Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

lợi nhuận và giải pháp gia tăng lợi nhuận tại công ty xây lắp điện i

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (479.95 KB, 84 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Hoà mình vào xu thế phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, kinh tế
Việt Nam đang từng bước phát triển với những thành tựu khả quan, tạo nên
những thành tựu này có sự đóng góp to lớn của các doanh nghiệp, đặc biệt là các
doanh nghiệp Nhà nước - những tế bào chủ đạo của nền kinh tế quốc dân.
Nếu như trong cơ chế tập trung bao cấp, hoạt động của các xí nghiệp quốc
doanh chỉ đơn thuần là sản xuất và giao nộp sản phẩm theo kế hoạch của Nhà
nước mà ít quan tâm tới chất lượng, giá thành và lợi nhuận thì trong cơ chế thị
trường, lợi nhuận trở thành nhân tố được quan tâm hàng đầu của mỗi doanh
nghiệp. Khi Nhà nước không còn bao cấp nữa, các doanh nghiệp phải tự quyết
định mọi hoạt động của mình, tự xây dựng các chiến lược hoạt động riêng cho
mình làm sao để vượt qua đối thủ cạnh tranh. Hiển nhiên ta thấy rằng: khi nguồn
thu của doanh nghiệp không thể bù đắp được các chi phí bỏ ra thì dần dần các
nguồn lực của doanh nghiệp sẽ bị vắt kiệt. Chính vì vậy, trong cơ chế cạnh tranh
khốc liệt này, lợi nhuận trở thành yếu tố quyết định số phận của mỗi doanh
nghiệp: hoặc tồn tại, phát triển hoặc bị loại bỏ. Do đó, khát vọng lợi nhuận, mục
tiêu lợi nhuận trở thành một động lực thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng
tăng cường đầu tư, nâng cao hiệu quả và chất lượng quản lí các nguồn lực.
Với mục đích tìm hiểu về lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận đối với các
doanh nghiệp ngày nay, cùng với quá trình tìm hiểu những thuận lợi, khó khăn
trong việc thực hiện mục tiêu lợi nhuận của Công ty Xây lắp Điện I, em đã chọn
đề tài: “ Lợi nhuận và giải pháp gia tăng lợi nhuận tại Công ty Xây lắp Điện I”
làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình. Luận văn được trình
bày theo ba chương:
- Chương I: Lý luận chung về lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Chương II: Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình lợi
nhuận của Công ty Xây lắp điện I
- Chương III: Những giải pháp chủ yếu nhằm gia tăng lợi nhuận tại Công
ty Xây lắp Điện I.
1
Do lần đầu tiên được tiếp cận với vấn đề thực tế và kiến thức thực tiễn


chưa nhiều nên chuyên đề của em chắc còn nhiều khuyết điểm và sai sót, em rất
mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của cô giáo hướng dẫn
PGS.TS Trần Thị Hà cùng toàn thể các cô, chú, anh, chị Phòng Tài chính - Kế
toán, Công ty Xây Lắp Điện I để em có thể hoàn thiện hơn bài viết của mình.
Em xin chân thành cảm ơn !
2
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI NHUẬN
CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm lợi nhuận.
Bất kì một doanh nghiệp nào hoạt động trong nền kinh tế thị trường đều
phải quyết định cho mình những mục tiêu hoạt động và lấy đó làm cái đích để
hướng tới, trong đó mục tiêu chung nhất, tổng quát nhất là mục tiêu tối đa hoá
giá trị tài sản của chủ sở hữu vì mục tiêu này đã xem xét, đánh giá hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp dưới góc độ thời gian, rủi ro và nhiều yếu tố khác.
Để thực hiện mục tiêu này doanh nghiệp phải đồng thời đảm bảo nhiều mục tiêu
cụ thể, trong đó mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận đóng vai trò cơ bản, quan trọng,
góp phần thực hiện mục tiêu tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu. Về lí luận
cũng như thực tiễn các doanh nghiệp luôn quan tâm, nghiên cứu nhân tố lợi
nhuận và tìm ra các biện pháp gia tăng lợi nhuận, coi đây là một trong những
vấn đề phải quan tâm hàng đầu. Vậy lợi nhuận là gì? Tại sao nó lại được các
doanh nghiệp đặc biệt quan tâm như vậy? Các quan điểm của các nhà kinh tế
học dưới đây sẽ giúp chúng ta một phần trả lời được câu hỏi này.
 Các nhà kinh tế học cổ điển trước Marx cho rằng: “Cái phần trội lên nằm
trong giá bán so với chi phí là lợi nhuận”. Theo A. Smith, lợi nhuận là “khoản
khấu trừ thứ hai vào sản phẩm của lao động”, theo cách giải thích của A. Smith
thì lợi nhuận, địa tô và lợi tức chỉ là những hình thái khác nhau của giá trị thặng
dư. Còn theo D.Ricardo: “ Lợi nhuận là phần giá trị thừa ra ngoài tiền công”,
ông coi lợi nhuận là lao động không được trả công của công nhân, như vậy cả
A.Smith và D.Ricardo đều chưa đưa ra được một luận chứng về nguồn gốc của
lợi nhuận.

 Quan điểm của K.Marx về lợi nhuận: Kế thừa những tư tưởng của các nhà
kinh tế học cổ điển, kết hợp với việc nghiên cứu sâu sắc nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa, K.Marx đã kết luận một cách đúng đắn: “Giá trị thặng dư hay cái phần
3
trội lên trong toàn bộ giá trị hàng hoá, trong đó lao động thặng dư hay lao động
không được trả công của công nhân đã được vật hoá thì tôi gọi là lợi nhuận”.
 Các nhà kinh tế học hiện đại như P.Samuelson và D.Norhaus lại cho rằng:
“ Lợi nhuận là khoản thu dôi ra, bằng tổng số thu trừ tổng số chi” , hay nói cách khác
“ Lợi nhuận được định nghĩa là sự chênh lệch giữa tổng thu nhập của một doanh
nghiệp và tổng chi phí”. Nhất trí với quan điểm này, D.Begg, S.Fiser và
R.D.Bush cho rằng: “Lợi nhuận là khoản dôi ra so với chi phí”.
Các quan điểm trên tuy cách nói có khác nhau nhưng thực tế đều thống nhất
rằng: Lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa tổng thu nhập và tổng chi phí của
doanh nghiệp.
Ngày nay, các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp cho rằng: Lợi nhuận là
khoản tiền chênh lệch giữa thu nhập và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt
được thu nhập đó. Đây là chỉ tiêu phản ánh kết quả tài chính cuối cùng, là chỉ
tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2. Các bộ phận cấu thành lợi nhuận của doanh nghiệp.
Theo chế độ kế toán Việt Nam, trước năm 2002, lợi nhuận của doanh
nghiệp dước cấu thành từ ba bộ phận: lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh
doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận hoạt động bất thường.
- Lợi nhuận từ HĐSXKD: Là khoản chênh lệch giữa doanh thu tiêu thụ
sản phẩm và chi phí đã bỏ ra của khối lượng hàng hoá, dịch vụ, lao vụ của các
hoạt động kinh doanh chính và phụ của doanh nghiệp.
- Lợi nhuận từ HĐTC: HĐTC là các hoạt động đầu tư về vốn và tài chính
ngắn, dài hạn nhằm mục đích kiếm lời như đầu tư chứng khoán, cho thuê tài sản,
kinh doanh bất động sản, buôn bán ngoại tệ…Lợi nhuận HĐTC là chênh lệch
giữa doanh thu HĐTC và chi phí HĐTC.
- Lợi nhuận từ HĐBT: Là khoản chênh lệch giữa thu nhập và chi phí của

các hoạt động khác ngoài các hoạt động trên, các hoạt động khác gồm: thanh lý,
nhượng bán TSCĐ, xử lí, giải quyết các tranh chấp, về vi phạm hợp đồng kinh
tế, về xử lí tài sản thừa thiếu chưa rõ nguyên nhân, về các khoản nợ khó đòi…
4
Nhưng từ năm 2002 trở đi, theo Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày
31-12-2001 về việc ban hành và công bố 04 chuẩn mực kế toán và Thông tư số
89/2002/TT-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính thì lợi nhuận của doanh nghiệp
đựoc phân thành 2 bộ phận cơ bản: lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh và lợi
nhuận khác, trong phần phương pháp tính lợi nhuận ta sẽ đề cập rõ hơn tới vấn
đề này.
1.3. Phân phối lợi nhuận.
Phân phối lợi nhuận nhằm mục đích chủ yếu là tái đầu tư, mở rộng năng
lực sản xuất kinh doanh, bảo toàm và phát triển vốn, khuyến khích người lao
động nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Lợi nhuận kinh doanh thực hiện cả năm của doanh nghiệp được phân phối
theo thứ tự như sau:
- Nộp thuế TNDN theo luật định.
- Nộp tiền thu về sử dụng vốn ngân sách Nhà nước (áp dụng đối với các
doanh nghiệp có sử dụng vốn ngân sách Nhà nước).
- Trả các khoản tiền phạt, các khoản chi phí hợp lí, hợp lệ chưa chi khi xây
dựng thuế thu nhập phải nộp.
- Trả các khoản lỗ không được trừ vào lợi nhuận trước thuế.
- Trích lập các quỹ đặc biệt theo tỉ lệ do Nhà nước quy định (đối với doanh
nghiệp kinh doanh trong một số ngành đặc thù mà pháp luật quy định)
- Chi lãi cho đối tác góp vốn theo hợp đồng hợp tác kinh doanh.
- Trích lập các quỹ chuyên dùng của doanh nghiệp, gồm:
 Quỹ đầu tư phát triển: Được dùng để đầu tư, mở rộng và phát triển kinh
doanh, đổi mới thay thế hoàn chỉnh máy móc, thiết bị dây chuyền công nghệ;
nghiên cứu, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, đào tạo nâng cao trình độ
chuyên môn kỹ thuật cho các bộ công nhân viên trong doanh nghiệp; bổ sung

vốn lưu động, tham gia liên doanh, mua cổ phiếu, trích nộp cấp trên (nếu có).
 Quỹ dự phòng tài chính: Dùng để bù đắp khoản chênh lệch từ những tổn
thất, thiệt hại về tài sản do thiên tai địch hoạ, hoả hoạn, những rủi ro kinh doanh
không được tính trong giá thành và đền bù của cơ quan bảo hiểm.
5
 Quỹ trợ cấp mất việc làm: Dùng để trợ cấp cho người lao động có thời
gian làm việc tại doanh nghiệp đủ một năm trở lệ bị mất việc làm và chi cho
việc đào tạo lại chuyên môn kỹ thuật cho người lao động do thay đổi công nghệ
hoặc muốn chuyển sang việc mới, đặc biệt là đào tạo nghề dự phòng cho lao
động nữ của doanh nghiệp.
 Quỹ phúc lợi: Dùng để đầu tư xây dựng hoặc sửa chữa các công trình phúc
lợi công cộng của doanh nghiệp; góp vốn đầu tư xây dựng các công trình phúc
lợi chung trong ngành hoặc với các đơn vị khác theo hợp đồng thoả thuận; chi
cho các hoạt động phúc lợi xã hội, trợ cấp khó khăn thường xuyên, đột xuất cho
cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp. Ngoài ra, quỹ này còn chi trợ cấp khó
khăn cho người lao động của doanh nghiệp đã nghỉ hưu, mất sức, lâm vào hoàn
cảnh khó khăn không nơi nương tựa.
 Quỹ khen thưởng: Dùng để khen thưởng thường kì hoặc đột xuất cho cán
bộ công nhân viên, những cá nhân, tập thể trong doanh nghiệp có sáng kiến cải
tiến kỹ thuật mang lại hiệu quả kinh doanh. Quỹ này còn dùng để thưởng cho
các cá nhân và đơn vị ngoài doanh nghiệp có quan hệ hợp đồng kinh tế đã thực
hiện tốt những điều kiện trong hợp đồng, mang lại lợi ích cho doanh nghiệp.
1.4. Vai trò của lợi nhuận.
Qua việc nghiên cứu quá trình phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp, ta
thấy lợi nhuận không những duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp mà còn góp
phần vào sự phát triển của nền kinh tế. Lợi nhuận đáp ứng và kết hợp hài hoà
các lợi ích, lợi ích của người lao động, của doanh nghiệp và của Nhà nước. Cụ
thể như sau:
1.4.1. Vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp.
Trong cơ chế thị trường, quy luật cạnh tranh dẫn tới sự cạnh tranh gay gắt

giữa các doanh nghiệp, bắt buộc các doanh nghiệp phải hoạt động hiệu quả, làm
sao để tối đa hoá lợi nhuận của mình. Vì vậy, lợi nhuận luôn giữ vai trò quan
trọng đối với doanh nghiệp và gia tăng lợi nhuận được coi là một trong những
mục tiêu cơ bản của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có tồn tại và phát triển hay
không phụ thuộc vào việc doanh nghiệp có tạo ra lợi nhuận một cách tối đa hay
6
không, nói cách khác: lợi nhuận là yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Lợi nhuận là thước đo hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp:
Khi doanh nghiệp thu được lợi nhuận cao, tức là doanh nghiệp đã đạt được mục
tiêu “ tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu”, giá trị tài sản của doanh nghiệp
ngày càng tăng, doanh nghiệp có thêm nguồn tích luỹ cơ bản để tái sản xuất,
mở rộng áp dụng công nghệ mới, tăng chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, tăng
khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường.
Mặt khác lợi nhuận của doanh nghiệp sau khi nộp thuế cho Nhà nước và chi
trả các khoản phạt và chi phí khác sẽ được dùng để trích lập, phát triển các quỹ
chuyên dùng của doanh nghiệp như quỹ đầu tư phát triển, quỹ trợ cấp mất việc
làm… Các quỹ này đảm bảo khả năng tự chủ tài chính cho doanh nghiệp trong
nền kinh tế cạnh tranh hiện nay, tạo sự tín nhiệm cao đối với ngân hàng, các tổ
chức tín dụng, có điều kiện thuận lợi hơn trong việc vay vốn, mở rộng kinh
doanh, không những ở thị trường trong nước mà còn với thị trường quốc tế.
Lợi nhuận của doanh nghiệp tăng cao là yếu tố khẳng định tính đúng đắn
của phương hướng và chiến lược hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, biểu
hiện tính năng động và khoa học trong tổ chức lãnh đạo và quản lí doanh
nghiệp. Khi doanh nghiệp có lợi nhuận cao thì sẽ có điều kiện tăng thu nhập, cải
thiện đời sống vật chất tinh thần, đảm bảo quyền lợi cho người lao động, điều
này thúc đẩy họ làm việc, tăng ý thức trách nhiệm, phát huy tính sáng tạo, nhờ
đó năng suất lao động được nâng cao, làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, do vậy lợi nhuận còn được coi là đòn bẩy kinh tế, kích thích
người lao động làm việc hiệu quả hơn cho doanh nghiệp.

1.4.2. Vai trò của lợi nhuận đối với xã hội.
Lợi nhuận có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp, ngoài ra đối với xã
hội, nó cũng có vai trò không kém phần quan trọng. Trước hết, doanh nghiệp có
lợi nhuận cao sẽ có điều kiện hoàn thành tốt nghĩa vụ đóng góp tài chính vào
ngân sách Nhà nước qua khoản thuế TNDN, đây là nguồn thu quan trọng của
ngân sách Nhà nước, mà ngân sách Nhà nước đảm bảo cho việc đầu tư cơ sở hạ
7
tầng, mở rộng tái sản xuất xã hôị, tăng cường sự phát triển của nền kinh tế quốc
dân. Mặt khác, bằng việc đóng góp một phần lợi nhuận vào ngân sách Nhà
nước, doanh nghiệp đã góp phần đảm bảo cho sự đóng góp công bằng, hợp lí,
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế quốc dân, do vậy nếu như mỗi
doanh nghiệp có lợi nhuận cao, tức là hoạt động kinh doanh hiệu quả, tình hình
tài chính ổn định và tăng trưởng thì sẽ làm cho nền kinh tế đất nước sẽ ổn định
và tăng trưởng. Ngoài ra, lợi nhuận còn giúp doanh nghiệp có điều kiện mở rộng
quy mô sản xuất, tạo việc làm cho người lao động, góp phần giải quyết tình
trạng thất nghiệp cho xã hội.
Qua sự phân tích trên ta thấy việc tối đa hoá và gia tăng lợi nhuận có ý
nghĩa vô cùng quan trọng, không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối với toàn
xã hội.
1.5. Các nhân tố tác động tới lợi nhuận của doanh nghiệp.
Lợi nhuận là chỉ tiêu tài chính cuối cùng đánh giá hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp, do vậy nó chịu sự tác động của hàng loạt các nhân tố trung
gian, cả khách quan lẫn chủ quan, đó là các nhân tố thuộc về thị trường, về chính
sách vĩ mô của Nhà nước và bản thân doanh nghiệp. Dưới đây ta xét các nhân tố
tác động chủ yếu.
1.5.1. Các nhân tố khách quan.
a. Cung, cầu về sản phẩm hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp trên thị
trường.
Cung, cầu hàng hoá là khái quát hai lực lượng người mua và người bán trên

thị trường. Cung ở đây là các nhà cung ứng có khả năng và sẵn sàng cung ứng
sản phẩm, cầu là các khách hàng sẵn sàng tiêu thụ sản phẩm và có khả năng
thanh toán.
Chính cầu về hàng hoá trên thị trường sẽ quyết định lượng cung ứng của
doanh nghiệp. Cầu cao sẽ là nhân tố thúc đẩy doanh nghiệp mở rộng quy mô sản
xuất, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng doanh số bán, góp phần tăng lợi
nhuận. Nếu cầu vượt quá cung, hàng hoá sẽ trở nên khan hiếm, doanh nghiệp có
8
thể tăng giá bán hàng hoá và lợi nhuận thu được sẽ lớn hơn. Ngược lại, nếu cầu
về sản phẩm của doanh nghiệp thấp, tình hình cạnh tranh gay gắt sẽ làm cho
doanh nghiệp gặp khó khăn trong vấn đề tiêu thụ sản phẩm, từ đó giảm doanh
thu tiêu thụ, giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
Cung sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp cũng là yếu tố cần
được doanh nghiệp phân tích kỹ. Nếu như sản phẩm của doanh nghiệp có ít nhà
cung ứng hoặc trong trường hợp tốt hơn là doanh nghiệp đang độc quyền sản
phẩm thì khi cầu về sản phẩm lớn, doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn trong việc xác
định giá bán và tiêu thụ sản phẩm để đạt doanh thu lớn, góp phần tăng lợi nhuận.
Nếu như sản phẩm của doanh nghiệp là một sản phẩm có nhiều đối thủ cạnh
tranh thì tất nhiên doanh nghiệp không thể áp đặt giá bán và việc tiêu thụ sản
phẩm sẽ gặp khó khăn, từ đó ảnh hưởng đến doanh thu, làm giảm lợi nhuận của
doanh nghiệp.
b. Thị trường đầu vào.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất, chi phí nguyên vật liệu đầu vào chiếm tỉ
trọng cao trong tổng chi phí và có ảnh hưởng lớn đến chi phí sản xuất và do đó
ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu như doanh nghiệp tìm được
nguồn cung ứng nguyên vật liệu với chất lượng tốt, giá cả phù hợp sẽ giúp cho
hạ thấp giá thành sản phẩm, đồng thời đảm bảo chất lượng của sản phẩm bán ra,
tạo điều kiện tăng doanh thu, giảm chi phí sản xuất, góp phần tăng lợi nhuận của
doanh nghiệp. Tuy nhiên trong trường hợp nguồn cung ứng gặp khó khăn buộc
doanh nghiệp phải nhập nguyên vật liệu với giá cao sẽ làm giá thành sản phẩm

tăng, làm tăng chi phí sản xuất và giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
Trong quá trình hoạt động của mình, doanh nghiệp cũng phải thanh toán
nhiều chi phí dịch vụ mua ngoài thiết yếu như chi phí điện, nước, điện thoại,
internet, sửa chữa TSCĐ, tư vấn, kiểm toán, tiếp thị, quảng cáo, giới thiệu sản
phẩm…những chi phí này cũng ảnh hưởng tới chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm, ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
c. Môi trường kinh doanh.
9
Bất cứ một doanh nghiệp nào cũng hoạt động trong một môi trường kinh
doanh nhất định. Môi trường kinh doanh có tác động mạnh mẽ tới mọi hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp và từ đó ảnh tới kết quả kinh doanh và ảnh
hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Gồm các yếu tố môi trường sau:
* Sự ổn định của nền kinh tế.
Sự ổn định hay không ổn định của nền kinh tế, của thị trường có ảnh
hưởng tới khối lượng sản phẩm tiêu thụ, ảnh hưởng trực tiếp tới mức doanh thu
của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng tới lợi nhuận, bên cạnh đó, những biến động
của nền kinh tế có thể gây ra những rủi ro kinh doanh ảnh hưởng đến những
khoản chi phí vật tư, chi phí trả lãi, tiền thuê nhà xưởng, máy móc thiết bị…từ
đó tác động xấu tới lợi nhuận của doanh nghiệp.
* Cơ chế chính sách của chính phủ.
Đây là nhân tố khách quan có tác động mạnh mẽ nhất đến hoạt động của
doanh nghiệp. Các cơ chế chính sách của chính phủ tầm vĩ mô đều có tác dụng
điều tiết sản xuất, định hướng tiêu dùng, tạo môi trường ổn định cho doanh
nghiệp hoạt động. Ở tầm vi mô, những chính sách này có thể sẽ khuyến khích
hay hạn chế hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp phải lường
trước những lợi thế cũng như rủi ro do những tác động của các chính sách của
chính phủ để ra quyết định phù hợp. Dưới đây chúng ta sẽ xem xét một số chính
sách vĩ mô ảnh hưởng tới doanh thu và chi phí, từ đó ảnh hưởng tới lợi nhuận
của doanh nghiệp.
- Chính sách thuế:

Thuế là hình thức nộp bắt buộc theo luật định, có tác động điều tiết hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuỳ theo tính chất, ngành nghề sản
xuất kinh doanh, một doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh phải nộp
nhiều loại thuế khác nhau: thuế xuất nhập khẩu, VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt…
ngoài các khoản thuế doanh nghiệp còn phải nộp một số khoản phí và lệ phí.
Mức thuế suất được Nhà nước quy định tuỳ theo tính chất của từng mặt
hàng. Bởi vậy đòi hỏi doanh nghiệp theo dõi thường xuyên vì khi có những thay
10
đổi liên quan tới thuế, phí, lệ phí thì các khoản mục hạch toán của doanh nghiệp
cũng thay đổi, từ đó ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Chính sách lãi suất:
Thông thường, để thực hiện việc sản xuất kinh doanh ngoài vốn tự có
doanh nghiệp phải vay thêm vốn. Doanh nghiệp có thể vay vốn bằng cánh phát
hành trái phiếu, vay ngân hàng hoặc các tổ chức, cá nhân khác và doanh nghiệp
phải trả cho người cho vay một khoản tiền gọi là lãi vay trong từng thời kì nhất
định.
Tiền lãi được tính trên cơ sở lãi suất, số tiền gốc và thời hạn vay. Lãi suất
cho vay phụ thuộc vào lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định. Khi
Ngân hàng Nhà nước thay đổi mức lãi suất cơ bản thì sẽ tác động trực tiếp tới
chi phí trả lãi vay, tác động tới toàn bộ chi phí và tác động tới lợi nhuận của
doanh nghiệp.
- Sự kiểm soát giá:
Trong nền kinh tế thị trường, giá cả không do Nhà nước kiểm soát mà nó
chịu ảnh hưởng của quy luật cung cầu trên thị trường. Doanh nghiệp căn cứ vào
tình hình cung cầu trên thị trường mà xây dựng giá bán sản phẩm, Nhà nước chỉ
tham gia can thiệp nếu cần thiết. Tuy nhiên, đối với những lĩnh vực then chốt, có
vai trò quan trọng, có tính chất chiến lược với nền kinh tế quốc dân như viễn
thông, điện lực, xăng dầu… thì Nhà nước sẽ kiểm soát giá. Nếu như doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này thì giá bán sản phẩm phải nằm trong khung
giá do Nhà nước quy định. Trong trường hợp các nhân tố khác không thay đổi,

thay đổi giá bán có ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu, từ đó trực tiếp ảnh hưởng
tới lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.5.2. Các nhân tố chủ quan:
Đây là các nhân tố thuộc về quy mô và năng lực sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
a. Vốn:
Vốn là các quỹ tiền mà doanh nghiệp sử dụng vào quá trình hoạt động kinh
doanh của mình. Vốn là chỉ tiêu thể hiện khả năng tài chính và quy mô doanh
11
nghiệp và có ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Nó là điều kiện để doanh nghiệp mở rộng quy mô, tăng khối lượng sản
phẩm làm ra, từ đó góp phần tăng doanh thu, tăng lợi nhuận doanh nghiệp.
Vốn của doanh nghiệp có thể được chia thành vốn chủ sở hữu và vốn vay,
tỷ trọng các nguồn này trong tổng nguồn được gọi là cơ cấu vốn của doanh
nghiệp. Cơ cấu vốn có ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp, nếu tỉ trọng
vốn vay lớn thì doanh nghiệp sẽ chia sẻ được rủi ro của mình cho các chủ nợ, có
khả năng thu lợi nhuận cao, song doanh nghiệp phải bỏ ra một khoản chi phí để
trả lãi, nếu doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả, trong khi chi phí trả lãi lớn sẽ
làm tổng chi phí tăng, từ đó làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
b.Công nghệ:
Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và việc áp dụng công nghệ vào sản xuất
kinh doanh là nhân tố cực kì quan trọng cho phép các doanh nghiệp hạ giá thành
sản phẩm, năng cao lợi nhuận và thành công trong kinh doanh. Nhất là trong
điều kiện hiện nay, cuộc cách mạng khoa học phát triển hết sức mạnh mẽ, các
thiết bị máy móc hiện đại được sử dụng trong sản xuất đã thay thế lao động nặng
nhọc của con người, việc tiêu tốn nguyên vật liệu để sản xuất ra sản phẩm càng
ít, nhiều loại vật liệu mới ra đời, lượng lao động dùng trong sản xuất cũng giảm
bớt do áp dụng tự động hoá và công nghệ mới. Do vậy, các doanh nghiệp phải
tuỳ theo điều kiện cụ thể mà nắm bắt thời cơ, ứng dụng thành tựu khoa học kĩ
thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, tối đa hoá lợi nhuận của

doanh nghiệp.
c. Lao động:
Bên cạnh vốn và công nghệ thì lao động cũng là một nhân tố quan trọng
ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trình
độ kỹ thuật cao, lành nghề, sáng tạo trong công việc của người lao động sẽ góp
phần làm tăng chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận của
doanh nghiệp và ngược lại. Chi phí nhân công chiếm tỉ trọng khá lớn trong chi
phí sản xuất, nhất là trong các ngành đặc thù như điện lực, viễn thông… Do vậy,
12
chất lượng lao động trong những ngành này càng đóng vai trò quan trọng trong
việc nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất của doanh nghiệp.
d. Công tác quản lý sản xuất và quản lý tài chính.
Hiệu quả của việc quản lý sản xuất và tài chính có ảnh hưởng tới giá
thành sản phẩm của doanh nghiệp. Như ta biết, giá thành sản phẩm cao hay thấp,
tăng hay giảm là tuỳ thuộc vào kết quả của việc quản lý tài chính và sử dụng lao
động, vật tư trong quá trình sản xuất. Trước hết nếu tổ chức quản lý sản xuất đạt
trình độ cao có thể giúp doanh nghiệp xác định được phương án sản xuất tối ưu
làm cho giá thành sản phẩm hạ xuống, nhờ vào việc bố trí các khâu sản xuất hợp
lí có thể hạn chế sự lãng phí nguyên vật liệu, giảm thấp tỉ lệ phế phẩm, những
chi phí về ngừng sản xuất…; đồng thời, thông qua việc tổ chức sử dụng vốn,
kiểm tra tình hình dự trữ vật tư, tồn kho sản phẩm, doanh nghiệp có thể phát
hiện, ngăn ngừa kịp thời tình trạng ứ đọng, mất mát hao hụt vật tư, sản phẩm…
Việc đẩy mạnh tốc độ chu chuyển vốn có thể giảm bớt nhu cầu vốn vay, giúp
doanh nghiệp giảm chi phí về lãi vay.
Tất cả các nhân tố trên đều là tác động chủ quan trong công tác quản lý
của doanh nghiệp, nếu tổ chức tốt công tác này sẽ làm giảm bớt chi phí sản xuất,
góp phần tích cực hạ giá thành sản phẩm nâng cao lợi nhuận trong doanh
nghiệp.
e. Công tác tổ chức tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.
Sau khi doanh nghiệp đã sản xuất được sản phẩm hàng hoá, dịch vụ theo

quyết định tối ưu về sản xuất thì khâu tiếp theo là phải tổ chức bán nhanh, bán
hết và thu tiền về cho quá trình tái sản xuất mở rộng tiếp theo.
Lợi nhuận của quá trình sản xuất kinh doanh chỉ có thể thu được sau khi
thực hiện tốt công tác tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Do đó, tổ chức tiêu
thụ khối lượng lớn hàng hoá dịch vụ, tiết kiệm chi phí tiêu thụ sẽ cho ta khả
năng thu lợi nhuận cao. Để thực hiện tốt công tác này, doanh nghiệp cần phải
nâng cao chất lượng các mặt hàng, tổ chức tốt mạng lưới kênh tiêu thụ sản
phẩm, công tác marketing, các phương thức bán và dịch vụ sau bán hàng. Đây là
khâu quan trọng và chủ yếu trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp
13
thương mại, làm tốt khâu này có nghĩa là doanh nghiệp đã thực hiện tốt công
việc chính của mình và đưa lại thu nhập cho doanh nghiệp.
Trên đây chúng ta đã tìm hiểu về những nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới lợi
nhuận của doanh nghiệp. Việc chia các nhân tố này thành hai nhóm chủ quan và
khách quan như trên sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể chủ động điều chỉnh hoạt
động kinh doanh của mình, điều chỉnh các yếu tố thuộc bản thân doanh nghiệp
để thích ứng với điều kiện khách quan bên ngoài và đạt được kết quả kinh doanh
cao nhất, đạt mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận và từ đó tối đa hoá giá trị tài sản của
chủ sở hữu.
1.6. Phương pháp xác định lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.6.1. Phương pháp trực tiếp.
Theo phương pháp này, lợi nhuận của doanh nghiệp được xác định trực
tiếp từ lợi nhuận HĐSXKD, lợi nhuận HĐTC và lợi nhuận HĐBT của doanh
nghiệp. Khoản lợi nhuận được tổng hợp từ ba bộ phận này là lợi nhuận trước
thuế (hay thu nhập trước thuế) của doanh nghiệp.
a. Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh( Thu nhập trước thuế hoạt động kinh
doanh).
Lợi nhuận HĐSXKD là khoản chênh lệch giữa doanh thu tiêu thụ sản
phẩm, hàng hoá, dịch vụ và chi phí hoạt động kinh doanh. Đây là bộ phận lợi
nhuận chủ yếu mà doanh nghiệp thu được từ hoạt động sản xuất, cung ứng sản

phẩm, dịch vụ trong kì, được xác định theo công thức:
LNHĐKD = DT thuần – GVHB – CPBH – CPQLDN
Trong đó:
- LNHĐSXKD: Lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh
- DT thuần: Doanh thu thuần.
- GVHB: Giá vốn hàng bán.
- CPBH: Chi phí bán hàng.
- CPQLDN: Chi phí quản lí doanh nghiệp.
 Xác định doanh thu thuần.
14
Theo Điều 20 - Nghị định 59/CP của Chính phủ ngày 3 tháng 10 năm
1996 ban hành quy chế QLTC và HTKD đối với DNNN: “ Doanh thu từ hoạt
động kinh doanh là toàn bộ tiền bán sản phẩm, hàng hóa, cung ứng dịch vụ trên
thị trường sau khi đã trừ đi các khoản chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán,
hàng bán bị trả lại, (nếu có chứng từ hợp lệ), thu từ phần trợ giá của Nhà nước
khi thực hiện việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ theo yêu cầu của Nhà nước”.
Như vậy: DT thuần = Tổng DT – Các khoản giảm trừ DT
Trong đó:
- DT : Doanh thu
Các khoản = Chiết khấu - Giảm giá - Giá trị hàng - Thuế gián thu
giảm trừ DT bán hàng hàng bán bán bị trả lại thu hộ
- Chiết khấu bán hàng: Là số tiền tính trên tổng số doanh thu mà doanh
nghiệp trả cho khách hàng do khách hàng đã thanh toán trước thời hạn quy định
- Giảm giá hàng bán: Là số tiền doanh nghiệp giảm trừ cho khách hàng
ngoài hoá đơn hay hợp đồng cung cấp dịch vụ, do các nguyên nhân đặc biệt như
hàng kém phẩm chất, không đúng quy cách… Ngoài ra, còn bao gồm khoản tiền
thưởng cho khách hàng đã mua một khối lượng lớn hàng hoá trong một đợt hay
trong một khoảng thời gian nhất định.
- Hàng bán bị trả lại: Là số hàng đã được coi là tiêu thụ (đã chuyển giao
quyền sở hữu, đã thu được tiền hay được khách hàng chấp nhận thanh toán)

nhưng bị người mua từ chối, trả lại do người bán vi phạm hợp đồng kinh tế đã kí
kết hoặc do nguyên nhân khác.
- Thuế: Gồm các loại thuế như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu…
 Xác định giá vốn hàng bán.
Giá vốn hàng bán phản ánh trị giá gốc của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ đã
được coi là tiêu thụ, được xác định như sau:
- Đối với doanh nghiệp sản xuất:
Giá vốn = Giá thành + Chênh lệch thành
hàng bán sản xuất phẩm tồn kho
Chênh lệch thành = Thành phẩm _ Thành phẩm
15
phẩm tồn kho tồn kho đầu kì tồn kho cuối kì
Giá thành sản xuất bao gồm 3 yếu tố chi phí: nguyên vật liệu trực tiếp, chi
phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
- Đối với doanh nghiệp thương mại:
Giá vốn hàng bán = Giá vốn hàng mua + Chênh lệch HTK
Chênh lệch HTK = HTK đầu kì - HTK cuối kì
Trong đó:
- HTK: Hàng tồn kho.
 Chi phí bán hàng: Là những khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc tiêu
thụ sản phẩm hàng hoá, lao vụ, dịch vụ trong kì như: chi phí nhân viên bán
hàng, chi phí khấu hao TSCĐ dùng trong bộ phận bán hàng, các chi phí quảng
cáo, tiếp thị…
 Chi phí quản lí doanh nghiệp: Là những khoản chi phí liên quan tới việc tổ
chức quản lí, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
b. Lợi nhuận từ hoạt động tài chính( hay thu nhập trước thuế hoạt động tài
chính):
Lợi nhuận HĐTC là chênh lệch giữa thu nhập HĐTC và chi phí HĐTC tài
chính. Như vậy:
Lợi nhuận HĐTC= Thu nhập HĐTC – Chi phí HĐTC

- Thu nhập hoạt động tài chính: Là những khoản thu từ việc mua bán trái
phiếu, cổ phiếu, từ hoạt động liên doanh, liên kết, lãi về cho thuê tài sản…
- Chi phí hoạt động tài chính: Là các chi phí cho việc mua bán chứng
khoán, chi phí cho hoạt động liên doanh, hợp doanh, góp vốn cổ phần…
c. Lợi nhuận từ hoạt động bất thường( hay thu nhập trước thuế hoạt động bất
thường): Lợi nhuận HĐBT là chênh lệch giữa thu nhập HĐBT và chi phí
HĐBT. Như vậy:
Lợi nhuận HĐBT = Thu nhập HĐBT – Chi phí HĐBT
- Thu nhập hoạt động bất thường: Là những khoản doanh nghiệp thu về
tiền phạt từ đối tác do bên kia vi phạm hợp đồng, thu các khoản nợ khó đòi, thu
về thanh lí, nhượng bán TSCĐ…
16
- Chi phí HĐBT: Là những khoản doanh nghiệp phải chi như chi phạt
thuế, chi phạt do doanh nghiệp vi phạm hợp đồng, chi cho thanh lí, nhượng bán
TSCĐ…
Sau khi đã xác định được lợi nhuận từ 3 hoạt động kinh doanh trên ta tính
được lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp như sau:
Lợi nhuận = Lợi nhuận + Lợi nhuận + Lợi nhuận
trước thuế HĐKD HĐTC HĐBT
LNST = LNTT - Thuế TNDN
Thuế TNDN = LNTT * Thuế suất thuế TNDN
Với:
- LNTT: Lợi nhuận trước thuế
- LNST: Lợi nhuận sau thuế
- Thuế TNDN: Thuế thu nhập doanh nghiệp.
* Nhận xét: Cách tính lợi nhuận theo phương pháp trực tiếp rất đơn giản, dễ tính
toán, do đó phương pháp này được áp dụng phổ biến và rộng rãi trong các doanh
nghiệp sản xuất ít loại sản phẩm. Còn đối với những doanh nghiệp lớn, sản xuất
nhiều loại sản phẩm thì phương pháp này không thích hợp bởi khối lượng công
việc tính toán sẽ rất lớn, tốn nhiều thời gian và công sức.

1.6.2. Phương pháp gián tiếp.
Theo phương pháp này, lợi nhuận của doanh nghiệp được tính thông qua
việc xác định lần lượt các chỉ tiêu sau:
1. Doanh thu bán hàng.
2. Các khoản giảm trừ doanh thu
3. Doanh thu thuần về bán hàng(= 1 - 2)
4. Giá vốn hàng bán
5. Lợi nhuận gộp về hoạt động kinh doanh( = 3 - 4)
6. Chi phí bán hàng
7. Chi phí quản lí doanh nghiệp
8. Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh(= 5 - 6 - 7)
9. Thu nhập hoạt động tài chính
17
10. Chi phí hoạt động tài chính
11. Lợi nhuận hoạt động tài chính (= 9 - 10)
12. Thu nhập hoạt động bất thường
13. Chi phí hoạt động bất thường
14. Lợi nhuận hoạt động bất thường (= 12 - 13)
15. Lợi nhuận trước thuế ( = 8 +11 + 14)
16. Thuế TNDN ( = 15 * Thuế suất thuế TNDN)
17. Lợi nhuận sau thuế (= 15 - 16)
* Nhận xét: Cách tính này cho phép người quản lý nắm được quá trình hình
thành lợi nhuận và tác động của từng khâu hoạt động tới kết quả hoạt động kinh
doanh cuối cùng của doanh nghiệp, đó là lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp
(lợi nhuận ròng). Phương pháp này giúp ta có thể lập báo cáo kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu trên, nhờ đó chúng ta dễ dàng
phân tích và so sánh được kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp kỳ
trước so với kỳ này. Do vậy phương pháp này được sử dụng phổ biến.
Theo Thông tư số 89/2002/TT-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính, lợi
nhuận của doanh nghiệp được xác định như sau:

1. Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ
2. Các khỏan giảm trừ
3. Doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ(=1-2)
4. Giá vốn hàng bán
5. Lợi nhuận gộp về bán hàng và cung cấp dịch vụ(=3- 4)
6. Doanh thu hoạt động tài chính
7. Chi phí tài chính
8. Chi phí bán hàng
9. Chi phí quản lí doanh nghiệp.
10. Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh(= 5+6-7-8-9).
11. Thu nhập khác.
12. Chi phí khác.
13. Lợi nhuận khác(=11-12)
18
14. Tổng lợi nhuận trước thuế(= 10+13).
15. Thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp.
16. Lợi nhuận sau thuế(=14-15).
1.7. Các chỉ tiêu lợi nhuận.
Như trên đã đề cập, lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính và
kết quả hoạt động của doanh nghiệp, do đó để đánh giá hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp người ta thường căn cứ vào các chỉ tiêu về lợi nhuận mà
doanh nghiệp đạt được trong kì, bao gồm cả chỉ tiêu tuyệt đối và chỉ tiêu tương
đối.
1.7.1. Các chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối.
Gồm một số chỉ tiêu như:
- Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
- Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh, từ hoạt động tài chính, từ hoạt
động bất thường.
- Lợi nhuận trước thuế TNDN.
- Lợi nhuận sau thuế TNDN.

Tuy nhiên, cũng phải lưu ý rằng không thể coi lợi nhuận tuyệt đối là chỉ
tiêu duy nhất để đánh giá chất lượng hoạt động kết quả sản xuất kinh doanh và
cũng không thể chỉ dựa vào nó để so sánh chất lượng hoạt động giữa các doanh
nghiệp khác nhau, vì lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng nên nó chịu ảnh
hưởng của nhiều nhân tố cả chủ quan và khách quan, nếu điều kiện kinh doanh
của các doanh nghiệp khác nhau thì lợi nhuận của các doanh nghiệp khác nhau
là không giống nhau, mặt khác các doanh nghiệp cùng ngành nếu quy mô sản
xuất khác nhau thì lợi nhuận thu được cũng sẽ khác nhau.
Do vậy, để đánh giá và so sánh chất lượng hoạt động của các doanh
nghiệp các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp thường quan tâm hơn tới các chỉ
tiêu về tỉ suất lợi nhuận.
19
1.7.2. Các chỉ tiêu về tỉ suất lợi nhuận.
Các chỉ tiêu này phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, do đó nó là cơ sở quan trọng để các nhà hoạch định đưa ra các
quyết định tài chính trong cả ngắn hạn và dài hạn. Các chỉ tiêu chủ yếu gồm:
a. Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm(tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu).
Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia lợi nhuận sau thuế cho doanh
thu thuần mà doanh nghiệp thực hiện trong kì.
Lợi nhuận sau thuế
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = x 100
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này phản ánh trong 100 đồng doanh thu thuần mà doanh nghiệp
thực hiện trong kì có bao nhiêu đồng lợi nhuận. Để đánh giá chỉ tiêu doanh lợi
tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp đạt đựơc cao hay thấp ta phải đặt nó trong một
ngành cụ thể và so sánh chỉ tiêu năm nay với các năm trước và với các doanh
nghiệp cùng ngành. Nếu chỉ tiêu này cao hơn chỉ tiêu chung của toàn ngành
chứng tỏ doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn các doanh nghiệp
khác trong ngành.
b. Doanh lợi vốn chủ sở hữu

Chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu hay tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu
được xác định bằng cách chia lợi nhuận sau thuế cho vốn chủ sở hữu.
Lợi nhuận sau thuế
Doanh lợi vốn chủ sở hữu = - x 100
Vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu này cho biết số lợi nhuận sau thuế thu được từ 100 đồng vốn chủ
sở hữu, hay nói cách khác chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ
sở hữu do đó nó được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn
đầu tư vào doanh nghiệp. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là mục tiêu quan
trọng nhất trong hoạt động quản lí tài chính doanh nghiệp. Doanh nghiệp tính
chỉ tiêu này để thấy được lợi nhuận ròng do vốn chủ sở hữu đem lại, thấy được
hiệu quả sử dụng vốn tự có và phục vụ cho việc phân tích tài chính. Chỉ tiêu này
càng cao càng tốt, phản ánh doanh nghiệp ngày càng hoạt động hiệu quả, song
để so sánh với các doanh nghiệp khác cần phải dựa vào mức trung bình ngành.
20
c. Doanh lợi tài sản
Doanh lợi tài sản hay doanh lợi vốn là chỉ tiêu tổng hợp nhất dùng để
đánh giá khả năng sinh lợi của vốn đầu tư. Tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của
doanh nghiệp được phân tích và phạm vi so sánh mà người ta lựa chọn chỉ tiêu
lợi nhuận trước thuế hay lợi nhuận sau thuế dể so sánh với tổng tài sản.
- Với doanh nghiệp sử dụng nợ trong kinh doanh:
Lợi nhuận trước thuế và lãi
Doanh lợi tài sản = x 100
Tổng tài sản
- Với doanh nghiệp không sử dụng nợ trong kinh doanh:
Lợi nhuận sau thuế
Doanh lợi tài sản = x 100
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này cho biết khả năng sinh lãi của doanh nghiệp tính trên 100
đồng giá trị tài sản đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Qua chỉ tiêu này ta có thể

đánh giá trình độ sử dụng vốn, quản lí tài sản của doanh nghiệp.
d. Tỷ suất lợi nhuận giá thành.
Tỷ suất lợi nhuận giá thành cho biết 100 đồng giá thành( chi phí) tạo ra
bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Tỷ suất lợi nhuận giá thành giúp ta thấy rõ
hiệu quả của chi phí bỏ vào sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong kì.
Lợi nhuận sau thuế
Tỷ suất lợi nhuận giá thành = x 100
Giá thành sản phẩm
Giá thành sản phẩm bao gồm toàn bộ chi phí để hoàn thành cả sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm. Chỉ tiêu này có thể tính riêng cho từng loại sản phẩm, từng
hạng mục công trình cũng như tính chung cho toàn bộ sản phẩm, dịch vụ. Từ kết
quả tính toán này, doanh nghiệp có thể định hướng xem mặt hàng nào đạt mức
lợi nhuận cao và tìm biện pháp để tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, tăng
lợi nhuận.
Ngoài các chỉ tiêu chủ yếu trên, xuất phát từ những mục đích khác nhau
của các doanh nghiệp, và những đối tượng sử dụng thông tin mà doanh nghiệp
21
có thể xây dựng những chỉ tiêu về tỉ suất lợi nhuận khác nhau, có ý nghĩa khác
nhau như: tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh, tỷ suất lãi gộp trên doanh thu…
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH
VÀ TÌNH HÌNH LỢI NHUẬN CỦA CÔNG TY XÂY LẮP ĐIỆN I
22
2.1. Giới thiệu khái quát về công ty xây lắp điện I (CTXLĐ I)
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của CTXLĐ I.
CTXLĐ I là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Tổng công ty (TCT)
xây dựng Công nghiệp Việt Nam (Bộ công nghiệp), là một trong những đơn vị
hàng đầu của ngành xây lắp Việt Nam, chuyên về xây dựng, lắp đặt và cung ứng
trang thiết bị vật tư phục vụ ngành điện. Trụ sở của công ty đặt tại Số 18 - Lý
Văn Phúc - Phường Cát Linh - Q. Đống Đa – Hà Nội, tên giao dịch của công ty
là Power Construction Company No 1 (viết tắt là PCCI)

Tiền thân của CTXLĐ I là Công ty Xây lắp Đường dây và trạm I, trực
thuộc Bộ Công nghiệp nặng, ra đời ngày 03/02/1963, với nhiệm vụ chính là xây
dựng đường dây tải điện và trạm biến áp.
Ngày 10/01/1988, CTXLĐ I được thành lập do sự hợp nhất của hai công
ty: Công ty Xây lắp Đường dây và trạm I, Công ty Xây lắp Đường dây và trạm
khu vực Hà Nội, theo Quyết định số 346/NL/TCCBNL của Bộ Năng lượng.
Ngày 19/06/1993, công ty được thành lập lại theo quyết định số
346/NL/TCCBLĐ của Bộ Năng lượng về việc thành lập lại doanh nghiệp nhà
nước.
Ngày 21/07/1995, Chính phủ ban hành Nghị định Số 14/CP về việc thành
lập Tổng công ty Điện lực Việt Nam, hoạt động theo mô hình Công ty 91 với
nhiều công ty thành viên thực hiện hạch toán kinh tế độc lập, trong đó có
CTXLĐ I.
Tháng 3/1997, CTXLĐ I ký kết liên doanh với công ty KINDEN của
Nhật Bản để thành lập công ty liên doanh VINA - KINDEN.
Ngày 01/01/1999, do yêu cầu quản lý, công ty được tách khỏi TCT Điện
lực Việt Nam và trở thành một công ty thành viên của TCT Xây dựng Công
nghiệp Việt Nam (Trực thuộc Bộ Năng lượng).
Ra đời trong cơ chế bao cấp, cũng là thời kì nước nhà đang phải đương
đầu với công cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước và xây dựng CNXH, công ty
đã trải qua muôn vàn khó khăn và thử thách, nhất là chịu những tác động tiêu
cực của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp kéo dài. Đặc biệt vào những năm
23
cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90, khi Đảng và nhà nước ta đang có chủ trương bỏ
cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường, cũng thời kì
này phe XHCN và Liên Xô tan rã, nền kinh tế nước nhà lâm vào thời kỳ có
nhiều yếu tố biểu hiện của sự khủng hoảng kinh tế. Trong hoàn cảnh đó cũng
như nhiều doanh nghiệp khác, CTXLĐ I càng gặp nhiều khó khăn hơn. Tuy vậy
với sự lãnh đạo sáng suốt của ban lãnh đạo công ty, và sự nỗ lực cố gắng của
toàn thể cán bộ công nhân viên (CBCNV), công ty vẫn đứng vững và phát triển.

Đặc biệt vào đầu năm 1992, được sự tín nhiệm của Đảng và Nhà nước, CTXLĐ
I được nhận nhiệm vụ khởi công xây dựng công trình Đường dây 500 KV Bắc-
Nam và công ty đã hoàn thành xuất sắc, ngày 30/04/1994 lễ khành thành Đường
dây 500 KV Bắc – Nam cùng với sự đăng quang của công ty đã đánh dấu một
bước phát triển mới của CTXLĐ I .
Phát huy những thành quả, kế thừa những kinh nghiệm, uy tín mà TCT
đạt được trong thị trường xây dựng, CTXLĐ I đã xác định mục tiêu chủ yếu là
xây lắp các công trình, do vậy doanh thu của công ty có nguồn chủ yếu là từ
hoạt động xây lắp điện. Hơn 40 năm qua, công ty đã trưởng thành và lớn mạnh
cùng với sự phát triển của ngành Điện Việt Nam, công ty luôn hoàn thành tốt
những nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao, đạt được nhiều thành quả quan
trọng, góp phần phát triển và hoàn thiện mạng lưới điện quốc gia. Cụ thể công ty
đã xây dựng được:
- 341 km đường dây 500kv ( đoạn Hoà Bình – Hà Tĩnh)
- 5000 km đường dây, 2000 trạm biến áp từ 6 – 10 kv
- 2000 km đường dây, 560 trạm biến áp 35 kv
- 2000 km đường dây, 30 trạm biến áp 110kv
Không chỉ có uy tín trong nước mà công ty còn tạo được sự tín nhiệm của
các nhà đầu tư nước ngoài, công ty đã tham gia xây lắp hệ thống điện chiếu sáng
cho các khu công nghiệp, nhà máy, khách sạn, bệnh viện như khu công nghiệp
Nomura - Hải Phòng, khu chế xuất Nội Bài, nhà máy xi măng Chinfon-Hải
Phòng, khách sạn Hà Nội Plaza, nhà máy bơm Ebara-Hải Dương, khách sạn
Nikko, bệnh viện Bạch Mai… Việc ký kết liên doanh với công ty KINDEN-
24
Nhật Bản vào năm 1997 đã mở ra thời kỳ phát triển mới trong quan hệ hợp tác
của công ty với công ty nước ngoài.
Hiện nay, toàn công ty có 6 đơn vị thành viên và các đội, trạm trực thuộc
là các đơn vị trực tiếp thi công công trình:
- Xí nghiệp cơ giới và xây dựng điện (Hà Tây)
- Xí nghiệp vật liệu và xây dựng điện (Thanh Xuân)

- Xí nghiệp dịch vụ và xây lắp điện (Thanh Xuân)
- Xí nghiệp xây lắp điện và nội thất (Từ Liêm)
- Xí nghiệp xây lắp và công trình công nghiệp ( Mai Động)
- Trung tâm tư vấn và xây dựng điện I( Số 18- Lý Văn Phúc- Hà Nội
Cùng với tiến trình phát triển của nền kinh tế nước nhà, CTXLĐI đã tự
hoàn thiện mình, công ty đã đầu tư thêm máy móc thiết bị mới, luôn chú trọng
tới công tác đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn cho CBCNV, công ty đã
xây dựng thành công nhiều công trình trọng điểm, có quy mô lớn, đã khẳng định
được vị thế của mình trong toàn ngành cũng như trong nền kinh tế đất nước.
2.1.2. Chức năng và nhiệm vụ của CTXLĐ I
2.1.2.1. Chức năng của công ty.
CTXLĐ I là một doanh nghịêp nhà nước, có tư cách pháp nhân, thực hiện
chế độ hạch toán kinh tế độc lập, có tài khoản tại ngân hàng, có con dấu riêng,
hoạt động theo pháp luật và phân cấp của TCT Xây dựng Công nghiệp Việt
Nam. Nghị định 15/CP, ngày 2/3/1993 của Chính phủ đã quy định rõ chức năng
của công ty như sau:
- Xây lắp các công trình đường dây tải điện và trạm biến thế.
- Xây dựng các công trình công nghiệp và dân dụng .
- Sản xuất cấu kiện kim loại, bê tông, vật liệu xây dựng, phụ kiện điện
phục vụ nhu cầu xây dựng ngành điện.
- Vận tải phục vụ sản xuất kinh doanh trong và ngoài ngành.
- Tư vấn về xây dựng.
- Kinh doanh ngành nghề khách sạn.
- Thí nghiệm, hiệu chỉnh thiết bị điện trong quá trình xây lắp.
25

×