Tải bản đầy đủ (.doc) (234 trang)

Tài liệu Luận văn Phát triển các hình thức liên doanh với nước ngoài trong sản xuất hàng xuất khẩu ở Nghệ An docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.23 MB, 234 trang )

1
Luận văn
1
2
Phát triển các hình thức
liên doanh với nước ngoài
trong sản xuất hàng xuất
khẩu ở Nghệ An MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghệ An là một tỉnh nông nghiệp miền Trung không có nhiều những
tài nguyên khoáng sản lớn như dầu mỏ hoặc các loại quặng kim loại cần thiết,
Nghệ An cũng không phải là một trung tâm thương mại hay công nghiệp,
nhưng điều kiện tự nhiên và lao động thuận lợi để phát triển các mặt hàng
nông sản, hải sản, vật liệu xây dựng và các ngành như dệt may, giày da, tiểu
thủ công nghiệp phục vụ xuất khẩu. Trong những năm vừa qua do những khó
khăn về vốn đầu tư, công nghệ và những hạn chế về công tác thị trường, về
trình độ kỹ thuật và quản lý chỉ đạo sản xuất kinh doanh nên sản xuất hàng
hóa nói chung và SXHXK nói riêng kém phát triển, kim ngạch xuất khẩu bình
quân trên đầu người hàng năm thấp hơn rất nhiều so với bình quân chung của
cả nước
Với quan điểm đổi mới của Đảng và từ khi có Luật đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam được ban hành vào tháng 12/1987, các hình thức đầu tư và
LDVNN tại Nghệ An đã được quan tâm phát triển và có những đóng góp nhất
định cho nền kinh tế và cho SXHXK, tạo ra nhiều việc làm cho người lao
động và sản xuất được một khối lượng hàng hóa đáng kể, góp phần thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu và tăng nhanh tốc độ tăng trưởng của các ngành kinh tế
nhất là sản xuất công nghiệp và xuất khẩu.
2
3
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đạt được, quá trình phát triển
các hình thức LDVNN ở Nghệ An vẫn còn rất nhiều vấn đề nổi cộm: Đó là


tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn rất chậm, số lượng dự án ít
nhưng phần lớn gặp khó khăn thua lỗ nhiều, thậm chí có những dự án phải
ngừng sản xuất. Các hình thức LDVNN mới chỉ chú trọng đến vấn đề sản
xuất hàng thay thế nhập khẩu, tiêu thụ nội địa hoặc khai thác các nguồn tài
nguyên sẵn có như gỗ và các loại khoáng sản khác. Các dự án LDVNN đầu tư
vào lĩnh vực sản xuất và chế biến hàng nông sản, hải sản cho xuất khẩu hoặc
để phát triển các ngành công nghiệp dệt may là những ngành mà Nghệ An có
lợi thế và tiềm năng phát triển hầu như chưa có. Tình trạng này không phải
chỉ riêng ở Nghệ An, mà cả ở những địa phương khác trong cả nước cũng
tương tự, nhất là các địa phương thuộc vùng nông nghiệp khó khăn như khu
vực khu bốn cũ, Tây Nguyên, các tỉnh miền núi vùng Tây Bắc, đồng bằng
sông Cửu Long. Nguyên nhân của nó không những ở những điều kiện khó
khăn khách quan mà còn do quá trình vận dụng, tổ chức thực hiện của các
ngành, các địa phương, một phần khác là ở hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô,
nhất là chính sách ưu đãi và thu hút đầu tư vào các vùng kinh tế khó khăn và
các lĩnh vực sản xuất và chế biến hàng nông sản xuất khẩu
Vì vậy, tác giả chọn đề tài nghiên cứu "Phát triển các hình thức liên
doanh với nước ngoài trong sản xuất hàng xuất khẩu ở Nghệ An" nhằm
đưa ra được những quan điểm giải pháp về quá trình tổ chức thực hiện và
những kiến nghị về chính sách kinh tế vĩ mô để thúc đẩy phát triển các hình
thức LDVNN trong SXHXK ở Nghệ An, đồng thời có thể vận dụng cho các
địa phương có điều kiện tương tự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hình thức LD đã có mầm mống từ giai đoạn đầu của phương thức sản
xuất TBCN và hiện nay đã trở thành phổ biến trong đời sống kinh tế của các
nước. Những mãi trong những thập niên gần đây nó mới được các nhà kinh tế
học quan tâm nghiên cứu. Đó là các nghiên cứu của P.A.Samelson và W.D.
3
4
Nordhaus trong cuốn "Kinh tế học" xuất bản lần đầu năm 1948 tại Mỹ, của

Raymond Werlls trong lý thuyết "Chu kỳ sản phẩm", của Dominik Salvatore
trong cuốn "Kinh tế học quốc tế" và của các nhà kinh tế khác xuất bản trong
những năm gần đây như nghiên cứu của Xavier Ritchet, nhà kinh tế Pháp, trong
cuốn "Kinh tế doanh nghiệp" xuất bản bằng tiếng Việt do trung tâm Pháp -
Việt về đào tạo quản lý dịch năm 1997, của J.H. Adam trong cuốn "Từ điển tiếng
Anh kinh doanh" (Longman Consise Dictionany of Business English - 1992),
của Tổ chức hợp tác và phát triển của Liên hiệp quốc (OEDC) trong cuốn
"Chính sách cạnh tranh và liên doanh" (Competition policy and Joint Venture)
xuất bản năm 1986 Các nghiên cứu trên đã đưa ra khái niệm về LD, lý giải
cơ sở, vai trò và những "bất lợi" về LD, song đều viết chung với các vấn đề
kinh tế khác mà chưa có công trình nào chuyên nghiên cứu về LDVNN trong
SXHXK.
Ở nước ta, vấn đề liên doanh được Đảng và Nhà nước quan tâm từ
giữa những năm 80 và đã đưa vào Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam tháng
12 năm 1987. Đã có những nghiên cứu về vấn đề này đăng trên một số tạp chí
và sách chuyên khảo. Đó là cuốn "Thành lập và quản lý công ty, xí nghiệp
liên doanh với nước ngoài" do Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Phan chủ biên,
"Những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện việc thành lập các xí nghiệp liên
doanh với nước ngoài trong công nghiệp Việt Nam", luận án phó tiến sĩ của
nghiên cứu sinh Nguyễn Thường Lạng, "Liên doanh với nước ngoài và đầu tư
tại Việt Nam" của Hà Thị Ngọc Oanh, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội - 1998
Các nghiên cứu và sách báo trên đã quan tâm đến vấn đề LDVNN trên
tất cả mọi lĩnh vực kinh tế. Việc nghiên cứu vấn đề phát triển các hình thức
LDVNN trong SXHXK vẫn hoàn toàn mới mẻ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
- Mục đích của luận án:
4
5
Trên cơ sở hệ thống và khái quát một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
các hình thức LD, luận án đề xuất những quan điểm và giải pháp chủ yếu

nhằm thúc đẩy việc phát triển các hình thức LDVNN trong SXHXK ở tỉnh
Nghệ An trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ của luận án:
+ Phân tích và làm sáng tỏ cơ sở lý luận của việc phát triển các hình
thức LDVNN, chỉ rõ xu hướng phát triển và vai trò của nó trong SXHXK.
+ Khái quát kinh nghiệm của một số nước trong khu vực để có thể
nghiên cứu, vận dụng vào điều kiện của địa phương.
+ Phân tích và đánh giá thực trạng phát triển các LDVNN trong
SXHXK ở Nghệ An, tìm ra những mâu thuẫn, hạn chế và nguyên nhân của
nó.
+ Xác định các quan điểm và đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm thúc
đẩy sự phát triển các LDVNN trong SXHXK ở Nghệ An thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án: Nghiên cứu những nhân tố tác
động đến quá trình hình thành và phát triển các hình thức LDVNN trong
SXHXK như chính sách tạo lập môi trường đầu tư, quy trình thành lập, thẩm
định và tổ chức thực hiện, những điều kiện thuận lợi và những khó khăn
khách quan, nguyên nhân chủ quan, quan điểm và giải pháp khắc phục
Phạm vi nghiên cứu về không gian và thời gian: Luận án nghiên cứu
chủ yếu trong phạm vi tỉnh Nghệ An từ khi Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam được ban hành (tháng 12/1987) đặc biệt là từ Đại hội đại biểu Đảng toàn
quốc lần thứ VII (1991) đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
5
6
Luận án sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
làm phương pháp luận và các phương pháp có tính chất chuyên ngành như
điều tra, thống kê, so sánh, khảo sát, khái quát, phân tích, tổng hợp và suy luận
6. Đóng góp mới của luận án
- Trên cơ sở khái quát những cơ sở lý luận và thực tiễn về hình thức

LD, luận án đưa ra khái niệm mới có tính chất tổng hợp và phù hợp với xu thế
hiện nay, đồng thời chọn lọc một số kinh nghiệm có thể vận dụng cho điều
kiện Việt Nam hiện nay như kinh nghiệm đa dạng hóa các hình thức LD, kinh
nghiệm phát triển các doanh nghiệp liên doanh SXHXK vừa và nhỏ ở Hàn
Quốc và Malaixia, kinh nghiệm về lựa chọn cơ hội LD, đánh giá hoạt động
của LD và cách thức giải quyết những mối bất đồng trong LD.
- Qua việc khảo sát tiềm năng phát triển SXHXK và thực trạng thành
lập, hoạt động của các dự án LDVNN, luận án đã phân tích những mâu thuẫn
và hạn chế cần khắc phục, đặc biệt là mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển và cơ
cấu đầu tư, mâu thuẫn giữa trình độ của công nghệ sản xuất và chế biến hàng
xuất khẩu hiện nay với thực trạng kém phát triển của các doanh nghiệp
SXHXK ở Nghệ An, mâu thuẫn giữa yêu cầu về khả năng cạnh tranh của
hàng xuất khẩu với giá thành sản phẩm trong các LD hiện nay ở Nghệ An.
- Cuối cùng luận án đưa ra được những quan điểm và giải pháp phát
triển đáp ứng với yêu cầu thực tiễn ở Nghệ An và phù hợp với điều kiện sản
xuất và chế biến hàng nông sản, hải sản xuất khẩu hiện nay ở trên phạm vi cả
nước. Đó là các giải pháp tạo ra môi trường và động lực thúc đẩy đầu tư cho
sản xuất hàng nông sản hải sản xuất khẩu trên cơ sở khai thác tối đa các tiềm
năng và lợi thế so sánh của địa phương và của đất nước trong quá trình toàn
cầu hóa thương mại hiện nay. Giải pháp phát triển các doanh nghiệp sản xuất
hàng xuất khẩu có hiệu quả của địa phương từ đó làm nảy sinh ra các nhu cầu
mở rộng đầu tư và LD với nước ngoài
7. Kết cấu của luận án
6
7
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận án được chia thành 3 chương, 10 tiết.
7
8
Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ LIÊN DOANH VỚI NƯỚC NGOÀI VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ
TRONG SẢN XUẤT HÀNG XUẤT KHẨU

1.1. NGUỒN GỐC SỰ RA ĐỜI, KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG VỀ HÌNH
THỨC LIÊN DOANH
1.1.1. Nguồn gốc sự ra đời của hình thức LD
Những mầm mống đầu tiên của LD có từ giai đoạn đầu của phương
thức sản xuất TBCN. Trong quá trình phân tích sự vận động của phương thức
sản xuất TBCN, C.Mác tuy không nêu ra phạm trù về LD, không luận giải
trực tiếp về nó nhưng đã cung cấp phương pháp luận cơ bản về con đường, về
tính tất yếu và vai trò của hình thức quan hệ này. C.Mác cho rằng, trong các
phương thức sản xuất trước CNTB do sự phát triển còn thấp kém, nên các đơn
vị kinh tế có thể tồn tại hàng thế kỷ mà không hề có sự thay đổi tính chất và
phạm vi, không vượt ra khỏi giới hạn của xóm làng hay cái chợ lân cận dành
cho thợ thủ công nông thôn và những tiểu chủ. Vì vậy, nhu cầu tập trung vốn
giữa các chủ xưởng để mở rộng quy mô sản xuất chưa xuất hiện.
Sự ra đời và phát triển của phương thức sản xuất TBCN làm cho sản
xuất vượt ra khỏi giới hạn của làng xã, của chợ địa phương, của từng vùng rồi
vượt ra ngoài biên giới quốc gia hòa nhập vào nền kinh tế thế giới. Sự phát
triển đó là kết quả tất yếu của quá trình phát triển lực lượng sản xuất và phân
công lao động xã hội, được tác động trực tiếp bởi việc theo đuổi sản xuất giá
trị thặng dư trong các xí nghiệp tư bản. C.Mác viết:
Ngay trong buổi đầu của nền sản xuất TBCN, một số ngành
sản xuất cũng đã đòi hỏi một số tối thiểu mà lúc bấy giờ từng cá
nhân riêng rẽ chưa có được. Tình hình đó dẫn đến một mặt Nhà
nước phải trợ cấp cho những tư nhân, mặt khác thành lập những hội
8
9
nắm giữ độc quyền do luật pháp chưa thừa nhận để kinh doanh trong

những ngành công nghiệp và thương mại nhất định" [46, tr. 450].
Ở đây, C. Mác luận giải con đường hình thành công ty cổ phần.
Nhưng thực tế có những công ty cổ phần lại là doanh nghiệp LD bởi vì con
đường của công ty này chỉ bao gồm một số các chủ tư bản, các chủ này không
chỉ góp vốn mà còn cùng nhau tổ chức hoạt động kinh doanh ở công ty.
Phân tích quá trình sản xuất giá trị thặng dư, C. Mác cho rằng đó là
động lực mạnh mẽ trong quá trình hoạt động kinh doanh của tất cả các nhà tư
bản. Do theo đuổi sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư, các nhà tư bản
buộc phải mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao sức sản xuất của lao động.
Trong các phương pháp để mở rộng quy mô sản xuất mà các nhà tư bản đã áp
dụng là tích lũy tư bản. Nhưng đây là "phương pháp hết sức chậm chạp"
không thể thỏa mãn khát vọng của các nhà tư bản. Hơn nữa các nhà tư bản lại
phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt trên thị trường, cạnh tranh giữa các nhà tư
bản với nhau. Bởi vậy quá trình tập trung tư bản đã diễn ra [46, tr. 884].
Tập trung tư bản là quá trình làm tăng quy mô của tư bản cá biệt bằng
cách sát nhập các tư bản cá biệt nhỏ thành tư bản mới. So với tích lũy tư bản,
thì đây là phương pháp tăng quy mô của xí nghiệp tư bản nhanh hơn nhiều, do
đó mức độ bóc lột giá trị thặng dư cũng lớn hơn nhiều. Có hai con đường để
tập trung tư bản: 1) Nhà tư bản lớn dùng sức mạnh kinh tế thôn tính và thu hút
tư bản của các nhà tư bản nhỏ theo nguyên tắc "cá lớn nuốt cá bé"; 2) Các nhà
tư bản " hợp tác" với nhau thông qua hợp nhất xí nghiệp của mình để thành
lập xí nghiệp mới. Trong thực tế không phải khi nào tập trung tư bản cũng
được thực hiện bằng con đường thứ nhất. Sự thành lập xí nghiệp mới bằng
con đường thứ hai tất yếu sẽ là công ty cổ phần hay công ty LD. Và như vậy,
cũng như sự ra đời của công ty cổ phần, sự ra đời của công ty LD là kết quả
của
một quá trình kinh tế khách quan do tác động bởi các quy luật kinh tế thị
9
10
trường được thúc đẩy bởi việc theo đuổi sản xuất giá trị thặng dư mà nguyên

nhân sâu xa là do sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất
định quy định.
Theo C.Mác, quá trình tập trung tư bản dù bằng phương pháp nào
cũng vẫn chỉ là những "thay đổi về lượng của các bộ phận gộp thành tư bản

hội" [46, tr. 884]. Song tuy không làm biến đổi tổng lượng tư bản xã hội
nhưng tập trung lại rất cần thiết đối với việc kinh doanh của các nhà tư bản.
Nó "bổ sung cho công việc tích lũy, nó cho phép các nhà tư bản công nghiệp
mở rộng quy mô kinh doanh của mình" [46, tr. 884].
C.Mác còn lý giải: song song với quá trình tập trung tư bản, thì
đồng thời hình thức hiệp tác của quá trình lao động với quy mô ngày
càng lớn, việc áp dụng khoa học một cách có ý thức về mặt kỹ thuật,
việc khai thác đất đai một cách có kế hoạch, việc biến tư liệu lao động
thành những tư liệu lao động chỉ sử dụng được một cách tập thể, việc thu
hút tất cả các dân tộc vào mạng lưới thị trường thế giới, và đi đôi với cái
đó là tính chất quốc tế của chế độ TBCN cũng phát triển [46, tr.1059].
Điều này gợi ý phương pháp tiếp cận trong việc xác định cơ sở của sự
hình thành các L D quốc tế hiện nay.
V.I.Lênin đã vận dụng quan điểm của C.Mác vào phân tích giai đoạn
độc quyền của CNTB. Trong phân tích giai đoạn độc quyền của CNTB, tuy
không nói về LD, nhưng ta có thể tìm thấy tư tưởng về LD thông qua việc
V.I.Lênin phân tích nguyên nhân hình thành và bản chất của CNTB độc quyền.
Theo V.I.Lênin, một trong những nguyên nhân làm ra đời CNTB độc
quyền là tác động bởi quá trình tập trung tư bản. Tổ chức độc quyền là liên
minh giữa các xí nghiệp tư bản lớn nắm trong tay phần lớn việc sản xuất và
tiêu thụ một hoặc một số loại hàng hóa, qua đó hạn chế cạnh tranh, định ra giá
cả độc quyền để thu được lợi nhuận độc quyền cao. Trong các hình thức liên
10
11
minh giữa các xí nghiệp tư bản tất yếu không loại trừ hình thức LD. Chẳng

hạn, khi xem xét hình thức xanh-đi-ca, ta cũng có thể nói rằng đây là một kiểu
LD mà các chủ doanh nghiệp chỉ tham gia một phần tư bản cùng quản lý và
điều tiết lĩnh vực thương mại của các doanh nghiệp tham gia xanh-đi-ca.
Hoạt động trong cơ chế cạnh tranh và do tác động bởi quy luật lợi
nhuận độc quyền cao, nên quá trình tập trung tư bản càng được đẩy mạnh,
làm cho quy mô của các xí nghiệp độc quyền càng lớn nhanh vượt ra khỏi
dung lượng thị trường trong nước. Thêm vào đó là tác động của cuộc cách
mạng công nghiệp làm xuất hiện các lĩnh vực kinh doanh mới. Do sự phân bố
không đồng đều về các nguồn lực sản xuất giữa các quốc gia làm xuất hiện lợi
thế so sánh. Đây là những cơ sở làm xuất hiện quan hệ kinh tế quốc tế của các
tổ chức độc quyền, thúc đẩy xuất khẩu tư bản.
Xuất khẩu tư bản là đưa tư bản ra nước ngoài nhằm chiếm đoạt giá trị
thặng dư và các nguồn lợi khác ở nước nhập khẩu tư bản. So với đầu tư trong
nước, việc xuất khẩu tư bản có thể thu được lợi ích nhiều hơn, chẳng hạn tỷ
suất lợi nhuận cao hơn, tìm kiếm và khai thác được nguyên liệu với giá rẻ
hơn, thị trường được mở rộng Một trong các hình thức xuất khẩu tư bản là
các nhà tư bản sử dụng các chi nhánh của mình hợp tác với các cơ sở sản xuất
của nơi nhập khẩu tư bản để xây dựng doanh nghiệp chung, cùng sản xuất
kinh doanh, cùng chia sẻ rủi ro và lợi nhuận. Đây chính là cơ sở ra đời của
các LD quốc tế.
Trong những thập niên gần đây, sự thành lập các LD với nước ngoài
được phát triển mạnh mẽ, thu hút sự chú ý của các nhà kinh tế học tư sản. Cho
đến nay đã có những giải thích về sự xuất hiện hiện tượng kinh tế này, phân
tích bản chất của nó dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Dưới đây là một số
quan điểm giải thích về bản chất và một số quan niệm về các hình thức LD
trong nền kinh tế thị trường.
11
12
- Quan điểm giải thích LD theo nghĩa rộng: Tức là quan điểm gắn
LD với kinh tế thị trường nói chung trong đó đối tác tham gia LD có thể

cùng một quốc tịch hoặc có thể khác quốc tịch. Nó được thể hiện trong
lý thuyết kinh tế của P.A.Samuelson (Mỹ) và Xavier Richet (Pháp).
Xavier Richet cho rằng: LD là sự hợp tác liên quan đến các doanh
nghiệp của cùng một quốc gia, hoặc cùng một hệ thống kinh tế cũng như các
doanh nghiệp thuộc các quốc gia khác nhau [91, tr. 108]. Đây là loại LD được
dựa trên sự hòa hợp và hợp tác. Sở dĩ có sự lựa chọn loại doanh nghiệp LD
này là vì:
+ Nó có khả năng làm tăng nhanh quy mô sản xuất, tạo ra một khối
lượng hàng hóa nhiều hơn;
+ Khi nhiều đơn vị hàng hóa được sản xuất, kinh tế sản xuất lớn
được thực hiện, giá bán hàng hóa có thể hạ và bán thêm được nhiều hàng
hóa hơn:
+ Với LD "theo chiều dọc" sẽ làm xuất hiện nhân tố mới: chuyên môn
hóa và hoạt động kinh tế theo hai giai đoạn, tức là gắn sản xuất với lưu thông.
+ Doanh nghiệp lớn lên nhờ "liên kết ngang", qua đó có thể lợi dụng
cơ hội có lợi để mua một số doanh nghiệp cạnh tranh với mình;
+ Sự phát triển của LD có thể trở thành một "Conglomerat" nhỏ bé, lớn
lên bằng cách đưa thêm những hoạt động có liên quan vào kinh doanh của mình
- Quan điểm giải thích LD theo nghĩa hẹp: Tức là gắn LD với quan hệ
kinh tế quốc tế, trong đó các đối tác khác nhau về quốc tịch. Nó được thể hiện
trong lý thuyết "Chu kỳ sản phẩm" của Raymond Verlls và "Kinh tế học quốc
tế" của Dominik Salvatore
Theo Dominik Salvatore, việc thành lập doanh nghiệp LD với nước
ngoài là cần thiết, nó sẽ tạo ra "hiệu quả phúc lợi" cho các nước có liên
quan{86]. Có thể biểu diễn ở đồ thị 1.1:
12
13
Đồ thị 1.1: Hiệu quả phúc lợi của việc thành lập doanh nghiệp LD
với nước ngoài
Giá trị sản phẩm cận biên của tư bản

Quốc gia 1
Quốc gia 2
B
AAAeA
O
M
N
O'
C
E
D
Giá trị sản phẩm cận biên cửa tư bản
HAAeA
VMPK2
VMPK1
K
13
14

Theo tác giả, giả sử trên thế giới chỉ có hai quốc gia là quốc gia 1 và
quốc gia 2 (trên đồ thị 1.1). Tổng tư bản của cả hai quốc gia là 00', quốc gia 1
và quốc gia 2 có các đường giá trị sản phẩm cận biên của tư bản tương ứng là
VMPK1 và VMPK2. Trước khi có sự di chuyển vốn là 0'N. Lượng sản phẩm
mà quốc gia 1 tạo ra đo bằng diện tích hình OADN, trong đó lượng sản phẩm
do vốn tạo ra được đo bằng diện tích OHDN. Quốc gia 2 sản xuất được một
lượng sản phẩm đo bằng diện tích NCBO', trong đó số sản phẩm đo lượng
vốn tạo ra bằng diện tích NCKO'.
Khi có sự di chuyển vốn từ quốc gia 1 sang quốc gia 2, giả sử sự di
chuyển này đạt tới điểm cân bằng E, lượng vốn của quốc gia 1 là OM và quốc
gia 2 là O'M, thì quốc gia 1 sản xuất được một lượng sản phẩm đo bằng diện

tích OAEM, quốc gia 2 sản xuất được một lượng sản phẩm đo bằng diện tích
MEBO'. Quốc gia 1 giảm đi một lượng sản phẩm đo bằng diện tích MEDN,
còn quốc gia 2 tăng lên một lượng sản phẩm đo bằng điện tích MECN. Như
vậy, toàn thế giới sẽ sản xuất tăng thêm một lượng sản phẩm đo bằng diện
tích tam giác ECD trên đồ thị 1.1.
14
15
Từ phân tích trên, Dominik Salvatore rút ra kết luận: việc di chuyển
vốn giữa các nước trong đó có con đường thành lập doanh nghiệp LD có tác
dụng làm tăng quy mô sản xuất và khối lượng sản phẩm của toàn thế giới.
Phát triển lý thuyết "Chu kỳ sản phẩm" của Raymond Vernon, Louis
Wells đã đưa ra lý thuyết " Chu kỳ sống của sản phẩm trên thị trường quốc
tế". Theo sự phát triển của thị trường thế giới, lý thuyết này tiếp tục được bổ
sung nhằm giải thích sự vận động của các dòng vốn quốc tế.
Theo lý thuyết này, một loại sản phẩm "sống" trên thị trường phải trải
qua 4 giai đoạn (đồ thị 1.2)
Giai đoạn 1 (Tung ra thị trường) Sản phẩm mới được sản xuất ở trong
nước rồi tung ra bán chủ yếu trên thị trường nội địa. Do mới, nên nói chung
khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường nước ngoài còn thấp.
Doanh số thu được từ việc bán sản phẩm ở nước ngoài thấp.
Giai đoạn 2 (Phát triển sản phẩm) Doanh số thu được có xu hướng
tăng ở thị trường nước ngoài. Các công ty đa quốc gia mở rộng việc bán
sản phẩm ra thị trường nước ngoài cùng với mở rộng thành lập LD với các
công ty ở nước sở tại.
Giai đoạn 3 (Giai đoạn chín muồi rồi bão hòa) Doanh số bán hàng có
chiều hướng giảm sút. các công ty đa quốc gia dịch chuyển sản xuất sang các
nước đang phát triển để tận dụng lợi thế về các yếu tố sản xuất rẻ đặc biệt là
lao động giá thấp, lợi thế về các nguồn lực tự nhiên. Các LD được thành lập
nhiều ở các nước đang phát triển để kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm. Các
sản phẩm của LD được sản xuất ở nước sở tại rồi tiêu thụ ở đó hoặc xuất khẩu

sang nước khác hoặc về nước chủ nhà.
Giai đoạn 4 (Suy giảm và triệt tiêu) Doanh số bán hàng ở vào mức
thấp nhất. Các công ty đa quốc gia một mặt dịch chuyển sản xuất ra nước
ngoài để kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm; mặt khác, đổi mới công nghệ
thông qua thành lập hoặc tìm các bạn hàng có kinh nghiệm tiêu thụ sản phẩm
15
16
ở nước ngoài. Từ đó xuất hiện các LD trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ
và tìm hiểu thị trường địa phương.
Đồ thị 1.2: Chu kỳ sống của sản phẩm trên thị trường quốc tế [100, tr. 82]





Ngoài ra, còn có một số quan điểm cho rằng việc thành lập doanh
nghiệp LD là do các nhà đầu tư muốn khai thác tính không hoàn hảo của thị
trường để thu lợi nhuận ở nước ngoài khi ở đó có tỷ suất lợi nhuận cao hơn so
với nếu đầu tư ở trong nước. Đây cũng là cơ hội để thâm nhập vào một số thị
trường vẫn còn bị bảo hộ.
Về phía các nước đang phát triển, các nước thuộc nhóm nước "đi sau"
tìm cách "nhảy vọt" và "rút ngắn thời gian đáng kể" bằng việc du nhập các
thiết bị máy móc và công nghệ hiện đại từ các nước đi trước và từ các công ty
đa quốc gia để sớm có một nền công nghiệp hiện đại và khai thác tối đa các
nguồn lực trong nước. Nhưng các nước này không phải lúc nào cũng có khả
năng cân đối đủ các nguồn ngoại tệ để nhập khẩu các thiết bị máy móc và các
công nghệ cần thiết cho mình, hơn nữa trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất còn thấp chưa đủ khả năng để quản lý và sử dụng các công nghệ này một
cách có hiệu quả. Vì vậy, Chính phủ và các công ty của những quốc gia này
Doanh số

Chín muồi - bảo hoà
t1
t2
t3
t4
Thời gian (t)
O
Tung
SP
Phát
triển
Bảo
hoà
Suy giảm
triệt tiêu
16
17
cũng tìm mọi giải pháp để thu hút các công ty nước ngoài vào thành lập các
LD để thực hiện chuyển giao công nghệ và học tập kinh nghiệm quản lý.
Các nước XHCN ở trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ tiến lên CNXH
bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN cũng đã vận dụng các hình thức này một
cách linh hoạt và sáng tạo. Nước Nga, sau thắng lợi của cách mạng tháng Mười,
Lê nin cùng với chính quyền xô viết tổ chức công cuộc phát triển kinh tế, kiên
quyết đưa nước Nga từ đói nghèo, lạc hậu tiến lên CNXH. Từ thực tế cuộc sống,
Lê nin đã đề ra và đưa vào áp dụng chính sách kinh tế mới (NEP) ở nước
Nga. Ý tưởng của NEP là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thực
hiện các hình thức kinh tế quá độ nhằm phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng
CNXH. Một trong những chính sách mà Lênin đưa ra áp dụng ở nước Nga trong
thời kỳ là chính sách về CNTB nhà nước. Theo Lênin, CNTB nhà nước là sản
phẩm của sự can thiệp tích cực của Nhà nước vào hoạt động kinh tế trong các xí

nghiệp tư bản. Ở nước Nga, đó là sự can thiệp của chính quyền Xô viết, tức là
của Nhà nước XHCN, nên nó phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động. CNTB nhà nước, nếu xét về nội dung, có thể hiểu đó là các hình
thức kinh tế quá độ dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp về vốn giữa các thành
phần kinh tế với các nhà tư bản trong và ngoài nước cũng như giữa các thành
phần kinh tế với nhau [54, tr. 68]. Công ty hợp doanh là một hình thức kinh tế
TBNN trong quan điểm của Lênin, chúng ta có thể gọi là công ty LD. Bởi vì,
đây là loại công ty được thành lập theo thể thức tiền vốn một phần của tư bản
tư nhân, một phần của tư bản nước ngoài và một phần của chính quyền xô
viết [42, tr. 336]. Những đặc tính của công ty hợp doanh trong quan điểm của
Lênin trước đây cũng chính là những đặc trưng chủ yếu của doanh nghiệp
LD mới phát triển mạnh mẽ trong vòng vài thập kỷ vừa qua mà toàn thế giới
đều biết đến.
Lê nin cho rằng:
CNTB là xấu so với CNXH, nhưng nó lại là tốt so với thời
trung cổ, với nền tiểu sản xuất, với chủ nghĩa quan liêu do tình
17
18
trạng phân tán của người tiểu sản xuất gây nên. Vì chúng ta chưa có
điều kiện để chuyển trực tiếp từ nền tiểu sản xuất lên CNXH bởi
vậy trong một chừng mực nào đó, CNTB là không tránh khỏi Bởi
vậy chúng ta phải sử dụng CNTB (nhất là bằng cách hướng vào
CNTB nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và
CNXH làm phương tiện, con đường, phương thức để tăng lực lượng
sản xuất lên [40, tr. 276].
Khẳng định hơn nữa sự cần thiết phải áp dụng các hình thức kinh tế
của CNTB nhà nước, Lênin cho rằng việc áp dụng này sẽ tạo điều kiện tốt để
nâng cao trình độ quản lý của chính quyền xô viết. Lênin viết:
Không có kỹ thuật đại công nghiệp tư bản được xây dựng
trên những phát minh mới nhất của khoa học hiện đại, không có

một tổ chức Nhà nước có kế hoạch khiến cho hàng triệu người phải
tuân theo hết sức nghiêm ngặt một tiêu chuẩn thống nhất trong việc
sản xuất và phân phối sản phẩm thì không thể nói đến CNXH được,
đó cũng là một điều sơ đẳng [41, tr. 253].
Lênin nêu rõ thực chất áp dụng các hình thức kinh tế của CNTB nhà
nước là một sự thỏa hiệp, sự nhượng bộ của chính quyền Xô viết với giai cấp
tư sản. Nhưng việc làm đó là cần thiết, bởi vì chính quyền Xô viết sẽ thu được
nhiều cái lợi, bảo tồn được tư liệu sản xuất và cơ cấu sản xuất đã hình thành,
sử dụng được năng lực của các chuyên gia tư sản. Đặc biệt, trong một nước
mà sản xuất nhỏ chiếm ưu thế thì cái lợi lớn hơn cả là trên cơ sở sử dụng lợi
ích tư hữu TBCN như một động lực, phát triển được trong một thời gian ngắn
nhất nền sản xuất theo hướng sản xuất lớn, tập trung, dưới sự kiểm soát của
Nhà nước, chống lại sự hỗn loạn tiểu tư sản.
Lênin khẳng định:
CNTB nhà nước là một bước tiến lớn dù cho chúng ta phải
trả một khoản lớn hiện nay. Bởi vì trả học phí là việc đáng giá vì cái
đó có lợi cho công nhân, vì việc để chiến thắng tình trạng hỗn loạn,
18
19
tình trạng suy sụp về kinh tế và hiện tượng lỏng lẻo là cái quan
trọng hơn hết, vì để tình trạng vô chính phủ của những kẻ tư hữu
tiếp tục tồn tại là một mối nguy cơ lớn nhất, đáng sợ nhất, nó sẽ làm
chúng ta diệt vong, trái lại sẽ đưa chúng ta đến CNXH bằng con
đường chắc chắn nhất [41, tr. 251-252].
Trong quan điểm của mình, Lê Nin còn chỉ rõ những tác dụng khác
khi áp dụng CNTB nhà nước như nó sẽ giúp thúc đẩy phát triển lực lượng sản
xuất trong nông nghiệp, củng cố sự tín nhiệm của nông dân với chính quyền
Xô viết; nó sẽ là một công cụ để đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu, tác
phong lề mề; giai cấp công nhân và nhân dân lao động có thể học được
cách quản lý nền sản xuất lớn, du nhập tiến bộ công nghệ bên ngoài, đồng

thời phục hồi được giai cấp công nhân hiện đại.
Với tính tất yếu và tác dụng nhiều mặt như trên, việc sử dụng và phát
triển các hình thức kinh tế TBNN (trong đó có hình thức LD) là cần thiết để
sớm đưa nước Nga tiến lên CNXH.
Quan điểm trên của Lênin đã được áp dụng ở nước Nga trong thời kỳ
thực hiện chính sách kinh tế mới (1921 - 1928), sau đó kể từ những năm 60
được phát triển ở các nước XHCN với tên gọi: "Xí nghiệp liên doanh với
nước ngoài" và thành lập "Hội đồng tương trợ kinh tế" (khối SEP) nhằm tiến hành
phân công, hợp tác và tương trợ kinh tế lẫn nhau giữa các nước XHCN anh em,
trong đó phát triển mạnh các hình thức gia công hàng xuất khẩu. Từ thập kỷ 80
trở lại đây, các hình thức LDVNN đã phát triển mạnh ở Trung Quốc và sau đó là
Việt Nam.
Như vậy, sự ra đời của các hình thức LD là kết quả tất nhiên của quá
trình tập trung hóa và hợp tác hóa sản xuất, của sự vận động dòng đầu tư
quốc tế với nguồn gốc bên trong là sự phát triển của phân công lao động
quốc tế, sự phát triển của sản xuất hàng hóa khi lực lượng sản xuất đã đạt
đến một trình độ nhất định.
19
20
Tuy nhiên cho đến nay nhận thức và khái niệm về các hình thức LD
vẫn chưa có một sự thống nhất và chuẩn hóa. Dưới đây, tác giả chỉ đề cập và
phân tích một số quan điểm về các hình thức LD của các nhà kinh tế trong
những thập niên gần đây và của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, đồng
thời trên cơ sở nhận thức về bản chất của nó để đưa ra quan điểm của mình
làm tiền đề cho việc nghiên cứu phát triển và mở rộng các hình thức LDVNN
trong SXHXK ở Nghệ An.
1.1.2. Khái niệm về hình thức liên doanh
Cho đến nay có nhiều tác phẩm đề cập đến hình thức LD, đặc biệt là
các nhà kinh tế học tư sản. J.H.Adam trong cuốn "Từ điển tiếng Anh kinh
doanh" cho rằng:

LD là một quan hệ bạn hàng tạm thời nhưng đôi khi có tính
chất lâu dài được thành lập từ hai hay nhiều cá nhân hoặc công ty
hoạt động trong một lĩnh vực kinh doanh nhất định trong đó có rủi
ro và thua lỗ nhưng vẫn có thể mong đợi một tỷ lệ lợi nhuận hợp lý.
Các bên liên doanh cùng chia sẻ các khoản chi phí và lợi nhuận
theo các tỷ lệ được thỏa thuận [98, tr. 218].
Quan niệm trên xác định một LD phải được hình thành ít nhất từ hai
công ty khác nhau. Động lực để một LD được thành lập là lợi nhuận. Trách
nhiệm, mức độ hưởng lợi nhuận cũng như rủi ro được phân chia cho các bên
tham gia LD theo tỷ lệ vốn góp đã thỏa thuận. Tuy nhiên, quan niệm của
J.H.Adam vẫn chưa được đề cập đến khía cạnh pháp lý - một yếu tố không thể
thiếu được để duy trì quan hệ giữa các bên tham gia và điều tiết lợi ích giữa
chúng.
- Trong Luật kinh doanh của Mỹ có nêu "LD là một quan hệ bạn hàng
trong đó hai hay nhiều chủ thể cùng đóng góp lao động hoặc tài sản để thực
hiện một mục tiêu đặt ra và cùng chia sẻ các khoản lợi nhuận và rủi ro ngang
nhau hoặc do các bên thỏa thuận" [99, tr. 669].
20
21
Giống quan niệm của J.H.Adam, điều luật này nêu rõ một LD phải có
ít nhất là hai hay hơn hai đối tác tham gia, không loại trừ đó là các đối tác
cùng quốc tịch hay khác quốc tịch. Điểm mới của điều luật này ở chỗ nó đã
đề cập đến khía cạnh sở hữu của LD. Các bên tham gia là các chủ đóng góp
tài sản để cùng sở hữu tài sản của LD. Song ở đây khía cạnh pháp lý của LD
còn mờ nhạt.
Trong Từ điển kinh tế "The Happen Colling Dictionary Economics"
xuất bản năm 1991 có đề cập "LD là sự cùng làm chủ của hai hãng hoặc một
hãng và Chính phủ đối với hoạt động sản xuất kinh doanh. LD làm cho tổng
số nguồn được sử dụng lớn hơn trong việc ứng dụng hàng hóa và dịch vụ, và
có thể có hiệu quả đặc biệt trong việc khai thác nguồn bổ sung đối với một

bên, chẳng hạn đóng góp tri thức về quá trình sản xuất và đóng góp kiến thức
về thị trường" [52, tr. 8].
Quan điểm này cho rằng các bên tham gia LD có thể là các hãng, các
công ty nhưng có thể một bên là một công ty nhưng bên kia là một chính phủ
của một quốc gia. Tài sản đóng góp vào LD có thể là tiền vốn, tài sản hữu
hình nhưng cũng có thể là tài sản vô hình như tri thức, kiến thức về thị trường.
Tuy vậy, quan niệm này mới chỉ dừng lại ở LD với sự tham gia của hai bên.
Khía cạnh pháp lý của nó chưa được đề cập thích đáng. Hơn nữa LD không
chỉ dừng lại ở lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, mà còn cả trong hoạt động
nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu triển khai.
Tổ chức hợp tác và phát triển của Liên hiệp quốc (OECD) cho rằng:
"Trên quan điểm cạnh tranh, LD là một hình thức nằm giữa
hợp đồng và liên minh trong đó hai hoặc nhiều công ty liên kết hoạt
động với nhau trong một hoặc hơn các lĩnh vực sau đây:
a. Tiến hành các hoạt động mua bán.
b. Khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, phát triển
hoặc điều hành các hoạt động sản xuất.
21
22
c. Nghiên cứu và triển khai
d. Hoạt động chế tạo và xây dựng [102, tr. 11].
Cách hiểu này cho thấy LD không phải là một quan hệ hợp đồng đơn
giản, nó phải cao hơn quan hệ này; đồng thời LD cũng không phải là một
quan hệ có tính chất liên minh đầy đủ và chặt chẽ giữa các bên với quy mô
lớn thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Do nằm giữa quan hệ hợp đồng và liên
minh nên liên doanh có thể được hình thành ở một hoặc hơn các lĩnh vực
thương mại, sản xuất, khoa học - kỹ thuật
Trong khi đó, các nhà kinh tế Mỹ thuộc Trường Đại học tổng hợp
America lại đưa ra quan niệm nêu rõ tính chất đa dạng của đối tác tham gia
LD:

LD là những thỏa thuận kinh doanh trong đó hai hoặc nhiều
công ty hoặc thực thể kinh doanh kết hợp với nhau để hình thành
một hoạt động kinh doanh nhất định. Các LD có thể được thành lập
giữa hai công ty đa quốc gia, giữa một công ty đa quốc gia và
Chính phủ, hoặc giữa các công ty đa quốc gia với các nhà kinh
doanh địa phương [101, tr. 5].
Ở nước ta, trong "Từ điển tiếng Việt", LD được hiểu một cách tổng
quát, đó là "cùng nhau hợp tác trong kinh doanh, giữa hai bên hay nhiều bên".
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định các công ty và tổ chức
kinh tế nước ngoài được đầu tư trực tiếp vào Việt Nam với các hình thức sau:
1- Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh.
2- Xí nghiệp hoặc công ty LD, gọi chung là xí nghiệp LD.
3- Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Và một số hình thức khác bổ sung sau này.
Trong đó hình thức "xí nghiệp LD" được quy định như sau: "xí nghiệp
LD" là xí nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam
22
23
trên cơ sở hợp đồng LD hoặc hiệp định ký giữa Chính phủ CHXHCN Việt
Nam với Chính phủ nước ngoài, hoặc là xí nghiệp mới do xí nghiệp LD hợp
tác với tổ chức, cá nhân nước ngoài thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp
đồng LD.
Và hợp đồng hợp tác kinh doanh là "hai bên hoặc nhiều bên được hợp
tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh như hợp tác sản xuất
chia sản phẩm và các hình thức hợp tác khác.
Đối tượng, nội dung kinh doanh, quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của
mỗi bên và quan hệ giữa các bên do các bên thỏa thuận và ghi trong hợp đồng
hợp tác kinh doanh.
Như vậy về bản chất, hình thức thành lập xí nghiệp LD và hình thức
hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh đều có thể được

xem là các hình thức LD với nước ngoài trên cơ sở pháp lý là hợp đồng LD,
hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc hiệp định ký giữa chính phủ Việt Nam và
chính phủ nước ngoài
Tóm lại, từ những luận điểm trên và qua việc nghiên cứu bản chất của
các hình thức LD có thể đưa ra một khái niệm chung về các hình thức LD như
sau: Liên doanh là một hình thức phối hợp tổ chức các hoạt động kinh tế của
hai bên hoặc nhiều bên cùng quốc tịch hoặc khác quốc tịch như tổ chức các
hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động nghiên cứu, dịch vụ,xây dựng
nhằm đưa lại lợi ích lớn hơn cho các bên trong liên doanh. Nó được hình
thành trên cơ sở sự tham gia thành lập, quản lý và sự đóng góp của các bên
về vốn, tài sản hoặc một công đoạn sản xuất kinh doanh nào đó. Lợi nhuận
rủi ro, trách nhiệm và quyền hạn của các đối tác liên doanh được phân chia
theo mức độ đóng góp, đồng thời được thống nhất và bảo đảm bằng một hợp
đồng liên doanh do các bên ký kết trên cơ sở pháp luật của quốc gia mà tại
đó hình thức liên doanh được thành lập và hoạt động.
23
24
1.1.3. Đặc trưng của hình thức liên doanh
Qua việc nghiên cứu nguồn gốc sự ra đời và khái niệm của các hình
thức LD, có thể nhận thấy các hình thức LD có những đặc trưng chủ yếu
như sau:
Một là, LD là một phạm trù kinh tế khách quan. Nó phản ánh những
mối quan hệ nội tại khách quan xuất phát từ những lợi ích kinh tế khách quan
giữa những chủ thể kinh tế. đồng thời nó phản ánh một quá trình vận động
phát triển tự nhiên của lực lượng sản xuất, xuất phát từ trình độ và phạm vi
của sự phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất kinh doanh.
Hai là, đặc thù của các hình thức LD là phải cùng thực hiện sản xuất
kinh doanh về một mặt hàng nào đó hoặc nghiên cứu triển khai trong một lĩnh
vực nhất định.
Ba là, trong các hình thức LD các bên phải có một trong những hình

thức tham gia sau: tham gia về quản lý, tham gia góp vốn, góp tài sản hoặc
góp bằng việc hoàn thành một công đoạn sản xuất kinh doanh nào đó.
Bốn là, đặc trưng nổi bật của các hình thức LD là lợi nhuận rủi ro,
trách nhiệm và quyền hạn của các bên được phân chia theo mức độ đóng góp
về tài sản, vốn và được bảo đảm bằng một hợp đồng LD theo đúng quy định
của pháp luật tại quốc gia mà hình thức LD được thành lập và phát triển.
Với những đặc trưng này có thể phân biệt giữa hình thức LD với các
hình thức quan hệ kinh tế khác như cho vay dài hạn, cho vay lãi suất ưu đãi,
hợp đồng thương mại trao đổi hàng hóa với nhau lâu dài. Trong các hình thức
này các bên có thể cho vay vốn dài hạn với lãi suất thấp, thậm chí không có
lãi suất hoặc có thể tiêu thụ hàng hóa cho nhau lâu dài và ứng trước vốn để hỗ
trợ cho sản xuất nhưng không tham gia quản lý và không cùng điều hành sản
xuất với nhau, không phân chia lợi nhuận và rủi ro.
Đặc trưng của các hình thức LD cũng được phân biệt với các hình
thức thuê tài sản thiết bị, thuê mua tài chính hoặc thành lập xí nghiệp 100%
vốn nước ngoài. Trong các hình thức này phía người cho thuê tài sản, đất đai
24
25
hoặc các quốc gia cho thành lập các xí nghiệp 100% vốn nước ngoài được thu
tiền thuê đất, tiền thuê tài sản, thậm chí là cả tiền thuế nhưng không phải chịu
rủi ro tổn thất khi việc sản xuất kinh doanh bị đổ bể.
1.2. PHÂN LOẠI CÁC HÌNH THỨC LIÊN DOANH
Trong thực tế hiện nay có nhiều cách phân loại các hình thức LD
chẳng hạn:
- Ở Mỹ, LD có hai loại: hợp đồng LD và góp vốn LD. Hợp đồng LD là
một hiệp hội gồm những cá nhân hay công ty nhằm tiến hành một dự án kinh
doanh cụ thể. Góp vốn LD là hình thức thành lập một công ty cổ phần [26, tr. 550].
- Ở Thái Lan, LD tồn tại dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn,
một quan hệ bạn hàng hay một hình thức phi công ty.
- Ở Hàn Quốc, có 5 hình thức LD là công ty trách nhiệm hữu hạn,

công ty trách nhiệm vô hạn, công ty có số thành viên trách nhiệm hữu hạn và
vô hạn, quan hệ bạn hàng.
Từ thực tế có rất nhiều cách phân loại các hình thức LD nhưng về cơ
bản có thể đề cập các hình thức LD theo các cách phân loại như sau:
1.2.1. Phân loại theo lĩnh vực sản xuất kinh doanh
*Có các hình thức:
Một là, LD sản xuất, chế tạo, lắp ráp sản phẩm. Hình thức này chủ
yếu được thành lập trong các ngành công nghiệp cơ khí lắp ráp các sản phẩm
như điện tử, ôtô, máy bay Nó đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn vào máy móc,
thiết bị, công nghệ, đào tạo, thời gian thu hồi vốn kéo dài và quy mô thành lập
doanh nghiệp lớn.
Hai là, LD chế biến sản phẩm. Hình thức này chủ yếu được thành lập
trong các ngành chế biến hàng nông sản và khoáng sản. Nó phụ thuộc rất lớn
vào nguồn nguyên liệu phục vụ cho hoạt động của LD. Các nước đang phát
triển thường thông qua chính sách thu hút đầu tư nước ngoài thường góp vốn,
25

×