LUẬN VĂN:
Xây dựng quan hệ phân phối hợp lí ,
phù hợp với hoàn cảnh của đất nước
Mở đầu
Đất nước ta đang trên con đường xây dựng chế độ xã hội cộng sản chủ nghĩa
.Mục đích cao nhất của chế dộ xã hội này là bảo đảm thỏa mãn đầy đủ nhất mọi nhu
cầu vật chất , văn hóa và sự phát triển tự do, toàn diện của mọi thành viên trong xã
hội. Do đó nguyên tắc phân phối trong CNCS là “làm hết năng lực , phân phối theo
nhu cầu “.Tuy nhiên , trong điều kiện nước ta hiện nay đang trong thời kì quá độ lên
CNXH thì cần phải xây dựng quan hệ phân phối hợp lí , phù hợp với hoàn cảnh của
đất nước. Vì vậy quan hệ phân phối dã trở thành vấn đề nghiên cứu không những của
những nhà lãnh đạo, hoạch định chính sách mà còn của tất cả những ai quan tâm tới
sự phát triển của đất nước. Việc nghiên cứu vấn đề này có tầm quan trọng rất lớn vì
nó sẽ tạo điều kiện để hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước ta trong thời gian tới, từ
dó làm tiền dề tiến lên CNXH, xây dựng đất nước ngày một giàu mạnh hơn , văn
minh hơn , có thể sánh vai với các cường quốc trên thế giới.
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về phân phối
1.1. Một số lý thuyết phân phối thu nhập
1.1.1.Lý thuyết phân phối thu nhập của Adam Smith và David Ricardo
* Lý luận về tiền lương
Theo Adam Smith trong xã hội nguyên thủy trước CNTB thì toàn bộ sản phẩm
thuộc về người lao động . Điều dó có nghĩa là ông dã khẳng dịnh rằng một khi người
lao động làm việc bằng chính những tư liệu sản xuất và ruộng đất của mình thi lẽ
công bằng là người sản xuất dó phải nhận dược sản phẩm toàn vẹn của lao động của
họ.Nhưng trong điều kiện XHTB , người lao động bây giờ mất hết TLSX buộc phải
trở thành người làm thuê cho các chủ tư bản. Trong điều kiện như vậy, người làm
thuê chỉ nhận dược một số tiền từ phía chủ sau khi đã làm việc cho chủ với môt thòi
gian nhất định. Số tiền dó gọi là tiền lương. Vậy tiền lương của những người công
nhân làm thuê không phải là toàn bộ giá trị sản phẩm lao động của họ, thực ra nó chỉ
là một bộ phận giá trị đó.
Adam Smith xác định cơ sở của tiền lương là giá trị những tư liệu sinh hoạt
cần thiết để nuôi sống người công nhân làm thuê và giáo dục , nuôi dưỡng con cái
anh ta để có thể đưa ra thay thế trên thị trường lao động.
Ông chỉ dưa ra mức bình thường của tiền lương và cho rằng tiền lương phải
đạt được ở mức ( giới hạn) tối thiểu. Theo Adam Smith tiền lương không được hạ
thấp quá giới hạn đó, vì nếu như thấp hơn giới hạn này sẽ là một thảm họa cho sự tồn
tại của các dân tộc. Bằng những cứ liệu khoa học ông chỉ ra rằng mức lương thấp hơn
giới hạn tối thiểu chỉ có ở những nước đang diễn ra sự thoái hóa về kinh tế . Còn ở
những nước đang có nền kinh tế phát triển nhanh thì tiền lương ngoài mức tối thiểu
ra còn có một phần khác cao hơn. Phần này do mức tiêu dùng , truyền thống văn hóa
quyết định . Tiếp tục sự nghiệp của Adam Smith , David Ricardo cho rằng giá trị tạo
ra gồm hai phần : Tiền lương và lợi nhuận và ông khẳng định sự đối kháng giữa tiền
lương và lợi nhuận. Ông nhận thấy quy luật của tư bản là : Năng suất lao động tăng
lên , tiền lương giảm và lợi nhuận tăng . Ông có ý đồ giải quyết việc xác định tiền
lương theo quy luật giá trị nhưng không thành công do chưa phân biệt được lao động
và sức lao động. Một trong những công lao to lớn của David Ricardo là phân tích tiền
công thực tế và xác định nó như phạm trù kinh tế. Ông nhấn mạnh lượng hành hóa
mà người công nhân mua được bằng tiền công chưa quyết định địa vị xã hội của
người đó. Sự quyết định tình cảnh của công nhân phụ thuộc vào mối quan hệ giữa
tiền lương và lợi nhuận .
*Lý luận về lợi nhuận.
Theo Adam Smith , ông coi lợi nhuận là sản phẩm của lao động làm thuê của
người công nhân cho nhà Tư bản , là kết quả lao động không được trả công của người
công nhân làm thuê. Vậy thực chất lợi nhuận đó là thu nhập bóc lột của chủ tư bản
đối với những người làm thuê.
Theo Adam Smith , lợi nhuận là “khoản khấu trừ thứ hai “ vào sản phẩm của
lao động và ông tiến dần tới việc hiểu lợi nhuận , địa tô và lợi tức chỉ là những hình
thái khác nhau của giá trị thặng dư. Ông đã nhìn thấy xu hướng chia nhau lợi nhuận
theo quy luật tỉ suất lợi nhuận bình quân. Ông nhất quán một quan điểm khi cho rằng
giá trị là do công nhân tạo ra lớn hơn số tiền công mà họ nhận được. Vậy phần giá trị
còn lại mà họ không nhận được chính là lợi nhuận. Cả Adam Smith và David ricardo
đều khẳng định: trong nền kinh tế nếu như tỉ suất lợi nhuận có xu hướng giảm sút là
nguy cơ trì trệ của nền kinh tế. Khẳng định thu nhập của chủ doanh nghiệp là động
lực thúc đẩy hoạt động của các nhà sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tính tích cực đầu tư
, vì thu nhập cao sẽ khuyến khích mọi người mở rộng đầu tư dẫn đến kinh tế phát
triển nhanh.
* Lý luận về địa tô.
Theo Adam Smith , địa tô là khoản khấu trừ đầu tiên vào sản phẩm lao động.
Về mặt lượng nó chính là số dôi ra ngoài tiền lương của công nhân và lợi nhuận của
nhà tư bản. Ông phát hiện ra một điều quan trọng : độc quyền tư hữu ruộng đất là
điều kiện chiếm hữu địa tô thông qua việc coi địa tô như là “tiền trả cho viêc sử dụng
đất đai”.
Một trong những công lao to lớn của Adam Smith là đã chỉ ra mức địa tô của
mảnh ruộng là do thu nhập của mảnh ruộng đó quyết định. Việc kế thừa và phát triển
của David Ricardo trong phân tích địa tô là một công lao to lớn của ông . Ông đã
phân tích địa tô trên cơ sở lí luận giá trị-lao động. Ông bác bỏ lí luận địa tô là sản vật
của những lực lượng tự nhiên hoặc do năng suất lao động đặc biệt trong Nông nghiệp
mang lại. Ông nhấn mạnh rằng địa tô hình thành không ngược với quy luật giá trị mà
tuân theo quy luật giá trị. Cụ thể ông cho rằng , giá trị nông phẩm được hình thành
trên điều kiện ruộng đất xấu nhất vì ruộng đất là yếu tố khan hiếm nên xã hội phải
canh tác trên cả ruộng đất xấu . Do đó , nhà tư bản kinh doanh trên ruộng đất và trung
bình thu được lợi nhuận siêu ngạch.Lợi nhuận siêu ngạch này phải nộp cho địa chủ.
Hạn chế của Adam Smith và David Ricardo là mới chỉ dừng lại nghiên cứu ở địa tô
chênh lệch I, chưa nghiên cứu địa tô chênh lệch II và phủ nhận địa tô tuyệt đối.
1.1.2. Lý thuyết phân phối thu nhập của Mác.
* Về tiền lương .
C.Mac chỉ rõ , công nhân làm việc cho các nhà tư bản trong một thời gian nào
đó , sản xuất ra một lượng hàng hóa nào đó thì nhận được một số tiền trả công nhất
định. Tiền trả công đó chính là tiền lương. Tiền lương không phải là giá trị hay giá cả
của lao động vì lao động không phải là hàng hóa và không phải là đối tượng mua
bán. Cái mà công nhân bán cho nhà tư bản , cái mà nhà tư bản mua của công nhân là
sức lao động. Từ việc giải thích đó , C.Mac khẳng định bản chất của tiền lương dưới
CNTB là giá trị hay giá cả của sức lao động, nhưng lại biểu hiện ra bên ngoài như giá
trị hay giá cả của lao động.
C.Mac đã chỉ ra hai hình thức cơ bản của tiền lương :tiền lương tính theo thời gian và
tiền lương tính theo sản phẩm . Ông còn phân tích sự khác nhau giữa tiền công danh
nghĩa và tiền công thực tế và khẳng định nếu khoảng cách giữa chúng càng lớn thì đó
là nguy cơ đối với cuộc sống của người làm công ăn lương.
* Về lợi nhuận.
C.Mac khẳng định lợi nhuận là một bộ phận giá trị do công nhân tạo ra và
thuộc về các chủ tư bản. Ông khẳng định trong điều kiện tự do cạnh tranh , các nhà tư
bản phân chia nhau lợi nhuận theo quy luật ti suất lợi nhuận bình quân. Tỉ suất lợi
nhuận bình quân là tỉ số tính theo % giữa tổng số giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản
ứng trước trong xã hội. Trong điều kiện TBCN ông chỉ ra rằng tỉ suất lợi nhuận cao
hay thấp phụ thuộc vào nhiều nhân tố khách quan như : tỉ suất giá trị thặng dư, sự tiết
kiệm của tư bản bất biến, … Đồng thời ông vạch rõ do tác động của hai loại nhân tố
ảnh hưởng trái chiều đối với tỉ suất lợi nhuận nên trong điều kiện của CNTB tỉ suất
lợi nhuận có xu hướng giảm sút.
* Về lợi tức.
C.Mac chỉ ra rằng trong XHTB luôn tồn tại một số người với tư cách là ông
chủ sở hữu tiền tệ, chuyên cho vay để kiếm lời ( hưởng lợi tức). Lợi tức là một phần
lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà tư bản cho vay ứng với số
tiền mà nhà tư bản cho vay đã đưa cho nhà tư bản vay sử dụng. Lợi tức vận động
theo quy luật tỉ suất lợi tức, đó là tỉ lệ % giữa tổng số lợi tức và số tư bản tiền tệ cho
vay. Tỉ suất lợi tức lại phụ thuộc vào tỉ suất lợi nhuận bình quân.
* Về địa tô TBCN .
C.Mac đã trình bày lí luận này dưới ánh sáng lí luận giá trị - lao động. Theo
ông , địa tô TBCN là một phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã trừ đi phần lợi
nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất. Thực chất của địa tô là lợi
nhuận siêu ngạch .
Khác với các nhà kinh tế học trước đó, C.Mac đi vào phân tích cặn kẽ các loại địa tô
chủ yếu dưới CNTB. Ông cho rằng dưới CNTB có hai loại địa tô chủ yếu là : địa tô
chênh lệch và địa tô tuyệt đối.
1.1.3. Lý thuyết hiện đại về phân phối thu nhập.
* Lý thuyết phân phối thu nhập của John Bates Clark.
Quan điểm của John Bates Clark là phân phối thu nhập dựa trên cơ sở vai trò
của các yếu tố sản xuất. Ông là đại biểu của trường phái giới hạn Mĩ. Trên cơ sở lý
thuyết năng suất giới hạn , Clark đưa ra lý luận về tiền lương và lợi nhuận .Ông sử
dụng lý luận năng lực chịu trách nhiệm dể phân tích. Theo lý luận này thu nhập là
năng lực chịu trách nhiệm của các nhân tố sản xuất. Ở đây công nhân có lao động ,
nhà tư bản có tư bản . Họ nhận được sản phảm giới hạn tương ứng . Theo Clark , tiền
lương của công nhân bằng sản phẩm giới hạn của lao động. Phần còn lại là thặng dư
của người tiêu dùng lao động. Với sự phân phối như vậy , Clark cho rằng sẽ không
còn sự bóc lột nữa vì người công nhân giới hạn đã nhận được sản phẩm đầy đủ do
anh ta tạo ra , do đó anh ta không bị bóc lột. Những người công nhân khác cũng sẽ
nhận được tiền lương theo mức tiền lương của người công nhân giới hạn nên không
bị bóc lột .Nguyên tắc phân phối này của Clark được áp dụng để trả công cho các yếu
tố sản xuất.
Lý thuyết của J.B.Clark là phù hợp với định giá vĩ mô có tính chất thực tế của
bất cứ số lượng nào của các yếu tố sản xuất ở đầu vào . Tuy nhiên , nó vẫn chưa phải
là một lý thuyết hoàn chỉnh về phân phối. Cùng với sự phát triển của kinh tế thì nhiều
lý thuyết kinh tế mới lần lượt xuất hiện để tiếp tục giải thích và bổ sung cho các lý
thuyết trước đó.
* Lý thuyết phân phối của Alfred Marshall.
Marshall là người sáng lập ra trường phái Cambridge (Anh). Ông đưa ra lý
thuyết giá trị , phân phối và trao đổi. Trong lý thuyết của mình A.Marshall cho rằng “
lợi tức cổ phần “ của mỗi quốc gia vừa là sản phẩm ròng của các yếu tố sản xuất ,
vừa là nguồn duy nhất của những khoản thanh toán của các yếu tố đó.
Lý thuyết chỉ rõ trên thực tế giới hạn của việc sử dụng các nhân tố sản xuất bị
chi phối bởi những điều kiện chung của cầu so với cung . Tiền công của người lao
động chính là những phí tổn cần thiết để nuôi dưỡng giúp đỡ người lao động duy trì
năng lực của họ. Tiền công có xu hướng đi đến sự cân bằng với sản phẩm ròng của
lao động Năng suất giới hạn của lao động cao thì sản phẩm ròng của lao động sẽ cao
và tiền công sẽ cao. Mức cân bằng tiền công phụ thuộc trực tiếp vào năng suất trung
bình của ngành sản xuất mà người lao động làm việc. Lợi tức là cái giá phải trả cho
việc sử dụng tư bản . Nó đạt được ở mức cân bằng cung và cầu về tư bản . Còn lợi
nhuận là tiền thù lao thuần túy cho năng khiếu quản lý kinh doanh sử dụng tư bản và
năng lực tổ chức hoạt động sản xuất.
* Lý thuyết của A. Pigou.
Tiếp thu quan điểm của A. Marshall, Pigou – người sáng lập “kinh tế học phúc
lợi “ cho rằng phúc lợi kinh tế phụ thuộc vào lượng thu nhập quốc dân , tình hình
phân phối thu nhập quốc dân và tình hình sử dụng thu nhập quốc dân . Để phân phối
thu nhập quốc dân , ông cho rằng bất kì biện pháp nào có thể làm tăng thu nhập thực
tế của người nghèo mà không làm giảm thu nhập quốc dân đều sẽ làm tăng phúc lợi
kinh tế.
Theo Pigou , bằng con đường điều chỉnh thu nhập quốc dân cũng có thể tăng phúc lợi
kinh tế. Về phương thức điều chỉnh ông cho rằng điều chỉnh tự nguyện tốt hơn điều
chỉnh cưỡng chế.
* Lý thuyết của P.A. Samuelson.
Những tư tưởng phân phối của các nhà kinh tế học hiện đại được tiếp tục trình
bày trong “Kinh tế học “ của P.A.Samuelson. Trong tác phẩm này ông đã trình bày
các quan điểm về tiền lương , tiền thuê và lợi nhuận hay phân phối thu nhập.
Đăc biệt chú ý là P.A . Samuelson đã trình bày các công cụ điều tiết phân phối thu
nhập thông qua các chính sách thuế và chương trình giảm bớt nghèo khổ.
Ông đã chỉ ra các loại thuế và phương thức đánh thuế . Cùng với thuế , Nhà nước còn
dùng các công cụ thanh toán chuyển khoản thông qua bảo hiểm và trợ cấp như: bảo
hiểm xã hội , bảo hiểm thất nghiệp,…
1.2.Bản chất quan hệ phân phối .
1.2.1. Phân phối là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội.
Quá trình tái sản xuất xã hội , theo nghĩa rộng , bao gồm 4 khâu : sản xuất –
phân phối – trao đổi- tiêu dùng . Các khâu này có quan hệ chặt chẽ với nhau , trong
đó sản xuất là khâu cơ bản đóng vai trò quyết định , các khâu khác phụ thuộc vào sản
xuất nhưng chúng có quan hệ trở lại đối với sản xuất cũng như ảnh hưởng lẫn nhau.
Trong quá trình tái sản xuất xã hội , phân phối và trao đổi là các khâu trung gian nối
sản xuất và tiêu dùng.
Phân phối bao gồm : phân phối cho tiêu dùng sản xuất , là tiền đề , điều kiện
và là một yếu tố sản xuất nó quyết định quy mô, cơ cấu và tốc độ phát triển của sản
xuất. Phân phối thu nhập quốc dân hình thành thu nhập của các tầng lớp dân cư trong
xã hội. Phân phối thu nhập là kết quả của sản xuất , do sản xuất quyết định. Tuy là
sản vật của sản xuất , song sự phân phối có ảnh hưởng không nhỏ dôi với sản xuất.
Nó cũng liên quan mật thiết với việc ổn định tình hình kinh tế - xã hội và nâng cao
đời sống nhân dân .
1.2.2. Phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất.
C.Mac đã nhiều lần nêu rõ quan hệ phân phối cũng bao hàm trong phạm vi
quan hệ sản xuất : “ quan hệ phân phối về thực chất cũng đồng nhất với quan hệ sản
xuất , rằng chúng cấu thành mặt sau quan hệ sản xuất ấy “. Xét về quan hệ giữa
người và người thì phân phối do QHSX quyết định. Vì vậy mỗi PTSX có quy luật
phân phối của cải vật chất thích ứng với nó. QHSX như thế nào thì quan hệ phân
phối như thế ấy. Cơ sở của quan hệ phân phối là quan hệ sở hữu về TLSX và quan hệ
trao đổi hoạt động cho nhau. Sự biến đổi lịch sử của LLSX và QHSX kéo theo sự
biến đổi của quan hệ phân phối. Quan hệ phân phối có tác động trở lại đối với quan
hệ sở hữu và do đó đối với sản xuất có thể làm tăng hoặc giảm quy mô sở hữu , hoặc
cũng có thể làm biến dạng tính chất của quan hệ sở hữu . Các quan hệ phân phối vừa
có tính đồng nhất vừa có tính lịch sử. Tính đồng nhất thể hiện ở chỗ, trong bất cứ xã
hội nào sản phẩm lao động cũng được phân chia thành : một bộ phận cho tiêu dùng
sản xuất , một bộ phận để dự trữ và một bộ phận cho tiêu dùng chung của xã hội và
cho tiêu dùng cá nhân. Tính lịch sử của quan hệ phân phối là mỗi xã hội có quan hệ
phân phối riêng phù hợp với tính chất của quan hệ sản xuất của xã hội đó, nghĩa là
quan hệ phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất và cũng như quan hệ sản xuất, nó
có tính lịch sử. Cac Mac viết: “quan hệ phân phối nhất định chỉ là biểu hiện của một
quan hệ sản xuất lịch sử nhất định”. Do đó , mỗi hình thái phân phối đều biến đi cùng
một lúc với phương thức sản xuất nhất định tương ứng với hình thái phân phối ấy.
Chỉ thay đổi được quan hệ phân phối khi đã cách mạng hóa được quan hệ sản xuất đẻ
ra quan hệ phân phối ấy.
1.3.Nguyên tắc phân phối ở nước ta hiện nay
1.3.1.Cơ sở khách quan của viếc tồn tại nhiều hình thức phân phối ở nước ta
hiện nay
Xuất phát từ yêu cầu của các nền kinh tế khách quan và từ đặc điểm kinh tế
xã hội nước ta, trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta tồn tại nhiều hình
thức phân phối thu nhập.Đó là vì :
+ Thứ nhất , nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần có
nhiều hình thức sở hữu khác nhau.
+ Thứ hai , trong nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều phương thức
kinh doanh khác nhau.
Vì vậy không thể có một hình thức phân phối thu nhập thống nhất, trái
lại có nhiều hinh thức phân phối khác nhau.
1.3.2.Các nguyên tắc (hình thức) phân phối ở nước ta hiện nay
*Một là , phân phối theo lao động
Phân phối theo lao động là phân phối trong các đơn vị kinh tế dựa trên cơ sở
sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất hoặc các hợp tác xã cổ phần mà phần góp vốn
của các thành viên là bằng nhau. Các thành phần kinh tế này đều dựa trên chế độ
công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất ở các trình độ khác nhau. Người lao
động làm chủ những tư liệu sản xuất , nên tất nhiên cũng làm chủ phân phối thu nhập
.Vì vậy phân phối phải vì lợi ích của nguời lao động .Tất yếu phải thực hiện phân
phối theo lao động trong các đơn vị kinh tế thuộc thành phần kinh tế dựa trên cơ sở
công hữu về tư liệu sản xuất là vì:
- LLSX phát triển chưa cao , chưa đến mức có đủ sản phẩm để phân
phối theo nhu cầu
- Sự khác biệt về tính chất và trình độ lao động dẫn tới việc mỗi người
có sự cống hiến khác nhau , do đó phải căn cứ vào lao động đã cống hiến cho xã hội
của mỗi người để phân phối .
- Lao động chưa trở thành một nhu cầu của cuộc sống , nó còn là
phương tiện để kiếm sống , là nghĩa vụ và quyền lợi.
Hơn nữa , còn những tàn dư ý thức , tư tưởng của xã hội cũ để lại như:
coi khinh lao động ,ngại lao đông chân tay,…
Trong những điều kiện đó phải phân phối theo lao động để khuyến
khích người chăm, người giỏi, giáo dục kẻ lười người xấu, gắn sự hưởng thụ của mỗi
người với sự cống hiến của họ.
Phân phối theo lao động là hình thức phân phối thu nhập căn cứ vào số
lượng và chất lượng lao động của từng nguời đã đóng góp cho xã hội. Theo quy luật
này, người làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, có sức lao động mà không làm thi
không hưởng; lao động có kỹ thuật cao lao động ở những ngành nghề độc hại, trong
những điều kiện khó khăn đều được hưởng phần thu nhập thích đáng.
Phân phối theo lao động là hợp lí nhất, công bằng nhất so với các hình
thức phân phối đã có trong lịch sử. Cơ sở của sự công bằng xã hội của sự phân phối
đó là sự bình đẳng trong quan hệ sở hữu về TLSX. Tuy vậy theo Mac, phân phối theo
lao động về nguyên tắc vẫn là sự bình đẳng trong khuôn khổ “pháp quyền tư sản”,
tức là sự bình đẳng trong xã hội sản xuất hàng hóa , theo sự trao đổi hoàn toàn ngang
giá. Sự bình đẳng ở dây được hiểu theo nghĩa quyền của nguời sản xuất là tỉ lệ với
lao động mà người ấy đã cung cấp, sự bình đẳng đó còn thiếu sót là ”với một công
việc ngang nhau và do đó , với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã
hội thì trên thực tế người này vẫn lĩnh nhiều hơn người kia , người này vẫn giàu hơn
người kia”.
Phân phối theo lao động còn có những hạn chế nhưng đó là những hạn
chế không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội CSCN .Chỉ khi nào cùng với
sự phát triển toàn diện của cá nhân , năng suất của họ tăng lên và tất cả các nguồn của
cải xã hội đều tuôn ra dồi dào thì khi đó người ta mới có thể vượt ra khỏi giới hạn
chật hẹp của cái pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể thực hiện phân phối theo nhu
cầu . Chỉ khi đó mới có sự bình đẳng thực sự.
* Hai là , phân phối ngoài thù lao lao động thông qua quỹ phúc lợi tập thể
và xã hội
Để nâng cao mức sống về vật chất và văn hóa của nhân dân , đặc biệt là các
tấng lớp nhân dân lao động , sự phân phối thu nhập của mọi thành viên xã hội còn
được thực hiện thông qua quỹ phúc lợi xã hội . Sự phân phối này có ý nghĩa hết sức
quan trọng vì nó góp phần :
- Phát huy tính tích cực lao động cộng đồng của mọi thành viên trong
xã hội.
- Nâng cao thêm mức sống toàn dân , đặc biệt đối với những người có
thu nhập thấp ,đời sống khó khăn.
- Giáo dục ý thức cộng đồng , xây dựng chế độ xã hội mới .
- Quỹ phúc lợi tập thể và xã hội còn là bộ phận không thể thiếu trong
quá trình phân phối thu nhập cho cá nhân trong cộng đồng , song quỹ đó chỉ có ý
nghĩa tích cực khi được quy định và sử dụng một cách hợp lý phù hợp với yêu cầu và
các điều kiện khách quan .
* Ba là , các hình thức phân phối khác .
Ở nước ta đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế với sự đa dạng các hình thức
sở hữu và các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Do đó , ngoài hai hình thức
phân phối trên , trong thời kì quá độ còn tồn tại các hình thức phân phối thu nhập
khác . Đó là :
- Trong các đơn vị kinh tế tập thể bậc thấp có sự kết hợp phân phối theo
vốn và phân phối theo lao động.
- Trong thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ thì thu nhập phụ thuộc vào
sở hữu TLSX , vốn đầu tư sản xuất và tài năng sản xuất kinh doanh của chính những
người lao động.
- Trong kinh tế tư bản tư nhân và tư bản nhà nước việc phân phối ở đây
dựa trên cơ sở sở hữu vốn cổ phần , sở hữu sức lao động, sở hữu tư bản,
Chương 2 :Thực trạng quan hệ phân phối ở nước ta trong thời gian qua và
những giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối trong thời gian tới.
2.1. Thực trạng vấn đề thu nhập và bất bình đẳng ở nước ta trong thời gian qua.
2.1.1. Thực trạng vấn đế tiền lương.
* Nhận định chung về chính sách chế độ tiền lương của công nhân viên
chức trước 9/1985.
- Là chế dộ tiền lương được ban hành năm 1960 và đuợc bổ sung từ năm 1963
bằng chế độ cung cấp môt số mặt hàng thiết yếu định lượng theo tem phiếu . Nói
cách khác lương mang tính chất lương hiện vật . Đồng thời Nhà nước duy trì chế độ
bán cung cấp về nhà ở , điện , nước sinh hoạt.
- Do giá cả sinh hoạt tăng lên , nhưng tiền lương danh nghĩa không tăng
, nên tiền lương thực tế của công nhân viên chức ngày càng giảm sút . Để giảm bớt
một phần khó khăn cho cán bộ công nhân viên chức , Nhà nước đã thực hiện phụ cấp
lương tạm thời và trợ cấp khó khăn vào các thời điểm : 5/1981 , 1/1983 và 9/1984 .
Nhìn chung , chế độ lương trong thời kì này , vừa bằng tiền và hiện vật
với giá thấp , vừa chắp vá và bình quân kéo dài quá lâu nên đã gây ra nhiều tiêu cực
trong tổ chức quản lý lao động, trong lĩnh vực phân phối lưu thông , không thể phát
huy hết tiềm năng sáng tạo của người lao dộng , cũng như các tập thể sản xuất
*Quá trình điều chỉnh tiền lương sau khi ban hành Nghị định 235/
HĐBT(1/9/1985 ).
Sau khi có Nghị định 235/HĐBT , Nhà nước tiếp tục có những điều chỉnh về
tiền lương . Cụ thể như sau:
- Năm 1986: hai lần điều chỉnh tiền lương danh nghĩa bằng chế độ phụ
cấp đắt đỏ 15% & 40%.
- Năm 1987: trợ cấp thêm bằng 100% trên mức lương cấp bậc (chức
vụ) từ tháng 5 đến tháng 9 năm 1987 .Từ tháng 10-1987 điều chỉnh lại mức lương
theo giá một số mặt hàng tính lương.Đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh hệ số
diều chỉnh bằng 13-15 lần ,các đơn vị hành chính sự nghiệp bằng 10-68 lần , và các
lực lượng vũ trang bằng 11-51 lần .
- Năm 1988: Sau khi thống nhất hệ số tiền lương của công nhân viên
chức hành chính sự nghiệp và lực lượng vũ trang lên 13-15 lần , Nhà nước còn thực
hiện ba lần phụ cấp với mức 30% , 60% và 90% trên tiền lương đã tính lại theo hệ số
13-15 lần .
- Năm 1989 : tiền lương , trợ cấp , sinh hoạt phí của người hưởng lương
và đối tượng chính sách xã hội được tính lại trên cơ sở mức lương tối thiểu là 22500
đồng/tháng theo quyết định số 202/HĐBT và 203/HĐBT ngày 28/12/1989.
- Năm 1990 : bù giá những mặt hàng Nhà nước điều chỉnh giá ( điện ,
dầu thắp sáng ) , bổ sung sửa đổi một số chế độ quá bất hợp lý.
Về cơ chế của chính sách tiền lương , Nhà nước trực tiếp định mức lao động,
định mức tiền lương, duỵệt quỹ lương , quy định tháng lương , bảng lương bậc, bậc
lương cụ thể cho các đơn vị sản xuất kinh doanh phải thực hiện . Chuyển sang một cơ
chế mới , trong đó tiền lương đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh chỉ còn là thông
số để tính toán , Nhà nước chỉ khống chế lương tối thiểu , không khống chế thu nhập
tối đa .
Tóm lại , việc giải quyết vấn đề tiền lương ở nước ta trong thời gian qua chưa
phù hợp với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đang hoạt động trong một thị
trường thống nhất . Tiền lương đó chưa thực sự là thước đo giá trị sức lao động, chưa
trở thành nguồn thu nhập chủ yếu của người lao dộng làm công ăn lương . Nói cách
khác tiền lương chưa thực sự trở thành đòn bẩy kích thích người lao động làm việc
với sự nhiệt tình và sức sáng tạo cao.
* Nguyên nhân của tình hình trên bao gồm :
Thứ nhất , đó là nguyên nhân thuộc về cơ cấu chính sách tiền lương . Lương
tối thiểu được tính toán chỉ dựa theo yêu cầu đảm bảo tái sản xuất sức lao động , dựa
trên cân đối kế hoạch của các yếu tố đảm bảo , chưa tính đến biến động của chúng,
trong quá trình thực hiện không xác định được mức sống tối thiểu đang tồn tại trong
xã hội ở thời điểm đó . Lương tối thiểu không có sự đảm bảo bằng Pháp luật.
Thứ hai , đó là nguyên nhân thuộc về cơ chế. Từ một hệ thống tiền lương
thống nhất , khi cho khu vực sản xuất kinh doanh chuyển sang cơ chế mới , thu nhập
của họ phụ thuộc vào kết quả sản xuất – kinh doanh là đúng . Nhưng khi tiền lương
do Nhà nước quy định chỉ còn là thông số tính toán , Nhà nước lại không khống chế
thu nhập tối đa trong khi Nhà nước chưa có công cụ kiểm soát và điều tiết , chưa có
luật chống độc quyền ,….Chưa phân biệt rõ quyền tự chủ của xí nghiệp và kiểm soát
, điều tiết của Nhà nước về mặt tiền lương và thu nhập . Mặt khác chưa chỉ ra được
nguồn gốc của tiền lương và sự phân chia các lợi ích giữa Nhà nước – xí nghiệp –
người lao động đều từ giá trị mới sáng tạo ra ở xí nghiệp .
Thứ ba , nguyên nhân thuộc về chỉ đạo thực hiện . Việc chỉ đạo thực hiện các
chính sách điều chỉnh lương thường thiếu đồng bộ và không thống nhất Đặc biệt là ,
những tác động của chính sách giá – lương – tiền năm 1985 đã trực tiếp ảnh hưởng
đến tiền lương , cuộc sống của người lao động cụ thể là mức lương , thu nhập chỉ đủ
nuôi sống một tuần lễ dến 10 ngày của tháng . Công nhân viên chức , lực lượng vũ
trang gặp rất nhiều khó khăn trong đời sống hàng ngày . Từ đây , đã gây ra tình trạng
hỗn loạn trong tiền lương , xuất hiện những chênh lệch quá đáng , bất công xã hội
trong tiền lương và thu nhập giữa các loại lao động .
2.1.2. Thực trạng vấn đề lợi nhuận .
* Thời kì trước năm 1989.
Đây là cả một thời kì Nhà nước chưa đặt các doanh nghiệp hoạt động trong
mối quan hệ trực tiếp với thị trường . Là thời kì thực hiện cơ chế tập trung chỉ huy ,
làm mất khả năng sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh , thủ tiêu khả năng
cạnh tranh thiếu động lực cách mạng khoa học và thay đổi công nghệ ,… Tính bao
cấp quan liêu gây lãng phí rất lớn . Điều đó dẫn tới nền kinh tế có tăng trưởng nhưng
rất chậm và hiệu quả thấp.
Một thời gian dài chúng ta chưa có sự chú ý đúng mức đối với đòn bẩy lợi nhuận .
Lợi nhuận chưa được coi là động lực chi phối các hoạt dộng sản xuất kinh doanh ,
chưa thực sự gắn lợi nhuận với kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp .
Vì vậy , nền kinh tế luôn xảy ra tình trạng “ lãi giả , lỗ thật ; lỗ giả , lãi thật “. Điều
này phản ánh rằng , một mặt , Nhà nước chưa nắm được nguồn vốn của các doanh
nghiệp và từ đó buông lỏng trong quản lý nó. Mặt khác , do việc chưa đánh giá và
xác định lợi nhuận một cách có căn cứ nên các đơn vị luôn luôn tìm mọi thủ đoạn ,
mọi cách để được hưởng cao nhất , còn Nhà nước thiệt nhều hơn .
Có thể khẳng định là cả một thời kì dài , phạm trù lợi nhuận đã xuất hiện và
tồn tại trong nền kinh tế Việt Nam . Nhưng chúng ta chưa thực sự coi lợi nhuận với
tư cách là hình thức thu nhập đối với người sản xuất kinh doanh . Trong cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp đó , cơ chế hình thành và phân phối lợi nhuận không được
tiến hành trên cơ sở những căn cứ khoa học và khách quan . Điều đó đã gây ra sự bất
bình đẳng lớn giữa các đơn vị sản xuất kinh doanh , làm mất đi động lực thúc đẩy của
đòn bẩy lợi nhuận , tạo ra một tư tưởng ỷ lại ngày càng lớn của các doanh nghiệp vào
Nhà nước , làm mất đi tính chủ động sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh.
* Thời kì từ năm 1989 đến nay .
Từ năm 1989 đến nay nền kinh tế Việt Nam đã có bước chuyển quan trọng
trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước . Nhà
nước đã dưa ra nhiều chính sách kinh tế nhằm từng bước tạo lập môi trường kinh
doanh và buộc mọi doanh nghiệp phải hoạt động trong mối quan hệ trực tiếp với thị
trường , phải chuyển sang hạch toán kinh doanh thực sự .
Nhà nước quy định và cho phép các doanh nghiệp tính lợi nhuận ( trong thực
tế gọi là lãi ) theo cấu thành giá thành và lợi nhuận , đó là lãi bình quân . Theo quy
định này , khi hạch toán , các doanh nghiệp được phép tính 6 % lãi ( lợi nhuận ) định
mức , 5% thuế đánh vào giá thành . Tổng số lợi nhuận bằng với định mức Nhà nước
thu 40% , tổng số lợi nhuận vượt quá định mức Nhà nước chỉ thu 20% . Tình hình
này đã dẫn đến một nghịch lý sau đây : các doanh nghiệp có xu hướng không muốn
để lợi nhuận , trái lại họ tìm mọi cách biến tướng nó để phải nộp ít nhất và được
hưởng nhiều nhất . Trường hợp nếu thiếu tiền trả lương cho cán bộ công nhân viên
thì họ sẵn sàng giảm khoản lợi nhuận và do đó giảm phần phải nộp cho Nhà nước ,
tăng nguồn thu cho doanh nghiệp . Trường hợp này dẫn đến tăng quỹ lương và tăng
quỹ bảo hiểm xã hội . Nhưng mức tăng này luôn nhỏ hơn mức lợi nhuận phải nộp .
Ở nước ta đòn bẩy kinh tế của lợi nhuận chưa được phát huy đúng với sức
mạnh vốn có của nó. Sở dĩ như vậy là vì cơ chế hình thành lợi nhuận không hợp lý .
Đồng thời cơ chế phân phối lợi nhuận chưa đủ tạo ra động lực kích thích các doanh
nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh , góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất
nước nói chung Chính vì vậy , để thúc dẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế , tất yếu
phải tiến hành đổi mới cơ chế hình thành và phân phối lợi nhuận ở nước ta , nó đòi
hỏi phải được tiến hành đồng bộ với việc đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh
tế nói chung
2.1.3. Bất bình đẳng : thực trạng và xu hướng .
Đánh giá thực trạng bất bình đẳng ở Việt Nam là một việc khá phức tạp do
vấn đề số liệu và cách thức đo lường cũng như phạm vi áp dụng . Hiện tại các công
trình nghiên cứu đã đề cập đến sự bất bình đẳng ( chênh lệch ) giữa các nhóm dân cư
xã hội cũng như các vùng địa lý kịnh tế . Tiêu chí so sánh rất đa dạng bao gồm các
chỉ tiêu về mức tổng thu nhập , điều kiện tiếp cận đến các dịch vụ xã hội cơ bản , đến
các nguồn lực phục vụ sản xuất và tốc độ tăng trưởng , sư phát triển cơ sở hạ tầng ,
phân bổ ngân sách . Việc sử dụng các nguồn khác nhau với cách thức và phương
pháp điều tra thu thập thông tin khác nhau rất có thể là nguyên nhân dẫn đến sự đánh
giá khác nhau về thực trạng và xu thế của mức độ bất bình đẳng ở nước ta hiện nay .
Hiện đang có nhiều quan điểm khác nhau về thực trạng và xu thế của mức độ
bất bình đẳng ở nước ta hiện nay . Có ý kiến cho rằng , hiện tại mức độ bất bình đẳng
về mức sống của người dân trong cả nước đang ở mức tương đối thấp và mặc dù có
thay đổi nhưng mức thay đổi là không đáng kể . Hơn thế nữa , sự thay đổi đó không
có ý nghĩa về mặt thống kê. Quan điểm khác lại cho rằng , mức độ bất bình đẳng ở
nước ta hiện nay đã ở mức cao và sự thay đổi trong thời gian qua là rất đáng kể ,
thậm chí đáng lo ngại .
Mặc dù có sự khác biệt trong cách đánh giá về thực trạng và xu hướng thay
đổi của mức độ bất bình đẳng như trên , phần lớn các nghiên cứu đều cho rằng bất
bình đẳng chủ yếu là do bất bình đẳng giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn
cũng như chênh lệch phát triển giữa các vùng trong cả nước .
Về nguyên nhân gây ra tình trạng bất bình đẳng , hầu hết các nghiên cứu dều
chưa có được một kiểm chứng chặt chẽ về quan hệ nhân quả giữa bất bình đẳng với
các nhân tố xã hội và các yếu tố chính sách như trong nghiên cứu về bất bình đẳng
toàn cầu . Các nguyên nhân đưa ra chỉ có tính chất phỏng đoán không nêu rõ được
quan hệ nhân quả với tình trạng bất bình đẳng hiện nay hoặc đơn thuần so sánh sự
phân bố giàu nghèo theo các đặc tính của hộ gia đình hay mức phân bố theo vùng địa
lý . Điều đáng chú ý là rất nhiều nguyên nhân của tình trạng bất bình đẳng hay chênh
lệch phát triển cũng là những nguyên nhân của tình trạng nghèo đói. Đó là sự biệt lập
về địa lý , ngôn ngữ , thông tin , thiếu khả năng tiếp cận đến các dịch vụ xã hội cơ
bản , không có cơ hội việc làm , thu nhập . Do vậy , rất có thể các chính sách xóa đói
giảm nghèo có hiệu quả cũng giúp giảm nhẹ tình trạng bất bình đẳng hiện nay , cho
dù có ở mức độ nào đi chăng nữa .
2.2. Các giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước ta trong thời gian
tới
2.2.1. Những giải pháp cơ bản về tiền lương nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
ở Việt Nam .
Việc không ngừng đổi mới hoàn thiện chính sách tiền lương là một bộ phận
quan trọng hàng đầu trong hệ thống các quan hệ phân phối thu nhập ở nước ta hiện
nay . Sự nghiệp cách mạng trong điều kiện đổi mới đã dặt con người vào vị trí trung
tâm . Họ có thể phát huy hết tiềm năng sáng tạo của mình khi lợi ích kinh tế của họ
được đảm bảo , trước hết là tiền lương .
Chính vì vậy , để phát huy tối đa khả năng sáng tạo của nhân tố con người , tất
yếu và trước hết phải giải quyết tốt vấn đề tiền lương .
Thứ nhất , phải làm cho tiền lương thực sự trở thành giá cả của sức lao động
Với sức lao động của mình người lao động có quyền tự do lựa chọn nơi làm việc đáp
ứng được nhu cầu và khả năng của mình theo đúng hợp đồng lao động .Trong nền
kinh tế thị trường tiền lương thực sự là giá cả của sức lao động , điều đó đòi hỏi phải
tính đúng , tính đủ giá trị sức lao động để làm cơ sở cho việc xác định mức tiền lương
. Chỉ trên cơ sở như vậy tiền lương mới khuyến khích mọi người lao động luôn luôn
nâng cao trình độ tay nghề , khuyến khích thế hệ trẻ ra sức học tập nâng cao trình độ
văn hóa , khoa học kĩ thuật và nghiệp vụ , để thích ứng với cơ chế thị trường . Do đó
chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền lương , trong đó cần quán triệt các
quan điểm sau :
- Tiền lương phải đủ đảm bảo tái sản xuất mở rộng sức lao động , nó
phải thực sự là bộ phận thu nhập chủ yếu của người lao động .
- Tiền tệ hóa tiền lương một cách triệt để (xóa bỏ hoàn toàn chế độ bao
cấp)
- Mức lương phải gắn liền với trình độ phát triển kinh tế và xã hội ,
hiệu quả sản xuất kinh doanh , quan hệ cung cầu lao động , mức cống hiến của từng
cá nhân , sự biến động của giá cả và lạm phát .
- Chống chủ nghĩa bình quân trong việc trả công lao động .
Thứ hai , cần tiếp tục xác định hợp lý mức tiền lương tối thiểu .
Mức tiền lương tối thiểu phải đảm bảo tính toán đầy đủ các yếu tố cần
thiết của quá trình tái sản xuất sức lao động ( cả về sinh lý , nhân văn và các quan hệ
xã hội ).
Tiền lương tối thiểu phải đảm bảo tính đồng nhất . Đièu đó sẽ tạo điều
kiện để giữ vững vai trò điều tiết của Nhà nước và phát huy quyền tự chủ của các tổ
chức kinh tế trong lĩnh vực lao động .
Tiền lương tối thiểu thống nhất là công cụ cần thiết để bảo hộ giá trị
sức lao động cho những người lao động , không phân biệt đó là thành phần kinh tế
nào .
Thứ ba , tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý phân phối tiền lương cho người lao
động .
Vì nguồn tiền lương ở hệ thống trả lương khác nhau nên sẽ có cơ chế quản lý
phân phối khác nhau . Đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh , nguồn tiền để chi trả
không phải từ ngân sách mà phải từ kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp . Ngân sách Nhà nước phải tiếp tục thực hiện cắt hẳn những khoản chi bao
cấp về tiền lương và thu nhập . Nhà nước cần thực hiện việc kiểm soát và điều tiết
tổng thu nhập của doanh nghiệp .
Trong lĩnh vực hành chính sự nghiệp , Nhà nước trả lương phải trên cơ sở biên
chế nghiêm ngặt và tiếp tục thực hiện khoán quỹ lương .
2.2.2. Các giải pháp về vấn đề lợi nhuận nhằm góp phần thúc đẩy tăng trưởng
và phát triển kinh tế .
Thứ nhất , cần thực hiện nhất quán quan điểm kết hợp hài hòa các loại lợi ích
kinh tế trong sự phát triển kinh tế . Một nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng và
phát triển ngày càng cao hoàn toàn có điều kiện và khả năng thực tế để giải quyết tốt
các lợi ích kinh tế . Đến lượt mình, việc giải quyết tốt các lợi ích kinh tế lại tạo ra
động lực mới cho sự phát triển . Các mối quan hệ kinh tế cần được giải quyết tốt
trong phân phối thu nhập , nhằm tạo ra động lực thúc đẩy kinh tế phát triển , đó là :
- Quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao động , tập thể , và Nhà nước .
- Quan hệ lợi ích kinh tế giữa các ngành , các vùng , các địa phương với
Nhà nước .
- Quan hệ lợi ích kinh tế giữa các thành phần kinh tế với nhau , giữa
các thành phần kinh tế với Nhà nước .
-Quan hệ tích lũy tiêu dùng cá nhân và tiêu dùng xã hội .
Trong số các lợi ích kinh tế đó , lợi ích kinh tế của những người lao động , nhà sản
xuất kinh doanh đặc biệt được coi trọng .
Thứ hai , phải đổi mới cơ chế hình thành và cơ chế phân phối lợi nhuận .
Về cơ chế hình thành lợi nhuận : không nên xác định lợi nhuận bình quân theo cấu
thành giá thành như trước đây (5%) . Tùy từng ngành , từng sản phẩm khác nhau ,
Nhà nước nên quy định và điều chỉnh lại tỉ lệ lợi nhuận định mức khác nhau. Đối với
những sản phẩm giá trị nhỏ , Nhà nước nên nâng tỉ lệ lợi nhuận định mức , còn đối
với những sản phẩm tính giá trị lớn , sản phẩm độc quyền , Nhà nước nên hạ tỉ lệ lợi
nhuận định mức . Khi đó sẽ góp phần giải quyết dần những bất bình đẳng trong việc
thu và phân phối lợi nhuận trước đây.
Bên cạnh đó , Nhà nước cần thông qua bộ máy quản lý thực hiện điều tra , kiểm kê
kiểm soát để nắm chính xác nguồn vốn của các doanh nghiệp . Trên cơ sở đó , buộc
các đơn vị phải hoạt động đi vào hiệu quả thực sự “lỗ thật , lãi thật “.
Về cơ chế phân phối lợi nhuận : Để khai thác tối ưu các tiềm năng ở các ngành , các
địa phương , các đơn vị cơ sở , góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế
nhanh , điều quan trọng hàng đầu là phải tăng thu nhập cho người lao động . Đây là
động lực chủ yếu của sự phát triển .
Nhà nước nên dành phần thu nhập ngày càng lớn cho doanh nghiệp và người lao
động . Muốn vậy , Nhà nước chỉ nên thu phần lợi nhuận trong lợi nhuận định mức ,
và nếu có điều kiện Nhà nước nên giảm phần trăm thu khoản lợi nhuận này . Phần lợi
nhuận vượt (ngoài ) định mức , Nhà nước không nên thu , mà để cho doanh nghiệp và
người lao động được toàn quyền sử dụng .
2.2.3. Từng bước thực hiện công bằng xã hội trong phân phối thu nhập .
Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu , Đảng và Nhà nước ta chủ trương
thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa , vẫn còn tồn tại sự bất bình đẳng về phân phối thu nhập .
Nhưng sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải tạo ra những tiền đề , những
biện pháp để từng bước thu hẹp và xóa bỏ sự bất bình đẳng đó , tiến tới một xã hội
không có chế độ người bóc lột người , một xã hội bình đẳng thực sự. Để đạt được
mục tiêu này, từ thực tiễn nước ta cần phải thực hiện nhiều biện pháp :
Thứ nhất, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát
triển thì của cải tạo ra sẽ nhiều, mọi cá nhân đều được hưởng phúc lợi ngày càng đầy
đủ , tạo ra sự công bằng trong phân phối . Còn nếu của cải quá nghèo nàn thì phân
phối bình đẳng chỉ là chia đều sự nghèo khổ .
Thứ hai , tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền công , tiền lương , chống chủ
nghĩa bình quân và thu nhập bất hợp lý , thu nhập bất chính . Cần thực hiện gắn chặt
tiền công , tiền lương với năng suất, chất lượng và hiệu quả ; điều đó sẽ bảo đảm
quan hệ hợp lý về thu nhập giữa cá nhân , giữa các ngành nghề . Nghiêm trị những kẻ
có thu nhập bât chính , xóa bỏ những đặc quyền, đặc lợi trong phân phối
Thứ ba , điều tiết thu nhập dân cư , hạn chế chênh lệch quá đáng về mức thu
nhập . Trong điều kiện nước ta hiện nay , một mặt phải thừa nhận sự chênh lệch về
mức thu nhập giữa các tập thể , cá nhân ; mặt khác , Nhà nước phải hạn chế mức
chênh lệch thu nhập quá đáng để không dẫn tới sự phân hóa xã hội thành hai cực đối
lập , bằng cách điều tiết thu nhập và các giải pháp quản lý . Đây là một yêu cầu khách
quan nhằm mục đích duy trì sự ổn định xã hội .
Thứ tư , khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo . Mục
tiêu phấn đấu của nhân dân ta là dân giàu nước mạnh , xã hội công bằng dân chủ văn
minh . Dân có giàu thì nước mới mạnh , nước mạnh mới có khả năng thực hiện sự
công bằng xã hội và có cuộc sống văn minh . Trong tình hình nước ta hiện nay ,
phương hướng quan trọng là nhà nước cùng toàn dân ra sức đầu tư phát triển , thực
hiện tốt các kế hoạch và chương trình kinh tế xã hội . Khuyên khích mọi thành phần
kinh tế , mọi công dân , mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề , tạo nhiều việc làm
cho người lao động . Mọi công dân đều được tự do hành nghề , thuê mướn nhân công
theo Pháp luật , phát triển dịch vụ và việc làm . Phân bố lại dân cư và lao động trên
địa bàn cả nước . Mở rộng kinh tế đối ngoại , đẩy mạnh xuất khẩu lao động . Tạo
điều kiện cho mọi người lao dộng tự tạo , tìm kiếm việc làm . Bên cạnh đó Nhà nước
cần thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo , chinh sách đền ơn đáp nghĩa , bảo
hiểm xã hội và các hoạt động nhân đạo từ thiện .
KẾT LUẬN
Tóm lại , bài viết này đã đề cập đến một số vấn đề về quan hệ phân phối ở nước ta
hiện nay . Trong đó , một mặt đã nêu lên lý luận về quan hệ phân phối ở các thời kì
trước –đó là các quan điểm của các nhà KTCT từ trường phái Tân cổ điển tới những
nhà kinh tế học hiện đại . Đề án cũng trình bày được bản chất quan hệ phân phối và
các hình thức ( nguyên tắc ) phân phối được áp dụng ở Việt Nam trong thời kì quá độ
lên CNXH.
Mặt khác , nó còn nêu lên được thực trnạg vấn đề phân phối tiền lương , phân phối
lợi nhuận và sự bất bình đẳng trong phân phối ở nước ta trong thời gian quavới
những hạn chế nhất định còn tồn tại. Đồng thời , đề án cũng đã đưa ra một số giải
pháp góp phần ngày càng hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước ta trong thời gian tới .
Vấn đề này đã được đặt ra và cần tiếp tục được xem xét một cách nghiêm túc để có
được những nhận định đúng đắn và đưa ra những biện pháp phù hợp với hoàn cảnh
đất nước ta hiện nay. Đây chính là điều kiện , là cơ sở làm nền tảng cho nước ta tiến
dần tới CNCS . Việc giải quyết tốt các mối quan hệ về thu nhập , phân phối cũng
đồng thời làm giảm các mâu thuẫn trong xã hội , phát triển một cách đồng đều , toàn
diện nền kinh tế - xã hội đất nước , đưa đất nước đi lên , ngày một văn minh giàu
mạnh .
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình kinh tế chính trị, 2003, NXB Giáo dục.
2. Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế, 2003, NXB Thống kê.
3. Phân phối thu nhập trong kinh tế thị trường, 1994, NXB Thống kê.
4. Tạp chí Lao động và xã hội, số 236, 1-15/4/2004.
5. Tạp chí Lao động và xã hội, số 240, 1-15/6/2004.
6. Tạp chí Lao động và xã hội, số 242, 1-15/7/2004.
7. Tạp chí Lý luận chính trị, số 7, 2004.
8. Sơ đồ kinh tế chính trị Mác - Lênin, tập II CNXH 1986, NXB SGK Mác -
Lênin.
9. Vấn đề thu nhập trong các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam. Thực trạng,
quan điểm và giải pháp hoàn thiện.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về phân phối 2
1.1. Một số lý thuyết phân phối thu nhập 2
1.1.1.Lý thuyết phân phối thu nhập của Adam Smith và David Ricardo 2
1.1.2. Lý thuyết phân phối thu nhập của Mác 4
1.1.3. Lý thuyết hiện đại về phân phối thu nhập 6
1.2.Bản chất quan hệ phân phối . 8
1.2.1. Phân phối là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội. 8
1.2.2. Phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất 8
1.3.Nguyên tắc phân phối ở nước ta hiện nay 9
1.3.1.Cơ sở khách quan của viếc tồn tại nhiều hình thức phân phối ở nước
ta hiện nay
1.3.2.Các nguyên tắc (hình thức) phân phối ở nước ta hiện nay 9
Chương 2 :Thực trạng quan hệ phân phối ở nước ta trong thời gian qua và
những giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối trong thời gian tới. 12
2.1. Thực trạng vấn đề thu nhập và bất bình đẳng ở nước ta trong thời gian
qua.
2.1.1. Thực trạng vấn đế tiền lương 12
2.1.2. Thực trạng vấn đề lợi nhuận 15
2.1.3. Bất bình đẳng : thực trạng và xu hướng 16
2.2. Các giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước ta trong thời
gian tới 18
2.2.1. Những giải pháp cơ bản về tiền lương nhằm thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam 18
2.2.2. Các giải pháp về vấn đề lợi nhuận nhằm góp phần thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế 19
2.2.3. Từng bước thực hiện công bằng xã hội trong phân phối thu nhập 21
KẾT LUẬN 23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 24