Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

trích chọn thực thể tên người trong tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (991.2 KB, 43 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ




Lê Thu Thùy





TRÍCH CHỌN THỰC THỂ TÊN NGƯỜI TRONG
TIẾNG VIỆT





KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC CHÍNH QUY
Ngành: Công nghệ thông tin






















HÀ NỘI – 2009

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ




Lê Thu Thùy





TRÍCH CHỌN THỰC THỂ TÊN NGƯỜI TRONG
TIẾNG VIỆT






KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC CHÍNH QUY
Ngành: Công nghệ thông tin


Cán bộ hướng dẫn: TS. Nguyễn Trí Thành


















HÀ NỘI – 2009

i



Lời cảm ơn

Trước tiên, em muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến thầy giáo, TS. Nguyễn Trí
Thành, những người đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện khóa
luận này.
Em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến những thầy cô giáo đã giảng dạy em trong
bốn năm học qua, đã cho em những kiến thức quý báu để em có thể vững bước trên
con đường đi của mình.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các bạn trong lớp K50 CA đã ủng hộ và
khuyến khích tôi trong suốt quá trình học tập tại trường.
Và lời cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng chân thành và biết ơn vô hạn tới cha mẹ và
em trai tôi, những người luôn ở bên cạnh tôi những lúc tôi khó khăn nhất, giúp tôi vượt
qua những khó khăn trong học tập cũng như trong cuộc sống.
Xin chân thành cảm ơn!
Sinh Viên



Lê Thu Thùy
ii

Tóm tắt

Trích chọn các loại thực thể nói chung, cũng như trích chọn tên người nói riêng
là một bước cơ bản trong trích chọn thông tin từ văn bản và xử lý ngôn ngữ tự nhiên.
Nó được ứng dụng nhiều trong dịch tự động, tóm tắt văn bản, hiểu ngôn ngữ tự nhiên,
nhận biết tên thực thể trong sinh/y học và đặc biệt ứng dụng trong việc tích hợp tự
động các đối tượng, thực thể từ môi trường Web vào các ontology ngữ nghĩa và các cơ
sở tri thức.
Trong khóa luận này, em trình bày một giải pháp trích chọn thực thể tên người

cho các văn bản tiếng Việt trên môi trường Web. Sau khi xem xét các hướng tiếp cận
khác nhau, em đã lựa chọn phương pháp dựa trên giải thuật mở rộng quan hệ mẫu đối
ngẫu lặp lại (Dual Interative Pattern Relation Expansion - DIPRE) [17] mà Brin đã đề
xuất. Đây là phương pháp sử dụng học bán giám sát (semi-supervised), dựa trên các
ngữ cảnh (occurrences) xung quanh các thực thể để trích chọn quan hệ mẫu, từ đó đưa
ra được danh sách các thực thể cần nhận biết.
iii

Mục lục

Lời cảm ơn i
Tóm tắt ii
Mục lục iii
Bảng từ viết tắt v
Danh sách hình vẽ vi
Mở đầu 1
Chương 1. Bài toán trích chọn 3
thực thể tên người 3
1.1. Trích chọn thông tin 3
1.2. Tổng quan về bài toán trích chọn thực thể tên 4
1.3. Bài toán trích chọn thực thể tên người trong văn bản tiếng Việt trên môi trường
web 5
1.4. Ý nghĩa của bài toán trích chọn thực thể tên người 7
Chương 2. Các hướng tiếp cận trong trích chọn thông tin 9
2.1. Phương pháp dựa trên học máy 9
2.1.1. Mô hình Markov ẩn (HMM) 9
2.1.1.1. Tổng quan về HMM 9
2.1.1.2. Hạn chế của mô hình HMM 11
2.1.2. Mô hình Markov cực đại hóa Entropy (MEMM) 11
2.1.2.1. Tổng quan về mô hình MEMM 11

2.1.2.2. Vấn đề Label Bias 12
2.1.3. Mô hình trường điều kiện ngẫu nhiên (CRF) 13
2.1.3.1. Tổng quan về mô hình CRF 13
2.1.3.2. Hàm tiềm năng của mô hình CRF 14
2.2. Phương pháp tiếp cận dựa trên hệ luật 16
2.2.1 Tổng quan về tiếp cận dựa trên hệ luật 16
2.2.2 Giải thuật DIPRE 16
2.2.1.1. Tổng quan về học bán giám sát 16
2.2.1.2. Giải thuật DIPRE 18
2.3 Tổng kết chương 21
Chương 3. Hệ thống trích chọn tên người trong văn bản tiếng Việt trên môi trường
Web 22
3.1 Hướng giải quyết bài toán 22
3.2 Thực nghiệm 27
3.2.1. Môi trường thực hiện 27
3.2.2 Thu thập dữ liệu 27
3.3. Khảo sát và xây dựng thủ công các tập dữ liệu từ điển ban đầu 27
3.3.1. Tập dữ liệu từ điển ban đầu và tập mẫu 27
3.3.2. Giới hạn vòng lặp 29
3.4 Đánh giá hệ thống nhận dạng thực thể 29
3.4.1. Kết quả 30
3.4.2. Đánh giá 31
iv

Kết luận 32
Tài liệu tham khảo 34
v

Bảng từ viết tắt


Từ hoặc cụm từ Viết tắt
Condition Random Field CRF
Dual Interative Pattern Relation Expansion DIPRE
Hidden Markov Model HMM
Maximum Entropy Markov Model MEMM
Name Entity Recognition NER


















vi


Danh sách hình vẽ



1

Mở đầu

Trích chọn thực thể tên (Name Entity Extraction), đặc biệt là trích chọn tên người
ngày càng trở nên quan trọng hơn đối với sự phát triển ngày càng cao các ứng dụng
của xử lý ngôn ngữ tự nhiên. Tuy nhiên, việc trích chọn tên người cũng như sử dụng
chúng một cách triệt để vẫn là một vấn đề không hề đơn giản.
Thừa nhận rằng, một trong những cách tốt nhất để xác định tên người là sử dụng
thông tin ngữ cảnh xuất hiện xung quanh tên người. Do đó, vấn đề chính sẽ là làm thế
nào để tìm ra các ngữ cảnh mà tại đó, tên người xuất hiện. Các phương pháp có thể là
thủ công, sử dụng hệ luật (rule-based) hay tự động…
Hiện nay, hầu hết các hệ thống nhận dạng tên thực thể đều dựa vào một tập nhỏ
các loại thực thể tên thông thường. Mặc dù đã có một vài đề xuất được đưa ra nhằm
mở rộng các cấp của các loại thực thể tên nhưng nó vẫn cố định một số lượng nhất
định các loại thực thể tên. Vấn đề áp dụng bài toán trích chọn các loại thực thể cho các
miền dữ liệu có tính chất đặc trưng riêng khác với những dữ liệu bình thường, điều này
rất đáng được quan tâm. Trong khi đó, với những ứng dụng quan trọng trong web ngữ
nghĩa, hay trong hệ thống hỏi đáp tự động, …thì các miền dữ liệu tên người cũng là
một trong những miền dữ liệu được nhắc tới nhiều nhất.
Ý thức được những lợi ích mà các bài toán trích chọn thực thể nói chung và trích
chọn tên người nói riêng, em đã chọn hướng nghiên cứu nhằm giải quyết bài toán trích
chọn thực thể tên người trong văn bản tiếng Việt trên môi trường Web làm đề tài luận
văn của mình.
Luận văn được tổ chức thành các chương như sau:
Chương 1 giới thiệu tổng quan về bài toán trích chọn thông tin, bài toán trích
chọn thực thể tên người cho văn bản tiếng Việt trên môi trường Web cùng những ứng
dụng thực tế của nó.
Chương 2 trình bày một số hướng tiếp cận nhằm giải quyết bài toán trích chọn
thực thể như phương pháp dựa trên hệ luật, phương pháp học máy như HMM,

MEMM, CRF. Đối với phương pháo dựa trên hệ luật, khóa luận sẽ giới thiệu về một
số hệ thống liên quan tới trích chọn thực thể. Cụ thể đó chính là giải thuật DIPRE [17],
một giải thuật được đề xuất bởi Brin, sử dụng tập dữ liệu ban đầu (seed) để tìm ra các
2

mẫu (patterns). Phương pháp này đều đã có những kết quả thực nghiệm hết sức khả
quan.
Chương 3 trình bày hệ thống trích chọn thực thể tên người trong văn bản tiếng
Việt trên môi trường Web dựa trên giải thuật DIPRE (Dual Interative Pattern Relation
Expansion)[17] mà Brin (1998) đã đề xuất kết hợp với một số luật mang những đặc
điểm cơ bản của tên người trong tiếng Việt và đưa ra một số kết quả thực nghiệm.
3

Chương 1. Bài toán trích chọn
thực thể tên người

Chủ đề chính của khóa luận là áp dụng phương pháp dựa trên hệ luật (rule-based)
kết hợp với giải thuật DIPRE (Dual Interative Pattern Relation Expansion)[17] do Brin
đề xuất. Chương này sẽ giới thiệu tổng quan về trích chọn thông tin, về bài toán trích
chọn thực thể nói chung, chi tiết về bài toán trích chọn thực thể tên người nói riêng
cũng như ứng dụng, ý nghĩa của bài toán trích chọn thực thể tên người.
1.1. Trích chọn thông tin
Trích chọn thông tin là một lĩnh vực quan trọng trong khai phá dữ liệu văn bản,
thực hiện việc trích rút các thông tin có cấu trúc từ các văn bản không có cấu trúc. Cụ
thể hơn, một hệ thống trích chọn thông tin sẽ trích ra những thông tin đã được định
nghĩa trước về các thực thể và mối quan hệ giữa chúng từ một văn bản dưới dạng ngôn
ngữ tự nhiên và điền những thông tin này vào một văn bản ghi dữ liệu có cấu trúc hoặc
một dạng mẫu (template) được định nghĩa trước đó. Ví dụ như việc trích chọn vị trí
của một cuộc hẹn từ một bức thư điện tử hay trích chọn tên của một công ty từ một bài
báo… Các kĩ thuật được sử dụng trong trích chọn thông tin gồm có: hướng tiếp cận

dựa trên luật và dựa trên các phương pháp học máy.
Có thể sử dụng trích chọn thông tin từ văn bản với nhiều mức độ khác nhau như
nhận dạng các loại thực thể tên (Name Entity Recognition – NER), điền thông tin các
mẫu kịch bản (Scenario Template), hay xác định quan hệ giữa các thực thể (Relation
Extraction hay còn gọi là trích chọn quan hệ), ví dụ như liên kết các bản ghi (record
association) trong cơ sở dữ liệu, hay để chuẩn hóa (nomalization) và tránh trùng lặp
(deduplication) dữ liệu … Khóa luận này tập trung chủ yếu vào việc nhận dạng thực
thể tên và trích chọn quan hệ giữa chúng để giải quyết bài toán trích chọn tên người
trong văn bản tiếng Việt trên môi trường Web.
Có rất nhiều mức độ cũng như nội dung công việc trích chọn thông tin khác
nhau. Công việc nghiên cứu trích chọn ở đây là trích lại những thông tin từ văn bản. Ví
dụ, tại hội thảo MUC-7 (Seventh Message Understanding Conmference), thông tin
trích chọn mà người ta quan tâm đến là nhận diện những sự kiện liên quan đến việc
4

phóng tên lửa trong 100 bài báo của NewYork Times. Công việc này được thực hiện
bằng cách làm sao trả lời được những câu hỏi như:
Tên lửa được phóng ra từ đâu?
Ai là chủ nhân điều khiển tên lửa đó?
Khối lượng chất nổ trong tên lửa?
Chất nổ sử dụng là gì?
Hình 1 dưới đây mô tả một hệ thống trích chọn thông tin.


Hình 1 biểu diễn việc trích chọn các thực thể “NAME”, “TITLE” và thực thể
“ORGANIZATION” từ một đoạn văn bản. Kết quả đưa ra là danh sách tên người
(NAME) tương ứng với chức vụ (TITLE) và tổ chức (ORGANIZATION) của họ xuất
hiện trong văn bản nêu trên.
Như vậy, có thể hiểu đơn giản rằng công việc trích chọn thông tin ở đây đơn giản
là đi tìm những quan hệ giữa các đối tượng có tên được chỉ định trước.

1.2. Tổng quan về bài toán trích chọn thực thể tên
Việc trích chọn các thực thể tên (còn được gọi là phân lớp tên riêng) là một công
việc của xử lý ngôn ngữ tự nhiên trên máy tính. Nhiệm vụ chính của nó là tìm kiếm và
phân lớp các từ vào các nhóm đối tượng như: tên người (person), địa danh (location),
IE
NAME TITLE ORGANIZATION
Bill Gates CEO Microsoft Corporation
Bill Veghte VP Microsoft
Richard Stallman founder Free Software Foundation



October 14,2002, 4:00 a.m. PT
For year, Microsoft Corporation CEO
Bill Gates railed against the economic
philosophy of open-source software
with Orwellian fevor, denouncing its
communal licensing as a “cancer” that
stifled technological innovation.
Today, Microsoft clains to “love” the
open-source concept, by which
software code is made public to
encourage improvement and
development by outside programmers.
Gates himself says Microsoft will gladly
disclose its crown jewels-the coveted
code behind the Windows opertating
system-to select customers.
“We can be open source. We love the
concept of shared source,” said Bill

Veghte, a Microsoft VP. “That’s a
super-important shift for us in terms of
code access”.
Richard Stallman, founder of the Free
Software Foundation, countered
saying…

Hình 1: Mô hình trích chọn thực thể

5

tổ chức (organization), ngày tháng (date), thời gian (time), tỷ lệ (percentage), tiền tệ
(moneytary) và cả những loại thực thể không thuộc những dạng kể trên.
Bài toán trích chọn thực thể là bài toán đơn giản nhất trong số các bài toán trích
chọn thông tin. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng, để thực hiện được việc trích chọn
các thông tin phức tạp, hệ thống phải có khả năng thực hiện một số công việc đơn giản
hơn. Và trích chọn thực thể chính là một trong những yêu cầu đầu tiên của hầu hết các
hệ thống đó, vì rõ ràng trước khi có thể xác định được các mối quan hệ giữa các thực
thể, ta phải xác định được đâu là các thực thể tham gia vào mối quan hệ đó. Do đó, bài
toán trích chọn thực thể là một trong những bước cơ bản nhất trước khi tính đến việc
giải quyết các bài toán phức tạp hơn trong lĩnh vực này.
Có rất nhiều phương pháp đã được sử dụng để giải quyết các bài toán trích chọn
thực thể, từ các phương pháp dựa trên hệ luật (rule-based) đến các phương pháp học
máy (machine learning). Một số phương pháp học máy như: Mô hình Markov ẩn
(Hidden Markov Model - HMM), mô hình cực đại hóa Entropy (Maximum Entropy
Markov Model - MEMM), mô hình trường ngẫu nhiên điều kiện (Conditional
Ramdom Field - CRF), phương pháp máy vector hỗ trợ (Support Vector Machine -
SVM)….Các phương pháp ngày sẽ được giới thiệu chi tiết ở chương 2.
1.3. Bài toán trích chọn thực thể tên người trong văn bản tiếng Việt
trên môi trường web

Các thực thể đóng vai trò quan trọng rất nhiều trong ứng dụng xử lý ngôn ngữ tự
nhiên. Hiện nay, hầu hết các hệ thống nhận dạng thực thể tên đều dựa vào một tập nhỏ
các loại thực thể tên thông thường. Mặc dù đã có một vài đề xuất được đưa ra nhằm
mở rộng các cấp của các loại thực thể tên nhưng nó vẫn cố định ở một số lượng nhất
định các loại thực thể tên. Trong các ứng dụng thực tế: hệ thống hỏi đáp hay hệ thống
tìm kiếm ngữ nghĩa, người dùng có thể sẽ hứng thú hơn với riêng từng loại thực thể.
Khi đó, vấn đề đặt ra sẽ là áp dụng bài toán trích chọn các loại thực thể cho các miền
dữ liệu có tính chất đặc trưng riêng biệt, khác với những dữ liệu thông thường. Đây là
điều rất đáng được quan tâm. Và miền dữ liệu tên người cũng là một trong những miền
dữ liệu được nhắc tới nhiều nhất. Chính vì vậy, nội dung chính của khóa luận nhằm
đưa ra một phương pháp trích chọn thực thể tên người từ văn bản tiếng Việt trên môi
trường Web.
Thực thể tên người luôn song hành, gắn bó với cuộc sống của mỗi con người
từng giờ, từng phút, đóng một vai trò quan trọng đối với mỗi cá nhân. Nó không chỉ có
6

chức năng phân biệt người này với người khác mà còn có chức năng thẩm mỹ nên đối
với người Việt Nam, tên người cũng thường được chọn lựa khá kỹ về mặt ngữ âm và
ngữ nghĩa. Do đó, việc khai thác tối ưu vấn đề này để áp dụng cho nhiều bài toán cụ
thể khác cũng là một đề tài quan trọng.
Tuy nhiên, đối với hệ thống tên người trên thế giới nói chung hay của Việt Nam
nói riêng đều không có một nguyên tắc chung nào trong việc đặt tên. Cũng như sự
phong phú về ngôn ngữ dẫn tới thực thể tên người sẽ có cấu trúc phức tạp hơn, do đó,
không tránh khỏi sự nhập nhằng. điều này khiến cho việc trích chọn tên người cũng
như trích chọn quan hệ giữa chúng trở nên khó khăn hơn so với các văn bản tiếng Anh.
Cụ thể như sau:
 Các văn bản tiếng Việt không có dữ liệu huấn luyện có sẵn, và các nguồn
tài nguyên có thể tra cứu trên WordNet trong tiếng Anh.
 Thiếu các thông tin ngữ pháp (POS) và các thông tin về cụm từ như: cụm
danh từ, cụm động từ,…cho tiếng Việt trong khi các thông tin này giữ vai

trò quan trọng trong việc trích chọn thực thể.
 Một số trường hợp dễ dàng xuất hiện đối với tên người trong tiếng Việt
như sau:
“Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam.” (1)
“Hồ Chí Minh là một trong những thành phố lớn nhất ở Việt Nam.” (2)
“Tổng thống Mỹ có chuyến viếng thăm Trung Quốc.” (3)
“Tổng thống Mỹ Obama có chuyến viếng thăm Trung Quốc.” (4)
“Tổng thống Obama có chuyến viếng thăm đất nước Trung Quốc.” (5)
Xét trường hợp (1) và (2), dễ dàng nhận thấy sự nhập nhằng, điều này sẽ phát
sinh những vấn đề như:
“Hồ Chí Minh” nào là tên người?
Chữ “Hồ” đầu câu viết hoa, do đó, thông tin viết hoa đầu câu thường
không mang nhiều ý nghĩa.
Xét tới trường hợp (3), (4), và (5), có thể thấy cùng một nội dung nhưng có nhiều
cách để diễn đạt, nhưng không phải cách diễn đạt nào cũng khiến người lập trình có
thể dễ dàng lấy ra được tên người.
7

Trường hợp (3) hoàn toàn không có tên người, nhưng đây cũng là trường
hợp dễ nhầm lẫn khi thực hiện trích chọn.
Trường hợp (5) tồn tại hai loại thực thể,
“Mỹ” chỉ địa danh.
“Obama” chỉ tên người
Rất có thể kết quả trích chọn sẽ đưa ra kết quả là “Mỹ Obama” → đó là
một kết quả hoàn toàn không chính xác.
Như vậy, bài toán đưa ra nhằm đánh giá các chiến lược khai phá dữ liệu tên
người, đặc biệt tập trung vào hai bài toán con: trích chọn thực thể và trích chọn quan
hệ. Bởi vì, trước khi xác định được quan hệ giữa các thực thể để thực hiện trích rút thì
ta phải nhận biết được thực thể cần trích chọn. Việc trích chọn thực thể tên người đòi
hỏi phải nhận biết được các thành phần cơ bản và đặc trưng của dữ liệu tên người, ví

dụ như các chức danh luôn đi kèm với tên người trong văn bản: ông, bà, học sinh, anh,
chị, thầy giáo, cô giáo, giám đốc, tổng giám đốc, …dựa vào sự xuất hiện của các thực
thể, thuật toán đưa ra sẽ giữ lại các ngữ cảnh xung quanh thực thể tên để từ đó trích
chọn ra quan hệ các mẫu, cuối cùng, dựa vào các mẫu đã trích chọn được để tiếp tục
đưa ra các thực thể tên người cần trích chọn. Đây chính là phương pháp mà khóa luận
đề cập tới để áp dụng cho bài toán này dựa trên cơ sở giải thuật DIPRE (Dual
Interative Pattern Relation Expansion)[17] của Brin. Với phương pháp này ta sẽ khắc
phục được những vấn đề đặt ra đối với thực thể tên người trong tiếng Việt cũng như
việc tìm kiếm để sinh ra các mẫu khác nhau. Cụ thể về cách giải quyết bài toán sẽ
được trình bày chi tiết ở chương 3.
1.4. Ý nghĩa của bài toán trích chọn thực thể tên người
Trích chọn thông tin luôn là bước đi đầu tiên của nhiều ứng dụng thực tế và việc
trích chọn, nhận biết tên người cũng tương tự như vậy. Tên người là một thành phần
chủ chốt để xử lý câu đầu vào. Do đó, trích chọn tên người được sử dụng một cách
rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khác nhau như xử lý ngôn ngữ tự nhiên, thu thập thông
tin, dịch tự động…Cụ thể như sau:
 Hỗ trợ Web ngữ nghĩa. Web ngữ nghĩa là các trang Web có thể biểu diễn
dữ liệu “thông minh”, ở đây “thông minh” chỉ khả năng kết hợp, phân lớp
và khả năng suy diễn trên dữ liệu đó. Sự thành công của các Web ngữ
nghĩa phụ thuộc vào các ontology, cũng như sự phát triển của các trang
8

Web được chú giải bởi các siêu dữ liệu tuân theo các ontology này. Mặc
dù các lợi ích mà các ontology đem lại là rất lớn nhưng việc xây dựng
chúng một cách tự động lại hết sức khó khăn. Vì lý do này, các công cụ
trích chọn thông tin tự động từ các trang Web để “làm đầy “ các ontology
như hệ thống nhận biết thực thể là hết sức cần thiết.
 Xây dựng các máy tìm kiếm hướng thực thể theo các đặc trưng riêng biệt.
Người dùng có thể lấy ra được danh sách chỉ có riêng thực thể tên người
mà họ cần tìm thay vì một loạt danh sách bao gồm cả các thực thể khác.

 Như đã được đề cập trên đây, một hệ thống nhận biết thực thể tên người
có thể đóng vai trò là một thành phần cơ bản cho các bài toán trích chọn
thông tin phức tạp hơn, phụ thuộc vào mục đích sử dụng của con người.
 Trước khi đọc một tài liệu, người dùng có thể đọc lướt qua các tên người
mà họ quan tâm.
Hệ thống trích chọn thực thể tên người cho tiếng Việt cũng sẽ làm tiền đề cho
việc giải quyết các bài toán về trích chọn thông tin từ các tài liệu tiếng Việt cũng như
hỗ trợ cho việc xử lý ngôn ngữ tiếng Việt. Áp dụng hệ thống để xây dựng một
ontology về các thực thể trong tiếng Việt sẽ đặt nền móng cho một thế hệ Web mới - “
Web ngữ nghĩa tiếng Việt”.
9

Chương 2. Các hướng tiếp cận trong trích
chọn thông tin

Có rất nhiều phương pháp đã được dùng để giải quyết bài toán trích chọn thực
thể, từ phương pháp dựa trên hệ luật tới phương pháp học máy. Một số phương pháp
học máy như: Mô hình Markov ẩn (Hidden Markov Model - HMM), mô hình Markov
cực đại hóa Entropy (Maximum Entropy Markov Model - MEMM), mô hình trường
ngẫu nhiên điều kiện (Conditional Random Field - CRF), phương pháp máy vector hỗ
trợ (Support Vector Machine - SVM)…. Chương này sẽ giới thiệu một số hướng tiếp
cận cùng với ưu và nhược điểm của chúng, từ đó lý giải tại sao phương pháp mà khóa
luận sử dụng lại dựa trên giải thuật DIPRE để xây dựng hệ thống trích chọn tên riêng
cho tiếng Việt.
2.1. Phương pháp dựa trên học máy
2.1.1. Mô hình Markov ẩn (HMM)
2.1.1.1. Tổng quan về HMM
HMM là mô hình máy hữu hạn trạng thái (finite state machine) trong đó hệ thống
được mô hình hóa được cho là một quá trình Markov với các tham số không biết trước
và nhiệm vụ là xác định các tham số ẩn từ các tham số quan sát được, dựa trên sự thừa

nhận này. Các tham số của mô hình được rút ra sau đó có thể sử dụng để thực hiện các
phân tích kế tiếp ví dụ cho các ứng dụng nhận dạng mẫu.
Trong một mô hình Markov điển hình, trạng thái được quan sát trực tiếp bởi một
người quan sát, vì vậy các xác suất chuyển tiếp trạng thái là các tham số duy nhất. Mô
hình Markov ẩn thêm vào các đầu ra: mỗi trạng thái có xác suất phân bổ trên các biểu
hiện đầu ra có thể. Vì vậy, nhìn vào dãy của các biểu hiện được sinh ra bởi HMM
không trực tiếp chỉ ra các dãy trạng thái.
Các trạng thái trong mô hình HMM được xem là bị ẩn đi bên dưới dữ liệu quan
sát sinh ra do mô hình. Quá trình sinh ra chuỗi dữ liệu quan sát trong HMM thông qua
một loạt các bước chuyển trạng thái xuất phát từ một trong các trạng thái bắt đầu,
chuyển tiếp tới một trạng thái mới, quan sát một dữ liệu được lựa chọn bởi trạng thái
đó, quá trình chuyển tiếp lại làm tương tự, quan sát một dữ liệu khác và cứ tiếp tục như
10

vậy cho tới một trạng thái đích cuối cùng được đưa ra. Kết hợp các dữ liệu thu được
thành một tập dữ liệu của các trạng thái:
1 2 n
{S ,S , ,S }
S 
- chuỗi các trạng thái ẩn
và xác suất phân bố trên các biểu hiện đầu ra có thể trong các từ vựng quan sát:
1 2 n
{O ,O , ,O }
O 
- chuỗi các dữ liệu quan sát
Từ đây ta có thể tìm ra chuỗi các trạng thái mô tả tốt nhất cho chuỗi dữ liệu quan
sát bằng cách tính:
)(
),(
)|(

OP
OSP
OSP 

Ta có thể mô hình hóa HMM dưới dạng một đồ thị có hướng như sau:





Ở đây, S
i
là trạng thái tại thời điểm t=i trong chuỗi trạng thái S, O
i
là dữ liệu quan
sát được tại thời điểm t=i trong chuỗi O. Sử dụng tính chất Markov thứ nhất (trạng
thái hiện tại chỉ phụ thuộc vào trạng thái ngay trước đó) và giả thiết dữ liệu quan sát
được tại thời điểm t chỉ phụ thuộc trạng thái tại t, ta có thể tính xác suất P(S,O) như
sau:




n
t
tttt
SOPSSPSOPSPOSP
2
1111
)|(*)|()|()(),(











S
1
S
2
S
3
S
n-1
S
n

O
1
O
2
O
3
O
n-1
O

n

Hình 2: Ví dụ về mô hình Markov

11

Quá trình tìm ra chuỗi trạng thái tối ưu mô tả tốt nhất chuỗi dữ liệu quan sát cho
trước có thể được thực hiện bởi một kĩ thuật lập trình quy hoạch động sử dụng thuật
toán Viterbi [6].
2.1.1.2. Hạn chế của mô hình HMM
Chúng ta phải cần nhiều chuỗi dữ liệu quan sát hơn để tính P(S,O). Tuy nhiên, S
là chuỗi các trạng thái ẩn, số lượng có hạn thì có thể liệt kê được nhưng chuỗi dữ liệu
quan sát được O thì rất đa dạng, ta không thể nào có thể liệt kê ra hết được.
Khi áp dụng vào các bài toán phân lớp dữ liệu dạng chuỗi, các mô hình thường
sử dụng xác suất đồng thời để mô hình hóa các bài toán có tính điều kiện.Với các bài
toán này sẽ thích hợp hơn nếu ta dùng một mô hình điều kiện có thể tính toán P (S|O)
trực tiếp thay vì P (S, O) ban đầu.
2.1.2. Mô hình Markov cực đại hóa Entropy (MEMM)
2.1.2.1. Tổng quan về mô hình MEMM
Một mô hình khác được đưa ra nhằm khắc phục những hạn chế mà mô hình
HMM đã gặp phải, đó là mô hình MEMM. Mô hình MEMM sử dụng một hàm xác
suất duy nhất
1
( | , )
i i i
P S S O

để thay thế cho xác suất chuyển trạng thái và xác suất quan
sát trong HMM. Đối với MEMM, các dữ liệu quan sát được cho trước nên ta chỉ cần
quan tâm tới xác suất chuyển trạng thái.






Xác suất P(S|O) được tính theo công thức:











k
ttkk
tt
ttsttt
sof
soZ
osPossP
t
),(exp
),(
1
)|(),|(
1

1
1


S
1
S
2
S
n-1
S
n
S
3

O
1
O
2
O
3
O
n-1
O
n

Hình 3: Đồ thị có hướng mô tả một mô hình MEMM

12


Với:
k

là các tham số cần được huấn luyện (ước lượng)
Z (O
t
, S
t-1
) là thừa số chẩn hóa để tổng xác suất chuyển từ trạng thái S
t-1

sang tất cả các trạng thái S
t
kề đều bằng 1
f
k
(O
t
, S
t
) là hàm thuộc tính tại vị trí thứ i trong chuỗi dữ liệu quan sát và
trong chuỗi trạng thái. Mỗi hàm thuộc tính f
k
(O
t
,S
t
) nhận hai tham số, một là dữ
liệu quan sát hiện tại O
i

và một là trạng thái hiện tại S
t
.
k = <k’,S
t
> với: k’ là thuộc tính nhị phân chỉ phụ thuộc vào dữ liệu quan
sát hiện tại.
S
t
là trạng thái hiện tại.
Khi đó:


2.1.2.2. Vấn đề Label Bias
Trong một số trường hợp đặc biệt, các mô hình MEMM và các mô hình định
nghĩa một phân phối xác suất cho mỗi trạng thái có thể gặp phải vấn đề “label bias”.
Ta lấy một ví dụ với 2 chuỗi “rib” và “rob” tương ứng với chuỗi trạng thái “0123” và
“0453”



Có thể thấy cả 2 xâu đầu ra đều có xác suất giống nhau:
P(0123|rib) = Pr(1|0,r)/Z1 * Pr(2|1,o)/Z2 * Pr(3|2,b)/Z3
= 0.5 * 1 * 1 = 1
F
k
(O
t
,S
t

)=
1 nếu b (O
t
) =1 và S
t
=S
t-1

0 nếu ngược lại
o:_
0

1

2

4

5

3

r_
r_

b:rib

rib

b: rob

i_
Hình 4: Vấn đề Label Bias

13

P(0453|rob) = Pr(4|0,r)/Z1’ * Pr(5|4,i)/Z2’ * Pr(3|5,b)/Z3’
= 0.5 * 1 *1 = 1
Khi đó, giả sử như trong tập huấn luyên, từ “rob” xuất hiện nhiều hơn từ “rib” thì
khi đó, xác suất P(4|0,r) sẽ lớn hơn xác suất P(1|0,r), hay xác suất của P(0123|rib) sẽ
nhỏ hơn xác suất của P(0453|rob), hay chuỗi trạng thái “0453” sẽ được chọn cho dù
chuỗi quan sát là “rib” hay “rob”.
2.1.3. Mô hình trường điều kiện ngẫu nhiên (CRF)
2.1.3.1. Tổng quan về mô hình CRF
CRF là mô hình dựa trên xác suất có điều kiện dựa trên việc gán nhãn và phân
đoạn dữ liệu liên tục. CRF là mô hình đồ thị vô hướng để từ đó có thể định nghĩa một
phân phối xác suất của toàn bộ chuỗi trạng thái với điều kiện đã biết chuỗi quan sát
cho trước. Ưu điểm cơ bản của CRF so với mô hình Markov ẩn đó chính là tính có
điều kiện của chúng, làm giảm nhẹ các giả định không phụ thuộc được yêu cầu bởi
HMM để bảo đảm kết quả dễ xử lý. Thêm vào nữa, CRF cũng tránh được vấn đề label
bias gặp phải trong mô hình Markov cực đại hóa Entropy cũng như đồ thị có hướng
trong mô hình Markov điển hình.
CRF được thể hiện bằng mô hình đồ thị vô hướng, hoặc bằng trường Markov
ngẫu nhiên, bao toàn bộ điều kiện lên X, biến ngẫu nhiên biểu hiện qua các chuỗi quan
sát.
Cho một đồ thị vô hướng không có chu trình G=(E,V) với:
+ V là tập các đỉnh của đồ thị.
+ E là tập các cạnh vô hướng nối các đỉnh đồ thị.
+ Các đỉnh V biểu diễn các thành phần của biến ngẫu nhiên Y sao cho tồn
tại ánh xạ một-một giữa một đỉnh và một thành phần của Y
v

của Y.
+ Một node v

V tương ứng với mỗi biến ngẫu nhiên biểu diễn một thành
phần
v
Y
của Y. Nếu mỗi biến ngẫu nhiên của
v
Y
tuân theo đặc tính của Markov
đối với G thì (Y,X) là một CRF.
14






Hình 5: Đồ thị vô hướng mô tả CRF
Trong đó:
X=(X
1
, X
2
,…, X
n
), Y=(Y
1
,Y

2
, ,Y
n
).
X: là biến ngẫu nhiên nhận giá trị là chuỗi dữ liệu cần phải gán nhãn
Y: là biến ngẫu nhiên nhận giá trị là chuỗi nhãn tương ứng.
Mỗi thành phần Y
i
của Y là một biến ngẫu nhiên nhận giá trị trong tập
hữu hạn trạng thái S.
2.1.3.2. Hàm tiềm năng của mô hình CRF
Cấu trúc đồ thị của CRF có thể được sử dụng để tìm thừa số của việc phân phối
các mối ghép nối ở các thành phần Y
v
của Y vào trong các tích chuẩn hóa của giá trị
dương, của hàm tiềm năng mang giá trị thực xuất phát từ khái niệm độc lập điều kiện.
Mỗi hàm tiềm năng đều hoạt động dựa trên một tập con của các biến ngẫu nhiên được
biểu diễn bởi các đỉnh của đồ thị G. Theo định nghĩa của độc lập điều kiện đối với mô
hình đồ thị vô hướng, việc thiếu một cạnh bất kỳ giữa hai đỉnh của G sẽ khiến cho các
biến ngẫu nhiên được biểu diễn bởi các đỉnh này trở thành độc lập điều kiện đồng thời
nó cũng kéo theo các biến ngẫu nhiên khác vào trong mô hình. Tức là các hàm tiềm
năng cũng phải chắc chắn việc các biến ngẫu nhiên cũng sẽ không xuất hiện cùng
trong một hàm tiềm năng. Đối với trường cấp cấu trúc dây chuyền của CRF, mỗi hàm
chức năng sẽ hoạt động theo các cặp có các biến được gán nhãn liền kề nhau Y
i

Y
i+1
Y
n-1

Y
1


X

Y
3
Y
2
Y
n

15

Theo định nghĩa về xác suất của một nhãn đặc trưng của chuỗi y được quan sát
bởi chuỗi x trở thành một tích chuẩn hóa của các hàm tiềm năng, hàm tiềm năng biểu
diễn dưới dạng hàm số mũ:
j 1
j
exp( ( , , , ) ( , , ))
j i i k k i
k
t y y x i s y x i
 


 

Khi

1
( , , , )
j i i
t y y x i

là một hàm tiềm năng chuyển tiếp của toàn bộ chuỗi quan sát
và các nhãn ở vị trí i và i-1 trong chuỗi gán nhãn.
( , , )
k i
s y x i
: là một hàm tiềm năng trạng thái của nhãn ở vị trí i và chuỗi quan sát.
j


k

: là các tham số để ước lượng từ tập dữ liệu huấn luyện.
Tập các giá trị thực tiềm năng b(x,i) của chuỗi quan sát nhằm biểu diễn một vài
ký tự của việc phân bố có kinh nghiệm các tập huấn luyện cần được giữ lại trong việc
phân phối mô hình. Một ví dụ:


Mỗi hàm tiềm năng đều đưa ra giá trị tiềm năng quan sát b(x,i) nếu trạng thái
hiện tại (trong trường hợp là hàm trạng thái ) hoặc trạng thái trước và trạng thái hiện
hiện tại (trong trường hợp là hàm chuyển tiếp) đưa ra giá trị riêng. Bởi vậy mà tất các
các hàm tiềm năng đều có giá trị thực.
Viết đơn giản các biểu thức:
1
( , , ) ( , , , )
i i i

s y x i s y y x i




1
j
( , ) ( , , , )
n
j j i i
F y x t y y x i




b(x,i)

=
1 nếu ví trí quan sát ở i là từ “September”
0 nếu ngược lại
16

Tại mỗi
1
( , , , )
j i i
f y y x i

cũng là một hàm trạng thái như
1

( , , , )
i i
s y y x i

hay hàm
chuyển tiếp
1
( , , , )
i i
t y y x i

. Điều này cho phép xác suất của một chuỗi nhãn y được đưa
ra mọt chuỗi quan sát x theo công thức dưới đây:
j
1
( | , ) exp( ( , ))
( )
j j
p y x F y x
Z x
 



Với Z(x) là một thừa số chuẩn hóa, Z(x) được tính theo công thức:
( ) ( , )
j
y
Z x F y x




2.2. Phương pháp tiếp cận dựa trên hệ luật
2.2.1 Tổng quan về tiếp cận dựa trên hệ luật
Một hệ thống dựa trên hệ luật bao gồm các tập luật cơ bản (Nếu - Thì), tập các sự
vật, bộ thông dịch (interpreter) sử dụng tập luật để sinh ra các sự vật.
Hệ thống áp dụng phương pháp dựa trên luật sẽ khảo sát dữ liệu và tạo ra một tập
luật ban đầu dựa theo phương pháp thủ công, sau đó áp dụng vào mô hình và mở rộng
tập luật này. Các luật chủ yếu được xây dựng dựa trên ngữ cảnh chứa thực thể đang
xét. Chương 3 sẽ đề cập chi tiết về cách áp dụng phương pháp này và mô hình giải
quyết bài toán.
Một trong những phương pháp dựa trên hệ luật dùng để trích chọn thực thể tên
đem lại kết quả khả quan là phương pháp sử dụng giải thuật DIPRE (Dual Interative
Pattern Relation Expansion)[17] do Brin đề xuất. Phương pháp này sử dụng học bán
giám sát (semi-supervised) để xử lý dữ liệu ban đầu.
2.2.2 Giải thuật DIPRE
2.2.1.1. Tổng quan về học bán giám sát
Có thể thấy hiện nay, nhu cầu về một lượng lớn các dữ liệu học và những khó
khăn để thu được các dữ liệu đó đặt ra một câu hỏi quan trọng: Liệu có thể sử dụng
được nguồn thông tin nào khác trong phân lớp văn bản mà có thể làm giảm sự cần
thiết của dữ liệu gán nhãn? Đây chính là nguồn động lực thúc đẩy sự phát triển của các
phương pháp học bán giám sát.
17

Nhìn vào sự tồn tại của dữ liệu ta thấy, trong thực tế dữ liệu thường tồn tại ở
dạng trung gian: Không phải tất cả dữ liệu đều được gán nhãn cũng như không phải tất
cả chúng đều chưa được gán nhãn. Bán giám sát là một phương pháp học sử dụng
thông tin từ cả hai nguồn dữ liệu này.
Trong khoa học máy tính, phương pháp học bán giám sát là một phần của học
máy mà trong đó, nó có thể sử dụng cả dữ liệu đã được gán nhãn và dữ liệu không gán

nhãn làm tập huấn luyện – một lượng nhỏ các dữ liệu gán nhãn với một lượng lớn dữ
liệu chưa được gán nhãn.
Học có giám sát là phương pháp sử dụng tập dữ liệu đã được gán nhãn, việc gán
nhãn thủ công này rõ ràng là tốn thời gian, công sức và khó khăn, không đảm bảo
được độ chính xác.
Ngược lại, học không giám sát là phương pháp sử dụng tập dữ liệu chưa gán
nhãn. Trong khi lượng dữ liệu chưa gán nhãn là rất nhiều, dễ thu thập nhưng cũng
khiến cho học không giám sát đôi khi không đảm bảo được kết quả khả quan.
Từ đó, học bán giám sát đã ra đời dưới sự kết hợp ưu điểm và hạn chế của học có
giám sát và không giám sát. Mục đích chính của học bán giám sát là mở rộng tập dữ
liệu không gán nhãn ban đầu. Từ đó, mô hình học bán giám sát được thể hiện như sau:



Học giám sát
Dữ liệu chưa
gán nhãn
Học không
giám sát
Dữ liệu gán
nhãn
Học bán giám sát

Hình 5: Mô hình học bán giám sát

×