- - - - - -
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Những thách thức, cơ hội và
giải pháp trong việc đẩy mạnh
xuất khẩu sức lao động của Việt
nam sang thị trường Châu Á
Hoàng Thanh Hương – A2CN9 – Khoá luận tốt nghiệp
Trường Đại Học Ngoại Thương
1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong điều kiện quốc tế hoá sản xuất và đầu tư bùng nổ vào những thập kỉ
gần đây, xuất khẩu lao động đã dần trở thành một phần không thể tách khỏi của
hệ thống kinh tế thế giới. Nó là một lĩnh vực hoạt động kinh tế quan trọng của
các quốc gia, đã và đang đem lại những lợi ích kinh tế và xã hội đ
áng kể.
Đối với nước ta, sự phát triển dân số và lao động (với số dân gần 80 triệu
người, trong đó lực lượng lao động chiếm khoảng 60%) đã gây ra những vấn đề
kinh tế - xã hội phức tạp và gay gắt không chỉ hiện nay mà còn trong nhiều năm
tới. Để có thể tạo được sự cân bằng giữa khả năng về cơ sở vật chất có hạn và
m
ức tăng dân số, nguồn lao động ở mức chênh lệch khá cao như hiện nay thì sẽ
phải tạo ra thêm hàng triệu công ăn việc làm nữa cho người lao động. Trước tình
hình đó, xuất khẩu lao động đóng vai trò rất quan trọng, vì nó có thể góp phần
giải quyết được hai mục tiêu quan trọng của đất nước. Thứ nhất là: Mục tiêu
kinh tế - xuất khẩu lao động góp phần mang lại nguồn thu ngoại tệ
cho quốc gia,
tăng thu nhập cho người lao động và gia đình họ. Thứ hai là: Mục tiêu xã hội -
nó góp phần giải quyết được việc làm cho một bộ phận không nhỏ lao động
trong nước, tạo sự ổn định cho xã hội.
Việc nước ta tham gia vào thị trường lao động quốc tế, mặc dù đã đem lại
những kết quả bước đầu, song hiệu quả của hoạt động xuấ
t khẩu lao động còn
thấp do rất nhiều các nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau. Những
năm gần đây, được sự chỉ đạo Đảng và Nhà nước, vấn đề xuất khẩu lao động
đang dần được cải cách và hoàn thiện. Chính vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng
và đề ra những giải pháp nhằm đổi mới và tăng cường công tác quản lý, tổ chức
xuất khẩu lao động là một vấn đề v
ừa có tính trước mắt, vừa mang tính chiến
lược lâu dài. Trong phạm vi khoá luận này, tôi chỉ xin được đề cập tới hoạt động
xuất khẩu lao động của Việt nam sang thị trường các nước thuộc khu vực Châu
Á.
Tên đề tài: “Những thách thức, cơ hội và giải pháp trong việc đẩy mạnh
xuất khẩu sức lao động của Việt nam sang thị trường Châu
Á”.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Với mục tiêu nghiên cứu và phân tích
tình hình xuất khẩu lao động Việt Nam sang thị trường Châu
Á, khoá luận chủ
yếu tập trung đi sâu vào nghiên cứu thực trạng và từ đó đề ra các giải pháp cho
hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam trong giai đoạn 2001- 2010.
Hoàng Thanh Hương – A2CN9 – Khoá luận tốt nghiệp
Trường Đại Học Ngoại Thương
2
Phương pháp nghiên cứu của khoá luận là: nêu ra và phân tích thực tiễn
hoạt động này ở Việt Nam đồng thời đưa ra một số giải pháp cho tình hình xuất
khẩu lao động nước ta sang thị trường Châu
Á .
Nội dung của bài khoá luận:
Ngoài lời mở đầu, kết luận, các phụ lục, tài liệu tham khảo, khoá luận
gồm các phần sau:
Chương 1
: Tổng quan về công tác xuất khẩu lao động của Việt Nam.
Chương 2:
Thực trạng công tác xuất khẩu lao động của Việt Nam
sang thị trường Châu
Á: Thách thức và cơ hội.
Chương 3
: Các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu sức lao động sang thị
trường Châu
Á.
Để hoàn thành được bài khoá luận này, tôi đã được sự hướng dẫn và giúp
đỡ tận tình của cô giáo hướng dẫn trực tiếp – Vũ Thị Hiền, giảng viên trường
Đại học Ngoại thương Hà Nội; Giám đốc Nguyễn Quốc Hùng và các cô chú,
anh chị em là cán bộ của Trung tâm XKLĐ - Công ty XNK và HTQT Coalimex
thuộc Tổng công ty Than Việt nam, gia đình và bạn bè. Em xin chân thành cám
ơn cô Hiền và mọi người đã tạo điều kiện giúp đỡ để em có thể hoàn thành t
ốt
được bài khoá luận này của mình.
Do trình độ của người viết còn hạn chế, chắc chắn khoá luận không tránh
khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý chỉ dẫn của các thầy cô
và các bạn. Tôi xin chân thành cám ơn.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM
Hoàng Thanh Hương – A2CN9 – Khoá luận tốt nghiệp
Trường Đại Học Ngoại Thương
3
I - VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC XKLĐ ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN:
1.1 Giải quyết việc làm và tạo thu nhập cho Người lao động:
Đối với nhiều quốc gia thì xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế vô
cùng quan trọng. Điều này đã được chứng minh trong nhiều thập kỷ vừa qua.
Nguồn lao động là tiềm năng sống, tiềm năng này không được khai thác sử
dụng triệt để hợp lý sẽ là sự lãng phí rất lớn cho nguồn lực xã hộ
i. Nếu không
giải quyết được vấn đề này sẽ có hậu quả rất lớn không những không tạo ra của
cải cho xã hội mà những tiêu cực, tệ nạn như trộm cắp, cờ bạc, mại dâm, gây rối
trật tự trị an làm xói mòn nếp sống lành mạnh có thể phá vỡ nhiều mối quan hệ
truyền thống gây tổn thương về mặt tâm lý, niềm tin của nhiều người. Bên c
ạnh
đó nếu không giải quyết được việc làm, tình trạng thất nghiệp gia tăng sẽ ảnh
hưởng tới đời sống của từng cá nhân, không thoả mãn được nhu cầu xã hội. Hơn
nữa đó là sự lãng phí nguồn nhân lực và kéo theo sự lãng phí các nguồn lực
khác, đó là những nguồn lực khán hiếm của xã hội. Kết quả là sản lượng của nền
kinh tế giảm sút. Vì vậy giả
i quyết việc làm, tạo thu nhập là vấn đề hàng đầu của
mỗi quốc gia, trong đó xuất khẩu lao động được coi là một trong những giải
pháp cần được khai thác.
Theo ILO, tính đến năm 1999 có 920 triệu người trên thế giới thất nghiệp
và thiếu việc làm. Trong đó, các nước thuộc khối G7 có khoảng 45 triệu lao
động thất nghiệp. Điều đó đã gây nên tình tạng giảm sút tăng trưởng kinh tế và
nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Trong các giải pháp khắc phục tình trạng thất
nghiệp, các nước đã đặc biệt quan tâm tới hoạt động xuất khẩu lao động.
Sự khủng hoảng dầu lửa trong thập kỷ 70 đến đầu thập kỷ 80 gây ra tình
trạng mất cân đối về lao động dẫn đến kết quả các nước có lực lượng lao động
dư thừa nhất là các nước Châu Á đã lập tức liên tục xuất khẩu lao động sang các
nước vùng Vịnh. Chẳng hạn như
Ấn Độ, năm 1971 có 400.000 người ở Trung
Đông kể cả vợ con người lao động. Sau 10 năm riêng lao động đã lên tới
415.000 người và đến năm 1985 lên tới 1,1 triệu người. Năm 1985 có tới 2 triệu
người lao động ở ả Rập Xê út, hơn nửa triệu tại Cô oét năm 1990, Philipin có
400.000 người lao động ở các nước vùng Vịnh và trong vòng 3 năm từ 1998 đến
1990 Philipin cũng có 280.000 người lao động ở các nước không thuộc Trung
Hoàng Thanh Hương – A2CN9 – Khoá luận tốt nghiệp
Trường Đại Học Ngoại Thương
4
Đông với những lợi ích thu được từ Xuất khẩu lao động thật đáng kể vừa giải
quyết việc làm cho bản thân người lao động, tăng thu nhập đồng thời là cái van
an toàn đối với sức ép việc làm trong nước mà còn góp phần quan trọng đối với
cán cân thanh toán quốc gia, chẳng hạn những năm 1982 – 1983, Pakistan thu về
2,5 tỷ USD từ xuất khẩu lao động sang Trung Đông, nhiều hơn kim ngạch xuất
kh
ẩu hàng hoá của nước này. Trong số những người đi làm việc ở nước ngoài
(tính theo phần trăm) với số lao động tăng thêm trong nước năm 1982 chiếm
45% ở Philipin, 40% ở Nam Triều Tiên, gần 33% ở Thái Lan và Cananda.
1.2 Nâng cao tay nghề và trình độ:
Người lao động có nghề hay không có nghề khi hđi xuất khẩu lao động
điều đầu tiên là học hỏi được ở nước ngoài cung cách làm việc, kinh nghiệm
thực tế, trình độ nh
ận thức cũng được nâng cao. Khi về nước, điều này trở thành
lợi thế cho cá nhân họ. Người lao động được làm việc ở các nước có nền công
nghiệp phát triển sẽ có điều kiện tiếp xúc với kỹ thuật hiện đại và tiên tiến. Đây
là cơ hội đào tạo tại chỗ về tay nghề và trình độ chuyên môn.
1.3 Mở rộng quan hệ hợp tác:
Quan hệ h
ợp tác trong lĩnh vực xuất khẩu lao động là vô cùng quan trọng,
từ đó quan hệ giữa nước cung ứng lao động và nước tiếp nhận lao động trở nên
gắn bó hơn, hiểu nhau hơn tạo ra mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước. Cung cấp
cho nhau những thông tin quan trọng về vấn đề hai nước cùng quan tâm và
thống nhất quan điểm hai bên cùng có lợi. Sự đa dạng hóa các quan hệ hợp tác
quốc t
ế được mở rộng thông qua hợp tác quốc tế về lao động sẽ tạo điều kiện mở
rộng hơn nữa các quan hệ hợp tác khác.
1.4 Tăng nguồn thu ngoại tệ góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế:
Lợi ích từ việc xuất khẩu lao động là thu ngoại tệ. Lương của người lao
động có thể được quy ra đồng tiền quốc tế. Ví dụ nh
ư đồng đô la Mỹ để chuyển
về nước, điều này rất quan trọng vì nó tích luỹ ngoại tệ cho đất nước góp phần
cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, đồng thời giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ
thất nghiệp, nâng cao đời sống cho người lao động do vậy góp phần rút ngắn
khoảng cách giàu nghèo giữa nước phát triển và nước đang phát triển.
Hoàng Thanh Hương – A2CN9 – Khoá luận tốt nghiệp
Trường Đại Học Ngoại Thương
5
* Tóm lại, xuất khẩu lao động là hoạt động của kinh tế quan trọng đối với
mỗi quốc gia, đặc biệt đối với các nước kinh tế kém phát triển. Đó là một giải
pháp tạo việc làm, nâng cao trình độ, tạo thu nhập cho người lao động, đó cũng
là hoạt động mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế của một quốc gia và tạo nguồn
thu ngoại tệ, góp phần c
ải thiện cán cân thanh toán quốc tế.
II- CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG:
Nước ta về cơ bản là một nước nông nghiệp, đại bộ phận nhân dân sống ở
nông thôn và làm nông nghiệp, đất ít người đông, tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc
làm cao, hàng năm lại có thêm hơn 1 triệu người bước vào tuổi lao động. Để đất
nước từng bước đổi mới, tiến kịp với các nước trong khu vực và thế giới, đòi hỏi
phải sắp x
ếp lại sản xuất dẫn đến nhhiều lao động dôi dư có nhu cầu bố trí việc
làm mới là một điều tất yếu. Vì vậy, sức ép về việc làm là rất gay gắt. Để giải
quyết được vấn đề này, chúng ta đã xác định cùng với việc giải quyết việc làm
trong nước là chính, xuất khẩu lao động và chuyên gia (XKLĐ & CG) là một
chiến lược quan trọng trước mắt và lâu dài.
Xu
ất khẩu lao động: Là một hiện tượng KT - XH, XKLĐ được chính thức
xuất hiện từ cuối thế kỉ thứ 19. Trải qua một quá trình hình thành và phát triển
lâu dài, ngày nay XKLĐ trở nên rất phổ biến và đã trở thành xu thế chung của
thế giới. Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về định nghĩa XKLĐ. Nếu như trước
đây với thuật ngữ “hợp tác quốc tế về lao động”, XKLĐ được hi
ểu là sự trao đổi
lao động giữa các quốc gia thông qua các hiệp định được thoả thuận và kí kết
giữa các quốc gia đó hay là sự di chuyển lao động có thời hạn giữa các quốc gia
một cách hợp pháp và có tổ chức. Trong hành vi trao đổi này, nước đưa lao động
đi được coi là nước XKLĐ, còn nước tiếp nhận sử dụng lao động thì được coi là
nước nhập khẩu lao động. Một cách hiểu khác nữa về
XKLĐ là sự hợp tác sử
dụng lao động giữa nước thừa và thiếu lao động, là việc di chuyển lao động có
thời hạn và có kế hoạch từ nước dư thừa lao động sang nước thiếu lao động.
Từ các khái niệm trên có thể hiểu: XKLĐ là hoạt động kinh tế của một quốc
gia thực hiện việc cung ứng lao động cho một quốc gia khác trên cơ sở những
hi
ệp định hoặc hợp đồng có tính chất pháp quy được thống nhất giữa các quốc
gia đưa và nhận lao động.
Hoàng Thanh Hương – A2CN9 – Khoá luận tốt nghiệp
Trường Đại Học Ngoại Thương
6
Nhận thức về vai trò và ý nghĩa của công tác XKLĐ trong chiến lược phát
triển kinh tế xã hội và sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước hiện
nay, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương về vấn đề này rất rõ, thể hiện ở những
Quyết định, Nghị quyết, Nghị định và Chỉ thị rất quan trọng do Bộ chính trị và
Chính phủ đưa ra từ những n
ăm 80 liên quan đến vấn đề XKLĐ & CG. Quyết
định của Hội đồng Chính phủ số 46/CP ngày 11/12/1980 viết: “ Trước yêu cầu,
nhiệm vụ mới của cách mạng nước ta, đòi hỏi phải nhanh chóng xây dựng một
đội ngũ công nhân lành nghề và cán bộ kỹ thuật, nghiệp vụ, quản lý giỏi, phù
hợp với nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá của đất nước. Để thực
hi
ện nhiệm vụ quan trọng này, đi đôi với việc tăng cường công tác đào tạo và
bồi dưỡng ở trong nước, Hội đồng Chính phủ chủ trương đưa một bộ phận công
nhân và cán bộ đang công tác ở các xí nghiệp, cơ quan Nhà nước sang các nước
xã hội chủ nghĩa nhằm mục đích bồi dưỡng nâng cao tay nghề, nâng cao trình độ
kỹ thuật, nghiệp vụ quản lý, đồng thờ
i làm việc có thời hạn trong các cơ sở kinh
tế của các nước đó nhằm đáp ứng tốt yêu cầu đào tạo lao động của nước ta, vừa
giúp các nước anh em khắc phục một phần khó khăn về lao động, trêntinh thần
hợp tác xã hội chủ nghĩa giữa các thành viên trong Hội đồng tương trợ kinh tế”.
Quyết định này là chủ trương về việc đưa công nhân và cán bộ đi b
ồi
dưỡng nâng cao trình độ và làm việc có thời hạn tại các nước xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình thực hiện Quyết định này, Nhà nước ta đã thu được một số kết
quả nhất định.
Cũng năm 1980, Hội đồng Chính phủ đã phê duyệt Nghị quyết số 362/CP
ngày 29/11/1980 về việc hợp tác sử dụng lao động với các nước xã hội chủ
nghĩa. Nghị quyế
t nêu rõ: Nước ta mở rộng việc hợp tác sử dụng lao động với
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác trên nguyên tắc hai bên cùng
có lợi, bằng nhiều hình thức và nhằm mục đích sau đây:
- Giải quyết công ăn việc làm cho một bộ phận thanh niên ta.
- Thông qua hợp tác sử dụng lao động, nhờ các nước anh em đào tạo giúp ta
một đội ngũ lao động có tay nghề vững, đáp ứng đượ
c yêu cầu phát triển
nền kinh tế nước ta sau này.
Đến năm 1988, Hội đồng Bộ trưởng cũng có Chỉ thị số 108/HĐBT ngày
30/6/1988 về việc mở rộng hợp tác lao động và chuyên gia với nước ngoài. Chỉ
Hoàng Thanh Hương – A2CN9 – Khoá luận tốt nghiệp
Trường Đại Học Ngoại Thương
7
thị nêu rõ: “Mở rộng hợp tác lao động và chuyên gia với nước ngoài là một
nhiệm vụ kinh tế quan trọng có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Chủ trương của ta là
hợp tác rộng rãi với các nước có yêu cầu hợp tác với ta, với quy mô ngày càng
lớn theo đúng đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, trước hết là với Liên
Xô và các nước XHCN; chú ý phát triển quan hệ với các nước Trung Đông và
Châu Phi
Hợp tác lao động và chuyên gia chủ y
ếu nhằm tăng nguồn thu ngoại tệ cho
ngân sách Nhà nước, giải quyết việc làm, nâng cao tay nghề và tăng thu nhập
cho người lao động ”
Trải qua một thời gian dài những Quyết định, Nghị quyết và Chỉ thị trên đã
và vẫn dược thực hiện một cách nghiêm túc và có kết quả, giải quyết được việc
làm cho nhiều lượt người tham gia lao động xuất khẩu, thu về cho ngân sách
Nhà nước một số ngoạ
i tệ đáng kể, góp phần làm tăng trưởng nền kinh tế của
nước ra.
Sau khi Bộ luật Lao động được ban hành, Nghị định số 07/CP ngày
20/01/1995 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Bộ luật lao động về
đưa người Việt nam đi làm việc có thời hạn tại nước ngoài, như sau: “Đưa người
lao động Việt nam đi làm việc có thời h
ạn ở nước ngoài là một hướng giải quyết
việc làm, tạo thu nhập cho người lao động, góp phần tăng nguồn thu ngoại tệ
cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học- kỹ thuật
giữa Việt nam với nước ngoài theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng
pháp luật và phong tục tập quán của nhau”.
Trong Chỉ thị số 41-CT/TW ngày 22/9/1998 về XKLĐ & CG, Bộ chính trị
cũ
ng đã chỉ đạo như sau: “Cùng với giải quyết việc làm trong nước là chính thì
xuất khẩu lao động và chuyên gia là một chiến lược quan trọng, lâu dài, góp
phần xây dựng đội ngũ lao động cho công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá; là một bộ phần của hợp tác quốc tế, góp phần
củng cố quan hệ hữu nghị, hợp tác lâu dài với các nước. Xuất khẩu lao
động và
chuyên gia phải được mở rộng và đa dạng hoá hình thức, thị trường xuất khẩu
lao động, phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đáp ứng
nhu cầu của nước ngoài về số lượng, trình độ và ngành nghề, xuất khẩu lao động
và chuyên gia một mặt phải đảm bảo sức cạnh tranh trên cơ sở tăng cường đào
Hoàng Thanh Hương – A2CN9 – Khoá luận tốt nghiệp
Trường Đại Học Ngoại Thương
8
tạo lực lượng lao động kỹ thuật và chuyên gia, nâng cao dần tỷ lệ tỷ trọng lao
động xuất khẩu có chất lượng cao trong tổng số lao động xuất khẩu và trình độ
quản lý của các đơn vị xuất khẩu lao động; mặt khác phải chăm lo bảo vệ quyền
lợi chính đáng của người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo pháp luật của
nước ta và nước mà ngườ
i lao động sống và làm việc”.
Gần đây nhất là Nghị định số 152/1999/NĐ-CP ngày 20/9/1999 của Chính
phủ quy định đưa người Việt nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài thay thế
Nghị định số 07/CP ngày 20/1/1995 cho phù hợp với tình hình đất nước trong
thời kỳ đổi mới. Nghị định này cùng hệ thống các văn bản hướng dẫn thực hiện
đã tạo thành cơ
chế mới thông thoáng với hành lang pháp lý rộng mở tạo điều
kiện thuận lợi thúc đẩy hoạt động XKLĐ & CG phát triển trong thời kỳ mới,
thời kỳ chuyển gia từ thế kỷ XX sang thế kỷ XXI đầy tiềm năng và thách thức.
Tại Hội nghị toàn quốc về XKLĐ & CG do Thủ tướng Chính phủ chủ trì,
tổ chức tại Hà nội tháng 6/2000, quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta đã được
nêu rõ và khẳng định trong bài phát biểu của Thủ tướng Phan Văn Khải: “Xuất
khẩu lao động và chuyên gia đối với chúng ta là một vấn đề có ý nghĩa chiến
lược quan trọng, vì:
- Góp phần giải quyết việc làm
- Tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước
Phải coi XKLĐ & CG là vấn đề quan trọng và lâu dài”.
Như vậy, chủ trương của Đảng và Nhà n
ước ta về XKLĐ & CG là rất rõ
ràng và hợp lý, phù hợp với tình hình đất nước trong từng thời kỳ. Vì vậy, hình
thức và việc làm cụ thể có thể thay đổi ít nhiều nhưng mục đích chính của việc
XKLĐ & CG luôn luôn nhất quán là: Giải quyết việc làm, bảo vệc quyền lợi cho
người lao động và tăng nguồn thu ngoại tệ cho ngân sách Nhà nước, góp phần
xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, công bằng và văn minh,
đồng thời đẩy
mạnh quan hệ hợp tác quốc tế trên cơ sở hai bên cùng có lợi.
III- CÔNG TÁC XKLĐ CỦA VIỆT NAM VÀ HIỆU QUẢ QUA HAI THỜI KỲ
Hoạt động XKLĐ đến nay đã được hơn 20 năm (tính từ tháng 1/1980 đến
nay). Có thể chia quá trình hoạt động XKLĐ làm hai giai đoạn như sau: Nửa đầu
là giai đoạn hợp tác lao động quốc tế theo cơ chế quản lý hành chính bao cấp,
Hoàng Thanh Hương – A2CN9 – Khoá luận tốt nghiệp
Trường Đại Học Ngoại Thương
9
nửa sau là giai đoạn hoạt động XKLĐ theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước. Giai đoạn đầu là hợp tác lao động nhằm giải quyết việc làm và đào
tạo tay nghề cho Người lao động (NQ362/CP – 29/11/1980); sau đó là mở rộng
hợp tác với nước ngoài, coi nhiệm vụ kinh tế là quan trong nhằm tăng nguồn thu
ngoại tệ cho ngân sách Nhà nước, giải quyết việc làm nâng cao tay nghề và tăng
thu nhập cho người lao động (CT108/HĐBT – 30/6/1988); và hiện nay là mở
rộng và đa dạng hoá hình thức, thị trường xuất khẩu, coi XKLĐ như một hoạt
động kinh tế – xã hội góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm,
tạo thu nhập và nâng cao trình độ nghề nghiệp cho người lao động, tăng nguồn
thu cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác giữa nước ta với các nước trên
thế gi
ới.
1. Giai đoạn hợp tác lao động với nước ngoài (1980 – 1990)
Để thực hiện hợp tác lao động với nước ngoài, thời kỳ này Nhà nước ta đã
ký Hiệp định chính phủ về hợp tác lao động với 4 nước là Liên Xô, CHDC Đức,
Tiệp Khắc và Bungari, Hiệp định Chính phủ về hợp tác chuyên gia với một số
nước Châu Phi và thoả thuận ngành với ngành về sử dụng lao động Việt nam với
các nước I-r
ắc, Li Bi. Đây là giai đoạn có quy mô lao động đi làm việc ở nước
ngoài lớn nhất, bình quân mỗi năm có trên 2,7 vạn lao động Việt nam đi làm
việc ở nước ngoài (xem bảng 1). Nhìn chung lao động đi làm việc ở nước ngoài
trong giai đoạn này có tỷ trọng lao động không nghề lớn, khoảng 57%, đặc biệt
những năm 1988, 1989, 1990 tỷ lệ này đạt 70%. Đây cũng là nét đặc trưng của
giai đoạn này. Ph
ần lớn lao động trước khi đi không qua đào tạo, khi đến nước
tiếp nhận, lao động được phân phối về các đơn vị sản xuất, được kèm cặp đào
tạo tại chỗ, được trang bị tay nghề phù hợp với các xí nghiệp, nhà máy bạn yêu
cầu. Có thể thấy 45% lao động làm trong ngành công nghiệp nhẹ, 26% lao động
trong xây dựng và 20% làm cơ khí, 6% còn lại làm các ngành nghề khác. Cơ cấu
này không phải được phân chia tại Vi
ệt Nam mà do phía tiếp nhận, mọi chi phí
đào tạo do họ đài thọ. Trong giai đoạn này chúng ta đã đạt được một số kết quả
đáng kể như sau:
Giải quyết việc làm: Giải quyết việc làm ở nước ngoài cho trên 28,8 vạn
người. Trong đó 26,18 vạn ở 4 nước XHCN, 19 vạn ở I-rắc, Libi và 7.200
chuyên gia và kỹ thuật viên đi làm việc ở Châu Phi.
Hoàng Thanh Hương – A2CN9 – Khoá luận tốt nghiệp
Trường Đại Học Ngoại Thương
10
Đào tạo nghề: Thông qua hợp tác lao động với các nước đã phần nào đáp ứng
được mục đích của ta về đào tạo nghề cho thanh niên, đồng thời qua đó
người lao động rèn luyện được tác phong công nghiệp. Tuy nhiên, có nhiều
nghề nghiệp mà người lao động học được qua hợp tác lao động chưa được sử
dụng và phát huy khi họ về nước, do cơ sở vật chất kỹ thu
ật trong nước chưa
đáp ứng được.
Hiệu quả kinh tế: Ngân sách Nhà nước đã thu được 482 triệu rúp phi mậu
dịch (tương đương 263 tỷ đồng (1990) và 9,2 triệu USD) dùng để trả nợ, mua
hàng hoá và đưa vào cán cân thanh toán với các nước. Thu nhập của một bộ
phần người lao động được nâng cao thông qua việc mua hàng hoá mang về
nước, khoảng 720 tỷ đồng và chuyển về nước khoảng 300 triệu USD. Như
vậ
y, tổng thu về qua hợp tác lao động thời kỳ này đạt khoảng 1.200 tỷ đồng
tính theo thời giá năm 1990, chưa kể đến các hiệu quả kinh tế về thúc đẩy sản
xuất trong nước phát triển, góp phần cân đối tiền hàng cho xã hội, Nhà nước
không phải bỏ kinh phí đầu tư việc làm cho người lao động trong thời gian
họ làm việc ở nước ngoài.
Ngoài ra hợp tác lao động đã thể hiện quan hệ hợ
p tác giúp đỡ lần nhau
giữa các nước anh em bè bạn: ta thiếu việc làm, họ thiếu nhân công, lao động
của ta đã góp phần vào việc hoàn thành kế hoạch sản xuất của các xí nghiệp, nhà
máy của họ. Người lao động của ta cũng đã góp phần làm cho công nhân, nhân
dân các nước hiểu thêm về đất nước và con người Việt nam.
Qua 10 năm hoạt động hợp tác lao động, tuy đã thu được những kết quả
không nhỏ nhưng c
ũng còn có những điều chưa được như mong muốn, một
phần do hoàn cảnh lịch sử bấy giờ, còn lại do sự thiếu kinh nghiệm, chưa có
chuyên môn nghiệp vụ và đầy đủ cơ sở vật chất để phục vụ cho hoạt động này.
Vì vậy, muốn làm tốt hơn nữa hoạt động này, phù hợp với tình hình mới của đất
nước thì phải kịp thờ
i điều chỉnh và bổ sung các điều kiện của hợp tác lao động
là điều tất yếu.
Bảng 1:
Quy mô lao động đi làm việc ở nước ngoài giai đoạn 1980 – 1990
Đơn vị: Người
Hoàng Thanh Hương – A2CN9 – Khoá luận tốt nghiệp
Trường Đại Học Ngoại Thương
11
Năm Tổng số Nữ Không nghề Có nghề - %
1980 1.570 592 1570 100
1981 20.230 5.586 5.348 14882 73,5
1982 25.970 8.176 13.784 12186 46,9
1983 12.402 4.634 7.799 4603 37,1
1984 2.289 1.571 1.192 3297 73,4
1985 5.008 3.040 1.350 3658 73,0
1986 9.012 3.105 7.212 1800 20,0
1987 46.098 23.937 25.074 21024 45,6
1888 71.835 25.637 46.726 25109 35,0
1989 40.618 15.010 28.584 12034 29,6
1990 3.069 1.050 2.148 921 30,0
Tổng (1) 240.301 92.238 139.217 101.084 42,0
(1) Không bao gồm 7200 chuyên gia và gần 24.000 thực tập sinh học nghề tại
các nước Đông Âu.
(Nguồn: Báo cáo tổng kết 10 năm hợp tác lao động với nước ngoài – Bộ lao động thương
binh và xã hội)
2. Giai đoạn hoạt động xuất khẩu lao động theo cơ chế thị trường
(1991- đến nay)
Đặc trưng của giai đoạn này là sự thay đổi về quy chế XKLĐ và quy mô
hoàn toàn phụ thuộc vào quan hệ cung cầu của thị trường lao động. XKLĐ của
ta phải cạnh tranh với các nước XKLĐ trong khu vực có ưu thế hơn về khả năng
và kinh nghiệm chiếm l
ĩnh thị trường trên nhiều khu vực khác nhau. Do vậy,
quy mô XKLĐ trong giai đoạn này giảm so với giai đoạn trước mặc dù vẫn tăng
theo thời gian (Xem bảng 2). Bình quân hàng năm chỉ gần 1 vạn người lao động
đi làm ở nước ngoài. Số lao động phổ thông có xu hướng giảm và yêu cầu đòi
hỏi người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài phải được đào tạo. Mọi
Hoàng Thanh Hương – A2CN9 – Khoá luận tốt nghiệp
Trường Đại Học Ngoại Thương
12
người lao động trước khi đi đều được tham dự một khoá đào tạo do Công ty
cung ứng lao động tổ chức, thời gian chủ yếu là học ngoại ngữ của nước mà lao
động sẽ đến làm việc. Ngoài ra còn học tập về luật pháp của nước đó, về những
điều cần thiết về hợp đồng lao động, tranh chấp lao động, quan hệ ứng xử,
phong tục t
ập quan và an toàn vệ sinh lao động. Nhờ đó, chất lượng lao động
trong giai đoạn này được nâng cao hơn. Thời kỳ này tuy số lượng người lao
động đi xuất khẩu giảm nhưng thị trường lại được mở ra hơn trước: đã có gần 40
nước và lãnh thổ tiếp nhận lao động và chuyên gia Việt nam. Qua hơn 10 năm
hoạt động XKLĐ & CG theo cơ chế thị trường, chúng ta đã thu được m
ột số kết
quả như sau:
Theo thống kê chưa đầy đủ, tính đến tháng 6/2001 đã có 140.000 lao động và
chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài. Riêng năm 2000 có trên 31.400 người.
Đã cố gắng mở rộng thị trường lao động mới ở các nước khu vực Đông Bắc
á, Đông Nam
Á, Trung Đông, Nam Thái Bình Dương. Mở ra một số loại
hình như nhận thầu xây dựng, hợp tác sản xuất chia sản phẩm, lao động theo
hình thức cá nhân, cung ứng sĩ quan, thuyền viên, thuỷ thủ tàu cá và người
phục vụ trong gia đình. Hiện nay chúng ta có khoảng 4 vạn lao động và
chuyên gia đang làm việc ở các nước theo hợp đồng cung ứng lao động ở
trên. Những sĩ quan, thuyền viên và chuyên gia sau một thời gian làm việc
theo hợp đồng lao
động ở nước ngoài được tiếp xúc với các trang thiết bị
máy móc hiện đại, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và tay nghề được nâng
cao.
Trong những năm qua với khoảng hơn 140.000 lao động làm việc ở nước
ngoài, đất nước đã có thêm nguồn ngoại tệ đáng kể, khoảng 1 tỷ USD. Mặt
khác, Nhà nước còn tiết kiệm hàng trăm tỷ đồng đầu tư cho việc tự tạo việc
làm mới cho số lao động này và hàng ngàn tỷ đồng khác liên quan đến các
dịch vụ cho người lao động.
Có được những kết quả như trên là do Đảng và Nhà nước ta luôn có chủ
trương nhất quán, mục tiêu rõ ràng và thường xuyên chỉ đạo trong lĩnh vực
hoạt động XKLĐ & CG, coi đây là một hoạt động kinh tế – xã hội rất quan
trọng. Vì vậy hoạt động XKLĐ & CG hiện tại rất phù hợp với nề
n kinh tế thị
Hoàng Thanh Hương – A2CN9 – Khoá luận tốt nghiệp
Trường Đại Học Ngoại Thương
13
trường, góp phần cho lao động Việt nam hoà nhập với lao động thế giới.
Hoạt động này cũng đáp ứng đúng yêu cầu nguyện vọng của nhân dân lao
động và xã hội, góp phần mở rộng và thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa nước ta
với các nước trên thế giới.
Bảng 2:
Quy mô XKLĐ giai đoạn 1991 – 2000
(Đơn vị: Người)
Năm Số lượng
1991 1.022
1992 810
1993 3.960
1994 9.230
1995 10.050
1996 12.661
1997 18.469
1998 12.000
1999 20.700
2000 31.468
Tổng 120.370
(Nguồn: Báo cáo tổng kết 10 năm hoạt động XKLĐ và CG – Cục quản lý lao động với
nước ngoài)
Bảng 3: Số lao động cung ứng tại một số thị trường chính (tính đến 6/2001)
(Đơn vị: Ngưòi)
Thị trường Số lao động cung ứng
Hàn Quốc 41.156
CHDCND Lào 38.370
Nhật Bản 9.781
Đài Loan 11.700
(Nguồn: Báo cáo tổng kết quý I/2001 về hoạt động XKLĐ và CG – Cục quản lý lao
động với nước ngoài)
Hoàng Thanh Hương – A2CN9 – Khoá luận tốt nghiệp
Trường Đại Học Ngoại Thương
14
Nhìn lại chặng đường hơn 20 năm hoạt động XKLĐ& CG, những kết quả
đạt được là rất lớn. Nó đánh dấu từng bước thực hiện chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước về vấn đề lao động, đồng thời cũng thu về cho ngân sách
Nhà nước nhiều ngoại tệ, góp phần xây dựng nền kinh tế của đất nước ngày
càng đi lên theo kịp các nước trong khu vực và th
ế giới.
IV- NGHĨA VỤ, QUYỀN LỢI CỦA CÁC TỔ CHỨC, DOANH NGHIỆP VÀ
NGƯỜI LAO ĐỘNG THAM GIA XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG:
1. Tổ chức quản lý Nhà nước:
Các tổ chức quản lý hoạt động XKLĐ& CG có trách nhiệm và quyền hạn
theo quy định cụ thể cho từng cấp Bộ, ngành, địa phương như sau:
a/ Bộ lao động Thương binh và xã hội có trách nhiệm:
- Đàm phán ký kết các hiệp định Chính phủ về hợp tác sử dụng lao động với
nước ngoài theo uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ.
- Xác định chỉ tiêu kế hoạch hàng nă
m và 5 năm về đưa lao động đi làm việc ở
nước ngoài, phối hợp với các Bộ, ngành, đoàn thể Trung ương và địa phương
chỉ đạo thực hiện.
- Nghiên cứu các chính sách, chế độ liên quan đến việc đưa người lao động
Việt nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài để trình Chính phủ ban hành
hoặc ban hành theo thẩm quyền và hướng dẫn thực hiện các chính sách, chế
độ
đó.
- Nghiên cứu thị trường lao động ngoài nước và quy định các điều kiện làm
việc, sinh hoạt cần thiết cho người lao động Việt nam đi làm việc ở nước
ngoài.
- Hướng dẫn công tác bồi dưỡng nghề, tạo nguồn lao động đi làm việc ở nước
ngoài; quy định các chương trình đào tạo, giáo dục định hướng cho người lao
động trước khi đi làm việc ở
nước ngoài. Thành lập các trung tâm quốc gia
đào tạo nguồn lao động có kỹ thuật, tay nghề cao và ngoại ngữ đáp ứng yêu
cầu của thị trường lao động. Cấp, đình chỉ và thu hồi giấy phép hoạt động
chuyên doanh, nhận đăng ký hợp đồng và thu lệ phí, phí quản lý theo quy
định.
Hoàng Thanh Hương – A2CN9 – Khoá luận tốt nghiệp
Trường Đại Học Ngoại Thương
15
- Tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra các cơ quan và doanh nghiệp liên quan
đến việc thực hiện đưa người lao động Việt nam đi lao động ở nước ngoài,
hoặc tạm đình chỉ thực hiện hợp đồng theo quy định.
- Định kỳ báo cáo với Thủ tướng Chính phủ về tình hình lao động Việt nam
làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
- Phối hợp với Bộ ngoại giao và các Bộ
, ngành có liên quan giải quyết các vấn
đề phát sinh trong việc quản lý người lao động Việt nam làm việc ở nước
ngoài.
- Phối hợp với Bộ ngoại giao và Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ nghiên cứu tổ
chức bộ phận quản lý Lao động trong cơ quan đại diện Việt Nam ở những
nước và khu vực có nhiều lao động Việt nam làm việc hoặc có nhu cầu và
khả năng nhận nhiều lao dộ
ng Việt nam làm việc với số lượng biên chế, chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn phù hợp với Pháp lệnh về cơ quan đại diện
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam ở nước ngoài.
b/ Bộ tài chính:
Chủ trì và phối hợp với Bộ LĐTB&XH quy định chi tiết việc thu và sử
dụng lệ phí, phí quản lý và phí dịch vụ; mức và thể thức giữ tiề
n đặt cọc của
người lao động.
c/ Bộ ngoại giao:
Cơ quan đại diện Việt nam ở nước ngoài thực hiện quản lý Nhà nước đối
với lao động Việt nam ở nước sở tại; thông qua Bộ ngoại giao cung cấp kịp thời
cho Bộ LĐTB & XH thông tin về tình hình thị trường lao động ngoài nước và
tình hình người lao động Việt nam ở nước sở tại; liên hệ với các cơ quan c
ủa
nước sở tại để giúp Bộ LĐTB &XXH thiết lập quan hệ hợp tác sử dụng lao
động; phối hợp với các tổ chức, cơ quan hữu qua của nước sở tại và các tổ chức
quốc tế để giải quyết các vấn đề phát sinh nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của
người lao động và của doanh nghiệp Việt nam.
d/ Bộ Công an:
Trong phạm vi trách nhi
ệm của mình phối hợp với Bộ LĐTB &XH trong
việc quản lý người lao động Việt nam đi làm việc ở nước ngoài; tạo điều kiện để
Hoàng Thanh Hương – A2CN9 – Khoá luận tốt nghiệp
Trường Đại Học Ngoại Thương
16
người lao động được cấp hộ chiếu một cách thuận lợi theo quy định của pháp
luật, đáp ứng yêu cầu về thời gian thực hiện hợp đồng với bên nước ngoài.
e/ Bộ kế hoạch và Đầu tư:
Cùng các Bộ, ngành có liên quan trong phạm vi trách nhiệm của mình đưa
nội dung hợp tác lao động với nước ngoài vào các kế hoạch phát triển kinh tế
đối ngoại, các chương trình hợp tác quốc tế, cùng B
ộ LĐ-TBXXH xác định chỉ
tiêu kế hoạch về đưa người lao động Việt nam đi làm việc ở nước ngoài hàng
năm, 5 năm.
f/ Bộ thương mại và Ngân hàng Nhà nước Việt nam
Nghiên cứu trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các
chính sách tạo điều kiện để người lao động và doanh nghiệp đưa người lao động
Việt nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài thực hiện các quyề
n đã quy định.
g/ Các Bộ, ngành, cơ quan Trung ương và các đoàn thể, Uỷ ban nhân
dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm:
- Thống nhất với Bộ LĐTB & XH, quyết định số lượng các doanh nghiệp
thuộc phạm vi quản lý được phép đưa người lao động đi làm việc có thời hạn
ở nước ngoài theo đúng quy định của pháp nluật.
- Chỉ đạo quản lý và chịu trách nhiệ
m về hoạt động của các doanh nghiệp dưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài thuộc phạm vi quản lý, đồng thời
phối hợp với các Bộ ngành có liên quan giải quyết các vấn đề phát sinh.
- Báo cáo tình hình đưa lao động đi làm việc của các dianh nghiệp thuộc phạm
vi quản lý. Lập kế hoạch hàng năm, 5 năm về việc đưa lao động đi làm việc ở
nướ
c ngoài gửi Bộ LĐTB& XH để tổng hợp báo cáo Chính phủ
h/ Bộ LĐ_TBXXXH, Bộ tài chính, Bộ kế hoạch đầu tư và Ngân hàng Nhà
nước phối hợp với các Bộ ngành có liên quan quy định chi tiết việc người lao
động thuộc các đối tượng chính sách có công với nước và người lao động nghèo
được vay tín dụng để nộp tiền đặt cọc và lệ phí trước khi đi làm việc có thời hạn
ở nước ngoài.
i/ Trong trường hợ
p bất khả kháng, phải khẩn cấp đưa người lao động
Việt nam trở về nước, cơ quan chủ quản của doanh nghiệp đưa lao động Việt
Hoàng Thanh Hương – A2CN9 – Khoá luận tốt nghiệp
Trường Đại Học Ngoại Thương
17
nam đi làm việc ở nước ngoài có trách nhiệm chỉ đao doanh nghiệp tổ chức đưa
người lao động về nước. Trường hợp vượt quá thẩm quyền và khả năng thì cơ
quan chủ quản phối hợp với Bộ ngoại giao, Bộ LĐTBXH và Bộ tài chính lập
phương án trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
* Tóm lại:
Có rất nhiều các Bộ, ngành quan trọng và các cơ quan hữu
quan trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến công tác XKLĐ, làm tiền đề và thúc
đẩy để công tác XKLĐ ngày càng được đẩy mạnh. Điều này cũng chứng tỏ sự
quan tâm của Đảng và Nhà nước, coi XKLĐ là một mục tiêu trong công cuộc
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Trong công tác XKLĐ, doanh nghiệp
và Người lao động là hai chủ thể chủ yếu của hoạt
động: doanh nghiệp là đơn vị
trực tiếp tiếp xúc, quản lý NLĐ từ lúc NLĐ bắt đầu đăng ký tham gia hoạt động
này cho đến khi kết thúc hợp đồng lao động về nước, NLĐ là người trực tiếp
thực hiện hợp đồng lao động với doanh nghiệp.
2. Các doanh nghiệp tham gia kinh doanh:
Các doanh nghiệp tham gia hoạt động XKLĐ & CG có các quyền sau:
Chủ động tìm kiếm, khảo sát thị trường lao động, lựa chọn hình thức hợp
đồng và trực tiếp ký kết các hợp đồng đưa người lao động Việt nam đi làm
việc có thời hạn ở nước ngoài, bảo đảm lợi ích của Nhà nước của doanh
nghiệp và của người lao động.
Thu phí dịch vụ để phụ
c vụ cho hoạt động của các doanh nghiệp với mức
không quá 10% lương của người lao động theo hợp đồng và không quá 16%
lương theo hợp đồng đối với các sỹ quan, thuyền viên tàu vận tải.
Nhận tiền đặt cọc của người lao đông theo quy định và phải được ghi rõ ràng
trong hợp đồng đi làm việc ở nước ngoài.
Được quyền ký quyết định dưa người lao dộng đi làm vi
ệc ở nước ngoài do
doanh nghiệp tuyển chọn theo số lượng đã đăng ký, làm cơ sở để cơ quan
công an có thẩm quyền cấp hộ chiếu cho người lao động.
Kiện ra toà án để yêu cầu người lao động bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng gây ra theo quy định của pháp luật.
Hoàng Thanh Hương – A2CN9 – Khoá luận tốt nghiệp
Trường Đại Học Ngoại Thương
18
Đề nghị cơ quan đại diện Việt nam tại nước ngoài và các cơ quan Nhà nước
có liên quan cung cấp thông tin về thị trường lao động ở nước ngoài và bảo
vệ quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp.
Được Nhà nước hỗ trợ đào tạo nghề, kỹ thuật và công nghệ, ngoại ngữ cho
người lao động và bồi dưỡng, nâng cao chất lượng cán bộ của doanh nghiệp
làm nhiệm vụ
quản lý hoạt động đưa người đi làm việc ở nước ngoài.
Doanh nghiệp có giấy phép hoạt động chuyên doanh có nghĩa vụ như sau:
Đăng ký hợp đồng, tổ chức đưa người đi làm việc ở nước ngoài theo đúng
các quy định và pháp luật có liên quan của Nhà nước.
Cung cấp các thông tin cho người lao động theo quy định, tuyển chọn, đào
tạo, giáo dục định hướng cho người lao động trước khi
đi làm việc ở nước
ngoài theo hướng dẫn của Bộ LĐ-TBXH.
Thực hiện nghiêm chỉnh các hợp đồng đã ký kết với nước ngoài, bảo đảm
đầy đủ các quyền, lợi ích của người lao động theo các điều khoản của hợp
đồng đã ký với người lao động và với bên nước ngoài.
Trong vòng 15 ngày, kể từ ngày nhân tiền đặt cọc của người lao động, doanh
nghiệp phải chuyển toàn bộ số tiền đặt cọc đã thu vào tài khoản của doanh
nghiệp mở tại kho bạc Nhà nước nơi doanh nghiệp có trụ ở chính và thông
báo bằng văn bản cho Bộ LĐ-TBXH.
Thu tiền bảo hiểm xã hội của người lao động để nộp cho cơ quan chức năng
có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Ưu tiên tuyển chọn đối t
ượng thuộc diện chính sách ưu đãi theo hướng dẫn
của Bộ LĐ-TBXH.
Tổ chức đưa đi, quản lý, đưa về và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao
động trong thời gian làm việc ở nước ngoài. Kịp thời cung cấp thông tin đầy
đủ về số lượng và nơi làm việc của người lao động Việt nam cho cơ quan đại
diện Việt nam ở n
ước có người lao động của doanh nghiệp làm việc. Chịu sự
chỉ đạo của cơ quan đại diện Việt nam ở nước ngoài trong việc giải quyết các
vấn đề phát sinh liên quan đến người lao động do doanh nghiệp đưa đi.
Hoàng Thanh Hương – A2CN9 – Khoá luận tốt nghiệp
Trường Đại Học Ngoại Thương
19
Trường hợp người lao động bị tai nạn, mắc bệnh nghề nghiệp hoặc bị chết ở
nước ngoài, doanh nghiệp phải chủ trì và phối hợp với bên nước ngoài, các
cơ quan chức năng của người Việt nam và của nước sở tại để kịp thời giải
quyết, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người lao động.
Không được
đưa người lao động đi làm những nghề, những khu vực ở nước
ngoài theo danh mục cấm của Bộ LĐ-TBXH quy định (Xem phụ lục 4).
Bảo quản, xác nhận vào sổ lao động và sổ bảo hiểm xã hội của người lao
dộng đi làm việc ở nước ngoài theo quy định hiện hành của Nhà nước.
Bồi thường cho người lao động thiệt hại do doanh nghiệp hoặ
c bên nước
ngoài vi phạm hợp đồng gây ra theo pháp luật của Việt nam và pháp luật của
nước sở tại.
Nộp cho Bộ LĐ-TBXH phí quản lý bằng 1% khoản thu phí dịch vụ, nộp thuế
theo luật định đối với các hoạt động có liên quan đến đưa người lao động đi
làm việc ở nước ngoài. Chấp hành đầy đủ các chính sách, chế độ về quản lý
tài chính, quản lý và sử dụng ngo
ại tệ theo quy định hiện hành của Nhà nước.
Thực hiện chế độ báo cáo định kỳ 3 tháng, 6 tháng hàng năm và đột xuất theo
hướng dẫn của Bộ LĐ-TBXH.
Trong quá trình hoạt động XKLĐ, các doanh nghiệp còn phải:
- Trực tiếp tuyển chọn người lao động phù hợp với yêu cầu của bên sử dụng
lao động ở nước ngoài theo đúng quy định của pháp luật Việt nam. Doanh
nghiệ
p có thể hợp tác với đơn vị khác hoặc địa phương trong việc chuẩn bị
nguồn lao động dự tuyển và phải thông báo công khai về tiêu chuẩn tuyển
chọn và các vấn đề khác có liên quan đến người lao động khi làm việc ở
nước ngoài.
- Trong trường hợp doanh nghiệp tuyển chọn lao động ở ácc đơn vị khác hoặc
địa phương thì phải xuất trình giấy phép hoạt dộng chuyên doanh với đơn v
ị
cung cấp lao động hoặc Sở lao động Thương binh xã hội.
- Doanh nghiệp phải quy định thời hạn tuyển chọn, làm thủ tục cho người lao
động đi làm việc ở nước ngoài. Trong trường hợp hết thời hạn mà chưa đưa
Hoàng Thanh Hương – A2CN9 – Khoá luận tốt nghiệp
Trường Đại Học Ngoại Thương
20
được người đi nước ngoài làm việc thì phải thông báo rõ lý do cho người lao
động biết. Nếu hết thời hạn đó, người lao động không có nhu cầu đi làm việc
ở nước ngoài thì phải thanh toán lại toàn bộ số tiền mà người lao động đã chi
phí theo quy định và thoả thuận với doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp cử đại diện của doanh nghiệp ở nước ngoài để quản lý và bảo
vệ quyền lợi c
ủa người lao động làm việc ở nước ngoài, tìm hiểu và phát
triển thị trường. Cán bộ được cử làm đại diện của doanh nghiệp ở nước ngoài
phải là những người có phẩm chất đạo đức tốt, có đủ năng lực chuyên môn,
ngoại ngữ phù hợp với yêu cầu công việc. Biên chế, quyền hạn của bộ máy
quản lý lao động ở nước ngoài do doanh nghiệp quyết định phù hợ
p với pháp
luật Việt nam và pháp luật của nước sở tại.
- Doanh nghiệp không có giấy phép hoạt động chuyên doanh nhưng có hợp
đồng cung ứng lao động phù hợp với ngành nghề sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp thì khi đưa người đi lao động ở nước ngoài có quyền và nghĩa
vụ như trên.
- Khi đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, doanh nghiệp phải ưu tiên
tuyển ch
ọn những người lao động đang làm việc tại doanh nghiệp. Trong
trường hợp lao động của doanh nghiệp không đủ thì được tuyển người lao
động vào doanh nghiệp để đưa đi làm việc ở nước ngoài.
- Doanh nghiệp nhận thầu, khoán xây dựng, liên doanh liên kết chia sản phẩm
ở nước ngoài hoặc đầu tư ra nước ngoài khi thực hiện đưa người đi lao động,
làm việc ở nước ngoài có quyền và ngh
ĩa vụ theo quy định như trên và nộp
cho Bộ LĐ-TBXH phí quản lý theo quy định của Bộ tài chính và Bộ LĐ-
TBXH được mang ra nước ngoài, được mang về máy móc, thiết bị sản xuất
cần thiết có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng đã ký kết với bên nước
ngoaì mà không phải chịu thuế theo quy định của luật pháp Việt nam. Thực
hiện các chế độ đối với người lao động theo quy
định của pháp luật lao đông
của Việt nam và trả công cho người lao động bằng ngoại tệ thu được (nếu
có).
3. Người lao động:
Hoàng Thanh Hương – A2CN9 – Khoá luận tốt nghiệp
Trường Đại Học Ngoại Thương
21
Người lao động muốn tham gia XKLĐ trước hết phải là công dân Việt
nam “đủ 18 tuổi trở lên, tự nguyện đi làm việc ở nước ngoài ” (Nghị định số
152/1999/NĐ-CP ngày 20/9/1999 của Chính phủ). Tuy nhiên điều kiện về tuổi
còn phụ thuộc vào luật pháp của nước tiếp nhận lao động cho phép, ví dụ đối với
Đài Loan chỉ cấp Visa lao động cho người lao động từ 20 tuổi trở lên. Nhữ
ng
công dân này phải có đủ tiêu chuẩn và điều kiện theo yêu cầu của hợp đồng lao
động với bên nước ngoài. Tuy nhiên, trừ những trường hợp sau đây thì không
được tham gia XKLĐ:
- Cán bộ, công chức đang làm việc trong các cơ quan hành chính Nhà nước, cơ
quan dân cử, cơ quan đoàn thể chính trị – xã hội.
- Sỹ quan và hạ sỹ quan, chiến sỹ đang tại ngũ trong lực lượng quân đội nhân
dân và công an nhân dân .
- Ng
ười chưa được phép xuất cảnh theo quy định của pháp luật.
Người xin đi lao động ở nước ngoài phải làm hồ sơ theo doanh nghiệp quy
định và tuỳ vào đặc điểm của từng thị trường xin đi XKLĐ, tuy nhiên hồ sơ sẽ
bao gồm các khoản chính như sau: Đơn xin đi lao động ở nước ngoài, sơ yếu lý
lịch có xác nhận của Uỷ ban nhân dân phường, xã, thị trấn nơi ng
ười lao động
cư trú. Đối với những người đang làm việc tại các đơn vị sự nghiệp, các cơ sở
sản xuất dịch vụ thì cần có thêm xác nhận của nơi người lao động làm việc. bản
sao Hợp đồng lao động hoặc bản sao văn bằng tiếp nhận làm việc của bên nước
ngoài. Giấy chứng nhận sức khoẻ
Người lao động tham gia XKLĐ
được hưởng các quyền và lợi ích sau:
Được cung cấp đầy đủ, chính xác các thông tin về việc làm, nơi ở và nơi làm
việc, thời hạn hợp đồng, điều kiện làm việc và sinh hoạt, tiền lương, tiền
thưởng, tiền làm thêm giờ, chế độ bảo hiểm và những thông tin cần thiét khác
trước khi ký hợp đồng đi làm ở nước ngoài.
Được các cơ quan đại diện ngoại giao và lãnh sự c
ủa Việt nam ở nước ngoài
bảo hộ các quyền và lợi ích chính đáng.
Được hưởng chế độ ưu đãi trong việc chuyển thu nhập bằng ngoại tệ và thiết
bị, nguyên liệu về nước để đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh theo chính
sách và pháp luật hiện hành của Việt nam.
Hoàng Thanh Hương – A2CN9 – Khoá luận tốt nghiệp
Trường Đại Học Ngoại Thương
22
Khiếu nại và tố cáo với các cơ quan có thẩm quyền của Việt nam về những vi
phạm hợp dồng của doanh nghiệp đưa đi làm việc ở nước ngoài. Khiếu nại
với các cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại về những vi phạm hợp đồng
của người sử dụng lao động.
Ký hợp đồng với doanh nghiệp đưa
đi làm việc ở nước ngoài, ký hợp đồng
với người sử dụng lao động ở nước ngoài và được hưởng mọi quyền lợi ghi
trong các hợp đồng đã ký.
Được tham gia chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định hiện hành của pháp luật
Việt nam.
Được nhận lại số tiền đặt cọc đã nộp và lãi suất phát sinh sau khi hoàn thành
hợp đồng làm việc ở nướ
c ngoài về nước.
Đồng thời người lao động đi làm việc ở nước ngoài còn có những nghĩa vụ
như sau:
Nộp phí dịch vụ cho doanh nghiệp đưa đi làm việc ở nước ngoài để phục vụ
cho doanh nghiệp hoạt động, với mức không quá 10% lương được hưởng
theo hợp đồng, với sỹ quan và thuyền viên tàu vận tải biển không quá 16%
lương theo hợp đồng.
N
ộp tiền đăt cọc cho doanh nghiệp đưa đi lao dộng ở nước ngoài để bảo đảm
việc thực hiện hợp đồng làm việc.
Nộp thuế thu nhập theo quy định của pháp luật hiện hành. Trường hợp làm
việc ở những nước đã ký Hiệp định tránh đánh thuế hai lần với Việt nam thì
chỉ phải thực hiện đóng thuế thu nhập theo Hiệp định đó.
Nộp tiền bảo hiểm xã hội theo quy định của luật pháp hiện hành.
Tham gia các khoá đào tạo và giáo dục định hướng trước khi đi làm việc ở
nước ngoài.
Không được tự ý bỏ hợp đồng hoặc tổ chức cho người lao động khác bỏ hợp
đồng lao động đã ký với người sử dụng lao động để đi làm việc ở n
ơi khác.
Hoàng Thanh Hương – A2CN9 – Khoá luận tốt nghiệp
Trường Đại Học Ngoại Thương
23
Tự mình chịu trách nhiệm về thiệt hại do bản thân vi phạm hợp đồng, vi
phạm luật pháp gây ra cho doanh nghiệp đưa đi làm việc ở nước ngoài và cho
bên nước ngoài theo pháp luật của Việt nam và pháp luật của nước sở tại.
Chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của Nhà nước về quản lý công dân
Việt nam ở nước ngoài và chịu sự quản lý của cơ quan đại diện Việt nam tạ
i
nước sở tại.
Tuân thủ pháp luật Việt nam và pháp luật của nước sở tại, giữ gìn bí mật
quốc gia và phát huy các truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tôn trọng phong
tục tập quán và có quan hệ tốt với nhân dân nước sở tại.
Người lao động đi làm việc ở nước ngoài được quyền mang ra nước ngoài
hoặc mang về nước những công cụ làm việc cần thi
ết của cá nhân mà không
phải chịu thuế.
Người lao động đi làm việc ở nước ngoài khi hết hạn hợp đồng, nếu được gia
hạn tiếp tục làm việc hay có nguyện vọng làm tiếp hợp đồng khác phải đăng
ký với doanh nghiệp đưa đi để làm các thủ tục và được hưởng các quyền, lợi
ích và nghĩa vụ theo quy định như ở trên.
Người lao độ
ng đang ở nước ngoài, đi lao động theo hình thức khác, nếu có
hợp đồng lao động hợp pháp phải đăng ký với cơ quan đại diện Việt nam ở
nước đo theo quy định về đăng ký hợp đồng và được hưởng các quyền và lợi
ích và quy định như những người lao động khác.
* Quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm luôn song hành với nhau. Trong công
tác XKLĐ, doanh nghiệp và NLĐ được hưởng những quyề
n lợi nhất định thì
cũng có trách nhiệm phải thực hiện đúng hợp đồng. Tuy nhiên trên thực tế
trong quá trình thực hiện hợp đồng có rất nhiều tình huống có thể xảy ra khiến
cho cả hai bên khó mà thực thi theo đúng hợp đồng quy định. Nguyên nhân thì
rất đa dạng và để khắc phục được những hạn chế này thì quả không phải là vấn
đề đơn giản.
Hoàng Thanh Hương – A2CN9 – Khoá luận tốt nghiệp
Trường Đại Học Ngoại Thương
24
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XKLĐ CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG
CHÂU Á: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
I- KHÁI QUÁT THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG KHU VỰC CHÂU Á
1. Đặc điểm thị trường lao động Châu
Á và tình hình nhận lao động
của các nước trong khu vực này:
1.1 Đặc điểm thị trường lao động Châu
Á:
Tình hình xuất khẩu lao động ở các nước này ảnh hưởng trực tiếp đến Việt
nam. Bởi lẽ, về mặt địa lý, các nước này ở gần Việt nam, lại có sự tương đồng
về khí hậu, phong tục tập quán, phong cách sống, màu da Các nước trong khu
vực Châu
Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan đã và đang nhập lao động Việt
nam trong nhiều lĩnh vực, dưới nhiều hình thức. Đồng thời họ cũng nhận lao
động các nước khác Trung Quốc, Philipin, Thái Lan cho nên sự cạnh tranh
giữa các nước xuất khẩu với nhau cũng là một vấn đề cần được lưu tâm. Các
nước XKLĐ đều phát huy hết lợi thế của mình, khiến cho hình thức và cách tiến
hành XKL
Đ hết sức phong phú và đa dạng. Một số nước yêu cầu nhập khẩu lao
động có trình độ cao, một số nước lại có nhu cầu sử dụng lao động dịch vụ, nhất
là lao động nữ để giúp việc gia đình, lao động giản đơn Một số nước Châu
Á
vừa có chính sách nhập khẩu và xuất khẩu lao động, nhập lao động của nước
này lại xuất lao động của mình sang nước khác, tạo nên thị trường lao động thật
sôi động và cũng nhiều vấn đề được phát sinh. Ví dụ như Thái Lan cho phép
hàng chục ngàn dân Myanmar sang làm thuê cho nông dân Thái Lan, trong khi
đó nông dân Thái Lan tràn vào thành phố tìm việc, còn dân thành thị lại đi tìm
việc ở nước ngoài với mức thu nhập cao hơn. Nhiều sinh viên thanh niên Nhật
Bản, Hàn Quốc, Đ
ài Loan sang Mỹ, Ôxtrâylia, New Zeland để du học và tìm
việc trong khi đất nước họ lại tiếp nhận nhiều lao động các nước khác đến làm