Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Tài liệu LUẬN VĂN: Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại NHTM cổ phần VPBank Thanh Xuân doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (747.17 KB, 88 trang )







LUẬN VĂN:
Phát triển hoạt động cho vay tiêu
dùng tại NHTM cổ phần VPBank
Thanh Xuân






Lời Mở Đầu

Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, phát triển
kinh tế theo xu hướng hội nhập quốc tế. Tại đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng và
Nhà nước một lần nữa xác định mục tiêu vô cùng quan trọng của sự nghiệp này
đối với sự phát triển kinh tế. Với nhiệm vụ phấn đấu tới năm 2020 cơ bản hoàn
thành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi
phải giải quyết nhiều vấn đề quan trọng, trong đó nhu cầu vốn cho đầu tư và phát
triển là rất cần thiết. Vốn tự có của các doanh nghiệp thường rất nhỏ, nguồn vốn
từ ngân sách nhà nước lại rất hạn thường xuyên bị thậm hụt, vì vậy cần phải có
một tổ chức đứng ra hỗ trợ về vốn cho các doanh nghiệp đó là các tổ chức tín
dụng mà trong đó chủ yếu là các ngân hàng thương mại (NHTM). Mỗi ngân hàng
đều có những cách thức tổ chức quản lý và hoạt động khác nhau sao cho phù hợp
với đặc điểm và lợi thế riêng của mình. Trong nhà trường các sinh viên chỉ được


học trên lý thuyết mà chưa có thực tế, vì vậy để hoàn thiện kiến thức, trang bị cả
về lý thuyết và thực tế cho các sinh viên khi ra trường thì việc đi thực tập, học
hỏi thực tế là điều rất cần thiết tạo điều kiện cho các sinh viên khi ra trường có
thể tiếp cận công việc một cách nhanh chóng.
Là một sinh viên chuyên ngành ngân hàng, được sự giới thiệu của nhà
trường Em đã đến thực tập tại NHTMCP VPBank – Chi Nhánh Thanh Xuân Hà
Nội (VPBank Thanh Xuân), thời gian bắt đầu từ ngày 02/01/2008, trong thời gian

thực tập tại ngân hàng, qua quá trình tìm hiểu về tổ chức quản lý và quá trình
hoạt động cùng với sự chỉ bảo tận tình của giám đốc cùng các anh chị trong
phòng tín dụng và kế toán đã giúp Em có được cái nhìn thực tiễn về tổ chức và
hoạt động của NHTM VPBank Thanh Xuân.
VPBank là một trong những ngân hàng đầu tiên cung cấp các sản phẩm cho
vay tiêu dùng. Trải qua quá trình triển khai và rút kinh nghiệm, VPBank đã
thu được những kết quả khả quan. Tuy nhiên trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt
giữa các ngân hàng thì việc phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng không phải là
điều đơn giản.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển hoạt động cho vay tiêu
dùng nên em đã chọn nghiên cứu đề tài “ Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng
tại NHTM cổ phần VPBank Thanh Xuân.”
Kết cấu nội dung chính của chuyên đề gồm có:
Chương 1. Tổng quan về hoạt động cho vay tiêu dùng của các ngân hàng
thương mại.
Chương 2. Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại NHTM VPBank
Thanh Xuân.
Chương 3. Giải pháp phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại VPBank.








Chương 1.
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1.1. khái niệm.
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế có bản chất là doanh nghiệp nhưng hoạt động dựa trên kinh doanh tiền tệ
và tín dụng. Ngân hàng gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh
tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại
thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về qui mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân
hàng. Theo Lênin: “ ngân hàng là xí nghiệp đặc biệt kinh doanh tiền tệ và tín
dụng”. Sự ra đời của ngân hàng là kết quả của phân công lao động xã hội, chừng
nào còn kinh doanh hàng hoá thì còn có ngân hàng, ngân hàng là kế toán cho cả
nền kinh tế.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản.
1.1.2.1. Huy động vốn.
Huy động vốn là một trong những hoạt động quan trong đảm bảo vốn cho
vay, hình thành nên tài sản của ngân hàng. Các hình thức huy động vốn chủ yếu
gồm có: tiền gửi và tiền vay.
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân
hàng thương mại, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Trong

môi trường cạnh tranh, để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao các
ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau:
- Tiền gửi thanh toán: đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào
ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ trong phạm vi số dư cho phép.
khoản tiền này có đặc điểm lãi suất rất thấp có khi bằng không, nhưng chủ tài

khoản lại được hưởng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp, thủ tục mở đơn
giản.
- Tiền gửi có kì hạn của các doanh nghiệp và tổ chức xã hội.
Tuy không thuận lợi cho tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán vì
khi cần chi tiều khách hàng phải đến ngân hàng để rút tiền ra, nhưng tiền gửi có
kì hạn lại được hưởng lãi suất cao hơn tiền gửi thanh toán tuỳ theo độ dài của kì
hạn.
- Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng. Họ
có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời. Đến cuối
mỗi kỳ họ có thể rút ra một phần hoặc toàn bộ. Khách hàng gửi tiền thường là
những người về hưu, không có khả năng kinh doanh ,hoặc người có thu nhập cố
định…Để thu hút được nhiều tiền gửi tiết kiệm các ngân hàng ngày càng mở rộng
mạng lưới huy động vốn, cho ra nhiều hình thức huy động vốn đa dạng với lãi
suất cạnh tranh.
- Tiền gửi của các ngân hàng khác.
Đặc điểm của nguồn này thường không lớn. Ngân hàng này gửi tiền ở ngân
hàng khác nhằm mục đích chủ yếu là nhờ thanh toán hộ.

Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên,
để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động tiền gửi bị hạn chế các ngân
hàng thường vay mượn thêm.
- Vay NHNN (NHTW)
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của ngân
hàng thương mại khi thiếu hụt dự trữ. Hình thức cho vay chủ yếu của ngân hàng
Nhà nước là tái chiết khấu ( hoặc tái cấp vốn). Ngân hàng Nhà nước thường quản
lý việc vay mượn này một cách chặt chẽ, ngân hàng thương mại phải thực hiện
điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Thông thường ngân hàng Nhà nước chỉ
tái chiết khấu các thương phiếu có thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao và
phù hợp với mục tiêu của ngân hàng Nhà nước. Trong điều kiện chưa có thương

phiếu như ở Việt Nam ngân hàng Nhà nước có thể cho vay dưới hình thức tái cấp
vốn theo hạn mức tín dụng nhất định.
- Vay các tổ chức tín dụng khác
Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín
dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Quá trình vay mượn rất đơn giản, ngân
hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc qua ngân hàng đại
lý. khoản vay có thể không cần đảm bảo hoặc được đảm bảo bằng chứng khoán
kho bạc Nhà nước.
- vay trên thị trường vốn
Các ngân hàng có thể vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ (kì phiếu,
tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn. Thông thường đây là khoản vay không
có bảo đảm. Những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn được
nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ khó vay mượn trực tiếp bằng cách này.

1.1.2.2. Hoạt động cho vay
Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng
phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Cho vay là tài sản lớn
nhất trong khoản mục tín dụng. Cho vay thường được định lượng theo 2 chỉ tiêu:
doanh số cho vay trong kì và dư nợ cuối kì. Doanh số cho vay trong kì là tổng số
tiền mà ngân hàng đã cho vay ra trong kì. Dư nợ cuối kì là số tiền mà ngân hàng
hiện đang còn cho vay vào thời điểm cuối kì. Cho vay được ghi dưới hình thức dư
nợ. Cho vay có thể được phân thành nhiều loại khác nhau.
Theo thời hạn, cho vay được chia thành 3 loại: cho vay ngắn hạn ( thời hạn
cho vay đến 12 tháng), cho vay trung hạn ( thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến
60 tháng, cho vay dài hạn (thời hạn cho vay trên 60 tháng trở lên).
Theo phương thức cho vay gồm:
- Cho vay từng lần: phương thức này áp dụng với khách hàng có nhu cầu
bổ sung vốn lưu động không thường xuyên hoặc khách hàng có vòng quay vốn
kinh doanh dài. Mỗi lần có nhu cầu vay vốn, khách hàng lập hồ sơ vay vốn theo
quy chế của từng ngân hàng. Khách hàng có thể rút vốn một lần hoặc nhiều lần

phù hợp với tiến độ sử dụng vốn, nhưng tổng số tiền của các lần rút vốn không
được vượt quá số tiền cho vay ghi trong hợp đồng tín dụng. Trường hợp rút vốn
nhiều lần, mỗi lần rút vốn khách hàng phải ký giấy nhận nợ và gửi cho ngân hàng
bản sao các chứng từ, tài liệu chứng minh mục đích sử dụng vốn vay. Vốn vay có
thể được rút bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản như đã thoả thuận trong hợp đồng
tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: phương thức này áp dụng với khách hàng
có nhu cầu vay bổ sung vốn lưu động thường xuyên, mục đích sử dụng vốn rõ

ràng và có tín nhiệm với ngân hàng ( như sản xuất kinh doanh ổn định, có lãi,
trong thời gian một năm trước đó không có nợ quá hạn tại các tổ chức tín dụng.
Ngân hàng xác định hạn mức tín dụng phù hợp với đặc điểm chu kỳ sản xuất,
kinh doanh, vòng lưu chuyển tiền tệ. Hợp đồng tín dụng được ký kết trong phạm
vi hạn mức được xác định. Khi hợp đồng theo hạn mức còn trong thời hạn hiệu
lực, mỗi lần rút vốn vay khách hàng không phải ký thêm hợp đồng tín dụng mà
chỉ cần lập giấy nhận nợ kèm bảng kê và bản sao chứng từ tài liệu chứng minh
mục đích sử dụng tiền vay và dẫn chiếu đến hợp đồng tín dụng hạn mức. Mỗi
giấy nhận nợ có thời hạn phù hợp với từng mục đích sử dụng vốn nhưng không
vượt quá thời hạn còn lại của hạn mức đã được duyệt. Trong thời hạn rút tiền vay
theo quy định trong hợp đồng tín dụng, khách hàng có thể vừa rút tiền vay, vừa
trả nợ vay nhưng tổng dư nợ không vượt quá hạn mức tín dụng đã thoả thuận.
- Cho vay theo dự án đầu tư: phương thức này áp dụng đối với khách hàng
có nhu cầu vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ, và các dự án phục vụ đời sống. khách hàng vay vốn phải có vốn tự có
đầu tư tham gia vào dự án. Vốn tham gia dự án có thể là tiền hoặc tài sản đưa vào
sử dụng cho dự án kể cả giá trị quyền sừ dụng đất, quyền sở hữu nhà xưởng, tiền
thuê đất đã trả, các chi phí mà khách hàng đã tự đầu tư vào dự án. Căn cứ để giải
ngân là hợp đồng thi công, chứng từ cung ứng, nhập khẩu vật, thiết bị công nghệ,
giá trị khối lượng đã được xác nhận.
- Cho vay hợp vốn (đồng tài trợ): Ngân hàng phối hợp với một số tổ chức

tín dụng khác cùng cho vay đối với một dự án vay vốn của khách hàng, trong đó
ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác làm đầu mối. Việc cho vay hợp vốn được

thực hiện theo quy chế cho vay đồng tài trợ của NHNN và các quy định của
VPBank.
- Cho vay trả góp: khách hàng trả góp phục vụ tiêu dùng hoặc kinh doanh
phải có phương án trả nợ gốc và lãi vay khả thi bằng các khoản thu nhập chắc
chắn ổn định. Ngân hàng và khách hàng có thể thoả thuận việc cho vay trả góp
theo một trong hai phương thức sau: Cho vay trả góp theo lãi gộp và cho vay trả
góp theo dư nợ thực tế.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Phương thức cho vay này áp
dụng với khách hàng có nhu cầu dự phòng nguồn vốn tín dụng trong một khoảng
thời gian nhất định nhằm đảm bảo khả năng chủ động về tài chính khi thực hiện
sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống. Trong thời gian rút vốn quy định, mỗi
lần rút vốn phải lập giấy nhận nợ và kèm theo bản sao các chứng từ chứng minh
mục đích sử dụng vốn vay phù hợp với hợp đồng tín dụng đã ký. Tổng số tiền các
lần rút vốn không được vượt quá hạn mức tín dụng dự phòng ghi trong hợp đồng
tín dụng và thời hạn cho vay trong từng giấy nhận nợ không được vượt quá thời
hạn cho vay quy định trong hợp đồng tín dụng.
- Các phương thức cho vay khác như là: cho vay theo hạn mức thấu chi,cho
vay thông qua phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, và các phương thức cho vay mà
pháp luật không cấm.
Theo đối tượng khác hàng, cho vay được chia thành: cho vay doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh thương mại dịch vụ ( vay ngắn hạn, hạn mức, vay theo dự án
đầu tư, vay thấu chi, chiết khấu chứng từ xuất khẩu), cá nhân vay sản xuất kinh
doanh, cá nhân vay tiêu dùng ( mua nhà, sửa chữa nhà, mua ô tô, du học ), cá

nhân vay kinh doanh chứng khoán ( cầm cố cổ phiếu, cầm cố trái phiếu chuyển
đổi).
1.1.2.3. Các hoạt động khác.

Ngoài hoạt động huy động vốn và cho vay, ngân hàng còn thực hiện các
hoạt động khác như:
- Bảo lãnh: là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ
khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho
khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi. Bảo lãnh được ghi vào tài sản
ngoại bảng, đó là giá trị ngân hàng cam kết trả thay khách hàng của mình. Phần
bảo lãnh ngân hàng phải thực hiện chi trả được ghi vào tài sản nội bảng tính vào
mục cho vay bắt buộc hoặc nợ quá hạn.
- Chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá: là việc ngân hàng ứng
trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu hoặc giấy tờ có
giá trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu, giấy tờ có
giá chưa đến hạn.
- Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê
theo những thoả thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả
gốc lẫn lãi cho ngân hàng. Cho thuê tài sản trung và dài hạn được ghi vào khoản
mục tài sản theo giá trị tài sản cho thuê trừ đi phần tiền ngân hàng đã thu được.
- Nhận uỷ thác: ngân hàng làm dịch vụ uỷ thác cho vay cho các ngân hàng
khác, các tổ chức tín chính phủ hoặc phi chính phủ. Bên cạnh đó ngân hàng còn
thực hiện dịch vụ bảo quản tài sản của khách hàng…
1.2.CHO VAY TIÊU DÙNG.
1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của cho vay tiêu dùng.

Trước đây các ngân hàng thường tập trung cho vay sản xuất kinh doanh và
ít cho vay đối với cá nhân, hộ gia đình. Họ cho rằng cho vay tiêu dùng có quy mô
nhỏ, rủi ro lại rất cao. Sau chiến tranh thế giới thứ II, trước sức ép của cạnh tranh
các ngân hàng đã phải tiến hành cải cách. Cùng với sự cạnh tranh của các tổ chức
tín dụng và các tổ chức tài chính trung gian khác, sự phát triển mạnh mẽ của thị
trường vốn khiến thị phần cho vay các doanh nghiệp của ngân hàng bị giảm sút,
nhiều hãng lớn tự tài trợ bằng phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Khiến các ngân
hàng phải tìm cách chuyển hướng sang hoạt động khác để tăng thu nhập. Bên

cạnh đó , sự phát triển của nền kinh tế, khiến mức sống của dân cư được cải thiện
đáng kể, nhu cầu vay tiêu dùng tăng mạnh mẽ, gắn liền với nhu cầu về hàng tiêu
dùng lâu bền như nhà, xe, đồ gỗ sang trọng, nhu cầu du lịch…Cho vay tiêu dùng
trở thành một thị trường hấp dẫn đầy tiềm năng đối với ngân hàng. Các ngân hàng
chuyển hướng sang tập trung mở rộng thị trường cho vay tiêu dùng. Nhiều ngân
hàng chuyên môn hoá hoạt động cho vay tiêu dùng bằng cách lập các phòng tín
dụng tiêu dùng độc lập. Giúp các ngân hàng tăng quy mô, giảm rủi ro và chi phí
trong các khoản cho vay tiêu dùng đưa tín dụng tiêu dùng trở thành một trong
những loại hình tín dụng có mức tăng trưởng cao. Ở Mỹ và Châu Âu cho vay tiêu
dùng chiếm khoảng 25-40% tổng dự nợ cho vay của hệ thống ngân hàng. Cho vay
tiêu dùng sẽ vẫn đóng vai trò chủ đạo trong dịch vụ ngân hàng trong những năm
tới đây.
1.2.2. Khái niệm.
"Cho vay tiêu dùng được hiểu là hình thức tài trợ của ngân hàng cho mục
đích chi tiêu của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Các khoản
cho vay tiêu dùng là nguồn tài chính quan trọng giúp những người tiêu dùng có

thể trang trải nhu cầu trong cuộc sống như nhà ở, phương tiện đi lại, tiện nghi
sinh hoạt, học tập, du lịch…nâng cao mức sống của người tiêu dùng trước khi họ
có đủ khả năng về tài chính để thụ hưởng”.
1.2.3. Đặc điểm.
Cho vay tiêu dùng là một hoạt động tất yếu hình thành do yêu cầu của nền
kinh tế. Nó có những đặc điểm riêng khác với tín dụng ngân hàng nói chung.
1.2.3.1.Số lượng các món vay lớn nhưng giá trị mỗi món vay nhỏ.
Các khoản cho vay tiêu dùng thường có giá trị nhỏ, khác với các khoản
cho vay sản xuất kinh doanh. Khách hàng khi tìm đến ngân hàng với mục đích
vay tiêu dùng thường có nhu cầu vốn không lớn vì các hàng hoá dịch vụ tiêu dùng
thường không quá đắt đỏ, nếu người tiêu dùng vay để mua nhà, sửa chữa nhà thì
quy mô những món vay này không quá lớn đối với ngân hàng hoặc khách hàng đã
có sự tích luỹmột phần từ trước.

1.2.3.2. Các khoản cho vay tiêu dùng có độ rủi ro cao.
Cho vay tiêu dùng có độ rủi ro rất cao trong danh mục cho vay của ngân
hàng. Chịu tác động của những yếu tố khách quan như môi trường kinh tế xã hội,
môi trường tự nhiên ( thiên tai, hạn hán, lũ lụt…) và các yếu tố khác như:
- Tính chu kỳ của hoạt động cho vay tiêu dùng. Nhu cầu vay vốn tỷ lệ
thuận với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Nó tăng lên khi nền kinh tế phát triển,
mở rộng khiến người dân tin tưởng vào thu nhập của mình trong tương lai và sẵn
sàng vay tiền để được sử dụng trước những hàng hoá cao cấp phục vụ đời sống.
Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, hạn hán, bệnh dịch, mất mùa…khiến
người tiêu dùng chỉ dám yêu cầu mức sống đảm vảo được những nhu cầu thiết
yếu hàng ngày và hạn chế việc vay từ ngân hàng.

- Đối tượng cho vay tiêu dùng là cá nhân và hộ gia đình. Các thông tin về
khách hàng như sức khoẻ, công việc có thể có độ chính xác không cao do khách
hàng cố tình giữ kín hoặc che dấu. Khả năng trả nợ của khách hàng sẽ thay đổi
nhanh chóng khi thay đổi điều kiện làm việc hay tình trạng sức khoẻ. Nếu người
vay bị chết, ốm, hoặc bị mất việc thì ngân hàng sẽ khó thu được nợ. Ngân hàng có
thể phải đối mặt với những trường hợp khách hàng cố tình lừa đảo, chây ỳ với hy
vọng quỵt nợ, hoặc kéo dài thời gian sử dụng vốn của ngân hàng. Do vậy, dẫu
ngân hàng có nắm giữ tài sản đảm bảo trong trường hợp này cũng khó tránh khỏi
tổn thất xảy ra.
- Lãi suất cho vay tiêu dùng khá cứng nhắc. Ngân hàng có thể phải chịu tổn
thất khi chi phí huy động vốn tăng lên.
1.2.3.3. Chi phí cho vay tiêu dùng cao.
Chi phí cho vay tiêu dùng khá cao trong danh mục cho vay của ngân hàng.
Do quy mô mỗi món vay thường nhỏ, thời gian vay thường ngắn, rủi ro cao, các
thông tin về cá nhân thường không đầy đủ và thiếu chính xác nên ngân hàng phải
mất nhiều chi phí và thời gian trong khâu tiếp nhận hồ sơ, thẩm định khách hàng.
Hơn nữa, các khoản cho vay tiêu dùng thường có số lượng lớn, do đó ngân hàng
phải mất thêm chi phí để quản lý các khoản vay, theo dõi va kiểm tra khách hàng

thường xuyên… những điều này khiến cho việc thực hiện một khoản cho vay tiêu
dùng của ngân hàng đối với khách hàng thường có chi phí lớn.
1.2.3.4. Cho vay tiêu dùng có khả năng sinh lời cao.
Cho vay tiêu dùng là một trong những khoản mục tín dụng mạng lại mức
lợi nhuận cao nhất trong danh mục cho vay của ngân hàng. Các khoản cho vay

tiêu dùng thường được định giá rất cao vì việc định giá này dựa trên cơ sở chi phí
cho vay tiêu dùng lớn và mức độ rủi ro cao.
Khi người tiêu dùng đến vay tiền của ngân hàng, họ thường quan tâm tới
việc có vay được tiền hay không. Và sẵn sàng chấp nhận mức lãi suất cao để có
thể vay được tiền thoả mãn nhu cầu tiêu dùng.
Có thể nói, cho vay tiêu dùng đã đem lại cho ngân hàng nguồn thu nhập
cao. Đây là một thị trường rộng lớn, nhiều tiềm năng, và sẽ tiếp tục phát triển
mạnh trong tương lai.
1.2.4. Phân loại cho vay tiêu dùng.
Cho vay tiêu dùng được phân loại dựa trên nhiều tiêu thức khác nhau giúp
ta có cái nhìn toàn diện về cho vay tiêu dùng trên nhiều giác độ.
1.2.4.1. Căn cứ vào phương thức hoàn trả.
Theo tiêu thức này cho vay tiêu dùng được chia thành 3 loại gồm: cho vay
tiêu dùng trả góp, cho vay tiêu dùng trả một lần, cho vay tiêu dùng tuần hoàn.
*Cho vay tiêu dùng trả góp: là phương thức cho vay trong đó người đi vay
trả nợ gốc cho ngân hàng làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận.
Cho vay trả góp thường áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ
cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với
người tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho người
bán lẻ về số hàng hoá mà khách hàng đã mua trả góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận
ngay tiền sau khi bán hàng từ phía ngân hàng và làm đại lý thu tiền cho ngân
hàng, hoặc khách hàng trả trực tiếp cho ngân hàng.
Tài sản được tài trợ trong trường hợp cho vay tiêu dùng trả góp thường là
tài sản có thời hạn sử dụng lâu bền hoặc có giá trị lớn như nhà ở, ô tô, các


phương tiện vận tải… khách hàng sẽ được hưởng lợi khi sử dụng những tài sản
này trong thời gian dài khi mà chưa có đủ khả năng về tài chính để thanh toán.
Thông thường thì ngân hàng yêu cầu người vay phải thanh toán trước một
phần giá trị tài sản cần mua sắm. Số tiền này được gọi là số tiền trả trước. phần
còn lại ngân hàng sẽ cho vay. Số tiền trả trước này nhiều hay ít phụ thuộc vào
mức độ giảm giá nhanh hay chậm của từng loại tài sản. Tài sản nào có mức độ
giảm giá nhanh thì số tiền trả trước nhiều, tài sản nào có mức độ giảm giá chậm
thì số tiền trả trước ít. Ngoài ra số tiền trả trước nay còn phụ thuộc vào thị trường
tiêu thụ tài sản sau khi đã sử dụng, môi trường kinh tế, năng lực tài chính của
người đi vay Số tiền trả trước này có một vai trò khá quan trọng giúp ngân hàng
hạn chế rủi ro.
Trong trường hợp này cần chú ý số tiền thanh toán định kỳ phải phù hợp
với khả năng về thu nhập của khách hàng.
*Cho vay tiêu dùng trả một lần: theo phương thức này, tiền vay được
khách hàng thanh toán cho ngân hàng chỉ một lần khi đến hạn. Thường thì các
khoản vay trong trường hợp này có giá trị nhỏ, thời hạn ngắn. Mặc dù nó có giá
trị không lớn nhưng đáp ứng nhu cầu tiền mặt tức thời như dùng để sửa chữa tài
sản cố định, mua sắm các vật dụng thiết yếu…
*Cho vay tiêu dùng tuần hoàn: Đây la khoản cho vay tiêu dùng mà ngân
hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành séc được phép
thấu chi. Trong thời hạn tín dụng được thoả thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi
tiêu và thu nhập kiếm được từng kỳ, khách hàng được ngân hàng cho phép thực
hiện việc vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo hạn mức tín dụng. Lãi
được trả mỗi kỳ có thể tính theo các cách sau:

- Lãi được tính dựa trên số dư nợ trước khi được điều chỉnh, nghĩa là số dư
nợ được dùng để tính lãi là số dư nợ mỗi kỳ có trước khi nợ được hạch toán.
- Lãi được tính dựa trên số dư nợ đã được điều chỉnh: theo đó, số dư nợ
được dùng để tính lãi là số dư nợ cuối cùng của mỗi kỳ sau khi khách hàng đã

thanh toán nợ cho ngân hàng.
- Lãi được tính dựa trên cơ sở dư nợ bình quân.
1.2.4.2. Căn cứ theo phương thức tài trợ.
Theo phương thức này, cho vay tiêu dùng được chia thành 2 loại là cho vay
tiêu dùng trực tiếp và cho vay tiêu dùng gián tiếp.
*Cho vay tiêu dùng gián tiếp.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua
các khoản nợ phát sinh của các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hoá hoặc đã cung
cấp các dịch vụ cho người tiêu dùng. Hinhg thức này ngân hàng cho vay thông
qua các doanh nghiệp bán hàng hoặc làm các dịch vụ mà không trực tiếp tiếp xúc
với khách hàng. Ngân hàng và công ty bán lẻ ký hợp đồng mua bán nợ. Trong
hợp đồng, ngân hàng thường đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được
bán chịu, số tiền bán chịu tối đa, loại tài sản bán chịu. Công ty bán lẻ và người
tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu hàng hoá. Thường thì người tiêu dùng
phải trả trước một phần giá trị tài sản.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp có ưu điểm là tạo điều kiện để ngân hàng
thương mại dễ dàng mở rộng và tăng doanh số cho vay tiêu dùng. Các ngân hàng
thương mại sẽ tiết kiệm được các chi phí khi cho vay. Đây là cơ sở để mở rộng
quan hệ với khách hàng và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động khác của
ngân hàng.

Tuy nhiên, cho vay tiêu dùng gián tiếp cũng bộc lộ một số hạn chế như là
ngân hàng không tiếp xúc trực tiếp với khách hàng trước khi cho vay mà chỉ được
biết thông tin qua công ty bán lẻ. Thiếu sự kiểm soát của ngân hàng khi công ty
bán lẻ thực hiện việc bán chịu hàng hoá, đặc biệt là trong việc lựa chọn khách
hàng. Các công ty bán lẻ không có chuyên môn sâu để thẩm định khách hàng một
cách chi tiết, chính xác dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. Mặt khác cho vay tiêu dùng
gián tiếp cũng đòi hỏi sự giám sát chặt chẽ của ngân hàng đối với công ty bán lẻ.
Vì vậy mà những ngân hàng khi cho vay tiêu dùng gián tiếp thường có cơ chế
quản lý chặt chẽ đối với công ty bán lẻ.

*Cho vay tiêu dùng trực tiếp.
Đây là khoản vay trong đó ngân hàng trực tiếp tiếp xúc và cho khách hàng
vay cũng như trực tiếp thu nợ từ người vay. Người tiêu dùng trả trước một phần
số tiền mua tài sản cho công ty bán lẻ. Ngân hàng thanh toán số tiền mua tài sản
còn thiếu cho công ty bán lẻ, công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng,
người tiêu dùng thanh toán tiền vay cho ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng trực tiếp có những ưu điểm so với cho vay tiêu dùng
gián tiếp:
- Các khoản cho vay thường có chất lượng cao hơn so với việc cho vay
thông qua doanh nghiệp bán lẻ do ngân hàng có thể sử dụng trình độ, nghiệp vụ,
kinh nghiệm… của cán bộ tín dụng. Các cán bộ ngân hàng khi cho vay thường
chú ý tới chất lượng khoản vay, còn các doanh nghiệp bán lẻ khi cho vay thường
chú ý tới doanh số bán hàng, trình độ phân tích thẩm định tín dụng còn thấp.

- Hình thức cho vay tiêu dùng trực tiếp linh hoạt hơn cho vay tiêu dùng
gián tiếp. Khi cho vay tiêu dùng trực tiếp ngân hàng có thể dễ dàng xử lý tốt các
tình huống phát sinh, làm thoả mãn quyền lợi của cả khách hàng và ngân hàng.
1.2.4.3. Căn cứ vào mục đích khoản vay.
Theo mục đích sử dụng tiền vay của khách hàng có thể phân cho vay tiêu
dùng thành 2 loại là cho vay tiêu dùng cư trú và cho vay tiêu dùng phi cư trú.
*Cho vay tiêu dùng cư trú: là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu
mua sắm, xây dựng, cải tạo nhà ở của khách hàng là các nhân hay hộ gia đình.
*Cho vay tiêu dùng phi cư trú: là các khoản cho vay nhằm trang trải các
chi phí mua sắm đò dùng gia đình, xe cộ, chi phí học hành, giải trí, du học,y tế…
1.2.5. Quy trình cho vay tiêu dùng.
* Khách hàng lập và nộp hồ sơ vay vốn đến ngân hàng.
Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng gửi cho ngân hàng bộ hồ sơ vay vốn
và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác và hợp pháp của các tài liệu
gửi cho ngân hàng. Hồ sơ vay vốn gồm các giấy tờ sau:
- Giấy đề nghị vay vốn.

- Các tài liệu chứng minh năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự. Cụ
thể, khách hàng vay tiêu dùng phải xuất trình chứng minh thư nhân dân và số
đăng ký hộ khẩu thường trú.
- Tờ tự khai tình hình tài chính.
- Báo cáo vay nợ và nguồn thu để trả nợ.
* Ngân hàng thẩm định hồ sơ vay vốn và ra quyết định cho vay.
Thẩm định hồ sơ vay vốn là quá trình xem xét, phân tích các thông tin, số
liệu đã thu thập trong hồ sơ của khách hàng. Mục đích của thẩm định trước khi

cho vay là xác định giới hạn an toàn của quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và
khách hàng vay vốn.
Khi thẩm định một bộ hồ sơ vay tiêu dùng, cán bộ tín dụng phải phân tích
rất nhiều yếu tố liên quan đến người đi vay, những yếu tố mà ngân hàng đặc biệt
quan tâm là đặc điểm của người đi vay và khả năng thanh toán của họ.
Thông thường thì những đặc điểm cơ bản của người đi vay được bộc lộ qua
mục đích của việc vay tiền. Cán bộ tín dụng sẽ phải hỏi xem khách hàng sẽ dùng
khoản tiền vay vào việc gì. Liệu mục đích vay có phù hợp với chính sách cho vay
của ngân hàng không. Có bằng chứng nào cho thấy khách hàng sẽ không hoàn trả
khoản vay không.
Đặc điểm của người đi vay và khả năng thanh toán của họ được thể hiện
qua các thông tin như:
- Mục đích của việc vay tiền: Một khoản vay chỉ có thể được chấp nhân khi
mục đích vay tiền của khách hàng phù hợp với chính sách cho vay của ngân hàng.
Thêm vào đó, ngân hàng chỉ đồng ý cho vay khi nhận thấy rằng khách hàng vay
vốn ý thức rõ ràng về trách nhiệm phải hoàn trả đầy đủ và đúng hạn các khoản
nợ. Do vậy, việc tiếp xúc, gặp gỡ với từng khách hàng là rất cần thiết bởi vì qua
những cuộc gặp gỡ như vậy họ dễ dàng phát hiện ra những biểu hiện gian dối
hoặc nhược điểm trong tính cách cũng như sự thành thật của người đi vay.
- Mức thu nhập: Mức thu nhập và sự ổn định trong thu nhập là những thông
tin quan trọng trong quá trình đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng. Những

khách hàng có mức lương cơ bản và mức lương còn lại sau khi nộp thuế cao sẽ
được đánh giá cao. Cán bộ tín dụng cũng đồng thời tiến hành kiểm tra người chủ

cơ qua nơi khách hàng làm việc để đánh giá độ chính xác của thu nhập, độ dài
thời gian làm việc, nơi cư trú ghi trên đơn xin vay.
- Số dư tài khoản tiền gửi: Một tiêu thức gián tiếp về tổng thu nhập và sự
ổn định thu nhập của khách hàng là số dư tiền gửi trung bình hàng ngày mà khách
hàng duy trì trên tài khoản cá nhân của họ. Cán bộ tín dụng có thể kiểm tra các
con số này thông qua các ngân hàng có liên quan.
- Sự ổn định về việc làm và nơi cư trú: Trong số những yếu tố chính mà
một cán bộ tín dụng sẽ quan tâm là khoảng thời gian làm việc. Hầu hết các ngân
hàng không muốn cho vay những người mới làm việc tại nơi cư trú hiện tại được
một vài tháng, nhất là cho vay những khoản tiền lớn. Thời hạn sống tại nơi cư trú
hiện tài thường được coi là quan trọng vì nếu khoảng thời gian một người sống tại
một nơi càng lâu thì có thể tin rằng cuộc sống của người đó càng ổn định. Còn
nếu một người thường xuyên thay đổi chỗ ở thì sẽ là một yếu tố bất lợi cho ngân
hàng khi quyết định cho vay.
- Hoạt động đảo nợ: Các cán bộ tín dụng rất nhạy cảm với những bằng
chứng về việc quy mô của các khoản nợ tăng so với thu nhập hàng tháng của
khách hàng. Cũng như đối với tình trạng số dư của tài khoản thể tín dụng tăng
nhanh hay tình trạng séc phát hành ra bị gửi trả lại. Việc đảo nợ theo kiểu vay
tiền người này để trả cho người kia đều bị hầu hết các ngân hàng phản đối. Đây
được coi như một tiêu thức về khả năng quản lý tiền vay của khách hàng. Những
khách hàng mà khả năng quản lý của ngân hàng kém sẽ có thể rơi vào tình trạng
có quá nhiều các khoản nợ và ngân hàng có thể gặp nhiều rắc rối.
- Đảm bảo tiền vay: Là một phương tiện để chủ ngân hàng có thêm một
nguồn vốn khách để thu hồi nợ. Trong cho vay tiêu dùng, nguồn thu nợ thứ nhất

của ngân hàng là thu nhập của cá nhân như tiền lương, các khoản thu nhập khác .
Khi đánh giá khách hàng, nếu thấy nguồn thu nợ thứ nhất chưa có cơ sở chắc

chắn thì buộc ngân hàng phải thiết lập thêm cơ sở pháp lý để có thêm nguồn thu
nợ thư hai. Nguồn thu nợ thứ hai bao gồm giá trị tài sản đảm bảo hay bảo lãnh
của bên thứ ba.
Trong trường hợp khách hàng không có hồ sơ tín dụng hoặc có chất lượng
tín dụng thấp thì ngân hàng yếu cầu cần phải có người đứng ra bao lãnh về việc
hoàn trả khoản tiền vay. Nếu người đi vay không thanh toán cho khoản nợ được
bảo lãnh cho ngân hàng thì người đứng ra bảo lãnh có trách nhiệm phải thanh
toán. Tuy nhiên, nhiều ngân hàng chỉ xem việc có người bảo lãnh là một đảm bảo
về mặt tâm lý hơn là một nguồn đảm bảo thực sự. Người đi vay sẽ thấy có trách
nhiệm hơn trong việc hoàn trả khoản vay vì uy tín của người bảo lãnh. Nhưng các
nhà quản lý ngân hàng thường do dự không muốn thực hiện nhiều khoản cho vay
có bảo lãnh vì điều đó có thể dẫn tới tổn thất cho cả người bảo lãnh mở tải khoản
tại ngân hàng.
Nếu khoản vay có tài sản đảm bảo (thế chấp, cầm cố) thì ngân hàng phải
đánh giá về các điều kiện về tinh hợp pháp, số lượng và xác định giá trị của tài
sản đảm bảo theo đúng pháp luật. Các giấy tờ sở hữu tài sản đảm bảo phải được
xác nhận của cơ quan công chứng Nhà nước và thẩm định kỹ để biết được mức độ
tin cậy của các giấy tờ đó. Trên cơ sở này, ngân hàng mới ra quyết định cho vay
được chính xác.
* Ngân hàng xác định các chỉ tiêu cho vay và ký kết hợp đồng tín dụng với
khách hàng.

Sau khi đã thẩm định hồ sơ vay vốn vay ra quyết định cho vay ngân hàng
tiến hành xác định các chỉ tiêu cho vay:
- Thời hạn cho vay: Căn cứ vào kỳ luận chuyển vốn của đối tượng vay và
khả năng trả nợ của khách hàng, thời hạn cho vay tiêu dùng có thể là vài tháng
hoặc vài năm.
- Lãi suất cho vay: Hầu hết các khoản cho vay tiêu dùng được định giá dựa
vào lãi suất cơ bản cộng với một mức lợi nhuận cận biên và phần bù rủi ro.


Lãi suất
khoản
cho vay
người
tiêu
dùng
phải trả
=

Chi phí
huy
động
vốn
cho
vay
của
ngân
hàng
+
Chi
phí
hoạt
động
khách

+

Phần
bù rủi
ro tín

dụng
+

Phần
bù kỳ
hạn với
các
khoản
cho
vay dài
hạn
+
lợi
nhuận
cận
biên.
- Mức cho vay: ngân hàng xác định mức cho vay dựa trên các yếu tố sau:
+ Nhu cầu vốn của khách hàng.
+ Khả năng trả nợ của khách hàng.
+ Tỷ lệ cho vay tối đa so với giá trị tài sản đảm bảo tiền vay theo quy
định của Chính phủ và hướng dẫn của ngân hàng Nhà Nước. Theo quy chế cho
vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng (quyết định số 1627/2001/QĐ-

NHNN) hiện hanh của Việt Nam quy định: Mức cho vay tối đa không vượt quá
70% giá trị của tài sản thế chấp hay cầm cố.
+ Khả năng nguồn vốn của ngân hàng.
+ Giới hạn tổng dư nợ cho vay của ngân hàng đối với một khách hàng.
Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN Việt Nam quy định tổng dư nợ cho vay của
ngân hàng đối với một khách hàng không vượt quá 50% vốn tự có của ngân hàng
thương mại.

* Mở tài khoản tiền vay
Sau khi duyệt cho vay, ngân hàng mở cho khách hàng vay một tài khoản
cho vay để hạch toán tiền vay và thu nợ (nếu khách hàng vay chưa có tài khoản
cho vay).
Căn cứ vào hợp đồng tín dụng ngân hàng phát tiền vay cho khách hàng vay
theo các cách sau:
- Tiền vay được chuyển trả trực tiếp cho đơn vị cung cấp hàng hoá dịch vụ
cho khách hàng.
- Trường hợp khách hàng đã dùng nguồn vốn khác để trả cho người cung
cấp hoặc nếu người cung cấp không có tài khoản tài ngân hàng thì chuyển vào tài
khoản tièn gửi của khách hàng.
- Phát bằng tiền mặt.
* Thu nợ.
Việc thu nợ được tiến hành theo kỳ hạn nợ đã ghi trong hợp đồng tín dụng.
Khách hàng có thể trả nợ trước hạn và phải chủ động trả nợ cho ngân hàng khi
đến hạn. Khách hàng không trả được nợ khi đến hạn ngân hàng có thể xử lý theo
bốn trường hợp sau:

Thứ nhất, do nguyên nhân khách quan, khách hàng có văn bản giải trình
xin gia hạn, ngân hàng có thể xét cho gia hạn. Theo quy định trong quy chế cho
vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng được ban hành theo quyết định só
1627/2001/QĐ-NHNN Việt Nam thì thời hạn gia hạn nợ đối với cho vay ngắn hạn
tối đa là 12 tháng, đối với cho vay trung và dài hạn tối đa bằng ½ thời hạn cho
vay đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
Thứ hai, do nguyên nhân chủ quan, ngân hàng sẽ chuyển sang nợ quá hạn
và phạt theo mức lãi suất nợ quá hạn. Theo quy định hiện hành của NHNN Việt
Nam thì lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất trần cùng loại cho vay.
Thứ ba, nếu không có các thoả thuận trên thì ngân hàng có quyền phát mại
tài sản thế chấp, cầm cố để thu nợ.
Nếu ba trường hợp trên hai bên không thoả thuận để giải quyết được, ngân

hàng sẽ khởi kiện khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng.
*Lãi tiền vay.
Việc tính lãi tiền vay và thu lãi được tiến hành hàng tháng. Nếu khách hàng
vay chưa trả được lãi khi đến hạn thì ngân hàng tính và hạch toán vào tài khoản
ngoại bảng để thu dần, không nhập lãi vào nợ gốc. Trường hợ khách hàng vay có
khó khăn về tài chính do nguyên nhân khách quan thì ngân hàng có thể xem xét
giảm hoặc miễn lãi đối với khách hàng vay. Việc giảm hoặc miễn lãi cho khách
hàng vay tuỳ thuộc vào khả năng tài chính của từng ngân hàng cho vay.
1.2.6. Các nguồn tài trợ cho vay tiêu dùng.
Cho vay tiêu dùng đang là một thị trường rất tiềm năng. Có nhiều tổ chức
kinh tế tài trợ cho người tiêu dùng như: các ngân hàng thương mại, các công ty
tài chính, công ty bảo hiểm, ngân hàng tiết kiệm bưu điện, hợp tác xã, các doanh

nghiệp sản xuất-kinh doanh…Trong đó ngân hàng thương mại có vai trò khá quan
trọng trong tài trợ tiêu dùng. Các hình thức cho vay tiêu dùng của ngân hàng
thương mại cũng khá đa dạng: cho vay mua xe ô tô, mua nhà, du học, đồ dùng,
thiết bị gia định… Ở các nước phát triển, cho vay tiêu dùng là một loại hình tài
sản khá phổ biến, có khả năng sinh lời cao cho ngân hàng. Nguồn thực hiện tài
trợ cho vay tiêu dùng bao gồm nguồn vốn huy động và nguồn tự có.
+ Nguồn vốn huy động: Ngân hàng có thể tài trợ cho vay tiêu dùng thông
qua việc huy động tiền gửi của doanh nghiệp, cá nhân và hộ gia định, các tổ chức
tín dụng… hoặc có thể đi vay ngân hàng Nhà Nước, các tổ chức tín dụng khác,
vay thông qua thị trường vốn bằng cách phát hành các giấy tờ có giá (kì phiếu,
trái phiếu, tín phiếu)
+ Nguồn vốn tự có: tuỳ theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn gốc
hình thành vốn ban đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước,
ngân sách nhà nước cấp. Nếu là ngân hàng cổ phần ,các cổ đông đóng góp thông
qua mua cổ phần hoặc cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh góp,
ngân hàng tư nhân là vốn thuộc sở hữu của tư nhân.
Nguồn vốn tự có này có thể bổ sung trong quá trình hoạt động. Trong quá

trình hoạt động ngân hàng có thể tăng vốn tự có bằng nhiều cách khác nhau:
- Nguồn từ lợi nhuận: Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hợ không, chủ
ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn tự có bằng cách chuyển một phần thu nhập
ròng thành vốn đầu tư. Tỷ lệ tích luỹ tuỳ thuộc vào vân nhắc của chủ ngân hàng
về tích luỹ và tiêu dùng. Những ngân hàng lâu năm, thu nhập ròng lớn, nguồn vốn
tích luỹ từ lợi nhuận sẽ cao so với vốn của chủ hình thành ban đầu.

×