LUẬN VĂN:
Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay
tiêu dùng tại NHNo&PTNT chi nhánh
Nam Hà Nội
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đã hội nhập kinh tế thế giới, trên con đường hội nhập đó ngành ngân
hàng cũng đang trở mình để thích ứng với xu thế của thời đại. Nghiên cứu về ngân
hàng và hoạt động ngân hàng là rất cần thiết. Đa dạng hóa và mở rộng thị trường là
điều kiện cần thiết để hạn chế rủi ro và cung cấp cho khách hàng một hình ảnh ngân
hàng tồn diện, vì vậy trước những u cầu mới của cạnh tranh và hội nhập kinh tế,
ngành ngân hàng phải khơng ngừng phát triển và tìm kiếm những hướng đi mới phù
hợp để vừa có thể đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng vừa đứng vững
trong cơ chế thị trường. Mở rộng cho vay tiêu dùng là một điều khá đúng đắn tại thời
điểm hiện nay. Với những nước phát triển thì việc tài trợ cho vay tiêu dùng là phát
triển khá cao, nhưng với thị trường cho vay tiêu dùng ở Việt Nam thì vẫn cịn khá nhỏ
lẻ, quy mơ chưa thực sự lớn. Lý do giải thích điều này là vì người dân Việt Nam vẫn
chưa có thói quen tiếp xúc nhiều với ngân hàng và sử dụng hết các dịch vụ mà ngân
hàng cung cấp. Và ngân hàng hiện nay chưa thực sự quan tâm một cách đúng mức tới
hoạt động cho vay tiêu dùng.
Với thời gian thực tập không dài tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn chi nhánh Nam Hà Nội, em thấy rằng hoạt động cho vay tiêu dùng ở chi
nhánh vẫn còn chưa thực sự đủ mạnh so với năng lực của chính bản thân ngân hàng.
Việc thực hiện và mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng có ý nghĩa to lớn đối với sự
phát triển lâu dài của chi nhánh. Vì vậy em thực hiện đề tài “ Giải pháp mở rộng
hoạt động cho vay tiêu dùng tại NHNo&PTNT chi nhánh Nam Hà Nội ” làm
chuyên đề tốt nghiệp. Hy vọng chuyên đề sẽ đóng góp phần nào đó vào việc mở rộng
cho vay tiêu dùng tại chi nhánh
uyên đề gồm 3 chương:
- Chương 1: Lý luận chung về cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại
- Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn chi nhánh Nam Hà Nội
- Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn chi nhánh Nam Hà Nội
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Ngân hàng thương mại và các hoạt động chính của ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại
1.1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại
Hoạt động kinh doanh đầu tiên của các ngân hàng thời xưa là nghiệp vụ đổi
tiền hoặc đúc tiền nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán của người dân thời bấy giờ, đồng
thời gắn liền với thương mại quốc tế và dịch vụ. Những người làm nghề đổi tiền còn
thực hiện thêm nhiệm vụ giữ hộ tiền để phục vụ những khách hàng có nhu cầu an
tồn, bí mật và đa năng trong sử dụng. Việc giữ tiền hộ của nhiều người dẫn đến khả
năng thanh tốn hộ và thanh tốn khơng dùng tiền mặt do đó xuất hiện nghề thanh
tốn hộ. Điều này cũng tạo khả năng cho những người giữ hộ tiền sử dụng một phần
tiền gửi của người khác để cho vay. Từ những nghiệp sơ khai đầu tiên ngành ngân
hàng đã phát triển thành rất nhiều các nghiệp vụ khác nhau, phục vụ nhiều nhu cầu
của khách hàng.
1.1.1.2 Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất nền
kinh tế. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hiện nay có rất nhiều các tổ chức tài
chính khác nhau cung cấp các dịch vụ ngân hàng như dịch vụ cho vay, uỷ thác đầu tư,
nhận tiền gửi... và ngân hàng thương mại cũng đang mở rộng và đa dạng hoá các loại
hình dịch vụ của mình. Do đó rất dễ có sự nhầm lẫn giữa loại hình ngân hàng thương
mại và các tổ chức trung gian tài chính khác nhau.
Giáo trình ngân hàng thương mại định nghĩa về ngân hàng thương mại như
sau: "Ngân hàng thương mại là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch
vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán - và thực
hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong
nền kinh tế ”.
Có điều khác biệt giữa ngân hàng thương mại và các trung gian tài chính đó là
ngân hàng thương mại là tổ chức kinh tế duy nhất được phép mở tài khoản tiền gửi
thanh toán và làm trung gian thanh toán trong nền kinh tế quốc dân.
1.1.2 Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại
1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn
Bất cứ một tổ chức nào khi hoạt động sản xuất kinh doanh đều cần sử dụng tới
vốn. Và ngân hàng cũng không nằm ngoại lệ, giống như bất kỳ một doanh nghiệp,tổ
chức nào trong nền kinh tế quốc dân, để duy trì hoạt động ngân hàng cũng cần đến
vốn. Nguồn vốn của ngân hàng gồm có vốn tiền gửi, vốn tiền vay, vốn chủ sở hữu và
vốn uỷ thác đầu tư. Để có được nguồn vốn này ngân hàng nhận tiền gửi, phát hành
các giấy nợ hoặc cổ phiếu với cam kết sẽ hoàn trả khách hàng đúng hạn kèm theo một
khoản tiền gọi là tiền lãi. Nếu càng nhiều vốn thì càng tạo điều kiện cho ngân hàng
mở rộng kinh doanh do đó các ngân hàng ln tìm kiếm các nguồn vốn với chi phí
thấp và ổn định, đa dạng hố các hình thức và lãi suất tiền gửi, giấy nợ nhằm thu hút
được nhiều vốn nhất trong giới hạn có thể của nền kinh tế.
1.1.2.2 Hoạt động sử dụng vốn
Là hoạt động mà ngân hàng sử dụng nguồn vốn huy động được để đầu tư hoặc
cấp tín dụng (cho vay, cho thuê ...). Với hoạt động tín dụng thì nó chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng tài sản của ngân hàng và là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho
ngân hàng. Ngoài các hoạt động tín dụng ra ngân hàng cũng mở rộng hơn nữa danh
mục tài sản bằng nhiều cách khác nhau như đầu tư vào các giấy tờ có giá đó là trái
phiếu chính phủ, trái phiếu cơng ty... Các hoạt động đầu tư và tín dụng mang lại phần
lớn lợi nhuận cho ngân hàng nhưng lại chứa đựng nhiều rủi ro nên các ngân hàng
thường rất cẩn trọng khi thực hiện các hoạt động mang tính chất như vậy.
1.1.2.3 Hoạt động kinh doanh ngoại tệ
Đây là hoạt động ngân hàng đứng ra mua hoặc bán một loại tiền này lấy một
loại tiền khác và thu được lợi nhuận nhờ chênh lệch tỷ giá và thu phí dịch vụ này.
Ngày nay hoạt động này đã mở rộng ra với rất nhiều các hình thức và nghiệp vụ
phong phú: mua bán, trao đổi, gửi vay các loại ngoại tệ với các nghiệp vụ như hợp
đồng kỳ hạn, hợp đồng giao ngay, hoán đổi, hợp đồng quyền chọn và hợp đồng tương
lai. Các NHTM tham gia giao dịch ngoại hối với hai mục đích . Thứ nhất, ngân hàng
cung cấp dịch vụ cho khách hàng, chủ yếu là mua hộ và bán hộ cho nhóm khách hàng
riêng lẻ, và ngân hàng thu một khoản phí . Mục đích thứ hai là ngân hàng kinh doanh
ngoại hối nhằm kiếm lời khi tỷ giá có những biến động.
1.1.2.4 Các hoạt động khác
Ngày nay các hoạt động của ngân hàng không ngừng được mở rộng và phát
triển đúng như nhận xét của Peter Rose “ thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so
với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế ”.
Một số hoạt động của ngân hàng ngày nay có thể nhắc tới ở đây như là cung
cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán, quản lý ngân quỹ, hoạt động bảo
quản vật có giá, tài trợ các hoạt động của chính phủ, cho thuê thiết bị trung và dài
hạn, cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn, cung cấp dịch vụ mơi giới đầu tư chứng
khốn, bảo hiểm, dịch vụ đại lý... Các hoạt động này mang lại nguồn thu nhập cho
ngân hàng thơng qua việc thu phí và chứa đựng ít rủi ro. Do vậy các ngân hàng hiện
đại ngày nay đang ra sức mở rộng hoạt động dịch vụ nhằm tăng nguồn thu và giảm
rủi ro tới mức thấp nhất có thể.
1.2 Cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm cho vay tiêu dùng
Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các ngân hàng
thương mại, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Tín dụng ngân hàng được
hiểu là quan hệ kinh tế trong đó ngân hàng chuyển cho chủ thể khác trong nền kinh tế
quyền sử dụng một lượng giá trị ( tiền hoặc tài sản) với những điều kiện nhất định
được thoả thuận trong hợp đồng.
Căn cứ theo hình thức tài trợ, tín dụng được chia thành cho vay, cho thuê, bảo
lãnh, chiết khấu. Đây là cách phân loại phổ biến ở các ngân hàng thương mại. Trong
hoạt động tín dụng thì cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất và cũng là tài sản mang lại thu
nhập lớn nhất. Tuy nhiên hoạt động này luôn gắn liền với nhiều rủi ro. Do đó cần
thiết phải phân loại cho vay để có thể quản lý tốt và hạn chế rủi ro tới mức thấp nhất
có thể.
Có thể phân loại theo thời gian, thì cho vay gồm có cho vay ngắn hạn, cho vay
trung hạn và cho vay dài hạn.
Có thể phân loại theo đảm bảo, thì cho vay gồm có cho vay có đảm bảo và cho
vay khơng đảm bảo.
Có thể phân loại theo mục đích sử dụng tiền vay, thì cho vay gồm có cho vay
sản xuất kinh doanh và cho vay tiêu dùng. Bởi vì đối tượng nghiên cứu của đề tài này
là hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại nên chúng ta sẽ chỉ xem
xét về hoạt động cho vay tiêu dùng thơi.
Vậy thì cho vay tiêu dùng tại ngân hàng là như thế nào? Cho vay tiêu dùng của
ngân hàng thương mại đó là một hình thức tài trợ của ngân hàng cho chính sự tiêu
dùng của cá nhân và hộ gia đình. Đó là quan hệ kinh tế trong đó ngân hàng chuyển
cho các cá nhân hoặc hộ gia đình quyền sử dụng một khoản tiền với những điều kiện
nhất định được thoả thuận trong hợp đồng nhằm phục vụ mục đích tiêu dùng của
khách hàng. Các mục đích tiêu dùng có thể là: mua nhà, xây sửa nhà, mua xe hơi, các
dụng cụ trong gia đình, đồ gỗ, các dịch vụ chăm sóc y tế, chi phí cho các kỳ nghỉ hè,
chi phí cho việc đi du học …
1.2.2 Những đặc điểm cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
Đẻ làm nổi bật đặc điểm của cho vay tiêu dùng, ta so sách nó với cho vay kinh doanh.
Về mục đích vay: thì cho vay tiêu dùng chỉ tài trợ cho nhu cầu tiêu dùng cá
nhân chứ không phải tài trợ cho nhu cầu kinh doanh, sản xuất.
Về đối tượng vay: các cá nhân và hộ gia đình là khách hàng của loại hình cho
vay tiêu dùng trong khi đó cho vay kinh doanh lại là các doanh nghiệp, tổ chức, cá
nhân, hộ gia đình.
Về nguồn trả nợ: nguồn trả nợ của cho vay tiêu dùng là các tài sản thế chấp
hay các khoản thu nhập có được khác như: lương, thưởng, bán cổ phiếu, bán nhà, bán
quyến sử dụng đất... còn đối với cho vay kinh doanh thì nguồn trả nợ là lợi nhuận từ
hoạt động kinh doanh
Về rủi ro: với phương thức cho vay tiêu dùng thì nó chứa đựng nhiều rủi ro
nhất trong danh mục các tài sản của ngân hàng. Sở dĩ như vậy là vì nguồn trả nợ là
thu nhập thường xuyên của người vay. Mà những khoản thu nhập này lại phụ thuộc
vào sức khỏe và công việc của người vay. Do đó khi bị mất việc hoặc ốm đau, tai
nạn... người vay khó có thể trả được nợ. Hơn nữa việc thẩm định khả năng trả nợ của
cá nhân và hộ gia đình cũng khó khăn khăn hơn. Bởi đối với các hãng kinh doanh,
ngân hàng có thể thẩm định khả năng trả nợ thông qua các báo cáo tài chính đã được
kiểm tốn độc lập, cịn đối với người tiêu dùng thì ngân hàng chỉ có thể dựa vào tài
sản cá nhân, lương và các khoản thu nhập khác. Để có được khoản vay, khách hàng
có thể giấu các thơng tin về tình hình sức khoẻ và cơng việc trong tương lai của mình
nên các ngân hàng rất khó xác định được rủi ro khi cho vay tiêu dùng.
Việc cho vay tiêu dùng phụ thuộc nhiều vào sự tăng trưởng ổn định về thu
nhập và đảm bảo việc làm bởi nó cho phép người tiêu dùng mua được hàng hố và
dịch vụ ngày hơm nay dựa trên thu nhập của ngày mai. Vì vậy khi nền kinh tế có xu
hướng mở rộng thì nhu cầu vay tiêu dùng tăng cao và ngược lại khi nền kinh tế suy
thoái nhu cầu vay tiêu dùng cũng bị giảm sút theo.
Lý do giải thích cho việc tại sao lãi suất cho vay tiêu dùng thường cao hơn các
khoản cho vay khác của ngân hàng! Đó là để bù đắp cho chi phí ( về thời gian và
nhân lực để thẩm định, quản lý các khoản vay với giá trị nhỏ nhưng số lượng lớn, chi
phí trên một đơn vị cho vay lớn ) và rủi ro cao mà ngân hàng có thể gặp phải khi cho
vay tiêu dùng.
Bởi vì các khoản cho vay tiêu dùng có tỷ lệ rủi ro cao nhất nên các ngân hàng
thường yêu cầu phải có tài sản bảo đảm khi vay và yêu cầu người vay phải mua bảo
hiểm thất nghiệp, nhân thọ, bảo hiểm cho hàng hoá đã được mua bởi khoản vay.
Thêm một đặc điểm khác của cho vay tiêu dùng là người vay thường chỉ vay
một lần, ít khi có nhu cầu vay lại; không giống như các khoản cho vay thương mại:
nhu cầu phát sinh theo chu kỳ sản xuất kinh doanh, lặp đi lặp lại. Do đó nếu khơng có
các giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng thì ngân hàng sẽ dần mất đi nguồn khách
hàng tiềm năng này.
Về quy mô khoản vay: hầu hết các khoản vay tiêu dùng đều có giá trị khơng
lớn trừ những khoản vay để mua quyền sử dụng đất, mua nhà, mua ôtô sang trọng, đi
du học, mua sắm những đồ dùng xa xỉ nhưng số lượng các món vay tiêu dùng lại khá
nhiều( vì nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng tăng).
1.2.3 Lợi ích của cho vay tiêu dùng trong ngân hàng thương mại
Hoạt động cho vay tiêu dùng có từ rất sớm ngay từ những ngày đầu khi ngân
hàng mới hình thành, khi đó họ thực hiện cho vay với các cá nhân, chủ yếu là những
người giàu: quan lại, địa chủ, nhằm mục đích phục vụ tiêu dùng. Do lợi nhuận từ cho
vay rất cao nhiều ngân hàng đã phát hành chứng chỉ tiền gửi khống để cho vay. Chính
điều này đã đẩy nhiều ngân hàng đến chỗ mất khả năng thanh toán và phá sản nên sau
đó để đảm bảo an tồn các ngân hàng thương mại đã không cho vay tiêu dùng, chỉ
cho vay kinh doanh. Tuy nhiên các ngân hàng đã ngày càng phát triển và khả năng
quản lý rủi ro, thẩm định khách hàng ngày một tốt hơn nên bên cạnh việc duy trì và
đẩy mạnh cho vay kinh doanh các ngân hàng cũng cần thiết chú trọng mở rộng cho
vay tiêu dùng. Chúng ta khẳng định được như vậy là vì có các lý do sau:
Cho vay tiêu dùng của ngân hàng đem lại lợi ích cho nền kinh tế ( trong đó có
cả người vay ). Chúng ta đã biết sản xuất là một quá trình từ sản xuất đến lưu thơng
và tiêu dùng. Do đó tiêu dùng là cái đích của sản xuất, sản xuất các sản phẩm ra để
tiêu dùng. Muốn đẩy mạnh sản xuất thì cần thiết phải đẩy mạnh tiêu dùng và ngược
lại muốn tiêu thụ được nhiều sản phẩm thì sản xuất phải thoả mãn được nhu cầu của
người tiêu dùng. Nhưng để có thể sản xuất hay tiêu dùng thì đều cần có một số tiền
nhất định, số tiền đó có thể có được qua nhiều nguồn khác nhau: tự tích luỹ; vay
mượn người thân, bạn bè; mua hàng trả chậm; vay các trung gian tài chính. Ngân
hàng là một kênh cung cấp vốn hiệu quả cho tất cả các hoạt động đó. Xã hội ngày
càng phát triển nhu cầu tiêu dùng của các cá nhân, hộ gia đình ngày càng cao. Và
trong xã hội ln sẵn có nhu cầu vay tiêu dùng do các cá nhân và hộ gia đình mặc dầu
chưa có đủ phương tiện thanh tốn trong hiện tại nhưng lại có những nhu cầu cần
thiết cần được thoả mãn ngay như đi du học, tiền viện phí, tang lễ, sửa chữa nhà
cửa...Họ có thu nhập ổn định, hoặc chắc chắn sẽ có thu nhập trong tương lai như thừa
kế, cổ tức, lãi trái phiếu... đảm bảo cho họ khả năng trả nợ, do đó họ có nhu cầu vay
tiêu dùng và sẽ trả được nợ. Khi đã có nhu cầu thì lẽ dĩ nhiên sẽ có người cung ứng và
ngân hàng- một tổ chức kinh doanh tiền tệ chắc chắn không thể bỏ qua một thị trường
với sức mua lớn như thị trường cho vay tiêu dùng.
Không chỉ có thế, trên thị trường đó, ngân hàng thường được cho là nhà cung
cấp có khả năng cung ứng tốt nhất so với các nhà cung cấp khác. Bởi vì so với các
nguồn cung ứng vốn khác thì ngân hàng có những ưu điểm vượt trội hơn hẳn. Khi cần
tiền để mua sắm, sửa chữa mà số tiền tự tích luỹ không đủ, kênh vay tiền người ta
thường nghĩ đến đầu tiên là vay mượn người thân, bạn bè. Nhưng những người thân,
bạn bè thường chỉ đồng ý cho vay món tiền nhỏ, do họ cũng khơng có năng lực tài
chính lớn và họ khơng chắc chắn về khả năng trả nợ của bạn. Vì thơng thường người
quen cho nhau vay tiền thường khơng u cầu phải có tài sản đảm bảo cho món vay
đó, và cũng khơng có được hợp đồng vay nợ chặt chẽ nhằm đảm bảo thu hồi món
vay. Khi có nhu cầu vay số tiền lớn, khó có thể nhờ cậy vào những người quen, bạn
bè. So với các trung gian tài chính khác, ngân hàng thương mại có khả năng thẩm
định tín dụng tốt do có cán bộ thơng thạo nghiệp vụ, có mạng lưới thu thập thơng tin
rộng lớn, có khả năng tài chính vững mạnh có thể đáp ứng mọi nhu cầu vay của
khách hàng. Không chỉ vậy, đến với ngân hàng các khách hàng có thể nhận được sự
tư vấn của các nhân viên ngân hàng, cùng khách hàng tháo gỡ khó khăn do họ là
những người am hiểu về thị trường và khách hàng còn được cung cấp nhiều dịch vụ
tiện ích khác nữa như là dịch vụ thanh toán, tiền gửi…
Khơng những thế cho vay tiêu dùng cịn mang lại nhiều lợi ích cho ngân hàng.
Mặc dù hoạt động cho vay tiêu dùng chứa đựng nhiều rủi ro nhưng chính điều đó lại
mang lại nhiều lợi nhuận lớn cho ngân hàng. Ngân hàng có thể ngăn ngừa và hạn chế
rủi ro bằng cách đưa ra những quy chế cho vay chặt chẽ và thẩm định kỹ càng. Mặt
khác tài trợ cho tiêu dùng là ngân hàng gián tiếp tài trợ cho sản xuất. Khi tiêu dùng
được đẩy mạnh thì hoạt động sản xuất sẽ tăng lên do vậy gia tăng nhu cầu vay kinh
doanh và hoạt động cho vay kinh doanh của ngân hàng cũng được mở rộng hơn. Vì
thế, ngân hàng cung cấp sản phẩm cho vay tiêu dùng không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng của khách hàng mà cịn đáp ứng chính nhu cầu đa dạng hóa sản phẩm của ngân
hàng, thu thập nhiều thông tin về khách hàng và thị trường, mở rộng các dịch vụ hỗ
trợ, phân tán rủi ro... để cho ngân hàng thực sự là một trung gian tài chính cung cấp
nhiều dịch vụ đa dạng nhất trong nền kinh tế quốc dân.
1.2.4 Các loại hình cho vay tiêu dùng
Ta có thể phân loại cho vay tiêu dùng theo rất nhiều các hình thức khác nhau
như: phân theo thời gian, theo hình thức bảo đảm, mức độ tín nhiệm, mục đích, hình
thái giá trị cuat tín dụng, xuất sứ tín dụng, hình thức hồn trả, hình thức cho vay giữa
ngân hàng và khách hàng. Tuy nhiên em chỉ xin đưa ra một số cách phân loại thơi.Ta
có sơ đồ sau:
Theo
thời
gian
Ngắn hạn
Trung hạn
Dài hạn
Cho
vay
tiêu
dùng
Theo
hình
thức
bảo
đảm
Theo
hình
thức
cho
vay
Theo
hình
thức
hồn
trả
Có đảm bảo
Khơng đảm
bảo
Trực tiếp
Gián tiếp
Trả một lần
Trả góp
Trả tuần hồn
1.2.4.1 Phân loại theo thời gian
Nếu phân loại theo thời gian thì ta có thể chia thành các khoản tín dụng ngắn
hạn, trung hạn và dài hạn.
Khoản tín dụng ngắn hạn: đây là một khoản tín dụng có thời gian ngắn thường
là dưới 1 năm. Với khoản tín dụng này thì chủ yếu phục vu cho nhu cầu trong ngắn
hạn mang tính tức thì của người dân ví dụ như họ cần một khoản tiền ngay tức thì mà
chưa kịp bán nhà chẳng hạn
Khoản tín dụng trung hạn : đây là khoản tín dụng có thời gian dài hơn thường
là từ 1- 2 năm. Khoản này phục vụ cho nhu cầu vốn trung hạn của khách hàng, như
vay mua xe máy, vay để sửa nhà..
Khoản tín dụng dài hạn: là khoản tín dụng có thời gian dài thường là trên 2
năm. Khoản vay này phục vụ nhu cầu vốn dài hạn của khách hàng như mua xe ơtơ,
mua nhà..
1.2.4.2 Phân loại theo hình thức bảo đảm tiền vay
Ngân hàng cho khách hàng vay tiền để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của khách
hàng trên cơ sở thế chấp bằng lương hay cịn gọi là tín chấp. Hình thức này chủ yếu
được áp dụng đối với các khách hàng có việc làm và thu nhập ổn định, thu nhập ngoài
việc trang trải các chi tiêu thường xuyên cịn có tích luỹ để trả nợ vay ( cơng chức,
viên chức trong biên chế nhà nước, nhân viên có hợp đồng lao động dài hạn...) Hình
thức vay thế chấp bằng lương phù hợp với những món vay giá trị không lớn, thời hạn
vay ngắn và trung hạn.
Hoạt động cho vay tiêu dùng thường yêu cầu có tài sản đảm bảo, cho nên theo tiêu
thức này cho vay tiêu dùng được phân chia thành hai loại:
Loại 1: Cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ tiền vay
Khách hàng có nhu cầu vay vốn nhưng khơng có tài sản đảm bảo hoặc tài sản đó
khơng đáp ứng các điều kiện của ngân hàng thì ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng
sử dụng chính tài sản được hình thành từ nguồn tài trợ của ngân hàng làm vật đảm
bảo. Chẳng hạn khách hàng vay tiền mua ôtô thì ngân hàng sẽ u cầu lấy chính chiếc
ơtơ đó làm vật đảm bảo, khi khách hàng khơng có khả năng trả nợ ngân hàng sẽ phát
mại ơtơ đó thể thu nợ. Để đảm bảo rằng khách hàng sẽ không bán tài sản hoặc sử
dụng không cẩn thận làm giảm giá trị của tài sản ngân hàng thường yêu cầu khách
hàng phải cam kết bảo quản tài sản, mua bảo hiểm và người thụ hưởng là ngân hàng
đồng thời chuyển toàn bộ giấy tờ sở hữu cho ngân hàng.
Loại 2: Những đảm bảo này khơng được hình thành từ khoản tín dụng của
chính ngân hàng, nó thuộc sở hữu của khách hàng. Ta có thể chia các hình thức đảm
bảo của loại này thành hai loại nhỏ như sau:
Cho vay cầm cố. Đây là hình thức ngân hàng cho khách hàng vay tiền với điều
kiện là khách hàng phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng
trong thời gian đã cam kết. Danh mục và điều kiện của tài sản cầm đồ được ngân
hàng qui định cụ thể dựa trên quy định của pháp luật và chính sách tín dụng của từng
ngân hàng. Các tài sản cầm cố thường là các tài sản mà ngân hàng có thể kiểm sốt và
bảo quản tương đối chắc chắn, đồng thời việc ngân hàng nắm giữ không ảnh hưởng
đến quá trình hoạt động của khách hàng chẳng hạn như: các giấy tờ có giá, ngoại tệ
mạnh, kim loại quý…
Cho vay thế chấp. Trong hình thức này người vay phải chuyển các giấy tờ
chứng nhận sở hữu ( hoặc sử dụng) các tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng nắm giữ
trong thời hạn cam kết.
Đối với thế chấp bằng tài sản thì những tài sản mang thế chấp thường là bất động sản
như nhà cửa, quyền sử dụng đất...hoặc là những động sản mà việc ngân hàng nắm giữ
nó khơng thuận tiện như ơtơ, xe máy...Việc thế chấp bằng tài sản cho phép người
nhận tài trợ tiếp tục được sử dụng tài sản trong thời gian vay tuy nhiên q trình sử
dụng có thể làm biến dạng tài sản, hơn nữa khả năng kiểm soát của tài sản đảm bảo
của ngân hàng bị hạn chế. Việc định giá tài sản đảm bảo cũng là một khó khăn địi hỏi
phải có sự thẩm định kỹ lưỡng tránh định giá quá cao gây thiệt hại cho ngân hàng
hoặc định giá quá thấp ảnh hưởng đến khả năng vay của khách hàng. Tuy nhiên đối
với cho vay tiêu dùng thì giá trị tài sản đảm bảo cũng không quá lớn như là các dây
chuyền sản xuất, nhà xưởng như đối với cho vay kinh doanh.
1.2.4.3 Phân loại theo phương thức cho vay giữa ngân hàng và khách hàng vay vốn
Cho vay tiêu dùng được chia thành hai loại: cho vay tiêu dùng gián tiếp và cho
vay tiêu dùng trực tiếp.
Cho vay tiêu dùng trực tiếp là hình thức trong đó ngân hàng tiếp xúc với khách
hàng, cho khách hàng vay và thu nợ trực tiếp từ người vay. Quá trình cho vay tiêu
dùng trực tiếp có thể tóm tắt qua sơ đồ sau:
Ngân hàng
3
5
1
Người tiêu
dùng
4
Người bán lẻ
2
1- Ngân hàng và người tiêu dùng ký hợp đồng vay.
2- Người tiêu dùng trả trước một phần tiền mua hàng cho công ty
3- Ngân hàng thanh tốn số tiền cịn thiếu cho cơng ty bán lẻ hoặc khách hàng tự
thanh tốn cho cơng ty bán lẻ.
4- Người tiêu dùng nhận hàng hoá đã mua.
5- Người tiêu dùng thanh toán nợ vay cho Ngân hàng.
So với cho vay tiêu dùng trực tiếp, cho vay tiêu dùng gián tiếp có nhiều ưu điểm hơn
như là ngân hàng tiếp xúc trực tiếp với khách hàng do đó có điều kiện để tìm hiểu và
lựa chọn khách hàng, từ đó ra được các quyết định phù hợp với lợi ích của cả hai bên.
Việc quan hệ trực tiếp với khách hàng cịn giúp ngân hàng có thể bán các sản phẩm
khác, xây dựng hình ảnh tốt đẹp của ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp: là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua lại
các khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hố cho người tiêu
dùng.
Thơng thường cho vay tiêu dùng gián tiếp được thực hiện theo sơ đồ sau:
Ngân hàng
3
5
Người tiêu
dùng
4
1
2
Người bán lẻ
1-Ngân hàng ký kết hợp đồng với công ty bán lẻ về việc tài trợ cho người tiêu dùng
mua hàng trả góp.
2-Cơng ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu hàng hoá. Thông
thường, người tiêu dùng phải trả trước một phần giá trị của món hàng cần mua. Cơng
ty giao hàng cho người tiêu dùng.
3-Công ty bán bộ chứng từ bán chịu hàng hoá cho ngân hàng.
4-Ngân hàng thanh toán tiền cho Cơng ty bán lẻ.
5-Người tiêu dùng thanh tốn tiền trả góp cho Ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp có một số ưu điểm sau:
Cho phép Ngân hàng dễ dàng tăng doanh số cho vay tiêu dùng, tiết kiệm, giảm được
chi phí trong cho vay. Giúp ngân hàng mở rộng quan hệ với khách hàng và các hoạt
động ngân hàng khác.
Bên cạnh những ưu điểm thì cho vay tiêu dùng gián tiếp cũng có những nhược
điểm nhất định như: ngân hàng không tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng đã được
công ty bán lẻ bán chịu do đó ngân hàng khơng kiểm sốt được việc lựa chọn khách
hàng của công ty bán lẻ nên rủi ro khách hàng không trả được nợ cao. Nghiệp vụ cho
vay tiêu dùng gián tiếp có tính phức tạp địi hỏi trình độ chun mơn của cán bộ tín
dụng cao. Do đó thường chỉ có các ngân hàng lớn mới áp dụng hình thức này. Các
ngân hàng nhỏ thường ưa thích hình thức cho vay tiêu dùng trực tiếp.
1.2.4.4 Phân loại theo cách thức hoàn trả
Nếu phân theo cách thức hồn trả, cho vay tiêu dùng có thể được phân thành
ba loại : cho vay tiêu dùng trả một lần, cho vay trả góp, và cho vay tuần hoàn.
+ Cho vay tiêu dùng trả một lần. Theo cách này, khách hàng thanh toán cho ngân
hàng một lần khi đến hạn và thường áp dụng cho những món vay giá trị nhỏ, thời hạn
cho vay ngắn.
+ Cho vay tiêu dùng trả góp. Đây là hình thức trong đó khách hàng sẽ trả nợ cho ngân
hàng thành hai hay nhiều lần liên tiếp theo những kỳ hạn nợ nhất định trong thời hạn
vay. Hình thức này được sử dụng phổ biến đối với những khoản vay có giá trị lớn, thu
nhập thường xuyên của người nhận tài trợ không đủ để thanh toán hết một lần số tiền
vay. Để được nhận tài trợ khách hàng phải trả trước một phần giá trị tài sản mua sắm.
Số tiền trả trước phụ thuộc vào khả năng tài chính của người vay, loại tài sản, thị
trường tiêu thụ tài sản sau khi sử dụng. Phần cịn thiếu ngân hàng sẽ cho vay. Điều
này có tác dụng làm cho khách hàng cảm thấy tài sản đó thuộc sở hữu của mình do đó
thúc đẩy họ bảo quản tài sản và nỗ lực trả nợ đồng thời giúp hạn chế rủi ro tín dụng
cho ngân hàng.
Tổng số tiền lãi mà khách hàng phải trả khi vay trả góp lớn hơn số tiền lãi đối với
món vay trả một lần. Sở dĩ như vậy vì vay trả góp chứa đựng nhiều rủi ro hơn do có
thời hạn dài hơn nên ngân hàng phải tính lãi cao hơn để có lợi nhuận bù đắp được rủi
ro.
+ Cho vay tiêu dùng tuần hoàn. Trong thời gian đã thoả thuận căn cứ vào nhu cầu chi
tiêu và thu nhập từng thời kỳ khách hàng thực hiện vay và trả nợ nhiều kỳ một cách
tuần hoàn. Dư nợ tại một thời kỳ hoặc tổng dư nợ trong kỳ không được vượt quá giới
hạn tối đa cho phép. Khách hàng rất thuận tiện khi sử dụng hình thức này vì chỉ phải
làm thủ tục vay một lần, nhưng có thể vay nhiều lần nhằm tài trợ cho nhu cầu vay
thường xuyên, không xác định trước.
Cho vay theo thẻ tín dụng, cho vay thấu chi tuần hồn là các hình thức cho vay
tiêu dùng tuần hoàn phổ biến hiện nay. Đối với cho vay theo thẻ tín dụng, khách hàng
được cấp thẻ và một số dư tối đa, sử dụng thẻ để thanh toán cho tiền hàng hoá, dịch
vụ ở các cơ sở chấp nhận thẻ. Khi sử dụng thẻ, trung tâm thẻ sẽ ghi nợ vào tài khoản
của khách hàng và đến cuối tháng, khách hàng sẽ nhận được giấy báo của ngân hàng
phát hành thẻ liệt kê chi tiết các khoản mục phải thanh toán. Trong thời hạn cho phép,
thường là 30 ngày nếu khách hàng thanh toán( nộp tiền vào tài khoản) thì sẽ khơng bị
tính lãi, nếu q thời hạn đã quy định khách hàng sẽ phải trả một khoản lãi.
Việc phân chia cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại chỉ mang tính
tương đối và theo một vài tiêu thức mà em cho rằng phổ biến và quan trọng ở các
ngân hàng. Qua việc phân loại này chúng ta có thể thấy rằng hoạt động cho vay tiêu
dùng rất phong phú và đa dạng, và các ngân hàng trong q trình hoạt động của mình
ln đưa ra các hình thức mới nhằm thu hút khách hàng và cũng là để đáp ứng những
nhu cầu mới của khách hàng.
1.2.5 Hạn mức cho vay tiêu dùng
Hạn mức cho vay tiêu dùng được hiểu là số tiền tối đa mà ngân hàng cho
khách hàng vay. Hạn mức cho vay tiêu dùng được xác định dựa trên các yếu tố như :
nhu cầu vốn của khách hàng, số vốn tự có của khách hàng, giá trị của tài sản đảm bảo.
Khách hàng là người đưa ra yêu cầu về số tiền cần thiết để tài trợ cho việc tiêu dùng
của mình. Số tiền này được gọi là nhu cầu vốn của khách hàng. Ngân hàng xẽ xem
xét nhu cầu này có hợp lý hay không dựa trên giá trị thị trường của tài sản cần mua
hay tổng số tiền cần thiết để tài trợ cho hoạt động tiêu dùng của khách hàng ( gọi là
nhu cầu vốn hợp lý). Khách hàng cung cấp cho ngân hàng biết thơng tin chi tiết và
chính xác về số vốn tự có của mình hoặc số tiền đã trả trước cho công ty bán lẻ, số
tiền cịn thiếu cần phải vay. Thơng thường các ngân hàng thường yêu cầu người tiêu
dùng phải trả trước một phần giá trị của tài sản. Sau đó ngân hàng sẽ tính tốn nhu
cầu vay hợp lý của khách hàng.
Khoản tiền ngân hàng cho khách hàng vay = nhu cầu vốn - vốn tự có của khách
hàng- vốn khách hàng vay mượn từ nguồn khác.
Đối với các hình thức vay, các ngân hàng thường quy định các hạn mức khác
nhau dựa trên giá trị tài sản đảm bảo hoặc nhu cầu vay hợp lý. Thơng thường, cho vay
cầm cố có hạn mức cao nhất. Chẳng hạn như khách hàng vay cầm cố sổ tiết kiệm hay
trái phiếu có thể được cấp một hạn mức lên tới 90% giá trị của tài sản cầm cố. Để có
thể xác định được hạn mức tín dụng dựa trên tài sản đảm bảo của khách hàng thì ngân
hàng cần phải định giá chính xác giá trị các tài sản đó. Nếu định giá quá thấp sẽ làm
giảm khả năng vay của khách, nếu định giá quá cao sẽ dễ dẫn đến rủi ro cho ngân
hàng.
Cuối cùng, ngân hàng sẽ so sánh nhu cầu vay hợp lý và hạn mức tín dụng, để xác
định số tiền có thể cho vay. Nếu nhu cầu vay hợp lý > hạn mức tín dụng thì ngân
hàng sẽ cho khách hàng vay theo hạn mức tín dụng. Nếu nhu cầu vay hợp lý < hạn
mức tín dụng thì ngân hàng sẽ cho khách hàng vay số tiền theo nhu cầu vay hợp lý
của khách. Như vậy vừa để thoả mãn nhu cầu vay của khách hàng vừa để đảm bảo an
toàn cho ngân hàng.
Để làm cho phần lý thuyết trên thêm sáng tỏ, chúng ta sẽ lấy 1 ví dụ sau.
Giả sử 1 khách hàng muốn mua một chiếc xe ô tô mới của hãng Honda (chiếc
Civic chẳng hạn) với giá là 450.000.000. Khách hàng có số tiền là 150.000.000 và
một sổ tiết kiệm trị giá 400.000.000 nhưng 6 tháng nữa mới đến hạn. Khi đó ngân
hàng sẽ tính tốn số tiền cho vay như sau:
Nhu cầu vay của khách = 450.000.000 - 150.000.000 = 300.000.000
Giá trị tài sản đảm bảo = 400.000.000
Khách hàng đem cầm cố sổ tiết kiệm để vay vốn, hạn mức tín dụng của hình thức
đảm bảo này là 90% giá trị tài sản đảm bảo, đo đó hạn mức tín dụng là 400.000.000 x
0,9 = 360.000.000.
So sánh hạn mức tín dụng và nhu cầu vay hợp lý, ngân hàng quyết định cho khách
hàng vay số tiền là 300.000.000.
1.2.6 Lãi suất cho vay tiêu dùng
Lãi suất cho vay tiêu dùng là tỷ lệ phần trăm số tiền lãi mà khách hàng phải trả
cho ngân hàng trên tổng số vốn vay trong thời gian nhất định ( 1 năm ). Ngân hàng có
các mức lãi suất khác nhau tuỳ theo thời hạn của khoản vay ( ngắn, trung hay dài hạn
), tuỳ theo phương thức trả nợ là một lần hay trả góp, tuỳ theo tài sản đảm bảo ...Ngân
hàng khi thoả thuận về lãi suất cho vay phải tính tốn đến rủi ro, lãi suất hồ vốn ( lãi
suất mà tại đó doanh thu bằng chi phí ), lãi suất cạnh tranh trên thị trường. Các mức
lãi suất này thay đổi theo thời gian, khi nhu cầu vay tăng (thường là vào cuối năm)
các ngân hàng thường tăng lãi suất cho vay do chi phí huy động vốn thời kỳ này cũng
tăng lên. Nhìn chung, lãi suất cho vay tiêu dùng được xác định sao cho ngân hàng có
thể bù đắp được tổn thất có thể xảy ra khi cho vay và mang lại lợi nhuận cho ngân
hàng.
Lãi suất cho vay = Lãi suất + chi phí + thuế + thu nhập +
tiêu dùng
huy động
hoạt động
dự tính
phần
bù rủi ro
Thứ nhất, lãi suất huy động ở đây là lãi suất huy động bình quân mà ngân hàng
trả cho nguồn huy động bao gồm lãi suất tiền gửi giao dịch, lãi suất tiết kiệm, lãi suất
chiết khấu, lãi suất vay NHTW...
Thứ hai, ngân hàng phải tính đến các chi phí quản lý trên như lương, tiền điện
nước, khấu hao, chi phí giấy tờ. Các chi phí này được tính theo tỷ lệ phần trăm trên
quy mô của sản phẩm.
Thứ ba, các ngân hàng là các doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ và phải nộp các
loại thuế theo quy định của pháp luật.
Thứ tư, ngân hàng dự tính thu nhập sau thuế để đảm bảo lợi ích kỳ vọng của
các chủ sở hữu.
Thứ năm, ngân hàng tổng hợp tổn thất có thể xảy ra đối với các sản phẩm như
khách hàng không trả được nợ, tiền giả, kinh doanh thua lỗ... dựa trên thống kê kinh
nghiệm của kỳ trước đó và dự đoán xu hướng sắp tới. Phần bù rủi ro được dự đốn
dựa trên tỷ lệ phần trăm quy mơ của sản phẩm.
Phương pháp tính lãi phổ biến được các ngân hàng sử dụng trong hoạt động tín dụng
là phương pháp lãi đơn. Đây là là phương pháp tính lãi trong đó số tiền lãi tỷ lệ thuận
tuyến tính với thời gian vay vốn thực tế. Phương pháp lãi đơn tính số tiền lãi khách
hàng phải trả dựa trên số dư nợ thực tế tại từng thời kỳ thanh toán của khách hàng.
Cơng thức tính lãi đơn như sau:
Lãi phải trả = dư nợ đầu kỳ x lãi suất x thời gian
Số tiền phải trả cuối kỳ ( nợ gốc và lãi ) sẽ được xác định tuỳ vào cách thức khách
hàng lựa chọn để trả nợ.
Nếu khách hàng trả một lần ( cả gốc và lãi ) vào cuối kỳ thì đến kỳ trả nợ khách hàng
phải trả tổng số tiền bao gồm nợ gốc và tiền lãi.