Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

TIẾNG cười KHÔI hài và CHÂM BIẾM TRONG KỊCH TARTUFFE của MOLIÈRE

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.45 KB, 30 trang )

TIẾNG CƯỜI KHÔI HÀI VÀ CHÂM BIẾM
TRONG KỊCH TARTUFFE CỦA MOLIÈRE
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
I Khái quát thế kỷ XVII ở Pháp
1 Bối cảnh lịch sử xã hội Pháp thế kỷ XVII
2 Các khuynh hướng văn học thế kỷ XVII
*Văn chương đài các
*Văn chương cổ điển
3 Ảnh hưởng tôn giáo đối với văn học Pháp thế kỷ XVII
II Tiếng cười khôi hài và châm biếm trong kịch Tartuffe của Molière
1 Đôi nét về Molière
2 Tác phẩm Tartuffe
*Hài kịch
3 Tiếng cười khôi hài và châm biếm trong Tartuffe của Molière
3.1 Dưới góc nhìn lịch sử xã hội
3.2 Dưới góc nhìn đạo đức
3.3 Dưới góc nhìn tôn giáo
III Nghệ thuật xây dựng tác phẩm
1 Ngôn ngữ
1 Xây dựng nhân vật
3 Hành động kịch
4Xung đột kịch
Kết luận
Tài liệu tham khảo
1
MỞ ĐẦU
Mỗi dân tộc có một nền văn hóa, văn học riêng. Văn học Pháp là một
trong số những nền văn học hàng đầu thề giới, được coi là một nền “văn học
khổng lồ” bên cạnh văn học Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, Anh, Mỹ, Đức…Từ
khởi thủy đến nay, văn học Pháp đã trải qua khoảng 12 thế kỷ đầy biến


động, tuy chiều dài thời gian không lớn nhưng nền văn học ấy vẫn được xem
là nền văn học khổng lồ bởi ở những thành tựu và chiều sâu mà nền văn học
của xứ sở tháp Effel đạt được.
Nằm trong vùng văn hóa Châu Âu nên văn học Pháp đã chịu nhiều
ảnh hưởng của cả nền văn hóa khu vực phương Tây, trên cơ sở của cái nôi
văn hóa Hy Lạp và La Mã. Nói đến văn học Pháp, người ta hay nói đến yếu
tố lãng mạn, tính trong sáng và yếu tố duy lý của nó.
Nhắc đến văn học cổ điển Pháp là nói đến hai thể lọai nổi bật : bi kịch
và hài kịch. Khi nhắc đến hài kịch cổ điển Pháp, người ta lại nghĩ ngay tới
Molière với vở kịch nổi tiếng đầy truân chuyên “Tartuffe”.
Tartuffe là một vở hài kịch vừa có tính khôi hài vừa mang ý nghĩa
châm biếm, phê phán xã hội và tôn giáo lúc bấy giờ - hai thế lực đã tác động
mạnh mẽ tới toàn nước Pháp lúc bấy giờ. Tìm hiểu tính khôi hài và châm
biếm trong vở kịch Tartuffe của Molière trước hết để biết được nghệ thuật
viết hài kịch của tác phẩm và sau đó là những khám phá sâu xa sau những
tiếng cười giòn giã. Đồng thời qua đó cũng thấy đươc xã hội Pháp lúc bấy
giờ với những biến động, những sự kiện nổi bật trong đời sống xã hội và đời
sống văn chương nghệ thuật. Quyền lực của những kẻ cầm quyền và sự chi
phối của tôn giáo vào đời sống văn học.
2
I. Khái quát thế kỷ XVII ở nước Pháp
1. Bối cảnh lịch sử xã hội Pháp thế kỷ XVII
Từ 1685 – 1715, nước Pháp trải qua một cuộc khủng hoảng về nhiều
mặt, chính trị, xã hội và văn hóa, cùng với sự sa sút dần của Cung đình và
những chính sách khắc nghiệt về tôn giáo, xã hội. Những tư tưởng chống đối
bắt đầu phát triển nhanh và mạnh, kết quả là cho ra đời nhiều tác phẩm đấu
tranh chống áp bức của chính quyền và nhà thờ.
Thế kỷ XVII cũng là thời kỳ hoàn chỉnh và thống nhất quốc gia, chế
độ quân chủ tập trung trở thành một trung tâm văn minh (tuy vẫn còn tồn tại
những áp bức nặng nề và nghèo đói trong dân chúng nhất là ở nông thôn vào

những thập niên cuối thế kỷ).
Công cuộc thống nhất quốc gia đạt tới đỉnh cao lộng lẫy dưới triều
vua Louis XIV (1643 – 1715)
Khi Henry IV lên ngôi, nền kinh tế chính trị gặp nhiều khó khăn
nhưng ông đã thực hiện nhiều chính sách có lợi cho dân như giảm bớt gánh
nặng tô thuế, khuyến khích sản xuất công nghiệp và nông nghiệp, cải tổ xây
dựng thủy lợi, đường sá, cầu cống, ngoại thương…khi mọi việc còn đang
dang dở thì vua Henry IV bị ám sát (1610).
Vua Louis XIII lên ngôi (1610 – 1624), nước Pháp lại rơi vào tình
trạng rối ren khủng khiếp. Tướng của vua là Richelieu đã góp phần bình ổn
nước Pháp với chính sách đối nội, đối ngoại cứng rắn, cố gắng mở mang
hàng hải, giao lưu nước ngoài…nhưng nông dân thì vẫn cơ cực.
Năm 1642, Richelieu chết; 1643, vua Louis XIII chết còn Louis XIV
mới lên năm. Lúc này mẹ của Louis XIV là Anne d’Autriche giữ quyền
nhiếp chính và cùng với Mazain là cộng tác của Richelieu nắm quyền điều
hành. Trong thời điểm này nổi lên hai cuộc nổi dậy gọi là La Fronde đe dọa
sự thống nhất của nước Pháp. Mazain đã khôn khéo lợi dụng những mâu
thuẫn và chỗ yếu của hai vụ La Fronde này để đi đến chỗ chiến thắng.
Năm 1653, nước Pháp lập lại trật tự.
3
Năm 1661, Mazain chết, Louis XIV nắm mọi quyền bính trong tay,
vua được Colbert – người cộng tác có tài của Mazain giúp đỡ. Họ đã cùng
nhau lập lại trật tự xã hội. Vua Louis lúc bấy giờ trở thành “ông vua tuyệt
đối”, Chapelain tôn là “Vua – Mặt trời”.
Tuy nhiên, ngay ở trong thời kỳ thịnh vượng này thì có những khó
khăn mà nước Pháp không thể vượt qua : nông nghiệp sa sút, thợ thủ công
phá sản, mức sống giảm nặng nề và nhiều người bị sa thải…thêm nữa là
những cuộc chiến tranh với Hà Lan, những cuộc đàn áp tôn giáo được tăng
cường. Tất cả đã làm suy yếu chế độ quân chủ tập trung của Louis XIV.
Trong giai đoạn 1685 – 1715, chính sách độc đoán của vua Louis XIV

đã gây ra những tổn thương lớn cho nước Pháp và dần dẫn đến những khủng
hoảng về kinh tế, xã hội, tôn giáo…
Khi công cuộc thống nhất quốc gia đạt được những thành tựu huy
hoàng, giới trí thức tài năng đặc biệt là các nhà triết học, nghệ sĩ, nhà văn…
ngày càng giữ địa vị quan trọng trong xã hội, các tầng lớp lao động cũng
được giải phóng, chính những yếu tố này đã giải thích cho sự ra đời và phát
triển rất đa dạng, phong phú của nền văn học Pháp thế kỷ XVII.
2. Các khuynh hướng văn học trong thế kỷ XVII
Thế kỷ XVII là thế kỷ của những khuyng hướng văn học: Văn chương
đài các, văn chương cổ điển, văn chương trào lộng bình dân, văn chương
phản kháng. Nhưng nổi bật nhất và có ảnh hưởng nhiều nhất tới nền văn học
Pháp lúc bấy giờ là hai khuynh hướng văn chương đài các và văn chương cổ
điển.
* Văn chương đài các
Thế kỷ XVII không chỉ nổi trội với sự hình thành văn chương cổ điển
mà song song với văn chương cổ điển, thế kỷ này còn có văn chương đài
các.
Văn chương đài các được hình thành trong những phòng khách
(salon). Tiếp khách là một sinh hoạt văn hóa quan trọng của thế kỷ XVII.
Nhiều phụ nữ quý tộc sống trong những lâu đài sang trọng, lộng lẫy thường
mở cửa phòng của mình (khuê phòng) tiếp những bạn bè quý tộc, các nhà
4
văn, nhà thơ đến trò chuyện bàn luận về nhiều vấn đề thuộc nhiều lĩnh vực
như triết học, văn hóa, chính trị, văn học…

Xa – lông là nơi rèn đúc nhiều tài năng thơ ca, nơi góp phần làm đẹp
và duyên dáng ngôn ngữ Pháp, nơi người ta cố gắng tháo gỡ những bí ẩn
tâm lý con người. Nhiều nhà văn, nhà thơ bằng tài năng của mình đã khẳng
định được vai trò của mình trong các xa – lông. Xa – lông cũng là nơi đầu
tiên tập hợp những nhà thơ, là nơi gặp gỡ của những tài năng.

Từ nửa đầu thế kỷ XVII, các xa – lông kiểu người phong nhã, lịch
thiệp được hình thành, tức là những người lịch sự, biết nói chuyện duyên
dáng, tôn trọng những lề thói lịch sự, nhã nhặn. Các nhà thơ cũng ra khỏi
những căn buồng tăm tối, tiếp xúc với những phụ nữ tế nhị, dễ xúc động,
làm quen với cuộc sống mới, họ được tôn trọng hơn, ý thức hơn về chức
năng và vị trí của văn chương được nâng cao hơn.
Họ thường lấy đề tài tình yêu trong các cuộc trò chuyện nên cảm hứng
không ngừng, không cạn khiến sinh hoạt xa – lông cứ tiếp diễn. Xa – lông
cũng là nơi phản kháng chế độ hôn nhân đương thời: người phụ nữ bị ép
buộc, nếu chống lại sẽ vào nhà tu kín suốt đời. Có nhiều phụ nữ đoan trang,
họ cũng khao khát tình yêu và ghê tởm những ông chồng thô bạo, dốt nát.
Có những phụ nữ đòi quyền li dị hoặc hợp đồng hôn nhân ngắn hạn. Chính
những yếu tố này của văn chương đài các đã có ảnh hưởng lớn tới văn
chương cổ điển.
Nửa sau thế kỷ XVII truyện và tiểu thuyết văn xuôi xa – lông phát
triển, những truyện dài dòng không còn thích hợp, nhiều nhà văn chuyển
sang viết truyện vừa và truyện ngắn. Thường đó là những chuyện phiêu lưu
kiểu hiệp sĩ với những biến cố ly kỳ anh hùng và yêu đương với nghệ thuật
biểu tượng. Các nhà văn đương thời không gạt bỏ tất cả văn chương xa –
lông mà chỉ chế giễu văn thơ cầu kì, giả tạo, lời ăn tiếng nói bình thường
hằng ngày bị coi là quê kệch.
Xa – lông văn chương không chỉ tồn tại ở Paris mà ở một số thành
phố lớn khác cũng đua nhau mở xa – lông, và ở một số nước cận kề cũng có
phong trào xa – lông quý tộc: Anh, Ý, Tây Ban Nha. Nửa sau thế kỷ XVII,
văn chương xa – lông tồn tại song song với văn chương cổ điển.
Moliere cũng không tách khỏi văn chương đài các, văn chương xa –
lông khi ông lên tiếng đòi hỏi giải phóng người phụ nữ trong hôn nhân.
5
* Văn chương cổ điển
Được hình thành từ đầu thế kỷ XVII, đạt được những thành tựu cao

nhất vào những năm 1660 – 1685 với các tên tuổi lớn : Moliere, Boileau,
Racine, bà De Lafayette, La Fontaine…
Văn học cổ điển là khuynh hướng văn học quan trọng nhất của thế kỷ
XVII, nó chứa đựng những tư tưởng tiến bộ của thời đại được diễn tả bằng
những hình thức nghệ thuật sáng tạo.
Các nhà văn cổ điển sáng tác tuân theo “ba duy nhất” đó là theo tự
nhiên, bắt chước cổ đại và chuẩn mực lý trí. Còn các tác giả viết hài kịch thì
họ cho rằng “quy tắc của mọi quy tắc là mua vui”.
Cái đẹp của văn học cổ điển chính là sự hài hòa, uyển chuyển giữa lý
trí và barôc, giữa cái lôgic và phi lôgic, giữa cái xã hội và cái cá tính, giữa
cái nguyên tắc và vi phạm nguyên tắc. Văn học cổ điển không chỉ có vẻ khô
cứng, khuôn mẫu như bề ngoài dễ nhìn thấy mà thực chất nó cũng không
kém phần năng động. Đúng như nhận xét của nhà nghiên cứu Ch. Aron
“khái niệm chủ nghĩa cổ điển chủ yếu gắn liền với khái niệm cân đối; cân
đối trong cấu trúc văn bản, xây dựng nhân vật, cái chung và cái riêng, cái
hiện thực và cái lí tưởng…”
Điều mang đến sức sống vĩnh cửu cho văn học cổ điển chính là tư
tưởng tự do – đây cũng là một yếu tố cấu thành cơ bản của văn chương cổ
điển. Văn chương cổ điển là sự hòa tan nhiều tinh hoa của các tư tưởng mĩ
học khác nhau của thời đại.
Về thi pháp văn học cổ điển
Malherbe (1555 – 1628) là người khởi đầu văn học cổ điển, ông muốn
một ngôn ngữ văn chương chính xác, không lộn xộn không vay mượn bừa
bãi, tránh những hình tượng quá trớn, những hình ảnh giả tạo. Một thi pháp
với những quy tắc chặt chẽ, nghiêm ngặt. Một số nhà văn khác cũng bày tỏ
quan điểm về thi pháp cổ điển qua hình tượng nhân vật và những ngôn ngữ
trong văn bản của mình như Molière, La Fontaine, Corneille…
6
Thi pháp văn học cổ điển không hề đóng khung hay cứng nhắc mà rất
đa dạng. Động lực tạo nên tính đa dạng và sức sống của văn học cổ điển là lí

trí, say mê và tình yêu… “văn học cổ điển hoành tráng và trữ tình với bi kịch
của Corneille, nó trẻ trung yêu đời, barôc với hài kịch của Moliere, nó đắm
say dữ dội với bi kịch Racine, nó trong sáng, đầy chất thơ ngụ ngôn La
Fontaine, dịu dàng, quyết liệt như truyện De Lafaytte, suy tư và chua chát
như La Bruyre…lí trí để tư duy, phân tích, phán đoán là một sáng tạo rất
quan trọng trong thế kỷ XVII” (trích…)
3. Ảnh hưởng của tôn giáo đối với văn học Pháp thế kỷ XVII
Năm 59 trước công nguyên, xứ Gaule (Gôn) cổ bị đế chế La Mã của
Julius Caesar chinh phục và đô hộ trong 400 năm và chịu ảnh hưởng sâu
đậm của nền văn hoá La Mã. Thiên chúa giáo du nhập vào đây từ thế kỷ II
sau Công Nguyên và có cơ sở vững chắc từ thế kỷ IV và V.
Thế kỉ thứ XVI, nước Pháp trải qua cuộc nội chiến giữa các tôn giáo,
chia thành các phe đạo Thiên chúa (Công giáo) và đạo Tin Lành. Khi vua
Henry IV lên ngôi đã thực hiện một đường lối vừa mềm dẻo về chính trị, tôn
giáo, nhằm hòa giải các mâu thuẫn nội bộ và củng cố chính quyền trung
ương. Bản thân nhà vua tự rời bỏ đạo Tin lành để theo đạo Công giáo (được
coi là quốc giáo), năm 1598 ban bố pháp lệnh Năngtơ bảo đảm tự do tín
ngưỡng và ban những quyền tự do chính trị.
Thế kỷ thứ XVII bắt đầu xuất hiện tư duy duy lý do Rene Descartes
sáng lập. Đó là một nền nếp tư duy ổn định, phản ánh nền nếp văn hóa, tôn
trọng sự rõ ràng, khúc chiết, tường minh, phải thừa nhận và tôn trọng tính có
thật của đời sống. Tư duy duy lý là sự tiến lên một bước trong nhận thức của
con người sau thời đại của thế kỷ văn học gắn liền với đức tin mà qua đó,
đức tin tôn giáo đã quy định cách nhìn thế giới của người cổ đại, và mang
đầy đủ những đặc tính của nền văn học thuộc vùng văn hóa kito giáo. Chủ
nghĩa duy lý thể hiện niềm tin vào sức mạnh tư duy, của trí tuệ con người,
khẳng định vai trò tích cực của con người.
Như vậy có thể thấy trong thời kỳ trung đại, đời sống văn học bị chi
phối bởi hai quyền lực cơ bản đó là tôn giáo và nhà nước phong kiến; thì
sang thời đại tiếp theo, quá trình lịch sử văn học gắn liền với sự cường thịnh

của nhà nước quân chủ chuyên chế, sự vươn lên về quyền lực của tư sản đã
phản ánh nhu cầu thống nhất quốc gia và tính thống nhất của nhà nước quân
chủ chuyên chế, chính điều đó là cơ sở trực tiếp cho việc hình thành khuynh
7
hướng chủ nghĩa cổ điển – vừa là một trào lưu vừa là một khuynh hướng
thẩm mỹ mà nguyên tắc cao nhất đó là nguyên tắc thống nhất và quy phạm.
Đời sống văn học thế kỷ XVII đã phần nào thoát ly sự ràng buộc của
tôn giáo, mặc dù vẫn còn có ảnh hưởng lớn nhưng vai trò tôn giáo không
còn mang tính quyết định, thông qua tác phẩm, tác giả muốn lên án thế lực
tôn giáo lúc bấy giờ do những nhận thức sai lầm nên dẫn đến những hạn chế
nhất định.
Nhìn chung, ảnh hưởng của tôn giáo ở thế kỷ XVII đã trở nên sa sút
hơn so với nhưng thế kỷ trước và Nhà thờ không còn đóng vai trò quyết
định, chi phối đời sống tinh thần của con người. Vai trò của con người dần
được nhìn nhận và được đánh giá đúng mực hơn, con người được giải phóng
khỏi những ràng buộc của giáo điều khắt khe để phát triển toàn diện về mọi
mặt, hơn nữa, con người còn tồn tại với tư cách chủ thể và tự định đoạt
tương lai và số phận mình.
II. Tiếng cười khôi hài và châm biếm trong kịch Tartuffe của Molière
1. Đôi nét về Molière
Molière (1622- 1673) là một tên tuổi lớn của chủ nghĩa cổ điển Pháp,
của lịch sử văn học Pháp, và của lịch sử sân khấu thế giới. Một mình ông
kiêm nhiệm cả ba vai trò, vừa là một kịch tác gia kiệt xuất, một nhà đạo diễn
xuất sắc lại là một diễn viên ưu tú nổi bật.
Molière tên thật là Jean Baptiste Poquelin, sinh tại Paris vào ngày 15
tháng Giêng năm 1622, trong một gia đình buôn bán thảm treo giàu có tại
khu trung tâm thành phố Paris. Cha của ông là Jean Poquelin, hầu cận vua từ
1631, mẹ là Marie – Cressé. Cha ông đã bỏ tiền ra mua chức vụ thợ trưng
bày thảm treo trong nội thất của cung đình. Như vậy ông có thể lấy danh
nghĩa là người tôi tớ của hoàng gia để ra vào cung đình, đồng thời, lo nhiệm

vụ bố trí hành cung của nhà vua khi nhà vua đi thị sát.
Molière mồ côi mẹ năm lên 10 tuổi, từ nhỏ vẫn thường được ông
ngoại dẫn Molière đi xem hài kịch, kịch vui và bi kịch, chính sự tiếp xúc
kịch từ rất sớm ấy đã hình thành niềm say mê hí kịch trong lòng Molière.
1636 – 1639, ông được dạy dỗ chu đáo ở trường trung học Clemon là
một trường quý tộc được sáng lập tại khu Latinh của giáo hội Cơ đốc. Trong
thời gian này, ông tỏ ra đặc biệt yêu thích văn chương, và bộc lộ tài năng
8
thiên phú về các mặt văn học nghệ thuật và triết học. Năm 20 tuổi, ông đi
hẳn vào nghệ thuật sân khấu và đã chọn sân khấu là nơi để phát triển tài
năng và đam mê của mình thay vì học luật như ý của cha và thừa kế chức vụ
hầu cận nhà vua trong cung đình.
Năm 1643, Molière làm quen với nữ diễn viên Madelein Béjart và
cùng với an hem nhà Béjart xây dựng nên “Đoàn kịch trứ danh”. Từ đó
Molière bắt đầu đời sống diễn xuất. Nhưng do hạn chế về nhân lực và thiếu
vắng những kịch bản có thể thu hút công chúng, kịch đoàn đã bị tan rã chỉ
sau 2 năm hoạt động.
Sau khi kịch đoàn giải tán, Molière cùng Madelein quyết tâm gầy
dựng lại bằng cách tổ chức một kịch đoàn mới và dời Paris về các tỉnh nhỏ
biểu diễn. Thời gian đầu đoàn kịch của Molière gặp rất nhiều khó khăn,
thiếu thốn, đời sống mọi người luôn biến động không yên ổn. Nhưng chính
thời gian lưu lạc này đã giúp cho Molière có cái nhìn toàn diện và sâu sắc
hơn về cuộc sống thực tiễn, khiến cho vốn tích lũy kinh nghiệm sống của
ông ngày càng dồi dào và đó trở thành nguồn sáng tác đặc sắc trong các tác
phẩm của ông.
Năm 1650, ông bắt đầu viết những kịch hề và hài kịch trong đó có vận
dụng những kinh nghiệm của kịch mặt nạ Italia về kỹ thuật, hành động và
tính cách…những vở kịch đầu tay của Molière là Chàng ngốc, Ghen.
Năm 1655, Molière diễn xuất tại Lyons vở kịch Kẻ liều lĩnh, đó là một
vở kịch thơ năm màn được cải biên từ một vở kịch thơ của Ý.

Năm 1656, Molière lại cho trình diễn vở kịch thơ năm màn nahn đề
Sự oán trách của tình yêu. Vở kịch thơ này cũng được cải biên từ một vở
kịch thơ của Ý.
Sau khi biểu diễn hai vở kịch nói trên, đoàn kịch của Molière được
chú ý nhiều hơn, vang đến tận kinh đô Pháp. Năm 1658, Molière ra mắt triều
đình bằng vở kịch Thầy thuốc si tình. Do tài hài hước xuất sắc cũng như do
tài diễn xuất linh hoạt của Molière, ông được hoàng gia yêu thích. Sau đó
đoàn kịch được giữ lại Paris và được dành cho rạp hát của triều đình là Petit
Bourbon làm nơi cho đoàn kịch Molière diễn xuất.
Năm 1659, đoàn kịch trình diễn vở Những ả kiểu cách rởm, từ đây
ông bắt đầu đấu tranh xây dựng một nền nghệ thuật sân khấu dân tộc, hiện
9
thực và tiến bộ. Những tác phẩm lớn của Molière phần lớn là một bản án
giáng mạnh vào bọn quý tộc, nhà thờ và chế độ chuyên chế chính vì vậy,
Molière luôn không ngừng đấu tranh với những thế lực đang ngày một
hướng về mình, họ không ngớt lên án ông là báng bổ tôn giáo, không tôn
trọng các quy tắc cổ điển…chính trong quá trình phấn đấu và vươn lên mọi
gièm pha, Molière lại càng trưởng thành và vững chãi hơn trên con đường
nghệ thuật đầy chông gai, thử thách.
Năm 1660, ông đưa lên sân khấu vở Những ông chồng đa nghi, trên
cơ sở đó ông sáng tác thêm vở Trường học của những ông chồng. Vở này
nêu lên vấn đề giải phóng phụ nữ khỏi những trói buộc của phong tục cổ hủ,
trong hôn nhân và trong tình yêu – vấn đề mà các xalông vẫn quan tâm.
Ngòi bút sáng tạo đầy thiên tài của Molière không ngừng tạo nên những tác
phẩm mang giá trị văn học sâu sắc, dám nhìn thẳng vào sự thật để nói lên
tiếng nói của lòng tin, của chính nghĩa. Hài kịch, hý kịch là thế giới rộng
lớn, bao la mà qua đó Molière đã sử dụng một cách triệt để để tố cáo những
trái ngang, bất công đang tồn tại. Các vở kịch lần lượt ra đời và được đón
nhận rất nồng nhiệt, chính nhờ trình diễn vở kịch này, Molière đã được quan
tài chính tổng giám của cung đình thời bấy giờ mời đến diễn xuất tại cung

điện Vaux trong một dịp lễ của cung đình.
Năm 1662, Trường học làm vợ được diễn và được hoan nghênh nồng
nhiệt. Vở này tiếp tục nêu lên vấn đề số phận người phụ nữ với những lời
buộc tội các thế lực phong kiến, cổ hủ mang màu sắc gay gắt hơn. Trường
học làm vợ là bài ca về tình yêu và tự do, về sự đấu tranh cho số phận éo le
của những người phụ nữ luôn bị xã hội ruồng bỏ, khinh miệt, chính vì vậy,
những kẻ nắm quyền lực đã mưu toan cấm diễn vở này với lí do “nguy
hiểm” cho an ninh, xã hội.
Năm 1663, Molière cho diễn vở Kịch ứng diễn ở Versailles, vở hài
kịch này chế giễu một bộ phận những người chỉ biết bám vào những “quy
tắc sáng tác” giáo điều, máy móc mà quên đi hiện thực phong phú của cuộc
sống, đồng thời lên án những kẻ có thái độ phỉ báng tôn giáo, hạ thấp vai trò
và giá trị vốn có của tôn giáo trong các sáng tác của mình. Tác phẩm này
cũng nói lên một số quan niệm của ông về hài kịch và về sân khấu.
Trong giai đoạn 1664 – 1666, Molière viết 3 vở hài kịch lớn với
những tư tưởng triết học và xã hội phong phú : Tartuffe, Anh ghét đời,
Dongjuang. Những thế lực phản động dưới sự che chở của triều đình lập tức
tìm mọi cách đe dọa, hành hung Molière.
10
Trong khi diễn vở Người bệnh tưởng vào buổi diễn thứ tư
(17/02/1673), Molière vào vai Argan, bị choáng khi ở tiết mục vui cuối cùng
của vở hài kịch, ông nói đến tiếng “Juro” và giấu đau đớn trong cái cười
nhăn nhó. Kết thúc vở diễn, ông thấy lạnh chân tay và được đưa về nhà nghỉ
ngơi ở phố Richelieu, hơi thở ông trở nên gấp gáp và chỉ ít phút sau, nhà viết
hài kịch xuất sắc đã vĩnh biệt thế giới. Lúc đó có hai thầy tu nhưng họ đã từ
chối rửa tội cho Molière, khi mời được thầy tu thứ ba tới thì Molière đã trút
hơi thở cuối cùng. Có thể nói cuộc đời của nhà viết hài kịch đầy tài năng ấy
cũng xen lẫn bi kịch. Cuộc đời Molière cũng như mọi nghệ sĩ lớn của nhân
loại, ông đã sống với một lý tưởng đẹp vô cùng : yêu con người và sáng tạo
nghệ thuật. Từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, những vở kịch của ông đã được

diễn đi diễn lại và đó được xem là nguồn kho tàng văn chương, nghệ thuật,
tư tưởng phong phú không bao giờ cạn. “Người hề vĩ đại của chúng ta” là
cụm từ vô cùng trịnh trọng mà người đời giành tặng Molière sau những cống
hiến to lớn mà ông để lại cho nhân loại. Những tư liệu trình bày ở trên cùng
với bối cảnh lịch sử, xã hội sẽ góp phần soi sáng một phần công việc nghiên
cứu tác phẩm của Molière.
Molière cho tới nay vẫn được xem là bậc thầy vĩ đại nhất về kịch vui
nước Pháp. Những giá trị kịch ông để lại cho đời sau là cả một kho tàng
phong phú và đồ sộ trong suốt quá trình phấn đấu không ngừng nghỉ để
chiến đấu chống lại những lực lượng xã hội đen tối, đồng thời Molière còn là
một tấm gương sáng về sự từng trải và sự tiếp xúc rộng rãi về mặt xã hội,
chính những yếu tố ấy đã làm nên một Molière có thể nhìn sâu về mặt linh
hồn của nhân vật, thấy được cả những gì mà họ không nói ra. Molière quả là
một bậc thầy lớn về kịch vui theo chủ nghĩa cổ điển của Pháp mà còn của cả
nhân loại.
2. Tác phẩm Tartuffe
Tóm tắt nội dung tác phẩm
Orgông là nhà tư sản góa vợ, có con trai là Đamix, con gái là Marian,
vợ kế là Elmia. Orgông vốn là một chủ gia đình tốt, một người đã có những
hoạt động chính trị bí mật chống chính quyền trung ương. Từ khi gặp
Tartuffe – một thầy tu - thì Orgông trở nên mê muội, mù quáng tôn thờ
Tartuffe. Tartuffe đã nhanh chóng chiếm được lòng tin của Orgông bằng các
hành vi, cử chỉ chân tu giả dối. Orgông mời y đến nhà và tiết lộ cho y những
bí mật chính trị của mình, hứa sẽ gả con gái cho y, cùng y làm chúc thư giao
11
toàn bộ tài sản cho y. Gia đình bỗng trở nên lục đục, chia rẽ. Mặc cho anh vợ
là Clêăng và cô hầu gái Đôrin hết sức can ngăn, nhưng Orgông vẫn không
tỉnh ngộ. Đamix rình bắt quả tang Tartuffe tán tỉnh Elmia, liền mách Orgông
nhưng Tartuffe đã làm cho Orgông không những không tin lời tố cáo mà còn
nổi giận đuổi cổ Đamix ra khỏi nhà và tước quyền thừa kế gia sản. Để vạch

mặt tên thầy tu giả hiệu, Elmia lập kế cho chồng nấp xuống gầm bàn để nghe
Tartuffe tán tỉnh vợ lão và đòi tình yêu cụ thể. Đến lúc đó, Orgông mới tỉnh
ngộ nhưng đã muộn. Tartuffe đã nắm trong tay gia tài và bí mật chính trị của
Orgông liền đuổi gia đình Orgông và tố cáo lên đức vua bắt giam lão.
Nhưng nhà vua là người thấu tình đạt lý, ngài hiểu rõ con người Tartuffe, đã
can thiệp, vạch mặt và bắt giam Tartuffe, nhờ đó gia đình Orgông thoát nạn.
“Số phận” tác phẩm
Vở kịch Tartuffe của Molière ra đời vào năm 1664 và được diễn lần
đầu tiên tại Vecxay vào ngày 12 tháng Năm năm 1664. Vở diễn chỉ có ba
hồi và được quần chúng hết sức tán thưởng, Molière đã công kích giáo hội
Thiên Chúa tự nhận mình là ông thầy dẫn dắt lương tâm nhưng lại ngày càng
xuất hiện nhiều thủ đoạn và hành động nguy hại. Nước Pháp là quốc gia lấy
Thiên chúa giáo làm truyền thống, do vậy bọn thầy tu, quý tộc đã phản ứng
rất quyết liệt và đã công kích Molière là kẻ báng bổ thần thánh, do vậy một
cuộc tranh luận gay gắt đã nổ ra, kịch bản cũng theo đó bị cấm diễn xuất.
Tổng giám mục tại Paris đã đến gặp vua Louis XIV để can thiệp, mặc dù rất
muốn bảo vệ Molière nhưng đứng trước áp lực của Gíao hội, vua Louis XIV
ban chiếu yêu cầu Molière đừng chọc giận giáo hội, đồng thời cũng cấm
diễn xuất công khai vở Tartuffe.
Tuy vậy nhưng vở kịch vẫn được phép đem đọc trong những cuộc hội
họp riêng, và không bị cấm diễn trong các dinh lãnh chúa. Molière đã nhận
được lời mời diễn xuất cho Gíao hoàng xem và sau khi xem xong, viên đặc
sứ và hàng giáo phẩm có mặt đều vỗ tay không ngớt, dù vậy kịch bản vẫn
không được diễn xuất công khai.
Mãi đến năm 1666, Hoàng thái hậu qua đời, phái chống đối không còn
chỗ dựa, tình thế bắt đầu thay đổi. Tranh thủ vở Tartuffe được diễn trở lại,
Molière đã viết thâm hai hồi sau. Đến tháng 8 năm 1667, vở kịch sau khi đã
đổi tên thành Bịp bợm đã được chính thức diễn công khai. Nhưng, qua ngày
hôm sau, viên Viện trưởng tối cao Pháp tại Paris lại xuống lệnh ngăn cấm
không cho vở kịch được tiếp tục diễn xuất. Tổng Gíam mục tại Paris đã dán

bố cáo, cấm các giáo sĩ không được đọc mà cũng không được nghe người
12
khác đọc vở kịch vui đó, ai trái lệnh sẽ bị rút phép thông công. Tartuffe công
diễn lần đầu chỉ với 3 hồi, vở này đã bị nhà vua, dưới sức ép của thế lực tôn
giáo đã bị c6a1m diễn công khai. Đến 25/09/1664, vở kịch được diễn lại ở
Villes – Cotteret trước cung đình. Vở kịch Tartuffe bị cấm 5 năm trời là điều
không bình thường, nó chứng tỏ sự can thiệp thô bạo và ngu ngốc của quyền
lực vào vắn hóa, nghệ thuật mà quyền lực củ yếu lúc bấy giờ là Hội Thách
Thể. Molière đã nhiều lần cầu cứu vua Louis XIV bằng cách viết nhiều bức
thư tỏ ý rằng ông không hề có ý công kích giáo hội hay phê phán bất kỳ cá
nhân và tôn giáo nào, thế nhưng mọi lời cầu cứu đều trở nên vô hiệu khi áp
lực của giáo hội buộc vở kịch cấm công diễn là quá lớn.
Ngày 5 tháng 2 năm 1669, Gíao hoàng xuống chiếu bãi bỏ việc ngăn
cấm trình diễn vở Ngụy quân tử. Cuối cùng nhờ sự không ngừng phấn đấu
cho vở kịch của mình trước những thế lực thù địch, Molière đã giành chiến
thắng, lấy lại nhan đề Tartuffe và chính thức ra mắt công chúng. Tartuffe
chính là bức tranh sinh động và chân thật nhất của thời bấy giờ.
Thắng lợi nối tiếp thắng lợi, Tartuffe liên tục được trình diễn và nhận
được sự ủng hộ nồng nhiệt của công chúng. Trong năm 1669, vở kịch được
công diễn tổng cộng 45 buổi (không kể 5 buổi diễn tư trong các cung điện);
năm 1670 diễn 18 buổi; 1671 diễn 9 buổi và 1672 là 5 buổi. Tổng cộng
trước khi Molière chết (1673), vở kịch được công diễn 77 buổi. Từ năm1680
đến 1932, khi viện kịch nghệ của Pháp được xây dựng, vở Tartuffe vĩ đại đã
được công diễn 2.256 buổi . Kể từ khi kịch viện Pháp được thành lập (1680)
cho đến nay, vở được diễn nhiều nhất ở nhà hát này đó chính là vở hài kịch
Tartuffe.
• Hài kịch
Hài kịch (Tiếng Pháp: comédie) là một thể loại kịch, trong đó các tính
cách, các tình huống và hành động được trình bày dưới hình thức cười cợt
hoặc thấm đẫm chất hài.

Hài kịch trước hết nhằm vào việc cười nhạo cái xấu (cái “không xứng
đáng”, cái đối lập với lý tưởng hoặc chuẩn mực xã hội). Ở nhân vật hài kịch,
phẩm chất bên trong không tương xứng với vị trí, thân phận của nó, và do
vậy nó đáng là nạn nhân của tiếng cười. Tiếng cười hạ uy tín của các nhân
vật ấy, và bằng cách này, tiếng cười thực hiện sứ mệnh lý tưởng của mình.
Phạm vi của hài kịch rất rộng, từ châm biếm chính trị đến hài hước vui nhộn.
Phương tiện quan trọng của hiệu quả hài kịch là ngôn từ gây cười (phi
logic, không hợp tình thế, giễu nhại, mỉa mai…)
13
3. Tiếng cười khôi hài và châm biếm trong vở kịch Tartuffe
3.1 Dưới góc nhìn lịch sử xã hội

Toàn bộ vở kịch Tartuffe là một cấu trúc thống nhất giữa âm hưởng kịch
nói – hài kịch – bi kịch, mang đến cho người đọc những cái cười ra nước
mắt, những sự hài hước mang đầy chất châm biếm. Chúng ta trải nghiệm sự
khôi hài và châm biếm đó lần lượt qua từng nhân vật, qua từng xung đột
hoạt cảnh và cụ thể là qua từng lời nói, cử chỉ của nhân vật trong tác phẩm

Thoạt đầu vở kịch là tiếng cười dí dỏm sau khi nghe bà cụ “thuyết một
hồi ngoài cổng” ở đây, Molière đã để cho nhân vật Pecnel nói rất nhiều,
hòng cốt cho tự nhân vật phơi bày tính cách của mình, qua đó ta thấy rõ sự
cuồng tín của bà cũng như lòng yêu quý kính trọng nhân vật mà hầu hết
người trong nhà đều ghét bỏ đó là Tartuffe, ngoại trừ Orgông.
Tuy nhiên tiếng cười chưa dứt thì câu chuyện của Đôrin đã “đập ngay”
vào cái ví dụ của bà Pecnel về bà Ôrăngt “sống một cuộc đời gương mẫu”
nhưng thật ra bà ta “chẳng phải vì lòng yêu Chúa gì đâu, mà chỉ vì lòng ghen
ghét, họ không chịu nổi có một chị em nào khác được hưởng những lạc thú
mà cái tuổi lỡ thì bắt họ, mặc dầu thèm khát, cũng phải chịu nhịn chay”.
Đến đây thì ta dễ bật cười, nhưng tiếng cười ở đây lại là tiếng cười chế
giễu, tiếng cười mỉa mai cho không ít những quý bà, quý cô trong xã hội

Pháp đương thời. Đó là những kẻ ra mặt đạo mạo, “lớn tiếng phê bình mọi
người” vậy nhưng bên trong lại lăng loàn “thèm khát” vậy.
Tiếp đó tiếng cười lại bật lên vừa mang tính chất hài hước lại mang tính
chất mỉa mai, hài hước ở sự đối lập giữa sức khỏe Tartuffe và điệp khúc “Tội
nghiệp” điệp khúc “Còn ông Tartuffe ?” liên tục được ném ra :
- Orgông : Đôrin, hãy nói cho ta biết những gì đã xảy ra trong hai ngày
qua ?
-Đôrin : Hôm kia bà bị sốt , suốt ngày đầu đau dữ dội
-Orgông : Còn ông Tartuffe ?
14
- Đôrin : Tactuyf ấy ạ ! ông ấy khỏe tuyệt trần, béo tròn béo trục, da dẻ
hồng hào, môi đỏ chon chót .
- Orgông : Tội nghiệp !
- Đôrin : Tối đến bà còn dắng mồm đắng miệng, chả ăn được tí gì mà đầu
thì vẫn đau không ngớt .
-Orgông: Còn ông Tartuffe ?
-Đôrin : Tartuffe ấy à ? Ăn khỏe ra trò, một mình xơi luôn hai con gà gô và
một nửa cái đầu cừu băm nhỏ.
-Orgông : Tội nghiệp !
-Đôrin: Suốt đêm bà chả chợp mắt được tí nào, người nóng rừng rực .
Chúng cháu phải thức cho đến sáng để săn sóc bà.
-Orgông : Còn ông Tartuffe ?
-Đôrin : ông ấy ăn xong bị một cơn buồn ngủ kéo đến thế là lăn ngay vào
giường ấm áp đánh một giấc thẳng đến sáng hôm sau.
-Orgông : Tội nghiệp !
-Đôrin : Sau cùng chúng cháu phải nói mãi bà mới chịu để cho chích
máu , thế là người nhẹ hẳn đi.
-Orgông : Còn ông Tartuffe ?
-Đôrin : Ông ấy thức dậy, tỉnh táo lạ thường, và để chống mọi đau khổ,
ông ấy uống liền bốn cốc rượu vang lớn trong bữa sáng để bù vào chỗ máu

bà bị mất.
-Orgông : Tội nghiệp !
Sự đối lập giữa tình trạng sức khỏe bà Elmia và Tartuffe cộng với điệp
khúc “Tội nghiệp” đã tạo nên tiếng cười giòn giã.
Tuy nhiên đằng sau đó là sự mỉa mai của Molière với Orgông, hay với
xã hội bấy giờ nói chung, sự cuồng tín đã làm chủ con người Orgông, sự
sùng đạo mê muội đã manh nha phá vỡ cuộc sống hạnh phúc thường ngày
của gia đình. Mê đạo cuồng tín đã dẫn Orgông nói riêng và hầu hết xã hội
Pháp nói chung có những lối sống sai lầm, bởi lẽ trong xã hội Pháp đương
thời có không ít kẻ sùng tín mê muội như bà Pecnel hay Orgông cũng là
cách gây cười.

Cảnh Tartuffe tán tỉnh bà Elmia, hắn không chỉ dùng những lời lẽ có
cánh mà còn sử dụng những cử chỉ rất sôi nổi, bóp tay Elmia, đặt tay lên đầu
gối bà và khen “ thứ hàng dệt mịn quá” điều đáng cười là hắn đã viện cớ
rằng hắn đang “rung cảm trước những công trình hoàn mỹ do Chúa tạo ra,
mà công trình hoàn mỹ đó chính là người phụ nữ, rằng đồng thời vẻ đẹp của
Chúa được phản ánh lộng lẫy trong các bà phụ nữ mà ở Elmia phô bày
những nét đẹp tràn trề kì diệu của Chúa. Do đó, hắn lập luận “say sưa bà là
15
say sưa cảm phục Chúa” Cho nên “sinh ra mối tình nồng nhiệt” và “yêu bà
chính là thêm yêu Chúa”. Quả thực không thể nào nhịn cười trước những lời
lẽ tán tỉnh đầy bay bướm và có vẻ trung thực của tên đạo đức giả Tartuffe.
Nhưng đằng sau nụ cười đó chính là sự châm biếm, châm biếm những
kẻ tự nhận mình là chân tu, một lòng vì Chúa nhưng cũng dâm ô và đầy
nhục dục.
Hình tượng Tartuffe có ý nghĩa châm biếm rất cao. Bằng cách châm
biếm, Molière đã phủ nhận đối tượng Tartuffe trong bản chất của nó, châm
biếm vạch trần bản chất vô nhân đạo, đê tiện, gian dối được che đậy bằng cái
áo khoác đạo đức.

Cảnh mang đậm tính hài kịch nhiều hơn hết có lẽ chính là cảnh
Orgông chui dưới gầm bàn, Elmia nói ra lời lả lơi, còn Tartuffe thì khát khao
nhục dục cháy bỏng đến ngu muội. Và lúc hắn đương chuẩn bị làm cái trò
mà hắn cho là “phạm tội lặng lẽ thì cũng không phải là phạm tội” cho đến
lúc hắn xem xét cửa nhà, tiếp sau đó có lẽ là hình ảnh đáng cười nhất của cái
bộ mặt ngây ngô – Orgông khi từ dưới gầm bàn chui ra “xin thú thật, quả là
một thằng chó đểu, bây giờ tôi mới ngã ngửa ra và chết điếng cả người” .
Hàng loạt hành động kịch liên tiếp xảy ra khiến người đọc không
những cười cái hoạt cảnh của Molière dựng lên mà còn mỉa mai thay cho sự
cuồng tín của Orgông. Đến lúc Tartuffe chuẩn bị tới gần nhất để thi hành cái
trò đen tối thì ông mới chui ra khỏi gầm bàn, bởi ông quá sùng hắn, quá yêu
mến kính trọng hắn đến nỗi không tin vào vợ con đã đành, lại còn không tin
vào cả hai tai mình nữa.
Cái mù quáng đó đã suýt đẩy gia đình đến gần bờ vực tan vỡ, cũng đã
làm bật lên một tiếng cười chua xót khi cái hài của Molière đã tiến gần với
cái bi. Ông đã từng ngã giá con cái, tài sản, danh vọng để hòng ước lấy một
cuộc sống nơi thiên đường. Ông đâu hiểu rằng chỉ có sự thanh thản nơi trái
tim mới có thể đặt chân lên thiên đường chứ không thể nào nhờ một tên như
Tartuffe làm người hướng đạo vậy.
Ở kết thúc tác phẩm đáng lẽ Orgông phải chết, đáng lẽ lão phải trả giá
cho sự ngu xuẩn và mê muội của mình, gia đình Orgông tan nát là hiện thực,
bởi lẻ khi ông phát hiện ra mọi chuyện cũng là lúc ông chả còn gì, đó chính
là hiện thực của xã hội Pháp bấy giờ. Chỉ đến khi mất tất cả con người ta
mới nhận ra rằng mình đã quá sai lầm. Nhưng Moliere đã hoàn toàn làm ta
16
bất ngờ khi ông chuyển biến tình thế vở kịch một cách đáng ngạc nhiên. Tuy
nhiên Molière đã hé ra cho ta thấy cái hiện thực phũ phàng ấy rồi lại nhanh
chóng khép lại, bởi nếu như kết thúc của vở kịch là sự sụp đổ của gia đình
Orgông thì vở kịch sẽ trở thành bi kịch chứ không còn là hài kịch nữa.
Molière đã phải viện đến nhà vua để cứu nguy cho nhân vật của mình.

Thay vì để gia đình Orgông phá sản và tan nát, Molière đã cho Orgông một
bài học đó là sự mê đạo hết sức cuồng tín ở mẹ ông ta, sau khi vỡ lẽ, Orgông
tỏ ra ghét Tartuffe, nhưng mẹ ông ta vẫn cứ tin hắn. Đó là bài học hết sức
xứng đáng cho Orgông cũng như không ít dân Pháp lúc bấy giờ, ai ai cũng là
một kẻ mộ đạo cuồng tín, không còn người biết phân biệt thật giả vậy…
Tartuffe có một sức châm biếm, đả kích châm biếm mạnh mẽ. Khi vở
Trường học làm vợ đuợc diễn nói về số phận người phụ nữ là do quyền lực
của xã hội và tôn giáo thì Molière lập tức bị công kích. Bè phái “địch” tìm
cách hãm hại Molière. Ông đã trả lời họ bằng các vở “phê bình” Trường học
làm vợ , Kịch ứng diễn ở Versailles , Nguời ghét đồ (1666) nhưng cuộc tranh
luận chỉ thực sự chấm dứt khi Tartuffe được diễn công khai. Tartuffe không
chỉ là một tác phẩm hài gây cười mà còn là một tác phẩm có sức chiến đấu
và công kích rất cao.
3.2 Dưới góc nhìn đạo đức
Đạo đức giả là sự mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng, bản chất
xấu xa bỉ ổi mà hiện tượng bề ngoài lại tỏ vẻ như tốt đẹp. Nổi bật lên trong
vở kịch là tên đạo đức giả Tartuffe (tán tỉnh và chim chuột vợ Orgông,
chiếm con gái Marian, chiếm tài sản của Orgông, do thám chính trị)
Ngay từ lúc mới xuất hiện : từ ngôn ngữ, cử chỉ cho đến điệu bộ đều
có vẻ tốt đẹp, đạo đức, hắn nói với tên hầu của hắn : “Lorăng, hãy cất cho ta
cái ao gai và cái roi hành xác của ta”.Và có ai hỏi thì Khi gặp cô Đôrin -
người luôn tìm cách vạch mặt hắn thì hắn nói: “Trước khi nói xin chị hãy
cầm cái khăn tay này, chị hãy che bộ ngực kia lại, tôi không trông được,
những thứ ấy mà mắt trông thấy thì lòng sẽ nảy sinh ra những tư tưởng tội
lỗi”. Cái vẻ đạo đức được bộc lộ qua sự khổ đạo (roi hành xác, áo gai) và vẻ
đạo mạo, đứng đắn, thánh thiện, nhân ái (bố thí tiền).
Đạo đức giả thường là hai mặt tách rời, khi làm bậy thì không nói
được đạo đức và ngược lại. Nhưng Tartuffe là một kẻ đạo đức giả rất tinh vi,
vừa thuyết giảng đạo đức và vừa làm bậy.
17

Hắn tán gái (Elmia, vợ Orgông) bằng những lời sùng đạo: “Tấm lòng
thiết tha của chúng ta với những cái đẹp vĩnh cửu, không bóp nghẹt trong
chúng ta nỗi thiết tha với những cái đẹp thế tục. Chúng ta cũng dễ bị rung
cảm về những công trình hoàn mỹ mà Chúa tạo đã tạo nên. Ở riêng bà, Chúa
lại phô bày những nét kì diệu tuyệt vời nhất của Người…”, “Tôi để mặc cho
trái tim buông trôi theo nó. Xin thú thật rằng tôi muốn đem trái tim hiến
dâng cho bà…, “Ôi! Dù sùng tín tôi vẫn là người, và khi dược trông thấy sắc
đẹp thần tiên của bà thì trái tim con người bị mê đắm ngay”. Rõ ràng đây
không phải là lời lẽ của một tu sĩ chân chính.
Hắn che đậy giọng điệu tội lỗi bằng cái giọng đạo đức. Lúc gặp
Elmia, hắn tỏ tình hết sức sôi nổi, nắn bóp đầu ngón tay của Elmia, và khen
thứ hàng dệt mịn quá, hắn lập luận “say sưa bà là cảm mến Chúa.
Cái châm biếm mà Molière thể hiện ở tên giả đạo đức Tartuffe càng
rõ nét hơn khi hắn đòi ở Elmia một tình yêu cụ thể. Đó là một tên vô sỉ, đạo
đức giả khoác áo một nhà tu. Molière đã xây dựng nhân vật này thành một
kẻ đạo đức giả, cao tay, quỷ quyệt, ranh mãnh và hiểu sâu tâm lý người đời.
(Hồi III)
Khi bị Đamix phát hiện bộ mặt thật của hắn, báo cho Orgông biết thì
hắn đã nhanh chóng đối thoại một cách rất giảo quyệt và dường như đã có sự
chuẩn bị trước: “Vâng thưa ông anh, tôi là một đứa xấu, một tên tội phạm,
một kẻ tội lỗi khốn nạn đầy bất chính, một kẻ gian ác nhất từ xưa đến nay,
xin ông anh hãy tin lời mách tội, hãy nổi giận lôi đình, và đuổi tôi ra khỏi
nhà ông anh như một tên ác phạm…”. Hắn ta đã nhận hết tất cả tội lỗi về
mình, hắn đã khóa miệng Đamix bằng cách bênh vực Đamix khiến Orgông
càng tin hắn đạo đức, cao thượng không thèm chấp những người thấp kém
hơn mình. Đòn hiểm này càng làm cho Orgông tin tưởng hắn một cách tuyệt
đối nên làm giấy tờ sang tên tài sản cho hắn, gả con gái cho và cho phép ông
ta luôn luôn ở cạnh vợ mình.
Khi chỉ còn mình hắn ta và Orgông. Tartuffe phản công trở lại bằng
cách gợi lên nỗi oan ức khiến Orgông càng tin tưởng vào hắn. “Lạy Chúa,

xin Chúa hãy tha tội cho kẻ đã làm cho con đau khổ. Chỉ mong ông anh thấu
cho nỗi đau lòng của tôi khi người ta dụng tâm bôi nhọ tôi”. Qua đó ta thấy
hắn là một kẻ gian ngoan, quỷ quyệt và vô cùng khôn khéo.
Khi Elmia vì muốn chứng minh cho chồng thấy bộ mặt thật của
Tartuffe, đã sai hầu mời hắn xuống gặp riêng, lúc này bộ mặt thật của một
18
tên đạo đức giả hiện lên rõ nét nhất như Molière đã châm biếm. Đó là một kẻ
bên cạnh sự bịp bợm, xảo quyệt còn là một kẻ si tình, đam mê nhục dục, cố
gắng biện hộ cho tội lỗi, cho đạo đức giả của hắn: “Nếu chỉ lấy có Chúa ra
thôi để ngăn điều ước nguyện của tôi, thì đối với tôi triệt bỏ mối trở ngại đó
là một việc dễ như chơi, bà chẳng cần bận tâm.” Rồi thì “Tôi có thể giải cho
bà những nỗi lo sợ vớ vẩn đó. Chúa có cấm một vài thứ khoái lạc thật đấy”
(đây là lời của một kẻ vô lại).
Sự si tình, sự dâm dục và trở thành ngu ngốc trước người hắn yêu, vì
cậy hắn bị vạch mặt một cách thảm hại, nhưng vẫn không hề thay đổi bản
tính của một kẻ giả đạo đức: “Chính ông phải cút khỏi nhà này thì có, ông
đừng lên giọng chủ nhà nữa. Nhà này là của tôi rồi, định nhục mạ tôi nhưng
đừng nên đắc ý vội, những kẻ đương nói chuyện tống khứ tôi rồi cũng phải
hối hận mà xem”.
Tính cách đạo đức giả phát triển nhất quán từ đầu đến cuối. Sang hồi
V, Tartuffe quay lại bắt Orgông và hắn đã tự phơi bày cái bản chất xấu xa
tàn ác, Orgông khi này đã tỉnh ngộ, quay sang chửi mắng hắn thì hắn vẫn trơ
như đá “Vì Chúa, thân này có gan chịu đựng tất cả”, hắn còn tuyên bố sẵn
sàng hy sinh tất cả bạn bè, họ hàng, vợ con và cả bản thân hắn nữa đẻ phục
vụ đức vua để làm nhiệm vụ một kẻ bầy tôi. Molière vạch trần tính cách đạo
đức xấu xa bỉ ổi của Tartuffe, nhưng hắn không phải là nhân vật hài kịch.
Hình tượng Tartuffe có ý nghĩa châm biếm rất cao. Bằng cách châm biếm
Molière đã phủ nhận đối tượng Tartuffe trong bản chất của nó. Châm biếm,
vạch trần bản chất vô nhân đạo, đê tiện, gian dối được che đậy bằng cái áo
khoác đạo đức.

Tiếng cười bật lên ở đây là lúc nào Tartuffe cũng đưa Chúa ra để biện
hộ cho những lí lẽ của y. Tác giả còn khiến người xem cười lên khi để cho
Đôrin “miêu tả” Tartuffe là một người “béo ơi là béo”, da dẻ thắm thịt, một
mình ngốn hai con chim, nửa đùi lợn “ngay trước mặt bà chủ”, uống rượu
ừng ực. Tiếng cười của người xem bật lên ở đây là một người “thầy tu” mà
có tình phàm ăn lại thô lỗ, ăn nhiều như vậy “ngay trước mặt bà chủ” mà
không biết ngượng. Liêm sỉ và lòng tự trọng dường như không còn hiện hữu
bên hắn trong lúc này. Nhưng qua tiếng cười đó Molière cũng nhằm phê
phán những kẻ giả chân tu, thánh thiện đâu chả thấy chỉ tháy thô lỗ, phàm
ăn, nham hiểm.
3.3. Dưới góc nhìn tôn giáo:
19
Nếu như đạo đức là một vấn đề mà Molière thường đề cập đến trong
tính cách của các nhân vật mà ông thể hiện thì vấn đề tôn giáo cũng là một
vấn đề chi phối rất nhiều đến các nhân vật này. Thông qua tiếng cười khôi
hài và châm biếm thể hiện trong vở kịch, Molière đã phê phán tôn giáo vì
ảnh hưởng tác hại của nó đối với mọi người.
Trước hết, chúng ta có thể thấy sự phê phán đó được thể hiện rất rõ
thông qua các nhân vật. Có thể kể đến đầu tiên đó là nhân vật Tartuffe – một
kẻ đạo đức giả - vừa thuyết giáo đạo đức nhưng lại vừa làm bậy, hắn tán gái
bằng những lời sùng đạo. Hắn có thể đem những lời đáng lẽ là dùng cho tôn
giáo, cho đức tin chỉ để phục vụ cho việc “tán gái”:
- “Tấm lòng thiết tha của chúng ta với những cái đẹp vĩnh cửu, không
bóp nghẹt trong chúng ta nỗi thiết tha với những cái đẹp thế tục. Chúng ta
cũng dễ bị rung cảm về những công trình hoàn mỹ mà Chúa đã tạo nên.
Những vẻ đẹp của Chúa được phản ánh lộng lẫy trong các bà phụ nữ, nhưng
ở riêng bà, Chúa lại phô bày những nét kỳ diệu tuyệt vời nhất của Người…
Bà là một công trình tuyệt tác của Chúa, tôi không thể nào trông thấy bà mà
không thán phục ở nơi bà đấng sáng tạo ra trời đất, và cảm thấy trái tim bị
nung nấu bởi một mối tình nồng nhiệt trước bức chân dung đẹp nhất của

Người mà Người đã vẽ nên…”
Đó là những lời mà Tartuffe đã tán tỉnh bà Elmia – một người đã có
chồng. Bà ta là vợ của Orgông. Orgông lại là người lần này qua lần khác đã
quá cả tin Tartuffe. Và cứ như thế hắn lập luận rằng “say sưa bà là say sưa
cảm phục Chúa” cho nên “sinh ra mối tình nồng nhiệt” và “yêu bà chính là
thêm yêu Chúa”.
Khi bị người khác nghi ngờ, không vì thế mà hắn bỏ cuộc, hắn vẫn cố
gắng tạo lòng tin nơi lão chủ Orgông bởi ông ta đã hứa gả con gái và sang
tên tài sản cho hắn. Hắn đã thực hiện đòn tấn công để hạ gục hoàn toàn
Orgông:
- “Lạy chúa, xin chúa tha tội cho kẻ đã làm cho con đau khổ. Chỉ
mong ông anh thấu cho nỗi đau lòng của tôi khi người ta dụng tâm bôi nhọ
tôi”.
Mãi cho đến khi hắn bị phơi bày ra cái bản chất xấu xa thì hắn vẫn lấy
Chúa, lấy niềm tin tôn giáo ra để che cái bộ mặt xấu xa đó: “Vì Chúa, thân
này có gan chịu đựng tất cả”.
20
Chi tiết Tartuffe ăn cắp cái tráp đựng tài liệu quốc cấm đã gợi lên tình
hình thời sự lúc bấy giờ. Hội Thánh Thể do mẹ vua đứng đầu là một tổ chức
tôn giáo nhưng thực chất là một tổ chức do thám chính trị, phục vụ đắc lực
cho chính quyền quân chủ chuyên chế. Do đó, nhiều tác phẩm bị đốt, nhiều
người bị bắt, tự do bị bóp nghẹt. Tartuffe là một nhân viên của hội này. Vì
vậy, qua việc đả kích tính đạo đức giả, Moliere đã lên án tôn giáo – công cụ
đàn áp tự do, bóp nghẹt dân chủ dưới chế độ quân chủ chuyên chế, đồng thời
cũng phê phán luôn cái chế độ chuyên chế này. Đó là ý nghĩa chính trị của
vở kịch. Phê phán Tartuffe, Moliere đồng thời phê phán luôn cái chế độ đã
nuôi dưỡng hội Thánh Thể và để cho nó gây bao nhiêu tác hại trong xã hội.
Thực chất thì hội Thánh Thể và nhà nước quân chủ chuyên chế là một.
Ngoài nhân vật Tartuffe thì Orgông cũng là nhân vật được Moliere thể
hiện nhiều nét tính cách thông qua tôn giáo.Nếu như Tartuffe là kẻ đã dùng

tôn giáo như một thứ để mà gây cho người khác niềm tin nơi mình thì
Orgông lại là một kẻ mê đạo thật. Và chính vì mê đạo nên lão ta đã trở thành
nạn nhân của Tartuffe. Chính vì lẽ đó mà qua nhân vật Orgông, Molière còn
lên tiếng phê phán những người sùng đạo mù quáng, phê phán tôn giáo và
nhà thờ. Orgông là nhân vật sùng đạo kỳ quặc. Bản thân ông ta không sợ
một cái gì trong trật tự hiện thời cả; bản thân ông ta là hiện thân của một
quyền lực tối cao trong một gia đình giàu có, tiền nhiều của lắm, đầy tớ gia
nhân đầy đàn đầy lũ, khách khứa dập dìu không ngớt. Lão ta chỉ có duy nhất
một cái sợ: đó là sợ bị đày đọa trong địa ngục. Sợ bị đày đọa trong địa ngục
nên hắn thiết tha muốn được lên thiên đường.Trong khi đóTartuffe, dưới con
mắt lão ta là hiện thân của thiên đường, là ông Thánh sống. Chính vì tin
tưởng tên Tartuffe nên lão có thể làm mọi việc kể cả đem con gái gả cho
Tartuffe, bất chấp mọi dư luận gia đình. Tiếng cười bật lên ở đây mang một
tính chất hài hước, mỉa mai. Hài hước ở chỗ đối lập giữa thực trạng Tartuffe
và cái điệp khúc “tội nghiệp” được hắn ném ra mỗi khi nói chuyện về ai đó.
Mỉa mai ở chỗ, sự cuồng tín đã bắt đầu làm chủ con người Orgông – sự sùng
đạo mê muội bắt đầu ra hoa kết quả. Lòng mê đạo cuồng tín đã dẫn hắn đến
một sự mù quáng ngu xuẩn.
Tính cách của Orgông được khắc họa một cách hiện thực. Từ một
công dân đã phục vụ nhà vua và Tổ quốc một cách xứng đáng, từ một người
cha đứng đắn trong gia đình, do sự mua chuộc, dụ dỗ của Tartuffe, đã trở
thành một kẻ cuồng tín dại dột mất hết những tình cảm thông thường nhất
của một người chồng, một người cha, sẵn sàng hi sinh tất cả tài sản và hạnh
phúc gia đình cho “tình yêu Chúa”. Molière đã chứng minh rằng, tôn giáo có
thể đưa con người vào con đường lầm lạc, tai hại.
21
Molière đã phê phán tôn giáo, phê phán nhà thờ. Ông chưa đi đến một
thứ chủ nghĩa vô thần, nhưng ông quan niệm về một thứ tôn giáo chung của
toàn thể loài người, có thể đoàn kết tất cả mọi người trong một tình thương
yêu rộng lớn; ông phản kháng thứ tôn giáo làm cho con người thù ghét nhau,

gây ra những cuộc nội chiến đẫm máu ở nước Pháp. Đồng thời, chúng ta có
thể thấy tôn giáo đã phát huy sức mạnh của nó trong việc tha hóa con người.
Tha hóa hiểu nôm na là sự tự đánh rơi mình của con người. Con người đã
sáng tạo ra tôn giáo và cuối cùng lại trở thành nô lệ của chính cái thần tượng
do mình nặn ra. Orgông từ chỗ mê đạo, sùng đạo đã mắc hoàn toàn vào cái
cạm bẫy đạo đức giả, đã biến mất, mất hết lương tri và do đó lão đã đẩy mọi
người trong gia đình đến tai họa.
Thông qua tác phẩm “Tartuffe” – một vở hài kịch tính cách nổi tiếng
của Moliere, chúng ta thấy vở kịch đã bóc trần sự giả dối và tính chất tội lỗi
của ý thức hệ nhà thờ, muốn dùng thần quyền để lãnh đạo mọi người. Thông
qua đó, Moliere còn phê phán chế độ nhà nước quân chủ chuyên chế và sự
cấu kết chặt chẽ của nó đối với nhà thờ.
III. Nghệ thuật xây dựng tác phẩm
1. Ngôn ngữ
Nghệ thuật ngôn từ được Molière sử dụng trong tác phẩm chính là
ngôn ngữ của nhân vật, ngôn ngữ hí kịch, ngôn ngữ sân khấu.
Ngôn ngữ dí dỏm, khôi hài và cũng đầy chất mỉa mai : “bà ấy cũng đã
tận hưởng duyên xuân ra phết đấy ạ” hay là “mặc dầu thèm khát cũng phải
chịu chay.”
Sử dụng nhiều phuơng ngữ, thành ngữ, như “thối thịt dày da” “say mê
như điên như dại” hay “Thằng ngu đánh vần bằng ba chữ”.
Sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, khôn khéo, phù hợp với từng nhân vật,
từng ngữ cảnh.
Molière đã sử dụng rất thành công nghệ thuật điệp từ, rất rõ nét trong
đoạn hội thoại giữa Orgông và Đôrin : Điệp ngữ “tội nghiệp”, “Thế còn
Tactuyf ?” được nhắc đến bốn lần, và hầu như những câu hội thoại giữa
Orgông và Đôrin ở lớp IV hồi I không nói gì thêm ngoài hai điệp ngữ ấy.
22
Bên cạnh đó, Tartuffe còn mang tính chất bi kịch nên cũng không có ít
đoạn, Molière đưa vào những cao trào đầy cảm xúc : “Cha đã sinh con ra

làm người, than ôi ! Thì xin cha đừng làm cho đời con thành đời vô phúc”.
Trong Tartuffe, Molière dùng nhiều câu, từ ngữ bỏ lửng :
Đôrin : Nếu như…
Đamix : Nhưng mà…
Marian : Cháu nghĩ rằng…
Elmia : Nhưng, thưa mẹ…
Clêăngt : Nhưng, thưa cụ, xét cho cùng…
Với việc bỏ lửng những câu nói này đã gây nên tiếng cuời khôi hài.
Nhiều nhân vật bị đặt vào thế bị động, tất cả đều phải “im lặng” trước nguời
đàn bà không những cuồng tín mà còn rất độc đoán – bà Pecnel.
Molière đã rất khéo léo và tỉnh táo khi chọn lời thoại cho nhân vật.
Tùy tình huống, hoàn cảnh và tính cách nhân vật mà tác giả đã đặt trong tác
phẩm của mình có nhiều đoạn hội thoại nhân vật nói rất nhiều, và rất dài,
như đoạn hội thoại giữa Orgông và Clêăngt ( hồi V lớp I ) và cũng có nhiều
đoạn hội thoại mà nhân vật nói những câu rất ngắn, duờng như bị luợc bỏ rút
gọn như đoạn hội thoại giữa Orgông và Clêăngt ( hồi V lớp I )
2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Với Tartuffe, Molière xây dựng nhân vật rất mẫu mực, vừa “cổ điển”
vừa Barôc, gây tiếng cười khi ồn ào khi kín đáo. Quyền lực nhà thờ bị phanh
phui , và đưa lên sân khấu làm trò cười cho thiên hạ.
Ông đã tìm đuợc chìa khóa của nghệ thuật hài kịch – nghệ thuật gây
cuời. Sự pha trộn tuơng phản giữa cái cứng đơ và cái sống động, hai con
người trong một con người. Cái cô độc – tức cái Barôc, cái không ăn khớp,
cái máy móc. Tất cả được đưa lên cao tạo nên hiệu quả bất ngờ.
Tartuffe là một vở kịch vì vậy nghệ thuật xây dựng nhân vật là yếu tố
quan trọng nhất tạo nên cái hay cho tác phẩm. Trong Tartuffe, Molière đã
xây dựng các nhân vật của mình một các độc đáo và rất tài tình. Mỗi nhân
vật đều có những dáng dấp, ngôn ngữ và cử chỉ riêng…
Trước hết là nhân vật chính của vở kịch – Tactuyf – một kẻ đạo đức
giả, một kẻ giả sùng tín. Từ ngôn ngữ, cử chỉ, điệu bộ đều có vẻ tốt đẹp, đạo

23
đức như lúc hắn nói chuyện với tên hầu của hắn và lấy khăn tay đưa cho
Đôrin che ngực khi nói chuyện…Tuy vậy chẳng mấy chốc bản chất thực của
hắn nhanh chóng bị lộ tẩy, đó là khi hắn giở trò tán tỉnh Elmia, rồi sau đó là
khi hắn nhận tất cả lỗi của mình lúc bị Đamix vạch mặt…
Tuy nhiên, Molière cũng đã tạo nên một Tactuyf rất quỷ quyệt, ranh
mãnh và hiểu sâu tâm lý người đời. Nghệ thuật xây dựng tính cách đánh dấu
một bước tiến quan trọng trong sự sáng tạo của Molière, Tactuyf được mô tả
như là một tên đạo đức giả cao tay, thâm hiểm, đáng sợ nhưng lại được che
giấu khéo léo dưới một bộ mặt dịu dàng, lời nói đầy tính thuyết giáo. Tuy
vậy nhược điểm đánh bại hắn chính là sự si tình và thói dâm dục, vì vậy mà
hắn bị vạch mặt một cách thảm hại ( kiểu gậy ông đập lưng ông – cũng là
một yếu tố rất hài hước).
Chúng ta biết rằng Tactuyf là một kẻ đạo đức giả đội lốt chân tu,
nhưng nhân vật Orgông lại là một kẻ cực kì mê đạo, bởi lẽ ông có quá nhiều
thứ trên trần gian rồi chăng ? Ông bằng lòng gạt qua tất cả từ vợ con đến của
cải, ông sẵn sàng dâng hết cho Chúa, để mong không bị đày đọa trong địa
ngục, ông thiết tha muốn lên thiên đường đến nỗi không còn có thể phân biệt
dược thật giả, cuối cùng trở thành một kẻ mù quáng và ngu xuẩn. Molière đã
miêu tả tính cách của Orgông một cách hiện thực, từ một kẻ phục vụ tốt cho
nhà vua, cho Tổ quốc, từ một người cha đứng đắn trong gia đình, do sự mua
chuộc, dụ dỗ của Tactuyf, ông đã trở thành một kẻ cuồng tín dại dột, mất hết
tài sản và hạnh phúc gia đình…
Clêăng là nhân vật đại diện cho lương tri của thế kỷ XVII, lương tri
của tầng lớp tư sản tiến bộ, là người hiều nhiều biết rộng, biết phân biệt thật
giả tốt xấu, biết phân biệt chân tu và giả đạo, ông không tán thành cực tả
cũng như cục hữu. Triết lý sống của ông là không quá trớn, không quá đà…
Đôrin là nhân vật tích cực đẹp nhất của vở kịch, cô đứng về phía
hạnh phúc tự nhiên của con người, đứng về phía hạnh phúc của đôi tình
nhân Valer –Marian, đứng về phía lẽ phải chống lại đạo đức giả, chống lại

tôn giáo (chi tiết lấy Liệt thánh tinh hoa ép khăn tay). Với một lương tri sáng
suốt, Đôrin đã góp phần vạch trần bộ mặt của tên đạo đức giả Tactuyf, hình
ảnh cô đại diện cho ánh sáng niềm tin lí trí, là niềm lạc quan của nhân dân và
là biểu tượng sức mạnh của quần chúng nhân dân lao động. Tuy là một
người hầu gái nhưng cô luôn đấu tranh một cách cương quyết, thông minh
và khôn khéo. Điều này thể hiện rất rõ trong thái độ của cô đối với từng loại
24
nhân vật. Đó là một cô gái sắc sảo, tế nhị, biết đánh giá đúng về những
người xung quanh.
Sở dĩ Molière đã thành công khi xây dựng nhân vật này bởi ảnh
hưởng của mười năm lưu lạc kiếm sống trên khắp mọi miền đất nước Pháp.
Cách xây dựng nhân vật khéo léo, tài tình và đặc sắc đã khiến cho vở
kịch thêm thành công, làm nổi bật giá trị và tư tưởng của tác phẩm.
Molière xây dựng nhân vật trung tâm là kiểu nhân vật phát ra “điện
lực” cơ bản của tiếng cuời, là nhân vật gây biến động cho cốt truyện, dẫn dắt
hành động kịch, là động lực các diễn biến, tâm lý của các nhân vật khác.
Một số ý kiến cho rằng Orgông là nhân vật trung tâm (Orgông nói nhiều hơn
Tactuyf ) . Tuy nhiên sự xuất hiện hoặc số luợng lời nói không quyết định
vấn đề nhân vật trung tâm, chính Tactuyf đáp ứng vấn đề lý luận về nhân vật
trung tâm đã nêu trên. Molière để cho Tactuyf xuất hiện ít nhưng lại xuất
hiện ở những hồi cơ bản nhất, xáo động nhất.
Ở hài kịch, nhân vật trung tâm thường xuất hiện ngay từ đầu, nhưng
Molière lại để cho nhân vật phụ xuất hiện trước. Và việc xây dựng hai nhân
vật hài chứ không phải một (Orgông và Tactuyf ) cả hai yếu tố đó là sáng tạo
độc đáo của Molière làm cho cái cười đa diện hơn và mang ý nghĩa xã hội
rộng lớn hơn .
3. Hành động kịch

Tactuyf là tên đạo đức giả, mưu mô, xảo quyệt, điều đó được làm rõ
qua từng hành động của y trong vở kịch.

Tác phẩm gồm 5 hồi , hồi I : 5 lớp ; hồi II : 4 lớp ; hồi III : 7 lớp ; hồi
IV : 8 lớp ; hồi V : 7 lớp. Mỗi hồi là một hành động lớn, và mỗi lớp là mỗi
hành động nhỏ, tạo nên một kết cấu đơn lẻ trong thống nhất, hài hòa cân đối.
Hành động kịch diễn biến trong 5 hồi hoàn toàn có khả năng miêu tả quá
trình hành động của nhân vật và qua đó để nhân vật bộc lộ tính cách một
cách đầy đủ.
Tartuffe chỉ có một hành động kịch lớn là việc Tactuyf xảo quyệt
nham hiểm trong chiếc áo thầy tu, nó dựa trên một sự kiện : sự cuồng tín của
Orgông và Pecnel. Sự kiện khởi đầu này dẫn dắt cốt truyện phát triển. Nó là
25

×