầu tăng lên. Cho đến nay, chưa tìm ra những biện pháp hữu hiệu để
giải quyết chúng, một phần là do chưa lí giải được một cách chính xác bản thân của các tác động vật
lý của chúng và phần khác là do các tổ chức quốc tế chuyên trách chỉ mới hình thành và chưa hoạt
động thực sự.
4.3.3. Chất ô nhiễm có điểm nguồn và không có điểm nguồn
Các nguồn ô nhiễm cũng khác nhau về mức độ dễ dàng nhận biết các điểm phát thải hiện tại. Chẳng
hạn, các điểm mà ở đấy điôxyt lưu huỳnh thoát ra khỏi một nhà máy điện rất dễ nhận biết qua ống
khói của nó. Hay là, các nhà máy xử lý chất thải đô thị thường chỉ có một cửa ống tháo xả tất cả các
loại nước thải. Đó là các chất ô nhiễm có điểm nguồn. Nhưng ngược lại, có nhiều chất ô nhiễm
không thể xác định được rõ ràng điểm phát thải. Ví dụ như các hoá chất dùng trong nông nghiệp.
- 13 -
Chúng thường chảy tản mát ra trong đất và có thể gây ô nhiễm sông, suối, ao, hồ, hay mạch nước

ngầm. Tuy nhiên, khó có thể xác định chúng phát ra từ đâu. Đây là chất ô nhiễm không có điểm
nguồn. Sự thoát nước sau những trận mưa to ở các vùng đô thị cũng là một trường hợp ô nhiễm
không có điểm nguồn. Đương nhiên, chúng ta dễ thấy rằng, chất ô nhiễm có điểm nguồn có thể được
nghiên cứu, đo lường, giám sát và giải quyết dễ dàng hơn so với chất ô nhiễm không có điểm nguồn.
Điều đó có nghĩa là phát triển và quản lý thông qua việc hoạch định và thực thicác chính sách kiểm
soát ô nhiễm có điểm nguồn sẽ dễ dàng và thuận lợi hơn.
4.3.4. Chất phát thải liên tục và không liên tục
Các chất phát thải từ các nhà máy nhiệt điện hay các nhà máy xử lý chất thải đô thị, nhiều hay ít, đều
mang tính liên tục, bởi vì nhà máy được thiết kế để vận hành một cách liên tục, mặc dù tốc độ vận
hành có thể thay đổi theo thời gian (mùa vụ). Do đó, chất phát thải từ các nhà máy này ít nhiều là
liên tục và vấn đề đặt ra ở đây chính là làm sao quản lý được tốc độ chất phát thải thông qua các
chương trình quản lý hữu hiệu. Bên cạnh các chất ô nhiễm phát ra liên tục, còn có nhiều chất ô
nhiễm phát ra không liên tục, từng hồi. Sự cố dầu hoặc hoá chất độc tràn ra là những ví dụ điển hình.
Vấn đề chính sách môi trường ở đây là thiết kế và quản lý một hệ thống sao cho có thể giảm được tối
đa sự cố môi trường. Các chất ô nhiễm phát ra từng hồi, trong thời gian ngắn, khó có thể đo lường
được và chúng chứa đựng những hiểm hoạ khủng khiếp đối với tính mạng của con người (chẳng hạn
các chất phóng xạ thoát ra khỏi các nhà máy điện nguyên tử). Vì vậy, để xác định nguy cơ của các
chất ô nhiễm phát ra nhất thời, chúng ta phải thu thập các số liệu về diễn biến hiện thời qua một thời
gian đủ dài hoặc ước lượng chúng dựa trên các thông tin thiết kế - xây dựng và hoạt động của nhà
máy. Sau đó, chúng ta phải xác định mức bảo hiểm mong muốn đối với các chất ô nhiễm phát ra
không liên tục, từng hồi.
4.3.5. Tổn thất môi trường không liên quan đến chất thải
Ở trên, chúng ta đã tập trung vào những đặc tính của các loại chất ô nhiễm môi trường khác nhau
có liên quan đến việc thải các chất thải vật chất và năng lượng. Tuy nhiên, trong thực tế có nhiều
trường hợp làm suy giảm nghiêm trọng chất lượng môi trường mà không thể theo dõi được qua các
chất thải ra. Chẳng hạn, việc lấy đất trồng trọt để xây dựng nhà ở, đường sá, trung tâm thương mại,
v.v làm giảm giá trị môi trường, giá trị môi sinh hay giá trị cảnh quan của đất đai. Hay là các kiểu
sử dụng đất khác như để khai thác mỏ, khai thác gỗ cũng có những tác động rất lớn đến chất lượng
môi trường. Trong tất cả mọi trường hợp, chúng ta đều phải đánh giá, phân tích những nguyên nhân
thúc đẩy người ta tạo ra những tác động đó và tìm cách thay đổi những khuyến khích sao cho phù

hợp với mục đích bảo vệ môi trường. Mặc dù chúng ta không thể giám sát, điều khiển lượng vật chất
phát ra ở đây, song chúng ta có thể nắm bắt, mô tả, ước lượng những hậu quả có thể xảy ra để đề ra
những giải pháp quản lý thích hợp.
5. Trình bày hoạt động vận tải gây ra ô nhiễm môi trường như thế nào?
5.1. Ảnh hưởng của phương tiện vận tải bộ.
Phương tiện giao thông vận tải, nhất là ôtô, xe máy đã góp phần quan trọng vào quá trình phát
triển của xã hội nhưng nó cũng gây ra những tác động xấu đến môi trường, gây nguy hại cho sức
khỏe của con người và làm suy giảm chất lượng cuộc sống đô thị.
Các tác nhân gây ô nhiễm giao thông chủ yếu là: Các khí độc hại từ các loại xe có động cơ thải ra
khí đốt nhiên liệu: bụi; tiếng ồn. Trong đó, khí thải do đốt nhiên liệu có mức độ gây ô nhiễm môi
trường lớn nhất. Theo số liệu từ Cục Đăng kiểm Việt Nam, hiện cả nước có khoảng 20 triệu môtô và
xe máy và đến năm 2010, sẽ có khoảng 24 triệu xe. Đến năm 2015, dự báo lượng xe máy lưu hành
trong cả nước khoảng 31 triệu xe. Hàng ngày, chỉ cần một nửa số phương tiện trên hoạt động cũng
đã xả ra môi trường một lượng lớn các khí độc hại, trong đó có nhiều thành phần gây nên hiệu ứng
- 14 -
nhà kính; gây ra các loại bệnh như viêm nhiễm đường hô hấp do nhiễm vi khuẩn, hen suyễn, viêm
phế quản mạn tính, viêm mũi
5.1.1. Hoạt động vận tải gây ra ô nhiễm môi trường không khí.
Về ô nhiễm không khí do bụi, khi các phương tiện lưu thông sẽ cuốn một lượng lớn bụi đường
vào không khí; ngoài ra khi hãm phanh sẽ tạo ra bụi đá, bụi cao su và bụi sợi. Bụi và các khí thải độc
dễ dàng thâm nhập vào cơ thể qua đường hô hấp, qua da và niêm mạc mắt, miệng. Trong điều kiện
nước ta hiện nay, việc di chuyển chủ yếu bằng các loại xe không có mui kín. Vì vậy, trong quá trình
di chuyển con người bị tiếp xúc trực tiếp với khí thải độc từ động cơ xe chưa được pha loãng nên
nồng độ tác động thực tế còn lớn hơn nhiều so với số liệu đo đạc được.
Ở các đô thị, giao thông vận tải là nguồn gây ô nhiễm lớn nhất đối với không khí, đặc biệt là sự
phát thải các khí CO, VOC, và NO
2
. Lượng thải các khí này tăng lên hàng năm cùng với sự phát triển
về số lượng phương tiện giao thông đường bộ.
Theo số liệu thống kê của Bộ Giao thông Vận tải năm 2010, ô nhiễm không khí ở đô thị do các

hoạt động giao thông vận tải chiếm tỷ lệ khoảng 70%.
Xét trên từng phương tiện, thải lượng ô nhiễm không khí từ xe máy là tương đối nhỏ, trung bình
một xe máy xả ra lượng khí thải chỉ bằng một phần tư so với xe ô tô con. Tuy nhiên, do số lượng xe
tham gia giao thông chiếm tỷ lệ lớn hơn và chất lượng nhiều loại xe đã xuống cấp nên xe máy vẫn là
nguồn đóng góp chính các loại khí ô nhiễm, đặc biệt đối với các khí thải như CO và VOC. Trong khi
đó, xe tải và xe khách các loại lại thải nhiều SO
2
và NO
2.
Đối với môi trường không khí các đô thị, áp lực ô nhiễm chủ yếu do hoạt động giao thông vận
tải, hoạt động xây dựng, công nghiệp, sinh hoạt của dân cư và xử lý chất thải - báo cáo, được công
bố hồi tuần trước, nhấn mạnh.
Mặc dù đã có quy định về che chắn bụi tại các công trường xây dựng và phương tiện chuyên chở
nguyên vật liệu và phế thải xây dựng, rửa xe trước khi ra khỏi công trường, phun nước rửa đường
nhưng việc thực hiện còn nhiều hạn chế. Do đó việc phát tán bụi từ các hoạt động này vẫn là nguồn
gây ô nhiễm không khí đô thị đáng kể. Đặc biệt việc quản lý sửa chữa hệ thống đường xá, hệ thống
cấp thoát nước, hệ thống thông tin, cáp điện không tốt, luôn xảy ra hiện tượng đào và lấp đường
thường xuyên gây mất vệ sinh, ô nhiễm bụi nghiêm trọng tại khu vực.
Trước thực trạng ô nhiễm giao thông ngày càng gia tăng, Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt đề
án kiểm soát ô nhiễm môi trường trong hoạt động giao thông vận tải" với mục tiêu kiểm soát, phòng
ngừa, hạn chế gia tăng ô nhiễm, thực hiện hoàn nguyên môi trường trong hoạt động giao thông vận
tải; hướng tới xây dựng hệ thống giao thông vận tải bền vững, thân thiện môi trường.
Theo đề án, từ nay đến 2015 sẽ có 18 nhiệm vụ, đề án, dự án được ưu tiên triển khai thực hiện
với tổng kinh phí Nhà nước cấp dự kiến là 700 tỷ đồng.
Mục tiêu từ nay đến năm 2015, các doanh nghiệp công nghiệp thuộc ngành giao thông vận tải có
hệ thống quản lý môi trường và thực hiện các biện pháp quản lý, xử lý chất thải phù hợp với từng
loại hình hoạt động; ít nhất 25% số toa xe khách đường sắt đóng mới, 80% bến xe khách loại 1 được
trang bị công cụ, thiết bị và tổ chức thu gom, xử lý rác thải, nước thải sinh hoạt
- 15 -
Tầm nhìn đến 2030, phát triển hệ thống giao thông vận tải thân thiện với môi trường, cơ bản

kiểm soát được các thành phần gây ô nhiễm môi trường trên tất cả các lĩnh vực đường bộ, đường sắt,
đường thủy nội địa, hàng hải và hàng không.
5.1.2. Hoạt động vận tải gây ra rung động và tiếng ồn.
Nhiều xe đã qua nhiều năm sử dụng nên có chất lượng kỹ thuật thấp, có mức tiêu thụ nhiên liệu
và nồng độ chất độc hại trong khí xả cao, tiếng ồn lớn. Ngay tại các thành phố lớn, tỷ lệ những xe đã
qua nhiều năm sử dụng vẫn còn cao.
Hoàn thiện bản đồ tiếng ồn đối với 50% cảng hàng không, sân bay; đề xuất phương án giảm thiểu
ảnh hưởng của ô nhiễm tiếng ồn do hoạt động vận tải hàng không.
Về tiếng ồn, đây là dạng ô nhiễm phổ biến ở các đô thị. Trong các nguồn sinh ra tiếng ồn ở đô
thị thì các phương tiện giao thông vận tải đóng vai trò chủ yếu: 60 - 80% bởi các nguyên nhân sau
do tiếng ồn từ động cơ, do ống xả, do rung động các bộ phận xe, đóng cửa xe, còi xe, phanh xe, do
sự tương tác giữa lốp xe và mặt đường Tiếng ồn gây tác hại rất lớn đến toàn bộ cơ thể nói chung
và cơ quan thính giác nói riêng. Tiếng ồn mạnh, thường xuyên gây nên bệnh đau đầu, chóng mặt,
cảm giác sợ hãi, bực tức vô cớ, trạng thái tâm thần bất ổn, mệt mỏi.
5.1.3. Tác động khác
- Bụi đường giao thông:
 Bụi từ mặt đường, từ VLXD rơi vãi, bụi cao su, bụi nhựa đường do
phanh gấp,
 Bụi đường kết hợp với bụi hạt từ khói thải của các phương tiện làm
không khí ô nhiễm nặng nề
 Bụi gây bệnh về đường hô hấp, mắt, ung thư
 Ở Việt Nam, bụi đang là vấn đề đáng báo động cần được quan tâm
giải quyết.
- Ô nhiễmnhiệt:
 Qúa trình đốt nhiên liệu làm tăng nhiệt độ môi trường
 Sự phát thải các khí gây hiệu ứng nhà kính
5.2. Ảnh hưởng của phương tiện vận thủy.
Vùng biển Việt Nam là loại biển mở nối liền Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, là một trong
những trục hàng hải có lưu lượng tàu bè qua lại rất lớn, trong đó 70% là tàu chở dầu.
Tuy chưa xếp vào biển có mức độ ô nhiễm nghiêm trọng, nhưng cũng được cảnh báo là có nguy

cơ ô nhiễm cao trong tương lai, vì công nghiệp đang phát triển mạnh ở các vùng duyên hải, cộng
thêm hoạt động thăm dò, khai thác, vận chuyển dầu khí trong khu vực ngày càng gia tăng, trong khi
nơi đây lại là khu vực thường xuyên xảy ra những thiên tai nguy hiểm trên biển.
Theo đánh giá của Viện Khoa học và Tài nguyên Môi trường biển-Viện Khoa học và Công nghệ
Việt Nam: Từ năm 1989 đến nay, vùng biển Việt Nam có khoảng 100 vụ tràn dầu do tai nạn tàu, các
vụ tai nạn này đều đổ ra biển từ vài chục đến hàng trăm tấn dầu. Những vụ tràn dầu thường xảy ra
vào tháng 3 và tháng 4 hàng năm ở Miền Trung; từ tháng 5 đến tháng 6 ở Miền Bắc.
Thống kê cho thấy, giai đoạn từ năm 1992-2008, lượng dầu tràn trên biển Việt Nam xuất phát từ
nhiều nguyên nhân khác nhau. Cụ thể như những vụ tràn dầu với lượng từ 7-700 tấn thường tập
- 16 -
trung chủ yếu do tàu mắc cạn. Còn các vụ tràn dầu với số lượng lớn hơn 700 tấn chủ yếu là do quá
trình vận chuyển dầu và va chạm tàu trên biển.
Sự cố tràn dầu gây ô nhiễm môi trường biển, ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hệ sinh thái. Đặc
biệt là hệ sinh thái rừng ngập mặn, cỏ biển, vùng triều bãi cát, đầm phá và các rạn san hô. Ô nhiễm
dầu làm giảm khả năng sức chống đỡ, tính linh hoạt và khả năng khôi phục của các hệ sinh thái. Hàm
lượng dầu trong nước tăng cao, các màng dầu làm giảm khả năng trao đổi ôxy giữa không khí và
nước, làm giảm oxy trong nước, làm cán cân điều hòa oxy trong hệ sinh thái bị đảo lộn.
Ngoài ra, dầu tràn chứa độc tố làm tổn thương hệ sinh thái, có thể gây suy vong hệ sinh thái. Bởi
dầu chứa nhiều thành phần khác nhau, làm biến đổi, phá hủy cấu trúc tế bào sinh vật, có khi gây chết
cả quần thể. Dầu thấm vào cát, bùn ở ven biển có thể ảnh hưởng trong một thời gian rất dài. Đã có
nhiều trường hợp các loài sinh vật chết hàng loạt do tác động của sự cố tràn dầu.
Điều đáng báo động nữa là dầu lan trên biển và dạt vào bờ trong thời gian dài không được thu
gom sẽ làm suy giảm lượng cá thể sinh vật, gây thiệt hại cho ngành khai thác và nuôi trồng thủy, hải
sản. Dầu gây ô nhiễm môi trường nước làm cá chết hàng loạt do thiếu ôxy hòa tan. Dầu bám vào đất,
kè đá, các bờ đảo làm mất mỹ quan, gây mùi khó chịu đẫn đến doanh thu của ngành du lịch cũng bị
thiệt hại nặng nề. Nạn tràn dầu còn làm ảnh hưởng đến hoạt động của các cảng cá, cơ sở đóng mới và
sửa chữa tàu biển. Do dầu trôi nổi làm hỏng máy móc, thiết bị khai thác tài nguyên và vận chuyển
đường thủy.
Qua khảo sát tại cảng cá Lạch Bạng, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa, nơi thường xuyên là chỗ
neo đậu của hàng nghìn tàu cá từ nhiều vùng, miền khác nhau. Tình trạng ô nhiễm môi trường nước

ở đây do cặn dầu của những con tàu “vô tư” xả ra đen đặc một vùng rộng lớn.
Nếu như 10 năm về trước vùng cửa biển này là nơi có hệ sinh thái rừng ngập mặn rất phong phú,
thì bây giờ hầu như toàn bộ diện tích rừng ngập mặn do bị nhiễm dầu đang chết dần chết mòn, dẫn
đến động, thực vật nước lợ hầu như tuyệt chủng. Nơi đây cũng liên tục xảy ra sự cố ô nhiễm dầu làm
hàng trăm ha nuôi trồng thủy sản bị mất trắng, nên nhiều hộ buộc phải bỏ nghề.
Do đó, sự cố môi trường tràn dầu có thể xem là một trong những dạng sự cố gây ra tổn thất
kinh tế lớn nhất, trong các loại sự cố môi trường do con người gây ra. Hiện việc xác định vị trí dầu
tràn và khắc phục sự cố này ở Việt Nam còn nhiều hạn chế, cả về cơ sở pháp luật và các trang thiết
bị, phương tiện kỹ thuật chuyên dụng để khắc phục ô nhiễm tràn dầu.
- 17 -

×