Phần mở đầu
Kể từ năm 1986, nền kinh tế nớc ta đà chuyển từ cơ chế quan liêu bao cấp sang
cơ chế thị trờng theo định hớng XHCN có sự quản lý của Nhà nớc. Tại Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần VIII, Đảng ta nhận định rằng nớc ta ®· chun sang thêi kú ph¸t
triĨn míi, thêi kú ®Èy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong đó mục tiêu của
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các nớc ta là: Xây dựng Việt Nam từ một nớc nông
nghiệp lạc hậu trở thành một nớc công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại,
cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của
lực lợng sản xuất. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đa nớc ta cơ bản trở thành
một nớc công nghiệp.
Để thực hiện đợc những mục tiêu trên thì còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố.
Đó là việc phát huy những tiỊm lùc kinh tÕ trong níc kÕt hỵp víi viƯc "đi tắt, đón
đầu" nắm bắt những tiến bộ khoa học kü tht tiªn tiÕn trªn thÕ giíi. ViƯt Nam ë vào
khu vực kinh tế năng động nhất thế giới, lại nằm trên các tuyến giao thông quốc tế
quan trọng có nhiều cửa ngõ thông ra biển thuận lợi. Do đó ta có lợi thế để mở rộng
các quan hệ kinh tế đối ngoại, thu hút vốn đầu t nớc ngoài, phát triển thơng mại, dịch
vụ,... Quá trình quốc tế hoá nỊn kinh tÕ thÕ giíi céng víi quan hƯ giao lu kinh tế và
khoa học kỹ thuật đang ngày càng phát triển. Với đờng lối cởi mở và đổi mới, ta có
thể tận dụng đợc những khả năng to lớn về vốn, thị trờng và công nghệ để bổ sung và
phát huy sức mạnh trong nớc.
Một trong những nhân tố để phát triển kinh tế chính là việc huy động và sử
dụng vốn có hiệu quả. Đây có thể coi là một nhân tố cơ bản và vô cùng quan trọng
đối với bất kỳ nớc nào muốn đẩy mạnh tăng trởng kinh tế ổn định và bền vững. Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần VIII cũng đà chỉ rõ: "Để công nghiệp hoá, hiện
đại hoá cần huy động nhiều nguồn vốn gắn với việc sử dụng có hiệu quả. Trong đó,
nguồn vốn trong nớc là quyết định và nguồn vốn bên ngoài là quan trọng". Huy
động và sử dụng vốn, đó chính là đặc điểm cơ bản nhất của các ngân hàng thơng
mại. Điều đó có nghĩa là hoạt động của hệ thống ngân hàng đặc biệt là các ngân
hàng thơng mại chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế
phát triển.
Hệ thống ngân hàng đà xuất hiện từ rất lâu đời và ngay khi mới ra đời nó đÃ
chứng tỏ vai trò quan trọng không thể thiếu của mình trong nền kinh tế. Các ngân
hàng trung gian trong đó có ngân hàng thơng mại ngày càng phát triển và mở rộng
1
với nhiều loại hình phong phú đa dạng. Các nghiệp vụ ngân hàng cũng thờng xuyên
đợc nâng cấp, đổi mới và tăng thêm nhiều dịch vụ nhằm đáp ứng những yêu cầu ngày
càng cao của khách hàng bao gồm cả những tổ chức và cá nhân thuộc đủ các thành
phần kinh tế.
ở Việt Nam, sau 10 năm thực hiện chiến lợc ổn định và phát triển kinh tế - xÃ
hội (1991 - 2000), chúng ta đà đạt đợc những thành tựu to lớn và rất quan trọng: tổng
sản phẩm trong nớc năm 2000 tăng gấp đôi so với năm1990. Đời sống của các tầng
lớp nhân dân đợc cải thiện. Đất nớc đà ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xà hội, vợt
qua đợc cơn chấn động chính trị và sù hÉng hơt vỊ thÞ trêng do sù tan r· của hệ thống
XHCN ở Liên Xô và các nớc Đông Âu. Đặc biệt, chúng ta đà không để bị cuốn sâu
vào cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu á mặc dù hậu quả của nó đối với nớc
ta cũng khá nặng nề. Đạt đợc những kết quả trên có sự đóng góp không nhỏ của
ngành ngân hàng. Đó là điều không thể phủ nhận. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải
thừa nhận rằng hệ thống ngân hàng nớc ta còn nhiều tồn tại, khó khăn. Nh dự thảo
báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ơng Đảng khoá VIII trình Đại hội đại
biểu toàn quốc lần IX của Đảng đà viết: "Hệ thống tài chính - ngân hàng của nớc ta
còn nhiều mặt yếu kém và cha lành mạnh. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và điều
chỉnh cơ cấu đầu t chậm và cha hợp lý. Đầu t cho phát triển còn bị phân tán, lÃng
phí và thất thoát nhiều, làm cho hiệu quả sử dụng đồng vốn, nhất là vốn từ ngân
sách Nhà nớc, còn thấp. Nguồn vốn trong dân cha đợc huy động đúng mức. Nguồn
vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài giảm nhiều, trong khi công tác quản lý, điều hành
lĩnh vực này còn nhiều vớng mắc và khuyết điểm". Điều này một lần nữa khẳng định
việc đổi mới và hiện đại hoá hệ thống ngân hàng đặc biệt là các ngân hàng thơng mại
là vô cùng cần thiết và cấp bách.
Hiện nay, các ngân hàng thơng mại với chức năng hoạt động của mình đóng vai
trò cực kỳ to lớn trong quá trình điều tiết và phát triển nền kinh tế thị trờng, tạo sự
cân đối vĩ mô giữa tiết kiệm và tiêu dùng, giữa tích luỹ và đầu t, giữa thu nhập và
phân phối trong nền kinh tế. Vì lẽ đó, công cuộc đổi mới trong hoạt động của hệ
thống ngân hàng thơng mại đợc rất nhiều các nhà kinh tế cũng nh các nhà quản lý
quan tâm, nghiên cứu. Trên các báo c¸o kinh tÕ nh tê Thêi b¸o kinh tÕ hay một số
báo chuyên ngành nh Tạp chí ngân hàng, Thời báo ngân hàng, Tạp chí khoa học và
đào tạo ngân hàng,... có đăng rất nhiều bài báo về những u điểm cũng nh những tồn
tại của các ngân hàng thơng mại ở Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, họ cũng nêu lên
những giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động và chất lợng phục vụ của hệ thống
ngân hàng.
2
Đó cũng chính là những lý do khiến cho em chọn đề tài: "Hoạt động của hệ
thống ngân hàng thơng mại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp" để nghiên cứu,
bài viết của em bao gồm ba nội dung chính:
Chơng I:
Lý luận chung về ngân hàng thơng mại.
Chơng II:
Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng thơng mại ở Việt
Nam hiện nay.
Chơng III:
Một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát huy hiệu quả hoạt động
của hệ thống ngân hàng thơng mại Việt Nam.
Mặc dù đà hết sức cố gắng, song do trình độ và khối lợng kiến thức có hạn nên
em không thể nêu lên đầy đủ thực tế những gì đang diễn ra trong hệ thống ngân hàng
Việt Nam. Do đó, bài viết này chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Vì vậy, em rất mong
nhận đợc sự chỉ bảo, giúp đỡ của các thầy giáo, cô giáo cũng nh sự góp ý của các bạn
để em có thể hoàn thành tốt hơn những bài viết lần sau. Em xin chân thành cảm ơn
các thầy cô giáo và các bạn.
3
Chơng I
Lý luận chung về ngân hàng thơng mại
I.
Lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng
Gắn liền với sự phát triển của các hình thái kinh tế - xà hội, hệ thống ngân hàng
cũng đợc hình thành và phát triển đáp ứng nhu cầu tất yếu của đời sống kinh tế. Ngay
từ thời thợng cổ, các ngân hàng sơ khai đầu tiên đà xuất hiện và đến nay, phát triển
thành cả một hệ thống phong phú, đa dạng và ngày càng hiện đại ở hầu hết các nớc
trên thế giới. Về mặt lịch sử, sự ra đời và phát triển của hệ thống ngân hàng gắn liền
với t bản cho vay lấy lÃi. Hoạt động ngân hàng với các nghiệp vụ truyền thống: nhận
gửi, cho vay và cung ứng dịch vụ cho khách hàng ra đời khi quan hệ sản xuất và trao
đổi hàng hoá của xà hội đà phát triển ở mức độ cao. Ta có thể xem xét quá trình phát
triển của hệ thống ngân hàng qua 4 giai đoạn.
1.
Thời kỳ hoạt động của các ngân hàng sơ khai
Từ 3500 năm trớc công nguyên đến 1800 năm trớc công nguyên là giai đoạn
của các ngân hàng sơ khai. Nghiệp vụ ban đầu của nghề kinh doanh tiền tệ là nhận
giữ tiền vàng và các tài sản có giá trị khác đợc thực hiện bởi các nhà kinh doanh, các
lÃnh chúa và nhà thờ. Ngời gửi tiền sẽ nhận đợc một tờ biên lai làm căn cứ để xác
định quyền sở hữu và trả lệ phí gửi tiền.
Dần dần, những ngời gửi tiền nhận ra rằng: thay vì sử dụng tiền kim loại với
kho bảo quản và vận chuyển khó khăn, họ có thể sử dụng các loại giấy chứng nhận
quyền sở hữu vàng để thanh toán. Ngời nhận các chứng th này không gặp khó khăn
gì trong việc chuyển chúng sang tiền mặt. Việc thanh toán cũng dễ dàng hơn nếu hai
ngời gửi tiền ở cùng một nơi. Nh vậy chức năng ban đầu của ngân hàng chính là ngời
tổ chức trung gian thanh toán. Đây cũng là mầm mống đầu tiên của nghiệp vụ phát
hành dấu hiệu giá trị. Mặt khác, những ngời nắm giữ tiền cũng nhận thấy rằng: trong
cùng một khoảng thêi gian, cã mét sè ngêi ®Õn ®ỉi chøng th lấy tiền nhng cũng có
những ngời khác gửi tiền vào. Sự bổ sung qua lại giữa lu lợng gửi vào và rút ra làm
xuất hiện một lợng tiền nhàn rỗi trong kho. Điều đó chứng tỏ những ngời thợ vàng
4
giờ đây chỉ cần dự trữ tiền mặt với một tỷ lệ nhất định so với tổng số tiền gửi, phần
còn lại có thể sử dụng để cho vay. Các nhà kinh doanh tiền tệ bắt đầu tập hợp, thu
hút các nguồn tiền nhàn rỗi trong xà hội để đem cho ngời khác vay. Các hoạt động tơng tự nh vậy đà tồn tại từ thời Ai Cập cổ đại. Chẳng hạn, ở Ai Cập, các nghiệp vụ
ngân hàng đà xuất hiện từ 2700 năm trớc công nguyên, còn ở Hy Lạp thời kỳ chiếm
hữu nô lệ, việc quản lý tài chính gắn liền với thánh đờng lớn. ở Roma (Italia) hiện tợng cho vay cầm cố xuất hiện khoảng 500 năm trớc công nguyên. Đến khoảng 200
năm trớc công nguyên thì Roma đà trở thành trung tâm tài chính chủ yếu ở vùng Địa
Trung Hải. Do đó, có thể nói rằng, xứ sở của lĩnh vực ngân hàng là vùng Bắc Italia.
Vào thời kỳ này, những ngân hàng có hoạt động mạnh nhất và có ảnh hởng lớn nhất
là những ngân hàng mà hoạt động của nó gắn liền với sự lÃnh đạo của giáo hội Thiên
chúa giáo. Đến đây, các ngân hàng đà bắt đầu tham gia vào quá trình cung ứng tiền.
2.
Từ thế kỷ V đến thế kỷ XVII
Đây là giai đoạn phát triển và hoàn thiện các nghiệp vụ của một ngân hàng thơng mại. Các nghiệp vụ ghi chép sổ sách, hình thành các số hiệu tài khoản, chi tiết
đến đối tợng cho vay, mục ®Ých cho vay còng nh nguån vèn cho vay - tiền thân của
kế toán ngân hàng ra đời từ thế kû thø V ®Õn thÕ kû thø X. Cịng trong thời gian này,
hoạt động thanh toán bù trừ ở dạng sơ khai trong cùng một ngân hàng đà bắt đầu
phát triển và sau đó là hoạt động thanh toán giữa các ngân hàng. Vào khoảng cuối
thế kỷ thứ X, nghiệp vụ chuyển ngân và bảo lÃnh hình thành. Sau đó, vào giai đoạn từ
thế kỷ XI đến thế kỷ XVII nghiệp vụ chiết khấu thơng phiếu bắt đầu phát triển. Cho
đến thế kỷ thứ XVII, các nghiệp vụ của một ngân hàng kinh doanh đà hoàn thiện,
bao gồm:
- Nhận gửi, cho vay
- Phát hành tiền
- Chiết khấu thơng phiếu
- Chuyển ngân, thanh toán, bù trừ và bảo lÃnh.
Động lực chủ yếu của quá trình phát triển nhanh chóng này là sự lớn mạnh
không ngừng của các hoạt động thơng mại trong tõng qc gia cịng nh qc tÕ cïng
víi viƯc tìm ra Châu Mỹ và các vùng đất mới. Một ngân hàng có hoàn chỉnh các
nghiệp vụ này đà hình thành đầu tiên ở Hà Lan vào năm 1609. Sau đó là ngân hàng
Thuỵ Điển 1656, hệ thống ngân hàng Anh vào năm 1694, hệ thống ngân hàng Hoa
Kỳ vào năm 1791 và ngân hàng Pháp vào năm 1800.
5
3.
Từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XX
ở giai đoạn này, các ngân hàng thực sự đợc công nhận nh một doanh nghiệp
kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và phát hành tiền dới dạng các chứng th và kỳ phiếu
thay cho vàng. Hoạt động này thực sự bắt đầu từ thời kỳ ngân hàng sơ khai trớc công
nguyên. Khi đó, các kỳ phiếu ngân hàng chỉ đợc phát hành mỗi khi có khoản tiền
vàng thực sự đợc gửi vào ngân hàng. Khả năng chuyển đổi kỳ phiếu ra vàng rất dễ
làm cho nó đợc chấp nhận không hạn chế trong lu thông nh một hình thức tiền tệ.
Tuy nhiên, đến thế kỷ XVIII, các ngân hàng bắt đầu lợi dụng u thế của mình để phát
hành một khối lợng lớn các kỳ phiếu tách rời khỏi dự trữ vàng, để cho vay, điều này
đe doạ dự trữ vàng và khả năng chuyển đổi ra tiền mặt của các kỳ phiếu đợc phát
hành. Vì tất cả các ngân hàng đều có quyền phát hành tiền nên Nhà nớc không thể
kiểm soát đợc khối lợng tiền trong lu thông và càng không thể kiểm soát đợc tính
chất đảm bảo của lợng tiền lu thông đó. Mặt khác, mỗi ngân hàng có quy mô hoạt
động, uy tín và khả năng ảnh hởng khác nhau trên công chúng bắt đầu có sự lựa chọn
kỳ phiếu đợc phát hành bởi những ngân hàng khác nhau. Kết quả là, các kỳ phiếu do
các ngân hàng lớn có uy tín phát hành dần dần chiếm lĩnh thị trờng và đẩy kì phiếu
của các ngân hàng khác nhỏ hơn ra khỏi lu thông. Đồng thời, sang thế kỷ 18, lu
thông hàng hoá ngày càng mở rộng và phát triển. Việc các ngân hàng cùng thực hiện
chức năng phát hành giấy bạc làm cho trong lu thông có nhiều loại giấy bạc ngân
hàng khác nhau gây cản trở cho quá trình lu thông hàng hoá và phát triển kinh tế.
Tình trạng này kéo dài gây sự bất ổn định trong lu thông tiền tệ và Nhà nớc buộc
phải can thiƯp nh»m thiÕt lËp trËt tù vµ sù thèng nhất cho việc phát hành tiền và đảm
bảo an toàn cho các giấy chứng nhận nợ của ngân hàng. Kết quả của sự can thiệp này
là hệ thống ngân hàng lớn đợc phép phát hành tiền gọi là ngân hàng phát hành.
Nhóm thứ hai bao gồm các ngân hàng không đợc phép phát hành tiền, chỉ làm trung
gian tín dụng và trung gian thanh toán trong nền kinh tế gọi là các ngân hàng trung
gian. Chúng đợc quyền mở tài khoản và thanh toán bù trừ thông qua ngân hàng phát
hành, biến ngân hàng phát hành thành trung tâm thanh toán.
4.
Từ đầu thế kỷ XX đến nay.
Thời kỳ đầu khi mới thực hiện sự phân hoá hệ thống ngân hàng, các ngân hàng
trung gian thực hiện tất cả các hoạt ®éng cđa nã nh nhËn tiỊn gưi, cho vay vµ làm các
dịch vụ thanh toán. Ban đầu chúng chủ yếu nhận tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn
ngắn và cho vay ngắn hạn. Về sau, các ngân hàng này thực hiện cả cho vay trung và
dài hạn bằng nguồn vốn trung và dài hạn do huy động tiền gửi trung hạn, dài hạn và
phát hành trái khoán.
6
Đây cũng là giai đoạn hoàn thiện hoạt động của ngân hàng phát hành về tổ
chức, chức năng đồng thời là giai đoạn thành lập một loạt ngân hàng trung ơng mới.
Trớc hết, đó là sự tách rời chức năng độc quyền phát hành ra khỏi chức năng
kinh doanh tiền tệ trực tiếp với công chúng, đợc thực hiện đầu tiên bởi các ngân hàng
Anh và sau đó là các ngân hàng của các nớc khác, nhằm hoàn thiện chức năng quản
lý của ngân hàng trung ơng. Từ năm 1920, hàng loạt các ngân hàng trung ơng mới đợc thành lập và ngay lập tức đà mang đầy đủ bản chất của một ngân hàng trung ơng
vì sự cần thiết của nó đà đợc chứng minh một cách thuyết phục qua kinh nghiệm của
các ngân hàng trung ơng đang hoạt động. Trớc chiến tranh thế giới thứ 2, phần lớn
các ngân hàng phát hành là ngân hàng t nhân hoặc cổ phần, vai trò kiểm soát, điều
tiết các hoạt động kinh tế của Nhà nớc thông qua ngân hàng là hết sức hạn chế. Vì
thế sau chiến tranh thế giới thứ hai, phần lớn các ngân hàng trung ơng đợc quốc hữu
hoá trở thành ngân hàng của Nhà nớc. Đây là thời kỳ bắt đầu hoạt động của các ngân
hàng trung ơng hiện đại với các chức năng: độc quyền phát hành tiền; là ngân hàng
của các ngân hàng; là ngân hàng của Chính phủ và thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô:
thực hiện chính sách tiền tệ và đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính.
ở giai đoạn này, hệ thống các ngân hàng trung gian cũng phát triển thêm nhiều
nghiệp vụ hiện đại: bảo lÃnh và uỷ thác,... đồng thời có nhiều loại hình mới ra đời.
Trớc đây, các ngân hàng chỉ có tên gọi chung là ngân hàng thơng mại sau này mới
gọi là các trung gian tài chính. Trớc năm 1960, các ngân hàng thơng mại đều có
những hoạt động giống nhau nhng trong đó có một số ngân hàng thì Nhà nớc quy
định không đợc phép huy động tiền gửi không kỳ hạn. Sau năm 1960, tất cả các ngân
hàng đều đợc phép huy động tiền gửi không kỳ hạn. Do đó, ranh giới giữa các loại
ngân hàng trở nên rất mỏng manh, khó phân định.
II. Khái niệm ngân hàng thơng mại.
1.
Khái niệm
* ở một số nớc trên thế giới
- Mỹ: ngân hàng thơng mại là công ty kinh doanh chuyên cung cấp dịch vụ tài
chính và hoạt động trong ngành dịch vụ tài chính.
- Pháp: ngân hàng thơng mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào thờng xuyên
nhận của công chúng dới hình thức ký thác hay những hình thức khác các số tiền mà
họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.
- ấn Độ: ngân hàng thơng mại là cơ sở nhận các khoản kí thác để cho vay hay
tài trợ và ®Çu t.
7
- Thổ Nhĩ Kỹ: ngân hàng thơng mại là hội trách nhiệm hữu hạn đợc thiết lập
nhằm mục đích nhận tiền kí thác và thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, nghiệp vụ hối
phiếu, chiết khấu và những hình thức vay mợn hay tín dụng khác.
* ở Việt Nam: Pháp lệnh ngân hàng ngày 23-5-90 của Hội đồng Nhà nớc Việt
Nam xác định: "Ngân hàng thơng mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động
chủ yếu và thờng xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và
sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phơng tiện
thanh toán".
2.
Đặc điểm.
Mặc dù ở mỗi quốc gia lại có những định nghĩa khác nhau nhng tựu chung lại
thì ngân hàng thơng mại có những đặc điểm sau:
- Ngân hàng thơng mại đợc phép nhận tất cả các loại tiền gửi khác nhau: tiền
gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, trái phiếu,...
- Ngân hàng thơng mại đợc phép cung cấp các dịch vụ thanh toán (qua ngân
hàng) do đợc nhận tiền gửi không kỳ hạn.
- Tỷ lệ vốn cho vay vào mục đích thơng mại và công nghiệp của ngân hàng thơng mại chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản có của nó.
- Tổng tài sản có của ngân hàng thơng mại luôn là khối lợng lớn nhất trong toàn
bộ hệ thống ngân hàng. Đó là lý do tại sao ngời ta vẫn tách ngân hàng thơng mại ra
thành một nhóm riêng trong khi ranh giới phân biệt nó với các tổ chức tiết kiệm khác
ngày càng bị xoá nhoà.
- Do quy mô hoạt động lớn nên ngân hàng thơng mại là đối tợng hàng đầu cần
kiểm soát của ngân hàng trung ơng. Mục đích là để ổn định tiền tệ và tránh sự phá
sản theo hệ thống của các ngân hàng.
III. Chức năng của ngân hàng thơng mại.
Ngân hàng thơng mại có 3 chức năng chính:
1.
Chức năng trung gian tín dụng.
Xuất phát từ những cơ sở khách quan mà ngân hàng thơng mại cũng nh các
ngân hàng trung gian khác thực hiện chức năng trung gian tín dụng. Đó là đặc điểm
tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình tuần hoàn vốn xà hội đà phát sinh hiện tợng
trong cùng một lúc có những xí nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân có vốn tiền tệ tạm
thời cha sử dụng (nh tiền bán hàng cha mua nguyên vật liƯu míi, tiỊn trÝch khÊu hao
8
cha sử dụng, tiền lơng cha đến kỳ trả,...). Ngợc lại, có những doanh nghiệp, cá nhân
có nhu cầu vốn cần bổ sung trong một thời gian ngắn (nh doanh nghiệp cần mua
nguyên vật liệu nhng cha bán đợc sản phẩm, cá nhân cần tiền cho nhu cầu mua sắm
tài sản có giá trị nhng tiền tích luỹ còn hạn chế,...). Mâu thuẫn này cần đợc giải quyết
để tăng hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế và đợc thỏa mÃn bằng quan hệ tín
dụng trực tiếp hoặc gián tiếp. Ngoài ra, do đặc thù yêu cầu của tiết kiệm và đầu t: ngời tiết kiệm không muốn rủi ro nhng lại muốn có thu nhập cao còn ngời đầu t lại
muốn có nguồn vốn cao và chi phí vay vốn thấp, cho nên cần phải có vai trò của ngời
trung gian để đáp ứng yêu cầu của cả 2 bên, đồng thời cũng do hạn chế trong việc
phân phối vốn một cách trực tiếp. Vì vậy ngân hàng cần đứng ra làm trung gian để
chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu tạm thời.
Sở dĩ ngân hàng làm đợc chức năng này vì nó là một cơ quan chuyên trách,
chuyên kinh doanh về tiền tệ, tín dụng, có khả năng nhận biết đợc tình hình cung cầu
tín dụng. Đó là nơi mà khách hàng có thể tin tởng đợc trong việc gửi tiền. Thông qua
việc thu hút tiền gửi với một khối lợng lớn, ngân hàng có thể giải quyết mối quan hệ
giữa cung và cầu cả về khối lợng vốn cho vay và thời gian cho vay.
Nh vậy ngân hàng làm chức năng tín dụng khi nó là cầu nối giữa ngời có vốn và
ngời cần vốn. Chức năng này đợc thực hiện bằng cách huy động các khoản vốn tiền
tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế hình thành quỹ cho vay của nó rồi ®em cho vay
®èi víi nỊn kinh tÕ, bao gåm c¶ cho vay ngắn hạn và cho vay dài hạn mà chủ yếu là
cho vay ngắn hạn. Với chức năng này, ngân hàng thơng mại vừa đóng vai trò là ngời
đi vay, vừa đóng vai trò là ngời cho vay. Điều này cũng có nghĩa là ngân hàng thơng
mại đà góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên trong quan hệ là ngời gửi tiền, ngân
hàng và ngời đi vay và đảm bảo lợi ích của nền kinh tế.
Đây chính là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thơng mại vì nó phản
ánh bản chất của ngân hàng thơng mại là đi vay để cho vay, nó quyết định sự duy trì
và phát triển của ngân hàng. Đồng thời nó cũng là cơ sở để thực hiện các chức năng
sau.
2.
Chức năng trung gian thanh toán.
Thực chất ngân hàng thơng mại thực hiện chức năng thanh toán trên cơ sở nó
thực hiện chức năng trung gian tín dụng. Bởi vì thông qua việc nhận tiền gửi, ngân
hàng đà mở cho khách hàng tài khoản tiền gửi để theo dõi các khoản thu chi. Đó
chính là tiền đề để khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng, đặt ngân hàng
vào vị trí làm trung gian thanh toán. Hơn nữa, do việc thanh toán bằng tiền mặt giữa
các chủ thể kinh tế có nhiều hạn chế và khó khăn, đó là rủi ro cao do phải vận
9
chuyển tiền, chi phí thanh toán lớn đặc biệt là đối với các khách hàng ở cách xa nhau
đà tạo nên nhu cầu khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng.
Nội dung của chức năng trung gian thanh toán là các ngân hàng thơng mại mở
tài khoản tiền gửi cho khách hàng. Khi có yêu cầu, ngân hàng sẽ thực hiện thanh
toán cho khách hàng nh trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng
hoá, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu do bán hàng
và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Ngoài ra, các ngân hàng còn phải quản lý tài
khoản cho khách hàng của họ. ở đây, ngân hàng đóng vai trò là ngời "thủ quỹ" cho
các doanh nghiệp và cá nhân bởi ngân hàng là ngời giữ tài khoản của khách hàng, chi
tiền cho khách hàng. Nền kinh tế thị trờng càng phát triển thì chức năng này càng đợc phát huy, việc thanh toán qua ngân hàng càng đợc mở rộng.
Tuỳ theo nhu cầu, khách hàng có thể lựa chọn cho mình những phơng thức
thanh toán phù hợp với các công cụ thanh toán thuận lợi nh: séc, uỷ nhiệm thu, uỷ
nhiệm chi, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng,... Việc hệ thống ngân hàng thơng
mại thực hiện chức năng trung gian thanh to¸n cã ý nghÜa rÊt to lín đối với toàn bộ
nền kinh tế. Đồng thời, đối với bản thân các ngân hàng thơng mại, chức năng này
góp phần tăng thêm lợi nhuận cho ngân hàng thông qua việc thu lệ phí thanh toán.
Thêm nữa, nó lại làm tăng nguồn vốn cho vay của ngân hàng thể hiện trên số d có
của tài khoản tiền gửi khách hàng chức năng này cũng chính là cơ sở hình thành chức
năng tạo tiền của ngân hàng thơng mại. Nhìn vào hệ thống thanh toán của ngân hàng
thơng mại, ngời ta có thể đánh giá ngay đợc hoạt động của hệ thống ngân hàng thơng
mại có hiệu quả hay không.
Việc thu chun tiỊn tƯ hiƯn nay chđ u th«ng qua hƯ thống ngân hàng thơng
mại và do vậy chỉ khi chức năng trung gian thanh toán đợc hoàn thiện thì vai trò của
ngân hàng thơng mại mới đợc nâng cao hơn với t cách là ngời thủ quỹ của xà hội.
3.
Chức năng tạo tiền
Sự kết hợp giữa chức năng trung gian tín dụng và chức năng trung gian thanh
toán chính là cơ sở để ngân hàng thơng mại thực hiện chức năng tạo tiền gửi thanh
toán. Sự ra đời của các ngân hàng đà tạo ra một bớc phát triển về chất trong kinh
doanh tiền tệ. Nếu nh trớc đây, các tỉ chøc kinh doanh tiỊn tƯ nhËn tiỊn gưi (tiỊn
vµng, bạc) rồi cho vay bằng chính những đồng tiền đó, thì kể từ khi các ngân hàng ra
đời, việc cho vay không nhất thiết phải là tiền vàng, bạc, mà họ nhận đợc từ ngời gửi.
Trong quá trình kinh doanh tiền tệ, các chủ ngân hàng đà phát hiện ra giấy chứng
nhận tiền gửi - tín phiếu đợc khách hàng sử dụng để chi trả các khoản nợ. Vì vậy,
tiền giấy chuyển đổi ra vàng đợc các ngân hàng đa vào lu thông qua nghiệp vụ tín
10
dụng thay thế cho tiền bàng hoặc bạc. Đây là phát minh có giá trị nhất trong lịch sử
hoạt động của việc kinh doanh tiền tệ.
Khi có sự phân hoá trong hệ thống ngân hàng, hình thành nên ngân hàng phát
hành và các ngân hàng trung gian thì ngân hàng trung gian không còn thực hiện chức
năng phát hành giấy bạc ngân hàng. Nhng với chức năng trung gian tín dụng và trung
gian thanh toán, ngân hàng thơng mại có khả năng tạo ra tiền ghi sổ thể hiện trên tài
khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng thơng mại. Đây chính là một
bộ phận của lợng tiền giao dịch.
Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động
đợc để cho vay, số tiền cho vay ra lại đợc khách hàng sử dụng để mua hàng hoá,
thanh toán dịch vụ trong khi số d trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng
vẫn đợc coi là một bộ phận của tiền giao dịch, đợc họ sử dụng để mua hàng hoá,
thanh toán dịch vụ,... Khi ngân hàng chỉ thực hiện chức năng nhận tiền gửi mà cha
cho vay, ngân hàng cha hỊ t¹o tiỊn, chØ khi thùc hiƯn cho vay, ngân hàng mới bắt đầu
tạo tiền. Đó cũng cũng là một phát minh lớn trong hoạt động ngân hàng. ở đây,
chính việc cho vay đà tạo ra tiền gửi. Từ khoản dự trữ tăng lên ban đầu, thông qua
hành vi cho vay bằng chuyển khoản, hệ thống ngân hàng có khả năng tạo nên số tiền
gửi gấp nhiều lần số dự trữ tăng thêm ban đầu. Mức mở rộng tiền gưi phơ thc vµo
hƯ sè më réng tiỊn gưi. HƯ số này, đến lợt nó chịu tác động bởi các yếu tố: tỷ lệ dự
trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ d thừa và tỷ lệ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán. Tuy vậy,
để tạo ra tiền gửi thanh toán, ngân hàng thơng mại phải làm chức năng trung gian
thanh toán, mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho khách hàng thì số tiền trên tài
khoản này mới là bộ phận của lợng tiền giao dịch.
Trớc đây, sự phân biệt giữa ngân hàng thơng mại với các ngân hàng trung gian
khác chính là chức năng thanh toán và chức năng tạo tiền gửi thanh toán. Ngày nay,
hầu hết các ngân hàng trung gian đều đợc phép nhận tiền gửi không kỳ hạn, làm
trung gian thanh toán và do vậy có khả năng tạo tiền gửi thanh toán. Sự phân biệt các
loại hình ngân hàng trung gian chủ yếu dựa vào tài sản có, mục đích cho vay và đầu
t.
Với chức năng tạo tiền, hệ thống ngân hàng thơng mại đà làm tăng phơng tiện
thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi trả xà hội. Rõ ràng
khái niệm về "tiền", "tiền giao dịch" không chỉ là giấy bạc do ngân hàng trung ơng
của mỗi nớc phát hành ra mà bộ phận quan trọng là lợng tiền ghi sổ do các ngân
hàng thơng mại tạo ra. ở Việt Nam, tỷ lệ này ngày càng tăng. Đến năm 1998, tỷ lệ
tiền gửi thanh toán so với tiền giao dịch là 50,2%, tăng gần 3% so với năm 97
(47,7%). Chức năng này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và lu
11
thông tiền tệ. Một khối lợng tín dụng mà ngân hàng thơng mại cho vay ra làm tăng
khả năng tạo tiền của ngân hàng thơng mại từ đó làm tăng lợng tiền cung ứng.
Có thể nói, các chức năng của ngân hàng thơng mại có mối quan hệ chặt chẽ,
bổ sung, hỗ trợ cho nhau, trong đó, chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ
bản nhất, tạo cơ sở cho việc thực hiện các chức năng sau. Đồng thời khi ngân hàng
thơng mại thực hiện tốt chức năng thanh toán và chức năng tạo tiền thì lại góp phần
làm tăng nguồn vốn tín dụng và mở rộng hoạt động tín dụng.
IV. Nghiệp vụ của ngân hàng thơng mại.
Các ngân hàng thơng mại có 2 nghiệp vụ chính là: nghiệp vụ thuộc tài sản nợ và
nghiệp vụ thuộc tài sản có.
1.
Nghiệp vụ thuộc tài sản nợ.
Tài sản nợ của ngân hàng thơng mại bao gồm các khoản mục chủ yếu là: vốn
tiền gửi, vốn đi vay và vốn của ngân hàng.
1.1. Vốn tiền gửi.
Vốn tiền gửi là bộ phận tài sản nợ chủ yếu của ngân hàng thơng mại. Nghiệp vụ
này là đặc trng cơ bản trong kinh doanh của ngân hàng. Vốn tiền gửi bao gồm:
Tiền gửi không kỳ hạn: là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc
nào. Với khoản tiền này, mục đích chính của ngời gửi tiền là nhằm đảm bảo an toàn
về tài sản và thực hiện các khoản thanh toán qua ngân hàng. Do vậy nó thờng đợc coi
là tài khoản tiền gửi thanh toán hoặc tài khoản tiền gửi có thể phát hành séc (nếu các
giao dịch thanh toán thông qua tài khoản tiền gửi thanh toán đợc thực hiện bằng séc).
Tiền gửi không kỳ hạn đảm bảo tổng nguồn vốn cao và chi phí huy động thấp. Vì
vậy, ngân hàng thờng huy động tiền gửi không kỳ hạn.
Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền gửi mà khách hàng đợc rút ra sau một thời hạn
nhất định (một vài tháng đến một vài năm). Mục đích của ngời gửi tiền là lấy lÃi và
ngân hàng có thể chủ động sử dụng nguồn vốn này để cho vay. Vì vậy ngân hàng
phải trả lÃi cho loại tiền gưi nµy. L·i cao hay thÊp thêng phơ thc vµo thời hạn gửi
tiền và các yếu tố khác trên thị trờng. Trên thực tế để nâng cao uy tín và chất lợng
dịch vụ, lôi kéo khách hàng, ngân hàng có thể cho phép khách hàng đợc rút tiền trớc
hạn với những khoản phạt (nh hởng lÃi thấp hơn quy định).
Ngoài tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn, trong bộ phận vốn tiền gửi
còn có tiền gửi tiết kiệm. Đó là tiền để dành của dân c đợc gửi vào ngân hàng nhằm
mục đích hởng lÃi. Hình thức phổ biến và cổ điển nhất là loại tiền gưi tiÕt kiƯm cã sỉ.
12
Tức là ngời gửi tiền đợc ngân hàng cấp cho một cuốn sổ dùng để ghi tiền gửi vào và
tiền rút ra. Loại hình này vẫn tồn tại cho đến nay và trong những năm 90, nó có thể
chuyển sang tài khoản séc dễ dàng. Do vậy nó có khả năng thanh toán rất cao.
Tiền gửi có kỳ hạn và tiền tiết kiệm đợc gọi là tiền phi giao dịch. Chúng có đặc
tính chung là đợc hởng lÃi và chủ những tài khoản này không đợc phát hành séc.
Mức lÃi suất của chúng thờng cao hơn tiền gửi tài khoản séc bởi vì những ngời gửi
tiền đó không đợc hởng nhiều dịch vụ nh đối với tài khoản séc.
Vốn tiền gưi lµ ngn vèn chiÕm tû träng cao nhÊt trong tổng số nguồn vốn của
ngân hàng thơng mại, là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng kinh doanh. Nó phản ánh
bản chất của ngân hàng là đi vay để cho vay. Chính vì vậy, ngời ta gọi ngân hàng thơng mại là ngân hàng kí thác hay ngân hàng tiền gửi.
1.2. Vốn đi vay.
Vốn đi vay của ngân hàng thơng mại có thể đợc lấy từ ngân hàng trung ơng hay
các ngân hàng và trung gian tài chính khác.
Bất kỳ ngân hàng thơng mại nào khi đợc ngân hàng trung ơng cho phép thành
lập hoạt động đều đợc quyền vay tiền tại ngân hàng trung ơng trong trờng hợp thiếu
hụt dự trữ hay quá thiếu tiền mặt. Hai hình thức chủ yếu, đó là: tái chiết khấu các
chứng từ có giá và cho vay thế chấp hay ứng trớc. Do vậy loại vay này đợc gọi là tiền
chiết khấu hay ứng trớc. Ngân hàng thơng mại chỉ vay của ngân hàng trung ơng sau
khi đà khai thác hết nguồn vốn trên thị trờng. Khoản vay này liên quan đến lợng tiền
trung ơng và việc thực hiện chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ơng.
Trong quá trình hoạt động, một số ngân hàng thơng mại có những ngày cho vay
quá nhiều dẫn đến sự thiết hụt tại ngân hàng trung ơng. Trong khi đó lại có một vài
ngân hàng khác thừa dự trữ. Để đảm bảo dự trữ theo quy định của ngân hàng trung ơng, các ngân hàng thơng mại thiếu hụt dự trữ sẽ vay các khoản dự trữ ngắn hạn của
các ngân hàng khác có dự trữ d thừa. Thời hạn của loại cho vay này rất ngắn, thờng
không quá 1 tuần.
Ngoài ra các ngân hàng thơng mại cũng có thể tìm kiếm nguồn vốn hoạt động
từ việc phát hành phiếu nợ để vay tiền ở nớc ngoài. Do loại tiền sử dụng trong thanh
toán quốc tế hiện nay là USD cho nên vay tiền ở nớc ngoµi thêng vay b»ng USD.
Trong thêi gian qua, vèn vay ®· vµ ®ang ngµy cµng trë thµnh mét nguån vèn
quan trọng hơn của các ngân hàng thơng mại.
13
1.3. Vốn của ngân hàng.
Đây là khoản mục cuối cùng trong phần tài sản nợ của bảng quyết toán tài sản
ngân hàng. Thực chất đó chính là của cải thực của ngân hàng đó. Nó bằng hiệu số
giữa tổng tài sản có với tài sản nợ. Vốn của ngân hàng hay vèn tù cã bao gåm:
Vèn ®iỊu lƯ (hay vèn pháp định): là vốn mà ngân hàng thơng mại phải có để đi
vào hoạt động và đợc ghi trong văn bản pháp quy. Tuỳ theo hình thức sở hữu mà
nguồn vốn này đợc hình thành từ những nguồn khác nhau. Đối với ngân hàng thơng
mại quốc doanh, đó là nguồn vốn do Nhà nớc cấp. Còn với ngân hàng cổ phần,
nguồn vốn này đợc hình thành do phát hành cổ phiếu.
Ngoài ra vốn của ngân hàng còn có các quỹ dự trữ trích từ lợi nhuận ròng hàng
năm hay phần lợi nhuận cha chia và các quỹ khác cha sử dụng.
Vốn tự có của ngân hàng thơng mại mang tính chất ổn định và thờng chiếm 1 tỷ
trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng (khoảng dới 10%) nhng nó lại có 1 vị
trí quan trọng, quyết định quy mô hoạt động của ngân hàng. Ngời ta thờng ví nó nh
một cái đệm để chống đỡ sự giảm giá trị của những tài sản có của ngân hàng mà có
thể đẩy ngân hàng đến tình trạng thiếu khả năng chi trả và phá sản. Đó cũng là cơ sở
để ngân hàng tiến hành kinh doanh và huy động vốn cho vay.
2.
Nghiệp vụ thuộc tài sản có.
Nghiệp vụ thuộc tài sản có phản ánh việc sử dụng vốn của ngân hàng thơng
mại. Nghiệp vụ này mang lại thu nhập cho ngân hàng thông qua việc thu lÃi cho vay,
lÃi đầu t, giúp ngân hàng tạo ra lợi nhuận. Nó bao gồm các khoản mục chính là:
nghiệp vụ ngân hàng, nghiệp vụ cho vay, nghiệp vụ đầu t và các loại tài sản có khác.
2.1. Nghiệp vụ ngân quỹ.
Khoản mục này bao gồm: tiền mặt tại quỹ (tiền giấy và tiền kim loại). Nhu cầu
dự trữ tiền mặt cao hay thấp phụ thuộc vào quy mô hoạt động của ngân hàng, nhu
cầu rút tiền mặt của khách hàng và còn mang tính thời vụ. Tiền gửi ở ngân hàng
trung ơng gồm tiền gửi dự trữ bắt buộc theo quy định và tiền gửi thanh toán tại ngân
hàng trung ơng. Hai bộ phận trên hình thành nên phần dự trữ của ngân hàng thơng
mại. Nó không tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng.
Thêm vào đó, nghiệp vụ ngân quỹ còn có tiền mặt trong quá trình thu là khoản
phát sinh do quan hệ thanh toán vÃng lai giữa các ngân hàng, khi ngân hàng đà ghi
vào bên nợ nhng thực chất lại cha nhận đợc tiền và tiền gửi ở ngân hàng kh¸c.
14
Nói chung, tiền dự trữ, tiền mặt trong quá trình thu và tiền gửi trong các ngân
hàng khác đều đợc coi nh những khoản tiền mặt. Nó chỉ chiếm 1 tỷ trọng nhỏ và
đang ngày càng giảm dần.
2.2. Nghiệp vụ cho vay.
Tiền cho vay là một món nợ đối với cá nhân hoặc doanh nghiệp đi vay và là 1
tài sản có đối với ngân hàng, tạo ra thu nhập cho ngân hàng. Tiền cho vay thờng có
tính chất kém lỏng hơn so với các tài sản có khác. Vì chúng không thể chuyển thành
tiền mặt trớc khi các khoản cho vay đó đến hạn. Các khoản tiền cho vay cũng có xác
suất vỡ nợ cao hơn so với những tài sản có khác. Chính vì tính lỏng thấp và mức rủi
ro cao nên ngân hàng phải thu lÃi cao từ các khoản cho vay và tạo ra phần lớn thu
nhập cho ngân hàng. Do đó nghiệp vụ cho vay đợc xem là hoạt động sinh lời chủ yếu
của ngân hàng trung gian nói chung và ngân hàng thơng mại nói riêng. Nó thờng
chiếm tỷ trọng lớn trong các khoản mục thuộc tài sản có.
Hoạt động cho vay của ngân hàng thơng mại thờng rất phong phú và đa dạng
với các loại hình chủ yếu: chiết khấu thơng phiếu; cho vay øng tríc; tÝn dơng ủ th¸c
hay bao thanh to¸n; cho vay thuê mua; tín dụng bằng chữ ký; tín dụng tiêu dùng,...
2.3. Nghiệp vụ đầu t.
Hình thức phổ biến trong nghiệp vụ tài sản có của ngân hàng thơng mại là đầu
t vào chứng khoán nh: trái khoán Chính phủ hoặc trái khoán công ty để thu lợi tức
đầu t và do đó mang lại thu nhập cho ngân hàng. Nghiệp vụ này cũng nâng cao khả
năng thanh toán cho ngân hàng, bảo tồn ngân quỹ, đặc biệt khi đầu t vào trái khoán
Chính phủ vì loại này có tính lỏng rất cao.
Đồng thời, nó còn làm đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh của ngân hàng
nhằm phân tán rủi ro và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
2.4. Những tài sản có khác.
Đó là những vốn hiện vật nh văn phòng làm việc, máy tính và những trang thiết
bị khác do ngân hàng sở hữu.
Ngoài các nghiệp vụ thuộc tài sản có và nghiệp vụ thuộc tài sản nợ là những
nghiệp vụ trong bảng cân đối tài sản còn có nghiệp vụ ngoài bảng cân đối tài sản. Đó
là các dịch vụ:
- Thanh toán qua ngân hàng: cung ứng các phơng tiện và thực hiện các dịch vụ
thanh toán.
- Dịch vụ đại lý và uỷ thác: phát hành trái phiếu cho kho bạc, quản lý tài sản,
vốn đầu t của các tổ chức, cá nhân theo hợp đồng.
15
- Kinh doanh ngoại tệ: mua vào các tài sản ngoại tệ và bán ra khi tỷ giá có lợi.
Ngoài ra còn có các dịch vụ khác cùng liên quan đến vấn đề ngoại hối: đổi tiền,
chuyển tiền,...
Các dịch vụ trên và một số hoạt động ngân hàng khác đợc thực hiện cũng chỉ
nhằm mục đích làm tăng thêm lợi nhuận cho ngân hàng và nâng cao chất lợng cũng
nh hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
V.
Vai trò của ngân hàng thơng mại.
Vai trò của ngân hàng thơng mại nói riêng và của các ngân hàng trung gian nói
chung đợc thể hiện qua chính các chức năng của chúng.
Với chức năng trung gian tín dụng, nghiệp vụ huy động vốn, cho vay và đầu t,
ngân hàng thơng mại đà góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia.
- Đối với ngời gửi tiền, họ thu đợc lợi từ vốn tạm thời nhàn rỗi của mình do
ngân hàng trả lÃi tiền gửi cho họ. Hơn nữa, ngân hàng còn đảm bảo cho sự an toàn và
cung cấp các phơng tiện thanh toán.
- Đối với ngời đi vay, họ sẽ thoả mÃn nhu cầu vốn để kinh doanh, chi tiêu, thanh
toán mà không phải chi phí nhiều về sức lực, thời gian cho việc tìm kiếm nơi cung
ứng vốn tiện lợi, chắc chắn và hợp pháp.
- Đối với ngân hàng thơng mại, họ sẽ tìm kiếm đợc lợi nhuận cho bản thân mình
từ chênh lệch giữa lÃi suất cho vay và lÃi suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới. Lợi
nhuận này chính là cơ sở để tồn tại và phát triển của ngân hàng thơng mại.
- Đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy
tăng trởng kinh tế vì nó đáp ứng đợc nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình tái sản xuất
đợc thực hiện liên tục và mở rộng quy mô sản xuất. Với chức năng này, ngân hàng đÃ
biến vốn nhàn rỗi không hoạt động thành vốn hoạt động, kích thích quá trình luân
chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
Nh vậy, các ngân hàng đà thực sự huy động đợc sức mạnh tổng hợp của nền
kinh tế vào quá trình sản xuất và lu thông hàng hoá. Nếu không có ngân hàng trung
gian, việc huy động của cải xà hội vào quá trình sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng sẽ
chậm đi rất nhiều.
Với chức năng trung gian thanh toán, ngân hàng đà thực hiện các dịch vụ thanh
toán cho nền kinh tế từ đó thúc đẩy lu thông hàng hoá, đẩy nhanh tăng trởng kinh tế.
Đồng thời với việc thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng đà giảm đợc tiền
mặt trong lu thông, dẫn đến tiết kiệm chi phí lu thông tiền mặt nh chi phí in ấn, đếm
nhận bảo quản tiền,... Hơn nữa, ngân hàng còn giám sát đợc các hoạt động kinh tÕ
16
góp phần tạo ra một môi trờng kinh doanh lành mạnh, tạo ra sự ổn định trong đời
sống kinh tế x· héi.
Ngµy nay, cã thĨ nãi mäi quan hƯ kinh tế đều đợc thực hiện thông qua quan hệ
tiền tệ và chủ yếu là hoạt động của hệ thống ngân hàng bên cạnh các tổ chức tài
chính phi ngân hàng.
Với chức năng tạo tiền, ngân hàng thơng mại là một trong các chủ thể tham gia
vào quá trình cung ứng tiền, tạo ra một khối lợng phơng tiện thanh toán rất lớn trong
nền kinh tế.
Căn cứ vào các yếu tố ảnh hởng đến khả năng tạo tiền, ngân hàng trung ơng
thực hiện chính sách tiền tệ để kiểm soát quá trình tạo tiền của ngân hàng thơng mại
và kiểm soát lợng tiền cung ứng nhằm đạt đợc các mục tiêu của nền kinh tế vĩ mô,
đặc biệt là mục tiêu ổn định tiền tệ. Phần lớn các công cụ của chính sách tiền tệ chỉ
đợc thực thi có hiệu quả với sự hợp tác tích cực và có hiệu quả của các ngân hàng thơng mại cũng nh các ngân hàng trung gian khác trong việc chấp hành quy định dự
trữ bắt buộc, quy chế thanh toán không dùng tiền mặt và việc nâng cao hiệu quả cho
vay và đầu t.
Tóm lại, vai trò của hệ thống ngân hàng thơng mại nói riêng và các ngân hàng
trung gian nói chung có thể khái quát thành 2 điểm lớn là:
- Các ngân hàng trung gian trong đó có ngân hàng thơng mại là công cụ quan
trọng thúc đẩy sự phát triển của sản xuất và lu thông hàng hoá.
- Ngân hàng thơng mại (và các ngân hàng trung gian khác) là công cụ thực hiện
chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ¬ng.
17
chơng II
Thực trạng hoạt động của hệ thống
ngân hàng thơng mại ở Việt Nam hiện nay
I.
Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống
ngân hàng thơng mại Việt Nam.
1.
Quá trình hình thành và phát triển.
Việt Nam, vào thời kỳ Bắc thuộc và từ thế kỷ XIX trở về trớc, là một nớc nông
nghiệp lạc hậu nên cha hề có khái niệm về ngân hàng. Sự đô hộ hàng ngàn năm của
phong kiến phơng Bắc đà làm cho nớc ta hầu nh không có sự tiếp xúc với bên ngoài,
thơng mại ít phát triển cả trong và ngoài nớc. Do ®ã, nghỊ kinh doanh tiỊn tƯ cịng
kÐm ph¸t triĨn, mang nặng tính phân tán, chủ yếu là hoạt động đổi tiền và cho vay
nặng lÃi.
Khoảng giữa thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xâm lợc nớc ta, Việt Nam trở thành
thuộc địa và từ đó, các thơng giá ngời Pháp bắt đầu chiếm lĩnh thị trờng Việt Nam
(các nhà máy đờng, nhà máy sợi, nhà máy dệt,...). Trong bối cảnh ngày càng phát
triển thị trờng, trên lÃnh thổ Việt Nam lần đầu tiên xuất hiện hệ thống ngân hàng
hiện đại, gồm có ngân hàng Đông Dơng với t cách là ngân hàng phát hành và một số
ngân hàng thơng mại cđa ngêi níc ngoµi vµ cđa ngêi ViƯt Nam nh ngân hàng Pháp Hoa, ngân hàng Hồng Kông - Thợng Hải, Địa ốc ngân hàng,... để hỗ trợ cho các hoạt
động kinh doanh thơng mại.
Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nớc Việt Nam dân chủ
cộng hoà ra đời, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng bắt đầu đợc xây dựng từng bớc.
Quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam từ đây có thể chia làm hai
thời kỳ.
Từ năm 1951 đến năm 1987, chúng ta có hệ thống ngân hàng một cấp. Lúc này,
hệ thống ngân hàng Nhà nớc Việt Nam mà tiền thân là ngân hàng quốc gia Việt Nam
đợc thành lập vào năm 1951 - giai đoạn cuói của cuộc chiến tranh chống Pháp và
trong điều kiện nền kinh tế tiểu nông lạc hậu. Chức năng chủ yếu của ngân hàng
18
quốc gia Việt Nam là: phát hành giấy bạc và quản lý kho bạc, thực hiện chính sách
tín dụng và quản lý tiền tệ. Chức năng này đợc thực hiện thông qua một mô hình tổ
chức gọn, nhẹ, phù hợp với điều kiện thời chiến gồm 3 cấp quản lý: trung ơng, liên
khu, tỉnh và thành phố.
Sau thời gian này, do sự thay đổi của nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế,
hệ thống ngân hàng Nhà nớc Việt Nam đà đợc mở rộng và hoàn thiện về cơ chế tổ
chức và hoạt động nghiệp vụ. Tuy nhiên cho đến năm 1987, hoạt động của ngân hàng
Việt Nam vẫn mang tÝnh chÊt lìng tÝnh. Nã võa thùc hiƯn chøc năng quản lý và điều
tiết lu thông tiền tệ, vừa thực hiện chức năng của các ngân hàng trung gian và đợc tổ
chức thống nhất từ trung ơng xuống cơ cở. Mặc dù đà góp phần không nhỏ vào sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nớc song ngân hàng Nhà nớc Việt Nam cũng đÃ
bộc lộ những hạn chế của nó, đặc biệt trong thập kỷ 80, vừa không thể kinh doanh
theo đúng nghĩa đồng thời lại không làm tròn chức năng quản lý Nhà nớc các hoạt
động tiền tệ ngân hàng, nó đà làm cho nền kinh tế Việt Nam trong những năm 80 rơi
vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, vừa thiếu tiền mặt, vừa lạm phát.
Vì thế, cùng với sự chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, từ cơ chế quản lý hành
chính và trực tiÕp sang viƯc sư dơng c¸c biƯn ph¸p kinh tÕ theo cơ chế thị trờng, từ
năm 1988 đến nay, hệ thống ngân hàng đà đợc cải cách từng bớc. Hệ thống ngân
hàng hai cấp ra đời.
Bớc sơ khai của hệ thống ngân hàng 2 cấp đợc thể hiện trong Nghị định 53 ngày
26-3-1988. Theo đó hệ thống ngân hàng Việt Nam bao gồm: ngân hàng Nhà nớc và
các ngân hàng chuyên doanh. Ngân hàng Nhà nớc hoạt động với t cách là ngân hàng
độc quyền phát hành, là cơ quan quản lý Nhà nớc về tiền tệ, tín dụng và là cơ quan
quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nớc. Pháp lệnh ngân hàng Nhà nớc tháng 5-1990 thực
sự đánh dấu bớc đổi mới căn bản trong hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam
và khẳng định lại sự đúng đắn của việc cải cách ngân hàng trong Nghị định 53. Các
ngân hàng thơng mại, ngân hàng chuyên doanh, công ty tài chính,... thực hiện chức
năng kinh doanh tiền tệ - tín dụng. Đặc biệt các ngân hàng thơng mại phát triển
mạnh và đa dạng. Chúng có vai trò là ngời môi giới trung gian nhằm tập trung tiền
nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho vay các doanh nghiệp và dân chúng.
Với một hệ thống gồm các ngân hàng thơng mại quốc doanh, ngân hàng thơng
mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nớc ngoài, hoàn toàn có thể
khẳng định rằng, cùng với quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế từ tập trung bao cấp
sang kinh doanh thị trờng theo định hớng xà hội chủ nghĩa, công cuộc đổi mới ngân
hàng nói chung và sự tồn tại, phát triển của hệ thống ngân hàng thơng mại nói riêng
đà thành công ở Việt Nam. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hoạt động theo c¬
19
chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc đà thực sự làm đổi mới hệ thống ngân hàng
thơng mại phù hợp với tình hình ngày càng phát triển về kinh tế của đất nớc.
2.
Phân loại các ngân hàng thơng mại Việt Nam.
Nếu phân theo hình thức sở hữu thì ở Việt Nam hiện nay có:
- 4 ngân hàng thơng mại quốc doanh với số vốn điều lệ là 5.500 tỷ đồng Việt
Nam và có hoạt động rông khắp cả nớc. Các ngân hàng này đợc thành lập bằng
100% vốn ngân sách Nhà nớc và giữ vai trò chủ ®¹o, chØ huy ho¹t ®éng kinh doanh
tiỊn tƯ ë níc ta. Về mặt pháp lý, ngân hàng thơng mại quốc doanh là một pháp nhân,
thuộc loại hình doanh nghiệp Nhà nớc, do Nhà nớc thành lập, đợc Nhà nớc cấp vốn
điều lệ và bổ nhiệm ngời quản trị và điều hành. Các ngân hàng thơng mại quốc
doanh đợc tổ chức và hoạt động theo hớng kinh doanh tổng hợp, đợc quyền kinh
doanh tiền tệ, tín dụng với mọi thành phần kinh tế và trong mọi lĩnh vực của nền sản
xuất xà hội.
- 60 ngân hàng thơng mại cổ phần bao gồm ngân hàng thơng mại cổ phần đô thị
và ngân hàng thơng mại cổ phần nông thôn có tổng số vốn đạt trên 2.200 tỷ đồng
Việt Nam, hoạt động rất năng động. Các ngân hàng này đợc thành lập dới hình thức
công ty cổ phần trong đó 1 cá nhân hay 1 tổ chức không đợc sở hữu số cổ phần của
ngân hàng quá tỷ lệ do ngân hàng Nhà nớc quy định. Về mặt pháp lý, đó cũng là một
pháp nhân đợc cơ quan có thẩm quyền thành lập trên cơ sở tự nguyện của các cổ
đông tham gia góp vốn và cùng hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật.
- 4 ngân hàng thơng mại liên doanh với các ngân hàng thơng mại hàng đầu của
Indonesia, Hàn Quốc, Malaysia và Thái Lan. Các ngân hàng này đợc thành lập bằng
vốn góp của bên ngân hàng Việt Nam với bên ngân hàng nớc ngoài có trụ sở tại Việt
Nam và hoạt động kinh doanh theo pháp luật Việt Nam.
- 24 chi nhánh ngân hàng nớc ngoài là những ngân hàng lớn trên thế giới có
kinh nghiệm và uy tín cao hoạt động tập trung trên đại bàn Hµ Néi vµ TP. Hå ChÝ
Minh víi tỉng sè vèn điều lệ lên tới trên 460 triệu USD. Đây là một bộ phận của
ngân hàng nớc ngoài, hoạt động theo pháp luật Việt Nam. Chi nhánh ngân hàng nớc
ngoại tại Việt Nam chỉ có t cách pháp nhân khi đợc cấp giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh.
Ngoài ra còn có khoảng 70 văn phòng đại diện của các ngân hàng thơng mại nớc ngoài và hàng ngàn quỹ tín dụng nhân dân cùng hoạt động.
Nếu phân theo đối tợng ngành kinh doanh, hệ thống ngân hàng thơng mại Việt
Nam bao gåm:
20
- Ngân hàng công thơng Việt Nam: thực hiện kinh doanh tiền tệ, tín dụng và
dịch vụ ngân hàng đối với các thành phần kinh tế chủ yếu trong lĩnh vực công
nghiệp, giao thông vận tải, bu điện, thơng nghiệp và dịch vụ,...
- Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam: thực hiện kinh doanh tiền tệ, tín dụng và
dịch vụ ngân hàng đối với các thành phần kinh tế chủ yếu trong lĩnh vực nông, lâm,
ng nghiệp.
- Ngân hàng ngoại thơng Việt Nam: kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ
ngân hàng đối với các thành phần kinh tế chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại.
Thêm vào đó cũng có thể coi ngân hàng đầu t và phát triển thuộc ngân hàng thơng mại. Vì trong hoạt động của mình, nó đợc thực hiện các nghiệp vụ về chiết khấu
thơng phiếu và các giấy tờ có giá, bảo lÃnh và tái bảo lÃnh vay vốn trong và ngoài nớc, kinh doanh ngoại hối và thanh toán quốc tế nh 1 ngân hàng thơng mại. Ngân
hàng đầu t và phát triển có chức năng huy động vốn trung hạn, dài hạn trong nớc,
ngoài nớc và nhận vốn từ ngân sách Nhà nớc cho vay cho các dự án phát triĨn kinh
tÕ, kü tht. Nã kinh doanh tiỊn tƯ, tÝn dụng và dịch vụ ngân hàng trong lĩnh vực đầu
t phát triển với khách hàng.
3.
Các loại hình dịch vụ và công cụ của ngân hàng thơng mại Việt Nam.
3.1. Dịch vụ.
Trong nền kinh tế thị trờng, nhìn dới giác độ kinh doanh và phục vụ có thể xem
ngân hàng thơng mại nh 1 cửa hiệu bày bán các sản phẩm và dịch vụ tài chính. Thực
tế trên thế giới, một ngân hàng thơng mại kiểu mẫu có thể cung cấp rất nhiều các
dịch vụ tài chính nh:
- Các dịch vụ mở và ký gửi tiết kiệm.
- Các dịch vụ tín dụng (cho tiêu dùng, cho đầu t sản xuất kinh doanh, cho các tổ
chức tài chính,...).
- Các dịch vụ thanh toán (mở và ký thác tài khoản định kỳ, thanh toán hoá đơn,
chuyển tiền tự động qua tài khoản, phát hành séc, rút tiền bằng máy chi trả tự
động,...).
- Các dịch vụ môi giới (môi giới chiết khấu, môi giới bất động sản, môi giới
chứng khoán,...).
- Các dịch vụ bảo lÃnh (tín thác).
- Các dịch vụ hối đoái và ngân hµng quèc tÕ,...
21
Tất cả các dịch vụ trên đà đem lại một phần lợi nhuận đáng kể cho các ngân
hàng. ở Việt Nam, do hệ thống ngân hàng thơng mại còn non trẻ nên hiện nay cha
thể cung cấp đầy đủ các dịch vụ trên nh ở các nớc phát triển đà từng làm. Theo luật
các tổ chức tín dụng của Việt Nam, các dịch vụ ngân hàng nớc ta gồm:
- Dịch vụ thanh toán.
- Kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trờng khi đợc ngân hàng Nhà nớc cho
phép.
- Thực hiện các nghiệp vụ uỷ thác và đại lý trong các lĩnh vực có liên quan đến
ngân hàng.
- Cung ứng các dịch vụ t vấn tài chính, tiền tệ cho khách hàng.
Ngoài ra theo luật, các ngân hàng Việt Nam còn đợc lập công ty bảo hiểm để
kinh doanh bảo hiểm và cung ứng các dịch vụ bảo hiểm theo quy định.
Trong tơng lai, cùng với sự phát triển và hoà nhập, chúng ta có quyền hy vọng
các ngân hàng thơng mại Việt Nam sẽ có những bớc cải tiến quan trọng và dần cung
cấp đầy đủ hơn tất cả các dịch vụ nhằm đáp ứng tối đa mọi yêu cầu của khách hàng.
3.2. Công cụ.
Những công cụ đặc thù của ngân hàng Việt Nam bao gồm: séc, uỷ nhiệm chi,
ngân phiếu thanh toán, th tín dụng và uỷ nhiệm thu.
Séc: séc là một lệnh trả tiền của chủ tài khoản đợc lập trên mẫu do ngân hàng
Nhà nớc quy định, yêu cầu đơn vị thanh toán trích 1 số tiền từ tài khoản gửi thanh
toán của mình để trả cho ngêi thơ hëng cã tªn ghi trªn tê sÐc hoặc ngời cầm séc.
Theo Nghị định số 30/CP ngày 9/5/1996 của Chính phủ ban hành, quy chế phát
hành và sử dụng séc có hiệu lực áp dụng kể từ ngày 1/7/1996. Thời hạn hiệu lực
thanh toán của tờ séc là 15 ngày kể cả chủ nhật và nghĩ lễ. Nếu ngày kết thúc của
thời hạn là chủ nhật hoặc ngày nghỉ lễ thì thời hạn đợc lùi vào ngày làm việc tiếp
theo sau ngày nghỉ chủ nhật hoặc nghỉ lễ đó.
Uỷ nhiệm chi: là lệnh chi tiền đợc chủ tài khoản lập theo mẫu của ngân hàng ấn
hành, yêu cầu ngân hàng trích tài khoản của mình để chi trả cho bên thụ hởng.
Uỷ nhiệm chi đợc dùng để thanh toán chuyển khoản về các khoản trả tiền hàng,
dịch vụ hoặc chuyển vốn trong cùng hệ thống hoặc khác hệ thống ngân hàng trong
cùng tỉnh và ngoại tỉnh.
Ngân phiếu thanh toán: là công cụ thanh toán do Nhà nớc phát hành có mệnh
giá và thời hạn thanh toán đợc in sẵn trên từng tờ. Ngân phiếu thanh toán không ký
22
danh và chuyển nhợng đợc. Mệnh giá của nó do Thống đốc ngân hàng Nhà nớc quy
định theo từng khối lợng cụ thể.
Ngân phiếu thanh toán đợc áp dụng cho khách hàng để thanh toán tiền hàng
hoá, dịch vụ, trả nợ ngân hàng, nộp ngân sách, gửi vào tài khoản tiền gửi tại ngân
hàng, gửi tiết kiệm với giá trị ngang bằng với giá trị tiền mặt mà không bị hao hụt.
Th tín dụng: th tín dụng đợc sử dụng trong ký kết hợp đồng mua bán khi ngời
bán muốn đợc chi trả ngay trị giá số hàng đà giao. Th tín dụng chỉ đợc trả tiền bằng
chuyển khoản. Mức tiỊn tèi thiĨu cđa 1 th tÝn dơng lµ 5 triệu đồng. Tiền gửi mở th tín
dụng không đợc hởng l·i. Thêi h¹n hiƯu lùc cđa mét th tÝn dơng là 3 tháng kể từ
ngày ngân hàng bên mua nhận mở th tín dụng.
Thanh toán bằng uỷ nhiệm thu: đợc áp dụng trong thanh toán cùng hoặc khác
địa phơng, trong hoặc ngoài hệ thống về những khoản tiền hàng đà giao hoặc dịch vụ
đà cung ứng khi 2 bên mua bán thoả thuận dùng hình thức này.
II. Bối cảnh nền kinh tế Việt Nam thời gian qua
Đại hội VIII của Đảng đà đề ra nhiệm vụ từ năm 1996 đến năm 2000 là: tăng trởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức
xúc về xà hội, cải thiện đời sống nh©n d©n, n©ng cao tÝch l tõ néi bé nỊn kinh tế,
tạo tiền đề vững chắc cho bớc phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau.
Trong năm năm qua, với những thuận lợi và cùng không ít những khó khăn
thách thức, chúng ta đà thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội VIII và đạt đợc những thành
tựu vô cùng quan trọng. Nền kinh tế tăng trởng khá. Tổng sản phẩm trong nớc (GDP)
tăng bình quân hàng năm là 6,94%. Đặc biệt năm 1997, tốc độ tăng trởng GDP nớc
ta đạt 8,2% và đợc coi là một trong những nớc có mức tăng trởng cao nhất thế giới.
Giá trị sản xuất công nghiệp trong những năm qua tăng bình quân 13,5%/năm. Năng
lực sản xuất các sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng khá, đáp ứng nhu cầu trong nớc
và xuất khẩu. Các ngành dịch vụ có bớc phát triển mới. Xuất khẩu và nhập khẩu tiếp
tục phát triển. Nền kinh tế từ tình trạng khan hiếm, thiếu nghiêm trọng lơng thực và
hàng tiêu dùng nay đà đáp ứng đợc các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh
tế; từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp đà chuyển hẳn sang cơ chế thị trờng
theo định híng x· héi chđ nghÜa cã sù qu¶n lý cđa Nhà nớc; từ chỗ nền kinh tế chủ
yếu chỉ có 2 thành phần là kinh tế Nhà nớc và kinh tế tập thể đà chuyển sang nền
kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nớc giữ vai trò chủ đạo. Đời sống các
tầng lớp nhân dân đợc cải thiện. Đất nớc đà ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xà hội, vợt
qua đợc cơn chấn động chính trị và sự hẫng hụt về thị trờng do những biến động ở
Liên Xô và các nớc Đông Âu gây ra. Đặc biệt, tỷ giá đồng Việt Nam vẫn đợc kiểm
23
soát và giữ khá ổn định sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực đầu tháng
7-1997 tại Thái Lan gây hậu quả khá nặng nề đối với nền kinh tế tài chính khu vực.
Chỉ tính riêng trong năm 2000, tổng sản phẩm trong nớc đà tăng gấp đôi so với
năm 1990. Một trong những thành tựu tổng quát nổi bật về kinh tế trong năm 2000 là
tốc độ tăng GDP tăng dần qua các quý (từ 5,6% trong quí I đến 7,2% trong quí IV)
và tính chung cả năm tăng 6,75%. Quan hệ giữa xuất và nhập khẩu cũng đà có
chuyển biến tích cực. Tỷ lệ nhập siêu là 6,2%. Đặc biệt tháng 7 năm 2000, thị trờng
chứng khoán đà ra đời đánh dấu bớc phát triển mới trong quá trình đổi mới nền kinh
tế và hội nhập nỊn kinh tÕ qc tÕ.
Cã thĨ nãi, søc m¹nh vỊ mọi mặt của nớc ta đà lớn hơn nhiều so với 10 năm trớc. Đạt đợc những thành tựu trên có sự đóng góp không nhỏ của ngành ngân hàng.
Đó là việc điều hành và sử dụng tốt các công cụ của chính sách tiền tệ của ngân hàng
trung ơng cũng nh sự hoạt động có hiệu quả của hệ thống các ngân hàng thơng mại.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn, ta cũng không thể phủ nhận những
yếu kém, khuyết điểm còn tồn tại của nền kinh tế. Mặc dù, nền kinh tế đạt tốc độ
tăng trởng khá cao song đó lại là sự phát triển cha vững chắc, hiệu quả và sức cạnh
tranh thấp. Nhịp độ tăng trởng kinh tế năm năm qua (1996-2000) chậm dần, riêng
năm 2000 đà tăng trở lại nhng vẫn cha đạt đợc mức tăng trởng cao nh 5 năm đầu của
thập niên 90. Năng suất lao động còn thấp, chất lợng sản phẩm cha tốt mà giá thành
lại cao. Điều đó cho thấy nền kinh tế vẫn ở giai đoạn phát triển chiều rộng mà cha
tập trung vào phát triển chiều sâu. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và điều chỉnh cơ
cấu đầu t còn chậm và cha hợp lý. Hệ thống ngân hàng còn nhiều yếu kém và cha
thực sự lành mạnh. Thị trờng chứng khoán mặc dù đà hình thành nhng hoạt động cha
có hiệu quả. Quy mô giao dịch của thị trờng còn quá bé nhỏ đồng thời giá cả chứng
khoán lại biến động mạnh. Trên thị trờng, các công ty chứng khoán còn rất ít. Điều
này gây ảnh hởng lớn đến cung cầu chứng khoán. Ngoài ra, việc huy động và sử
dụng vốn cả trong và ngoài nớc đạt hiệu quả thấp. Kinh tế Nhà nớc và kinh tế tập thể
cha đợc củng cố tơng xứng với vai trò nền tảng.
Rút kinh nghiệm từ những thành quả đà đạt đợc và những tồn tại cần đợc khắc
phục, trong dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội IX, Đảng ta đà đề ra mục tiêu
tổng quát của chiến lợc phát triển kinh tế - xà hội 10 năm 2001-2010 là: "Đa nớc ta
ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt chất lợng đời sống vật chất, văn hoá
tinh thần của nhân dân. Tạo nền tảng để đến năm 2020 nớc ta cơ bản tr thành 1 nớc
công nghiệp theo hớng hiện đại. Vị thế của nớc ta trong quan hệ quốc tế đợc củng cố
và nâng cao. Phấn đấu đến năm 2010, tổng sản phẩm trong nớc (GDP) tăng gấp đôi
so với năm 2000 và nhịp độ tăng GDP bình quân đạt ít nhất 7%/năm. Chuyển dịch
24
mạnh cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp xuống còn
khoảng 50%".
Để đạt đợc mục tiêu trên, đòi hỏi các cấp, các ngành phải hết sức phấn đấu.
Trong đó, đặc biệt là ngành ngân hàng cần nhanh chóng đổi mới, đa dạng hoá các
loại hình, nâng cao chất lợng quản lý cũng nh phơc vơ. Cã nh thÕ, nỊn kinh tÕ níc ta
mới có thể phát triển nhanh và vững chắc trên con đờng CNH, HĐH.
III. Hoạt động của hệ thống ngân hàng thơng mại Việt
Nam
1.
Những thành tựu đà đạt đợc
Hầu hết đợc thành lập sau năm 1986, hệ thống ngân hàng thơng mại Việt Nam
còn rất non trẻ, sơ khai với tổng vốn tự có chỉ đạt khoảng trên 1,1 tỷ USD. Từ năm
1990, hệ thống ngân hàng Việt Nam đà thực hiện những bớc đổi mới căn bản khiến
cho các ngân hàng thơng mại cũng phát triển mạnh và đa dạng với các ngân hàng thơng mại quốc doanh, ngân hàng thơng mại cổ phần, ngân hàng liên doanh và chi
nhánh ngân hàng nớc ngoài. Trong đó, các ngân hàng thơng mại quốc doanh vẫn tiếp
tục giữ vai trò quan trọng, tuy thị phần tín dụng đang có xu hớng bị thu hẹp. Các
ngân hàng thơng mại cổ phần trong thời gian qua cũng có những chuyển biến đáng
kể, nhiều ngân hàng nớc ngoài và ngân hàng liên doanh đang ngày càng phát triển ở
nhiều mảng hoạt động.
Hoạt động của hệ thống ngân hàng thơng mại có rất nhiều nghiệp vụ, nhng
nghiệp vụ tín dụng đợc coi là nghiệp vụ kinh doanh cơ bản của hệ thống ngân hàng
thơng mại. Trong nền kinh tế thị trờng, tín dụng ngân hàng giữ vai trò hết sức quan
trọng và đối với ngân hàng thì nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ chính yếu. Tất cả các
nghiệp vụ khác của ngân hàng đều cã tÝnh chÊt bỉ sung cho nghiƯp vơ tÝn dơng và
đây chính là nghiệp vụ quyết định sự tồn tại và phát triển ngân hàng. ở đây, ngân
hàng thực hiện chức năng làm môi giới tài chính: nhận tiền gửi của cá nhân hoặc đơn
vị này và đem lại cho cá nhân hoặc đơn vị khác vay. Hay còn gọi là huy động và sử
dụng vốn.
Trớc hết ta hÃy xem xét vấn đề huy động vốn. Đây là nghiệp vụ quan trọng vì
nó là điều kiện tiền đề của nghiệp vụ cho vay. Không có nghiệp vụ huy động vốn thì
sẽ không có nghiệp vụ cho vay. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, khi đất nớc đang
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhu cầu vốn đầu t cho nền kinh tế rất
lớn thì việc huy động vống càng trở thành nhiệm vụ nặng nề cấp bách với hệ thống
ngân hàng thơng mại. Thực tế trong thập kỷ 90, lợng vốn huy động qua hệ thống
25