Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.14 KB, 79 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
Nghiên cứu về Ngân hàng và hoạt động ngân hàng là rất cần thiết. Đa
dạng hoá là một xu hướng tất yếu của sự phát triển trong hoạt động kinh
doanh nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. Đặc biệt trước những
yêu cầu mới của cạnh tranh và hội nhập kinh tế, ngành ngân hàng phải
không ngừng phát triển và tìm kiếm những hướng đi mới phù hợp để vừa có
thể đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng vừa đứng vững trong
cơ chế thị trường. Mở rộng cho vay tiêu dùng là một hướng đi như vậy. Đây
là một hướng đi không mới ở các nước phát triển nhưng khá mới mẻ ở Việt
Nam, bởi người dân Việt Nam vẫn có thói quen suy nghĩ rằng ngân hàng là
nơi phục vụ cho các doanh nghiệp, là một kênh đầu tư tiền nhàn rỗi. Do vậy,
thị trường cho vay tiêu dùng còn khá sơ khai và chưa được nhiều ngân hàng
khai thác.
Với thời gian thực tập không dài tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn chi nhánh Nam Hà Nội, em nhận thấy hoạt động cho vay
tiêu dùng ở chi nhánh vẫn cịn chưa thỏa đáng với năng lực của chính mình.
Em thấy rõ được tầm quan trọng và tiềm năng của hoạt động này. Việc thực
hiện và mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng có ý nghĩa quan trọng đối với
sự phát triển lâu dài của chi nhánh. Vì vậy em lựa chọn đề tài “ Giải pháp
mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà
Nội ” làm khóa luận tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn Th.S Đinh Thanh
Long và các cán bộ tín dụng ở chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội đã
đóng góp những ý kiến quý báu giúp em hoàn thành chuyên đề này.


2
Kết cấu chính của chun đề gồm có 3 chương:
-Chương 1: Cơ sở lý thuyết về cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại


-Chương2: Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng ở chi nhánh Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội
-Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị về việc mở rộng hoạt động cho
vay tiêu dùng tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Nam Hà Nội


3

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CHO VAY TIÊU
DÙNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Ngân hàng thương mại và các hoạt động chính của ngân hàng
thương mại
1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại
1.1.1.1 Lịch sử hình thànhvà phát triển của ngân hàng thương mại
Sự xuất hiện đầu tiên của ngân hàng thương mại là vào những năm đầu của
thế kỷ XV cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá ở các nước
phương Tây. Nghiệp vụ kinh doanh đầu tiên của các ngân hàng lúc bấy giờ
là nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền nhằm thoả mãn nhu cầu thanh toán, gắn
liền với thương mại quốc tế và dịch vụ. Những người làm nghề đổi tiền còn
thực hiện cả nghiệp vụ giữ hộ tiền để phục vụ những khách hàng có nhu cầu
an tồn, bí mật và tiện ích trong sử dụng. Việc giữ tiền hộ của nhiều người
dẫn đến khả năng thanh toán hộ và thanh tốn khơng dùng tiền mặt do đó
xuất hiện nghề thanh toán hộ. Điều này cũng tạo khả năng cho những người
giữ hộ tiền sử dụng một phần tiền gửi của người khác để cho vay. Từ những
nghiệp sơ khai đầu tiên ngành ngân hàng đã phát triển thành rất nhiều các
nghiệp vụ, các loại dịch vụ đa dạng phục vụ nhiều nhu cầu khác nhau của
khách hàng.
Do đó q trình phát triển của ngân hàng là quá trình đa dạng hoá các
nghiệp vụ ngân hàng.

1.1.1.2 Khái niệm ngân hàng thương mại


4
Ngân hàng thương mại là một tổ chức có vai trò ngày càng quan trọng
trong nền kinh tế. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hiện nay có rất
nhiều các tổ chức tài chính khác nhau cung cấp các dịch vụ ngân hàng như
dịch vụ cho vay, uỷ thác đầu tư, nhận tiền gửi... và ngân hàng thương mại
cũng đang mở rộng và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ của mình. Do đó rất
dễ có sự nhầm lẫn giữa loại hình ngân hàng thương mại và các trung gian tài
chính khác.
Giáo trình ngân hàng thương mại định nghĩa về ngân hàng thương mại
như sau: "Ngân hàng thương mại là các tổ chức tài chính cung cấp một danh
mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch
vụ thanh tốn - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một
tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế ”. Theo cá nhân em thì ngân hàng
thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, mà họat động chủ yếu
của nó là huy dộng tiền gửi, sử dụng số tiền đó để cho vay và cung cấp
các phương tiện thanh toán trong lĩnh vực tài chính.
Ngân hàng thương mại khác với các trung gian tài chính khác ở chỗ
ngân hàng thương mại là tổ chức kinh tế duy nhất được phép mở tài khoản
tiền gửi thanh toán và làm trung gian thanh toán trong nền kinh tế quốc dân.
1.1.2 Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại
1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn
Các ngân hàng cũng giống như bất kỳ một doanh nghiệp nào trong
nền kinh tế để duy trì hoạt động và phát triển đều cần vốn. Nguồn vốn của
ngân hàng gồm có vốn tiền gửi, vốn tiền vay, vốn chủ sở hữu và vốn uỷ thác
đầu tư. Để thực hiện hoạt động này ngân hàng nhận tiền gửi, phát hành các
giấy nợ hoặc cổ phiếu với cam kết sẽ hoàn trả khách hàng đúng hạn kèm



5
theo một khoản tiền gọi là tiền lãi. Việc huy động được càng nhiều vốn sẽ
càng tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng kinh doanh do đó các ngân hàng
ln tìm kiếm các nguồn vốn với chi phí thấp và ổn định, đa dạng hố các
hình thức và lãi suất tiền gửi, giấy nợ nhằm thu hút được nhiều vốn trong
nền kinh tế.
1.1.2.2 Hoạt động sử dụng vốn
Đây là các hoạt động ngân hàng sử dụng nguồn vốn huy động được để
đầu tư hoặc cấp tín dụng. Hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
tài sản của ngân hàng và là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân
hàng. Bên cạnh hoạt động tín dụng ngân hàng cũng mở rộng danh mục tài
sản bằng cách đầu tư vào các giấy tờ có giá như trái phiếu chính phủ, trái
phiếu cơng ty... Các hoạt động đầu tư và tín dụng mang lại phần lớn lợi
nhuận cho ngân hàng nhưng lại chứa đựng nhiều rủi ro nên các ngân hàng
thường rất cẩn trọng khi thực hiện hoạt động này.
1.1.2.3 Hoạt động kinh doanh ngoại hối
Đây là hoạt động đầu tiên mà ngân hàng thực hiện với nội dung là
ngân hàng đứng ra mua hoặc bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và
thu được lợi nhuận nhờ chênh lệch giá và phí dịch vụ. Ngày nay hoạt động
này đã mở rộng ra với rất nhiều các hình thức và nghiệp vụ phong phú: mua
bán, trao đổi, gửi vay các loại ngoại tệ với các nghiệp vụ như giao ngay, kỳ
hạn, hoán đổi, quyền chọn và tương lai. Các NHTM tham gia giao dịch
ngoại hối với hai mục đích . Thứ nhất, ngân hàng cung cấp dịch vụ cho
khách hàng, chủ yếu là mua hộ và bán hộ cho nhóm khách hàng riêng lẻ, và
ngân hàng thu một khoản phí . Mục đích thứ hai là ngân hàng kinh doanh
ngoại hối nhằm kiếm lời khi tỷ giá thay đổi


6

1.1.2.4 Hoạt động khác
Hoạt động mua bán ngoại tệ, huy động vốn và sử dụng vốn là những
hoạt động đầu tiên được các ngân hàng thực hiện. Sự phát triển kinh tế là
điều kiện cho sự phát triển của ngân hàng, đến lượt mình sự phát triển của hệ
thống ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Lịch sử phát
triển của ngành ngân hàng đã trải qua sáu thế kỷ( từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 21)
và các hoạt động ngân hàng hiện đại ngày nay đã không ngừng được mở
rộng và phát triển đúng như nhận xét của Peter Rose “ thực hiện nhiều chức
năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh
tế ”.
Các hoạt động ngân hàng hiện đại có thể kể ra ở đây như là hoạt động
bảo quản vật có giá, cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh
toán, quản lý ngân quỹ, tài trợ các hoạt động của chính phủ, cho thuê thiết bị
trung và dài hạn, cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn, cung cấp dịch vụ mơi
giới đầu tư chứng khốn, bảo hiểm, dịch vụ đại lý... Các hoạt động này
mang lại nguồn thu nhập cho ngân hàng thơng qua việc thu phí và chứa
đựng ít rủi ro. Do vậy các ngân hàng hiện đại ngày nay đang ra sức mở rộng
hoạt động dịch vụ nhằm tăng nguồn thu và giảm bớt rủi ro.
1.2 Cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm cho vay tiêu dùng
Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các ngân
hàng thương mại, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Tín dụng
ngân hàng được hiểu là quan hệ kinh tế trong đó ngân hàng chuyển cho chủ
thể khác trong nền kinh tế quyền sử dụng một lượng giá trị ( tiền hoặc tài
sản) với những điều kiện nhất định được thoả thuận trong hợp đồng.


7
Theo hình thức tài trợ, tín dụng được chia thành cho vay, bảo lãnh,
cho thuê, chiết khấu. Đây là cách phân loại phổ biến ở các ngân hàng thương

mại. Trong hoạt động tín dụng thì cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất và cũng
là tài sản mang lại thu nhập lớn nhất. Đây là một trong những nghiệp vụ
kinh doanh đầu tiên của ngân hàng thương mại và đến nay nó vẫn giữ được
vai trị quan trọng hàng đầu của mình. Tuy nhiên hoạt động này ln gắn
liền với rủi ro. Vì thế cần thiết phải phân loại cho vay để có thể quản lý tốt
và hạn chế rủi ro.
Có thể phân loại theo thời gian, thì cho vay gồm có cho vay ngắn hạn, cho
vay trung hạn và cho vay dài hạn.
Có thể phân loại theo đảm bảo, thì cho vay gồm có cho vay có đảm bảo và
cho vay khơng đảm bảo.
Có thể phân loại theo mục đích sử dụng tiền vay, thì cho vay gồm có cho
vay sản xuất kinh doanh và cho vay tiêu dùng. Do đối tượng nghiên cứu của
đề tài là hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại nên chúng
ta sẽ chỉ xem xét về hoạt động này.
Cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại là một hình thức tài trợ
của ngân hàng cho chính sự tiêu dùng của cá nhân và hộ gia đình. Đó là
quan hệ kinh tế trong đó ngân hàng chuyển cho các cá nhân hoặc hộ gia
đình quyền sử dụng một khoản tiền với những điều kiện nhất định được
thoả thuận trong hợp đồng nhằm phục vụ mục đích tiêu dùng của khách
hàng. Những mục đích tiêu dùng có thể được kể ra như là: mua nhà, xây sửa
nhà, mua xe hơi, các dụng cụ trong gia đình, đồ gỗ, các dịch vụ y tế, chi phí
cho các dịp hè, chi phí du học …
1.2.2 Đặc điểm cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại


8
Ta có thể thấy rõ đặc điểm của cho vay tiêu dùng thông qua so sánh cho vay
tiêu dùng và cho vay kinh doanh trên các phương diện sau:
Đối tượng vay: các cá nhân và hộ gia đình là khách hàng của loại hình
cho vay tiêu dùng trong khi cho vay kinh doanh là các doanh nghiệp, tổ

chức, cá nhân, hộ gia đình.
Mục đích vay: tài trợ cho nhu cầu tiêu dùng cá nhân chứ không phải
nhu cầu kinh doanh.
Nguồn trả nợ: Khác với cho vay kinh doanh nguồn trả nợ chính là thu
nhập từ phương án sản xuất kinh doanh, phụ thuộc vào việc sử dụng vốn vay
và kết quả kinh doanh còn ở đây người vay tiêu dùng sử dụng tiền vay vào
các hoạt động không sinh lời, nguồn trả nợ độc lập so với việc sử dụng tiền
vay. Khách hàng có thể dùng các khoản thu nhập của mình để trả tiền vay
như là lương, tiền cho thuê nhà, lãi tiết kiệm, cổ tức …
Quy mô khoản vay: hầu hết các khoản vay tiêu dùng đều có giá trị
không lớn trừ những khoản vay để mua quyền sử dụng đất, mua nhà, mua
ôtô xịn, đi du học nhưng số lượng các món vay tiêu dùng lại khá nhiều.
Rủi ro :cho vay tiêu dùng chứa đựng nhiều rủi ro nhất trong danh mục
các tài sản của ngân hàng. Sở dĩ như vậy là vì nguồn trả nợ là thu nhập
thường xuyên của người vay. Mà những khoản thu nhập này lại phụ thuộc
vào sức khỏe và công việc của người vay. Do đó khi bị mất việc hoặc ốm
đau, tai nạn... người vay khó có thể trả được nợ. Hơn nữa việc thẩm định khả
năng trả nợ của cá nhân và hộ gia đình cũng khó khăn khăn hơn. Bởi đối
với các hãng kinh doanh, ngân hàng có thể thẩm định khả năng trả nợ thông
qua các báo cáo tài chính đã được kiểm tốn, cịn đối với người tiêu dùng
ngân hàng chỉ có thể dựa vào tài sản cá nhân, lương và các khoản thu nhập


9
khác. Để có được khoản vay, khách hàng có thể giấu các thơng tin về tình
hình sức khoẻ và cơng việc trong tương lai của mình nên các ngân hàng rất
khó xác định được rủi ro khi cho vay tiêu dùng.
Vì các khoản cho vay tiêu dùng có rủi ro cao nhất nên các ngân hàng thường
yêu cầu phải có tài sản bảo đảm khi vay và yêu cầu người vay phải mua bảo
hiểm thất nghiệp, nhân thọ, bảo hiểm cho hàng hoá đã được mua.

Để bù đắp cho chi phí ( về thời gian và nhân lực để thẩm định, quản lý
các khoản vay với giá trị nhỏ nhưng số lượng lớn, chi phí trên một đơn vị
cho vay lớn ) và rủi ro cao mà ngân hàng có thể gặp phải khi cho vay tiêu
dùng, nên lãi suất cho vay tiêu dùng phần lớn đều cao hơn các khoản vay
khác của ngân hàng.
Việc cho vay tiêu dùng phụ thuộc vào sự tăng trưởng ổn định về thu
nhập và đảm bảo việc làm bởi nó cho phép người tiêu dùng mua được hàng
hố và dịch vụ ngày hơm nay dựa trên thu nhập của ngày mai. Vì vậy khi
nền kinh tế có xu hướng mở rộng thì nhu cầu vay tiêu dùng tăng cao và
ngược lại khi nền kinh tế suy thoái nhu cầu vay tiêu dùng cũng bị giảm sút.
Thêm một đặc điểm khác của cho vay tiêu dùng là người vay thường
chỉ vay một lần, ít khi có nhu cầu vay lại; khơng giống như các khoản cho
vay thương mại: nhu cầu phát sinh theo chu kỳ sản xuất kinh doanh, lặp đi
lặp lại. Do đó nếu khơng có các giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng thì
ngân hàng sẽ dần mất đi nguồn khách hàng tiềm năng này.
1.2.3 Lợi ích của cho vay tiêu dùng trong ngân hàng thương mại
Cho vay tiêu dùng có từ rất sớm ngay từ những ngày đầu khi ngân
hàng mới hình thành, khi đó họ thực hiện cho vay với các cá nhân, chủ yếu
là những người giàu: quan lại, địa chủ, nhằm mục đích phục vụ tiêu dùng.


10
Do lợi nhuận từ cho vay rất cao nhiều ngân hàng đã phát hành chứng chỉ tiền
gửi khống để cho vay. Chính điều này đã đẩy nhiều ngân hàng đến chỗ mất
khả năng thanh toán và phá sản nên sau đó để đảm bảo an tồn các ngân
hàng thương mại đã không cho vay tiêu dùng, chỉ cho vay kinh doanh. Tuy
nhiên các ngân hàng đã ngày càng phát triển và khả năng quản lý rủi ro,
thẩm định khách hàng ngày một tốt hơn nên bên cạnh việc duy trì và đẩy
mạnh cho vay kinh doanh các ngân hàng cũng cần thiết chú trọng mở rộng
cho vay tiêu dùng. Sở dĩ chúng ta khẳng định như vậy là vì các lý do sau:

Cho vay tiêu dùng của ngân hàng mang lại lợi ích cho nền kinh tế ( trong đó
có người vay ). Chúng ta đã biết sản xuất là một q trình từ sản xuất đến lưu
thơng và tiêu dùng. Do đó tiêu dùng là cái đích của sản xuất, sản xuất các
sản phẩm ra để tiêu dùng. Muốn đẩy mạnh sản xuất thì cần thiết phải đẩy
mạnh tiêu dùng và ngược lại muốn tiêu thụ được nhiều sản phẩm thì sản
xuất phải thoả mãn được nhu cầu của người tiêu dùng. Nhưng để có thể sản
xuất hay tiêu dùng thì đều cần có một số tiền nhất định, số tiền đó có thể có
được qua nhiều nguồn khác nhau: tự tích luỹ; vay mượn người thân,bạn bè;
mua hàng trả chậm; vay các trung gian tài chính. Ngân hàng là một kênh
cung cấp vốn hiệu quả cho tất cả các hoạt động đó. Xã hội ngày càng phát
triển nhu cầu tiêu dùng của các cá nhân, hộ gia đình ngày càng cao. Và
trong xã hội ln sẵn có nhu cầu vay tiêu dùng do các cá nhân và hộ gia
đình mặc dầu chưa có đủ phương tiện thanh tốn trong hiện tại nhưng lại có
những nhu cầu cần thiết cần được thoả mãn ngay như đi du học, tiền viện
phí, tang lễ, sửa chữa nhà cửa...Họ có thu nhập ổn định, hoặc chắc chắn sẽ
có thu nhập trong tương lai như thừa kế, cổ tức, lãi trái phiếu... đảm bảo cho
họ khả năng trả nợ, do đó họ có nhu cầu vay tiêu dùng và sẽ trả được nợ.
Khi đã có nhu cầu thì lẽ dĩ nhiên sẽ có người cung ứng và ngân hàng- một


11
tổ chức kinh doanh tiền tệ chắc chắn không thể bỏ qua một thị trường
với sức mua lớn như thị trường cho vay tiêu dùng.
Không chỉ vậy, trên thị trường đó, ngân hàng thường được cho là
nhà cung cấp có khả năng cung ứng tốt nhất so với các nhà cung cấp
khác.Bởi so với các nguồn cung ứng vốn khác thì ngân hàng có những ưu
điểm hơn hẳn. Khi cần tiền để mua sắm, sửa chữa mà số tiền tự tích luỹ
khơng đủ, kênh vay tiền người ta thường nghĩ đến đầu tiên là vay mượn
người thân, bạn bè. Nhưng những người thân, bạn bè thường chỉ đồng ý cho
vay món tiền nhỏ, do họ cũng khơng có năng lực tài chính lớn và họ khơng

chắc chắn về khả năng trả nợ của bạn. Vì thơng thường người quen cho nhau
vay tiền thường khơng u cầu phải có tài sản đảm bảo cho món vay đó, và
cũng khơng có được hợp đồng vay nợ chặt chẽ nhằm đảm bảo thu hồi món
vay. Khi có nhu cầu vay số tiền lớn, khó có thể nhờ cậy vào những người
quen, bạn bè. So với các trung gian tài chính khác, ngân hàng thương mại có
khả năng thẩm định tín dụng tốt do có cán bộ thơng thạo nghiệp vụ, có mạng
lưới thu thập thơng tin rộng lớn, có khả năng tài chính vững mạnh có thể
đáp ứng mọi nhu cầu vay của khách hàng. Không chỉ vậy, đến với ngân
hàng các khách hàng có thể nhận được sự tư vấn của các nhân viên ngân
hàng, cùng khách hàng tháo gỡ khó khăn do họ là những người am hiểu về
thị trường và khách hàng còn được cung cấp nhiều dịch vụ tiện ích khác nữa
như là dịch vụ tiền gửi, thanh toán…
Cho vay tiêu dùng mang lại nhiều lợi ích cho ngân hàng. Mặc dù hoạt
động cho vay tiêu dùng chứa đựng nhiều rủi ro nhưng chính điều đó lại
mang lại lợi nhuận lớn cho ngân hàng. Ngân hàng có thể ngăn ngừa và hạn
chế rủi ro bằng cách đưa ra những quy chế cho vay chặt chẽ và thẩm định kỹ
càng. Mặt khác tài trợ cho tiêu dùng là ngân hàng gián tiếp tài trợ cho sản


12
xuất. Khi tiêu dùng được đẩy mạnh thì hoạt động sản xuất sẽ tăng lên do đó
gia tăng nhu cầu vay kinh doanh và hoạt động cho vay kinh doanh của ngân
hàng cũng được mở rộng. Như vậy, ngân hàng cung cấp sản phẩm cho vay
tiêu dùng không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của khách hàng mà còn đáp
ứng chính nhu cầu đa dạng hóa sản phẩm của ngân hàng, thu thập nhiều
thông tin về khách hàng và thị trường, mở rộng các dịch vụ hỗ trợ, phân tán
rủi ro... để ngân hàng thực sự là một trung gian tài chính cung cấp nhiều dịch
vụ đa dạng nhất trong nền kinh tế.
1.2.4 Phân loại cho vay tiêu dùng
Để có thể quản lý tốt cho vay tiêu dùng cần thiết phải phân loại cho

vay tiêu dùng. Tiêu thức sử dụng để phân loại cho vay tiêu dùng là các tiêu
thức sau: theo hình thức bảo đảm, theo phương thức hoàn trả và theo phương
thức cho vay giữa ngân hàng và khách hàng.


13
Theo
hình
thức
bảo
đảm

Cho
vay
tiêu
dùng

Theo
phươn
g thức
hồn
trả

Theo
phươn
g thức
cho
vay

Có đảm bảo


Khơng đảm bảo

Trả một lần

Trả góp

Trả tuần hồn

Trực tiếp

Gián tiếp

1.2.4.1 Phân loại theo hình thức bảo đảm tiền vay
Các hình thức bảo đảm có thể là bảo đảm bằng uy tín hoặc bảo đảm
bằng tài sản. Đối với bảo đảm bằng uy tín thì hình thức cho vay tiêu dùng
phổ biến là cho vay thế chấp lương ( tín chấp ) hoặc bằng bảo lãnh của bên
thứ 3. Ngân hàng cho khách hàng vay tiền để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
khách hàng trên cơ sở thế chấp bằng lương hay cịn gọi là tín chấp. Hình
thức này chủ yếu được áp dụng đối với các khách hàng có việc làm và thu
nhập ổn định, thu nhập ngoài việc trang trải các chi tiêu thường xun cịn
có tích luỹ để trả nợ vay ( cơng chức, viên chức trong biên chế nhà nước,
nhân viên có hợp đồng lao động dài hạn...) Hình thức vay thế chấp bằng
lương phù hợp với những món vay giá trị không lớn, thời hạn vay ngắn và


14
trung hạn.
Cho vay tiêu dùng thường yêu cầu có tài sản đảm bảo, do đó theo tiêu thức
này cho vay tiêu dùng được chia thành hai loại :

Loại 1: là các tài sản thuộc sở hữu hoặc sử dụng lâu bền của khách
hàng hoặc đảm bảo của bên thứ 3 cho khách hàng của ngân hàng. Những
đảm bảo này không được hình thành từ khoản tín dụng của chính ngân hàng.
Có thể chia các hình thức đảm bảo của loại này thành hai loại nhỏ sau.
Cho vay cầm cố. Đây là hình thức ngân hàng cho khách hàng vay tiền với
điều kiện là khách hàng phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang
cho ngân hàng trong thời gian đã cam kết. Danh mục và điều kiện của tài sản
cầm đồ được ngân hàng qui định cụ thể dựa trên quy định của pháp luật và
chính sách tín dụng của từng ngân hàng. Các tài sản cầm cố thường là các tài
sản mà ngân hàng có thể kiểm sốt và bảo quản tương đối chắc chắn, đồng
thời việc ngân hàng nắm giữ khơng ảnh hưởng đến q trình hoạt động của
khách hàng chẳng hạn như: các giấy tờ có giá, ngoại tệ mạnh, kim loại
quý…
Cho vay thế chấp. Trong hình thức này người vay phải chuyển các giấy tờ
chứng nhận sở hữu ( hoặc sử dụng) các tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng
nắm giữ trong thời hạn cam kết.
Đối với thế chấp bằng tài sản thì những tài sản mang thế chấp thường là bất
động sản như nhà cửa, quyền sử dụng đất...hoặc là những động sản mà việc
ngân hàng nắm giữ nó khơng thuận tiện như ôtô, xe máy...Việc thế chấp
bằng tài sản cho phép người nhận tài trợ tiếp tục được sử dụng tài sản trong
thời gian vay tuy nhiên q trình sử dụng có thể làm biến dạng tài sản, hơn
nữa khả năng kiểm soát của tài sản đảm bảo của ngân hàng bị hạn chế. Việc


15
định giá tài sản đảm bảo cũng là một khó khăn địi hỏi phải có sự thẩm định
kỹ lưỡng tránh định giá quá cao gây thiệt hại cho ngân hàng hoặc định giá
quá thấp ảnh hưởng đến khả năng vay của khách hàng. Tuy nhiên đối với
cho vay tiêu dùng thì giá trị tài sản đảm bảo cũng khơng q lớn như là các
dây chuyền sản xuất, nhà xưởng như đối với cho vay kinh doanh.

Loại 2 Cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ tiền vay
Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn nhưng khơng có tài sản đảm bảo hoặc
tài sản đó khơng đáp ứng các điều kiện của ngân hàng thì ngân hàng có thể
yêu cầu khách hàng sử dụng chính tài sản được hình thành từ nguồn tài trợ
của ngân hàng làm vật đảm bảo. Chẳng hạn khách hàng vay tiền mua ôtô thì
ngân hàng sẽ u cầu lấy chính chiếc ơtơ đó làm vật đảm bảo, khi khách
hàng khơng có khả năng trả nợ ngân hàng sẽ phát mại ơtơ đó thể thu nợ. Để
đảm bảo rằng khách hàng sẽ không bán tài sản hoặc sử dụng không cẩn thận
làm giảm giá trị của tài sản ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải cam
kết bảo quản tài sản, mua bảo hiểm và người thụ hưởng là ngân hàng đồng
thời chuyển toàn bộ giấy tờ sở hữu cho ngân hàng.
1.2.4.2 Phân loại theo cách thức hoàn trả
Nếu phân theo cách thức hoàn trả, cho vay tiêu dùng có thể được phân
thành ba loại : cho vay tiêu dùng trả một lần, cho vay trả góp, và cho vay
tuần hồn.
Cho vay tiêu dùng trả một lần. Theo cách này, khách hàng thanh toán cho
ngân hàng một lần khi đến hạn và thường áp dụng cho những món vay giá
trị nhỏ, thời hạn cho vay ngắn.
Cho vay tiêu dùng trả góp. Đây là hình thức trong đó khách hàng sẽ trả nợ
cho ngân hàng thành hai hay nhiều lần liên tiếp theo những kỳ hạn nợ nhất


16
định trong thời hạn vay. Hình thức này được sử dụng phổ biến đối với
những khoản vay có giá trị lớn, thu nhập thường xuyên của người nhận tài
trợ không đủ để thanh toán hết một lần số tiền vay. Để được nhận tài trợ
khách hàng phải trả trước một phần giá trị tài sản mua sắm. Số tiền trả trước
phụ thuộc vào khả năng tài chính của người vay, loại tài sản, thị trường tiêu
thụ tài sản sau khi sử dụng. Phần còn thiếu ngân hàng sẽ cho vay. Điều này
có tác dụng làm cho khách hàng cảm thấy tài sản đó thuộc sở hữu của mình

do đó thúc đẩy họ bảo quản tài sản và nỗ lực trả nợ đồng thời giúp hạn chế
rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
Tổng số tiền lãi mà khách hàng phải trả khi vay trả góp lớn hơn số tiền lãi
đối với món vay trả một lần. Sở dĩ như vậy vì vay trả góp chứa đựng nhiều
rủi ro hơn do có thời hạn dài hơn nên ngân hàng phải tính lãi cao hơn để có
lợi nhuận bù đắp được rủi ro.
Cho vay tiêu dùng tuần hoàn. Trong thời gian đã thoả thuận căn cứ vào
nhu cầu chi tiêu và thu nhập từng thời kỳ khách hàng thực hiện vay và trả nợ
nhiều kỳ một cách tuần hoàn. Dư nợ tại một thời kỳ hoặc tổng dư nợ trong
kỳ không được vượt quá giới hạn tối đa cho phép. Khách hàng rất thuận tiện
khi sử dụng hình thức này vì chỉ phải làm thủ tục vay một lần, nhưng có thể
vay nhiều lần nhằm tài trợ cho nhu cầu vay thường xuyên, khơng xác định
trước.
Cho vay theo thẻ tín dụng, cho vay thấu chi tuần hồn là các hình thức
cho vay tiêu dùng tuần hoàn phổ biến hiện nay. Đối với cho vay theo thẻ tín
dụng, khách hàng được cấp thẻ và một số dư tối đa, sử dụng thẻ để thanh
toán cho tiền hàng hoá, dịch vụ ở các cơ sở chấp nhận thẻ. Khi sử dụng thẻ,
trung tâm thẻ sẽ ghi nợ vào tài khoản của khách hàng và đến cuối tháng,
khách hàng sẽ nhận được giấy báo của ngân hàng phát hành thẻ liệt kê chi


17
tiết các khoản mục phải thanh toán. Trong thời hạn cho phép, thường là 30
ngày nếu khách hàng thanh toán( nộp tiền vào tài khoản) thì sẽ khơng bị tính
lãi, nếu quá thời hạn đã quy định khách hàng sẽ phải trả một khoản lãi.
1.2.4.3 Căn cứ vào phương thức cho vay giữa ngân hàng và khách hàng vay
vốn
Cho vay tiêu dùng được chia thành hai loại: cho vay tiêu dùng gián
tiếp và cho vay tiêu dùng trực tiếp.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp: là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua

lại các khoản nợ phát sinh do những cơng ty bán lẻ đã bán chịu hàng hố cho
người tiêu dùng.
Thông thường cho vay tiêu dùng gián tiếp được thực hiện theo sơ đồ sau:
Ngân hàng
5
4

3

1

2
Người tiêu dùng

Người bán lẻ

1-Ngân hàng ký kết hợp đồng với công ty bán lẻ về việc tài trợ cho người
tiêu dùng mua hàng trả góp.
2-Cơng ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu hàng
hố. Thơng thường, người tiêu dùng phải trả trước một phần giá trị của món
hàng cần mua. Cơng ty giao hàng cho người tiêu dùng.
3-Công ty bán bộ chứng từ bán chịu hàng hố cho ngân hàng.
4-Ngân hàng thanh tốn tiền cho Cơng ty bán lẻ.


18
5-Người tiêu dùng thanh tốn tiền trả góp cho Ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp có một số ưu điểm sau:
Cho phép Ngân hàng dễ dàng tăng doanh số cho vay tiêu dùng, tiết kiệm,
giảm được chi phí trong cho vay. Giúp ngân hàng mở rộng quan hệ với

khách hàng và các hoạt động ngân hàng khác.
Bên cạnh những ưu điểm thì cho vay tiêu dùng gián tiếp cũng có
những nhược điểm như: ngân hàng khơng tiếp xúc trực tiếp với người tiêu
dùng đã được công ty bán lẻ bán chịu do đó ngân hàng khơng kiểm sốt
được việc lựa chọn khách hàng của công ty bán lẻ nên rủi ro khách hàng
không trả được nợ cao. Nghiệp vụ cho vay tiêu dùng gián tiếp có tính phức
tạp địi hỏi trình độ chun mơn của cán bộ tín dụng cao. Do đó thường chỉ
có các ngân hàng lớn mới áp dụng hình thức này. Các ngân hàng nhỏ thường
ưa thích hình thức cho vay tiêu dùng trực tiếp.
Cho vay tiêu dùng trực tiếp là hình thức trong đó ngân hàng tiếp xúc
với khách hàng, cho khách hàng vay và thu nợ trực tiếp từ người vay. Quá
trình cho vay tiêu dùng trực tiếp có thể tóm tắt qua sơ đồ sau:

Ngân hàng
5

3
1
4

Người tiêu
dùng

Người
bán lẻ
2

1- Ngân hàng và người tiêu dùng ký hợp đồng vay.
2- Người tiêu dùng trả trước một phần tiền mua hàng cho công ty



19
3- Ngân hàng thanh tốn số tiền cịn thiếu cho cơng ty bán lẻ hoặc khách
hàng tự thanh tốn cho cơng ty bán lẻ.
4- Người tiêu dùng nhận hàng hố đã mua.
5- Người tiêu dùng thanh toán nợ vay cho Ngân hàng.
So với cho vay tiêu dùng trực tiếp, cho vay tiêu dùng gián tiếp có nhiều ưu
điểm hơn như là ngân hàng tiếp xúc trực tiếp với khách hàng do đó có điều
kiện để tìm hiểu và lựa chọn khách hàng, từ đó ra được các quyết định phù
hợp với lợi ích của cả hai bên. Việc quan hệ trực tiếp với khách hàng cịn
giúp ngân hàng có thể bán các sản phẩm khác, xây dựng hình ảnh tốt đẹp
của ngân hàng.
Việc phân chia cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại chỉ mang
tính tương đối và theo một vài tiêu thức mà em cho rằng phổ biến và quan
trọng ở các ngân hàng. Qua việc phân loại này chúng ta có thể thấy rằng
hoạt động cho vay tiêu dùng rất phong phú và đa dạng, và các ngân hàng
trong q trình hoạt động của mình ln đưa ra các hình thức mới nhằm thu
hút khách hàng và cũng là để đáp ứng những nhu cầu mới của khách hàng.
1.2.5 Lãi suất cho vay tiêu dùng
Lãi suất cho vay tiêu dùng là tỷ lệ phần trăm số tiền lãi mà khách hàng
phải trả cho ngân hàng trên tổng số vốn vay trong thời gian nhất định ( 1
năm ). Ngân hàng có các mức lãi suất khác nhau tuỳ theo thời hạn của khoản
vay ( ngắn, trung hay dài hạn ), tuỳ theo phương thức trả nợ là một lần hay
trả góp, tuỳ theo tài sản đảm bảo ...Ngân hàng khi thoả thuận về lãi suất cho
vay phải tính tốn đến rủi ro, lãi suất hồ vốn ( lãi suất mà tại đó doanh thu
bằng chi phí ), lãi suất cạnh tranh trên thị trường. Các mức lãi suất này thay
đổi theo thời gian, khi nhu cầu vay tăng (thường là vào cuối năm) các ngân


20

hàng thường tăng lãi suất cho vay do chi phí huy động vốn thời kỳ này cũng
tăng lên. Nhìn chung, lãi suất cho vay tiêu dùng được xác định sao cho ngân
hàng có thể bù đắp được tổn thất có thể xảy ra khi cho vay và mang lại lợi
nhuận cho ngân hàng.
Lãi suất cho vay= Lãi suất + chi phí + thuế + thu nhập + phần
tiêu dùng

huy động

hoạt động

dự tính

bù rủi ro

Thứ nhất, lãi suất huy động ở đây là lãi suất huy động bình quân mà
ngân hàng trả cho nguồn huy động bao gồm lãi suất tiền gửi giao dịch, lãi
suất tiết kiệm, lãi suất chiết khấu, lãi suất vay NHTW...
Thứ hai, ngân hàng phải tính đến các chi phí quản lý trên như lương,
tiền điện nước, khấu hao, chi phí giấy tờ. Các chi phí này được tính theo tỷ
lệ phần trăm trên quy mơ của sản phẩm.
Thứ ba, các ngân hàng là các doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ và phải
nộp các loại thuế theo quy định của pháp luật.
Thứ tư, ngân hàng dự tính thu nhập sau thuế để đảm bảo lợi ích kỳ
vọng của các chủ sở hữu.
Thứ năm, ngân hàng tổng hợp tổn thất có thể xảy ra đối với các sản
phẩm như khách hàng không trả được nợ, tiền giả, kinh doanh thua lỗ... dựa
trên thống kê kinh nghiệm của kỳ trước đó và dự đốn xu hướng sắp tới.
Phần bù rủi ro được dự đoán dựa trên tỷ lệ phần trăm quy mơ của sản phẩm.
Phương pháp tính lãi phổ biến được các ngân hàng sử dụng trong hoạt động

tín dụng là phương pháp lãi đơn. Đây là là phương pháp tính lãi trong đó số
tiền lãi tỷ lệ thuận tuyến tính với thời gian vay vốn thực tế. Phương pháp lãi
đơn tính số tiền lãi khách hàng phải trả dựa trên số dư nợ thực tế tại từng
thời kỳ thanh toán của khách hàng.


21
Cơng thức tính lãi đơn như sau:
Lãi phải trả = dư nợ đầu kỳ x lãi suất x thời gian
Số tiền phải trả cuối kỳ ( nợ gốc và lãi ) sẽ được xác định tuỳ vào cách thức
khách hàng lựa chọn để trả nợ.
Nếu khách hàng trả một lần ( cả gốc và lãi ) vào cuối kỳ thì đến kỳ trả nợ
khách hàng phải trả tổng số tiền bao gồm nợ gốc và tiền lãi.
Nếu gốc được trả đều làm nhiều kỳ trong thời hạn vay, gọi k là tổng số tiền
vay, a là số nợ gốc phải trả mỗi kỳ, n là số kỳ trả nợ, thì số nợ gốc phải trả
mỗi kỳ là:

a=

k
n

Số tiền phải trả mỗi kỳ bằng nợ gốc phải trả cộng với tiền lãi tính trên dư nợ
của kỳ đó.
Nếu như khách hàng muốn mỗi kỳ trả nợ một khoản bằng nhau ( nợ gốc +
lãi ) hay còn gọi là trả theo niên kim cố định thì số tiền trả mỗi kỳ được tính
như sau . Gọi số tiền vay là k, i lãi suất, a là số tiền phải trả một kỳ, n là số
kỳ trả nợ thì ta có cơng thức :

a=


k *i
1 − (1 + i ) − n

Như vậy là tuỳ vào cách thức trả nợ mà số tiền phải trả mỗi kỳ sẽ khác nhau.
1.2.6

Hạn mức cho vay tiêu dùng
Hạn mức cho vay tiêu dùng được hiểu là số tiền tối đa mà ngân hàng

cho khách hàng vay. Hạn mức cho vay tiêu dùng được xác định dựa trên các


22
yếu tố như : nhu cầu vốn của khách hàng, số vốn tự có của khách hàng, giá
trị của tài sản đảm bảo.
Khách hàng là người đưa ra yêu cầu về số tiền cần thiết để tài trợ cho
việc tiêu dùng của mình. Số tiền này được gọi là nhu cầu vốn của khách
hàng. Ngân hàng xẽ xem xét nhu cầu này có hợp lý hay khơng dựa trên giá
trị thị trường của tài sản cần mua hay tổng số tiền cần thiết để tài trợ cho
hoạt động tiêu dùng của khách hàng ( gọi là nhu cầu vốn hợp lý). Khách
hàng cung cấp cho ngân hàng biết thông tin chi tiết và chính xác về số vốn
tự có của mình hoặc số tiền đã trả trước cho cơng ty bán lẻ, số tiền cịn thiếu
cần phải vay. Thơng thường các ngân hàng thường yêu cầu người tiêu dùng
phải trả trước một phần giá trị của tài sản. Sau đó ngân hàng sẽ tính tốn
nhu cầu vay hợp lý của khách hàng = nhu cầu vốn hợp lý- vốn tự có của
khách hàng- vốn khách hàng vay mượn từ nguồn khác.
Đối với các hình thức vay, các ngân hàng thường quy định các hạn
mức khác nhau dựa trên giá trị tài sản đảm bảo hoặc nhu cầu vay hợp lý.
Thông thường, cho vay cầm cố có hạn mức cao nhất. Chẳng hạn như khách

hàng vay cầm cố sổ tiết kiệm hay trái phiếu có thể được cấp một hạn mức
lên tới 90% giá trị của tài sản cầm cố. Để có thể xác định được hạn mức tín
dụng dựa trên tài sản đảm bảo của khách hàng thì ngân hàng cần phải định
giá chính xác giá trị các tài sản đó. Nếu định giá quá thấp sẽ làm giảm khả
năng vay của khách, nếu định giá quá cao sẽ dễ dẫn đến rủi ro cho ngân
hàng.
Cuối cùng, ngân hàng sẽ so sánh nhu cầu vay hợp lý và hạn mức tín dụng, để
xác định số tiền có thể cho vay. Nếu nhu cầu vay hợp lý > hạn mức tín dụng
thì ngân hàng sẽ cho khách hàng vay theo hạn mức tín dụng. Nếu nhu cầu
vay hợp lý < hạn mức tín dụng thì ngân hàng sẽ cho khách hàng vay số tiền


23
theo nhu cầu vay hợp lý của khách. Như vậy vừa để thoả mãn nhu cầu vay
của khách hàng vừa để đảm bảo an toàn cho ngân hàng.
Để làm cho phần lý thuyết trên thêm sáng tỏ, chúng ta sẽ lấy 1 ví dụ sau.
Giả sử 1 khách hàng muốn mua một chiếc xe ô tô mới của hãng
Honda (chiếc Civic chẳng hạn) với giá là 450.000.000. Khách hàng có số
tiền là 150.000.000 và một sổ tiết kiệm trị giá 400.000.000 nhưng 6 tháng
nữa mới đến hạn. Khi đó ngân hàng sẽ tính tốn số tiền cho vay như sau:
Nhu cầu vay của khách = 450.000.000 - 150.000.000 = 300.000.000
Giá trị tài sản đảm bảo = 400.000.000
Khách hàng đem cầm cố sổ tiết kiệm để vay vốn, hạn mức tín dụng của hình
thức đảm bảo này là 90% giá trị tài sản đảm bảo, đo đó hạn mức tín dụng là
400.000.000 x 0,9 = 360.000.000.
So sánh hạn mức tín dụng và nhu cầu vay hợp lý, ngân hàng quyết định cho
khách hàng vay số tiền là 300.000.000.
1.2.7 Quy trình cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại.
Quy trình cho vay tiêu dùng của Ngân hàng thương mại gồm các bước
sau đây: Tiếp nhận hồ sơ tín dụng và kiểm tra các thông tin khách hàng đưa

ra trên hồ sơ, Thẩm định tín dụng, Xét duyệt và quyết định cho vay, Hoàn tất
các thủ tục pháp lý trước khi giải ngân, Kiểm tra sau khi giải ngân và phát
hiện nhu cầu mới của khách hàng, Thu nợ và xử lý nợ quá hạn.
Bước 1: Tiếp nhận hồ sơ tín dụng và kiểm tra sơ bộ các thông tin
khách hàng đưa ra trên hồ sơ.
Cán bộ tín dụng hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ cho vay đầy đủ và đúng
quy định theo mẫu của ngân hàng (nếu thiếu thì yêu cầu khách hàng bổ


24
sung), bao gồm: giấy đề nghị vay vốn; phương án vay vốn và trả nợ; danh
mục các tài sản cầm cố, thế chấp và giấy tờ liên quan, hợp đồng lao động có
xác nhận của thủ trưởng đơn vị (với các đối tượng vay thế chấp lương ); các
giấy tờ chứng minh nguồn thu nhập nếu có; hộ khẩu, chứng minh nhân dân
và các giấy tờ liên quan khác.
Bước 2: Thẩm định tín dụng. Đây là khâu quan trọng nhất trong quy
trình cho vay tiêu dùng, quyết định chất lượng tín dụng, thường bao gồm các
nội dung sau:
Thẩm định tư cách đạo đức người đi vay. Cán bộ tín dụng phải đảm bảo
khách hàng vay vốn có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự, đủ
tư cách pháp lý vay vốn ngân hàng. Đồng thời đảm bảo khách hàng vay vốn
có ý thức rõ ràng về trách nhiệm phải hoàn trả đầy đủ và đúng hạn các khoản
nợ.
Thẩm định mục đích sử dụng tiền vay. Đây là một trong những nguyên tắc
khi cho vay của ngân hàng, ngân hàng cho vay đúng mục đích. Khách hàng
được phép vay để tiêu dùng những tài sản, hàng hoá mà pháp luật khơng
cấm và phù hợp với chính sách tín dụng của từng ngân hàng.
Thẩm định tình hình tài chính và khả năng thanh tốn. Nội dung này
bao gồm: Xác định mức thu nhập, việc làm, số dư các tài khoản tiền gửi và
nơi cư trú. Việc xác định nguồn thu nhập ổn định hàng tháng của khách hàng

có ý nghĩa rất quan trọng vì đây là nguồn trả nợ cho ngân hàng. Những
khách hàng có thu nhập ổn định và thu nhập còn lại sau khi trừ các khoản
chi phí sinh hoạt cần thiết cao sẽ được đánh giá cao. Cán bộ tín dụng cũng
đồng thời xác minh lại thông tin ở cơ quan nơi khách hàng làm việc để đánh
giá độ chính xác của mức thu nhập, độ dài thời gian làm việc, nơi cư trú và
số sổ bảo hiểm xã hội ghi trên đơn xin vay. Cán bộ tín dụng cũng kiểm tra số


25
dư các tài khoản tiền gửi của khách ( nếu có ) qua các ngân hàng có liên
quan. Thời gian sống tại nơi cư trú hiện tại cũng thường được coi trọng vì
nếu khoảng thời gian một người sống tại một nơi càng lâu thì có thể tin rằng
cuộc sống của người đó càng ổn định. Cịn nếu một người thường xuyên
thay đổi chỗ ở thì sẽ là một yếu tốt bất lợi cho ngân hàng khi quyết định cho
vay.
Thẩm định tài sản đảm bảo. Trước hết, cán bộ tín dụng sẽ kiểm tra
quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp tài sản của khách hàng, khả năng
chuyển nhượng của tài sản. Đối với tài sản đảm bảo cán bộ tín dụng thường
chú ý triển vọng của thị trường bất động sản cũng như sự ổn định giá trị của
tài sản trong trường hợp phải phát mại tài sản đảm bảo. Định giá tài sản đảm
bảo cũng là một việc rất quan trọng trong khi thẩm định. Cuối cùng ngân
hàng xem xét khả năng bảo quản tài sản của người đi vay, hợp đồng bảo
hiểm trong trường hợp vay thế chấp. Nếu tài sản thế chấp khơng được duy
trì tốt, hoặc khơng được mua bảo hiểm ngân hàng có thể khơng lấy lại được
tồn bộ số tiền đã cho vay khi chẳng may tài sản bị hỏng, giảm giá trị.
Lập báo cáo thẩm định. Sau khi thẩm định hồ sơ vay vốn của khách hàng,
cán bộ tín dụng lập báo cáo thẩm định trong đó ghi vắn tắt nhưng tổng qt
về tình hình của khách hàng: nhân thân, mục đích vay, số tiền vay, khả năng
trả nợ, tài sản đảm bảo. Cán bộ tín dụng đưa ra những đánh giá về khách
hàng và ý kiến cho vay hay không cho vay đối với khách hàng. Nếu cho vay

thì phải ghi rõ số tiền, thời hạn, lãi suất, các điều kiện kèm theo.
Bước 3: Xét duyệt và quyết định cho vay. Khi nhận báo cáo thẩm
định kèm theo hồ sơ vay vốn liên quan, Trưởng phịng tín dụng xem xét lại
và yêu cầu cán bộ tín dụng giải thích bổ sung hoặc chỉnh sửa nếu có thiếu
sót. Sau đó báo cáo được trình Hội đồng tín dụng xét duyệt. Khâu quyết định


×