Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Tài liệu Thơ của Phạm Tiến Duật doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.45 KB, 5 trang )

Thơ là tiếng nói của tâm hồn, được chắt lọc từ trí tuệ, từ lòng người, rung cảm theo thời
gian, nhịp sống và không thể tự dối mình. Thơ anh thông minh, nhạy cảm và tinh tế.
Hàng triệu người ra trận cũng đều có tâm trạng như anh. Hầu như bài thơ nào của anh
cũng tha thiết yêu đời, yêu cuộc sống, yêu những khoảng rừng xanh ngát, nhưng tiếng gió
của rừng chiều, nhớ về đồng đội với lòng thông cảm yêu thương, gợi nhớ quê hương yêu
dấu Bài thơ tiêu biểu „Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây” của anh đã có mặt trong ba
lô hàng triệu người ra trận, là nguồn nghị lực, dũng khí động viên, thôi thúc họ.
Tâm trạ̣ng của nhà thơ đồng cảm với tâm trạng của người lính:
Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây.
Về bài thơ này, có người đã nhận xét một cách quan liêu, hời hợt, bảo Phạm Tiến Duật ca
tụng bom đạn, chiến tranh, tô hồng cuộc sống thiếu thốn, mất mát Thoắt một cái, gần
33 năm qua đi, chiến tranh càng lùi sâu vào quá khứ, nhưng những con người dạo ấy vẫn
tỏa sáng trong nền văn học, mỹ học với nhiều phẩm chất tuyệt vời. Những ai hiểu biết về
giá trị cuộc sống, về con người, phải chăng, đều có chút nuối tiếc phẩm chất con người
trong thời chiến và bừng ngộ những giá trị văn hóa của nó, trong sự đối chiếu với những
cái nhỏ nhen, lố bịch, thảm hại của con người tầm thường, dùng đồng tiền làm thước đo
phẩm giá.
Với cái nhìn như thế, chúng ta mới có thể tái thẩm định được một cách đúng đắn những
giá trị thơ ca mà Phạm Tiến Duật và các thi sĩ cùng thời đã sáng tạo - đó là nền văn hóa
thời chiến tranh.
Thế đấy, giữa chiến trường
Nghe tiếng bom rất nhỏ
("Tiếng bom ở Seng Phan")
Hay như anh đã viết:
Cái vết thương xoàng mà đi viện
Hàng còn chờ đó tiếng xe reo
Nằm ngửa nhớ trăng nằm nghiêng nhớ bến
Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo.
(“Nhớ”)
Trong những năm tháng chiến tranh, Phạm Tiến Duật không có thơ khóc đồng đội, đồng


chí. Cũng có thể anh đã viết, nhưng anh đã giấu đi, không cho in. Không phải riêng anh,
mà ít nhà thơ đã viết điều đó, hoặc giả, nếu có viết về cái mất mát đau thương, cái chết thì
người đọc vẫn như được tăng sức mạnh, tăng thêm dũng khí, và càng căm thù những kẻ
gây nên mất mát đau thương, chết chóc. Chẳng hạn, như Hoàng Lộc, trong „Viếng bạn”,
một bài thơ hay của chín năm trường kỳ kháng chiến:
1
Khóc anh không nước mắt
Mà lòng đau như cắt
Hay như Tố Hữu cũng đã viết, trong “Việt Nam máu và hoa”:
Trắng khăn tang em chẳng khóc đâu
Hỡi em gái mất cha mất mẹ
Nước mắt rơi làm nhòa mặt quân thù
Một hình ảnh thương đau được Phạm Hổ khắc họa:
Quyển sổ điểm bom bi xuyên lỗ chỗ
Thầy gửi về cô dạy tiếp hôm sau
Rồi hình ảnh người chiến sĩ hy sinh trong „Dáng đứng Việt Nam” của Lê Anh Xuân:
Anh ngã xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng
Thi thoảng, Phạm Tiến Duật mới viết về những mất mát vật chất:
Xe không kính không phải xe không kính
Bom gật bom rung kính vỡ đi rồi.
("Bài thơ về tiểu đội xe không kính")
Mãi tới năm 1986, khi chiến tranh đã đi qua hơn 20 năm và nhà thơ trở lại Trường Sơn
viếng đồng đội, anh mới viết những bài thơ khóc bạn, khóc đồng chí:
Vết trọng thương không cứu được rồi
Chúng tôi chôn anh, chôn cả giọt máu mình ở đó
Cuộc sống hôm nay tưởng như suôn sẻ, nhưng đối với anh lại khó khăn, trăn trở hơn cả
thời chiến, khiến thi sĩ phải xin nghị lực từ đồng đội đã mất:
Xưa tiếp máu cho anh, giờ xếp hàng trước mộ
Tiếp máu cho những người đang sống lại là anh.

Phạm Tiến Duật là người viết về Trường Sơn nhiều nhất, đạt nhất, bởi anh từng lăn lộn
nhiều năm ở đấy, hiểu Trường Sơn từng ngày, từng mùa Dù ai chưa một lần đến với
Trường Sơn, nhưng đã đọc thơ anh hẳn phải cảm thấy như chính mình đã đến nơi đây, đi
trên những con đường ngoằn nghèo trong những cánh rừng hoang sơ xanh ngát, hay
những cánh rừng bom thù sạt phẳ̃ng
Đen xạm khói bom nham nhở viết thương
Qua một cơn mưa lại lành lặn như thường.
2
Chiến tranh đã qua đi lâu lắm rồi, những tâm hồn thơ anh vẫn chưa ra khỏi Trường Sơn.
Có lẽ Trường Sơn theo mãi cuộc đời anh. Nỗi nhớ Trường Sơn lúc nào cũng cháy lòng,
anh muốn có những khoảng khắc quên đi tất cả của ngày hôm nay để được về với Trường
Sơn, dù chỉ đi tìm một giọt nắng:
Chiều nay như thể mọi chiều
Vẫn là nỗi nhớ niềm yêu cháy lòng
Tạm quên ánh điện trong phòng
Tôi đi tìm nắng một vùng núi non.
Thơ ông là cả một Trường Sơn thu nhỏ với những anh bộ đội lái xe quả cảm và vui tính: nhìn
nhau mặt lấm cười ha ha (Bài thơ về tiểu đội xe không kính ); những chiến sĩ công binh mở
đường quả cảm: Những đồng chí công binh lầm lì / Mùi bộc phá trộn vào trong tếng hát /Trên áo
giáp lấm đầy đất cát / Lộp độp cơn mưa bi sắt đuối tầm (Vầng trăng và những cuồng lửa); những
cô gái thanh niên xung phong: “ngày em phá nhiều bom nổ chậm / đêm nằm mơ nói mớ vang
nhà ”, nhưng vô cùng tinh nghịch, vô cùng lãng mạn và giàu tính nữ Khăn xanh, khăn xanh phơi
đầy nắng sớm / Sách giấy mở tung trắng cả rừng chiều (Gửi em cô thanh niên xung phong),
những chiến sĩ cao xạ pháo luôn “nhằm thẳng quân thù mà bắn” cùng những người lính coi kho:
Mười năm sống xa phố, xa làng / Tám năm ở trong núi trong hang / Tất cả riêng chung…/ Dành
cho miền Nam tất cả (Tiếng cười của đồng chí coi kho) … Thơ ông là cả một Trường Sơn với
đầy những lửa khói , chỗ nào cũng lửa, ở đâu cũng khói, bụi và bom (Vầng trăng và những
cuồng lửa, Lửa đèn, Tiếng bom ở Seng Phan, Nhóm lửa, Tắt lửa…), nhưng đó là lửa đi cùng với
trăng sao, bom đạn đi cùng tiếng hát, tiếng cười. Thơ ông đưa chúng ta tới những “vùng rừng
không dân” với rất nhiều hoa thơm cỏ lạ, rất nhiều chim thú quý: Cây cúc đắng quên lòng mình

đang đắng, Cây bồng bênh cười vui suốt ngày, Cây nứa mọc đứng cây giang mọc bò, Dạ hương
của đêm mắc cỡ của ngày, Nhựa vàng cây dọc nhựa đỏ cây nò …và cho ta biết: Đếm tiếng tắc
kè / Biết mưa biết nắng / Biết ngọt rau sắng / Biết chát củ nâu / Biết thơm cỏ mật / Biết ngái rau
bầu…Thơ ông cũng dẫn chúng ta về những làng Tường Sơn, làng bộ đội: Cũng vương tóc rối
chân gà / Cũng tiếng chó sủa chiều tà sau cây / Cũng quần áo ướt phơi dây / Cũng gầu múc
nước ô hay cũng làng. Đó là làng quân y “lắm bồn hoa”, làng thông tin nhiều “bậc thềm nguy
nga”, làng lái xe “sạp ngủ buông màn giữa trưa”, làng công binh “dựng trên nền sắt thép” và:
Quanh năm như thể ngày mùa / Là làng của lính coi kho bốn bề / Suốt ngày vắng vẻ người đi
/Mênh mang làng pháo bốn bề gió reo /Nhà chưa dựng võng đã treo / Bộ binh ở biêt bao nhiêu
vùng làng.
Với những bài thơ về Trường Sơn những năm chiến tranh vừa hiện thực sinh động vừa lãng
mạn, có cả “quầng lửa” có cả “vầng trăng”, có bom rơi, có máu đổ nhưng cũng có tiếng hát tiếng
cười của con trai con gái; có những người lính “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”, có những làng
nữ Thanh niên xung phong “khăn xanh khăn xanh phơi đầy nắng sớm”, có “những đoàn xe đi
như không bao giờ hết ”…và có cả những “tiếng điếu cày rít lên thong thả” Phạm Tiến Duật đã
trở thành một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất trong thế hệ các nhà thơ thời chống Mỹ, và như
thế đương nhiên ông là nhà thơ tiêu biểu nhất của bộ đội Trường Sơn, bộ đội đường dây 559.
3
Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội, người cũng có nhiều bài thơ hay viết
về Trường Sơn bảo chính anh Duật là người đầu tiên đã đưa được cả Trường Sơn vào thơ, đưa
được cả Trường Sơn đầy lửa khói bom đạn về thành phố, về Hà Nội, về Thủ đô. Nhà thơ Đỗ
Trung Lai – một nhà thơ quân đội, bạn vong niên của nhà thơ Phạm Tiến Duật thì viết đại ý, thơ
ông là cả một bảo tàng Trường Sơn thu nhỏ “di động ” và “sinh động”, lại ao ước mai này trên
con đường Trường Sơn huyền thoại năm xưa sẽ có những phố, những làng mang tên những
danh nhân Trường Sơn như Võ Bẩm, Đồng Sỹ Nguyên, Phạm Tiến Duật…
Phạm Tiến Duật có 14 năm tại ngũ, trong đó có 8 năm gắn bó với Trường Sơn, với Đoàn 559.
Đoạn thơ dưới đây của ông trích trong trường ca Những vùng rừng không dân nói ông và thế hệ
ông đã để lại nơi này - rừng Trường Sơn “hầu hết tuổi thanh xuân”, đúng cả trăm phần, thế mà
khi mới in ra tác giả của nó đã phải chịu lắm phiền hà; thậm chí còn đứng trước búa rìu của báo
chí:

Đi trong rừng anh nói với em
Nói với những ai mai sau sẽ hỏi
Về những vùng rừng không dân
Nơi bao người đi qua hầu hết tuổi thanh xuân
Để lại trong rừng những gì quý nhất
Mất mọi thứ để Nhân Dân không mất
Gắn bó cả tuổi xuân với Trường Sơn, với những người lính là thế trước sau ông vẫn là nhà thơ
áo lính. Ông hay ghé “phố nhà binh” cũng là bởi ở đó ông có những người bạn thơ, những đồng
đội thời Trường Sơn; ở đó có những tờ báo, tờ tạp chí, nhà xuất bản mà ông đã in những bài
báo bài thơ, cuốn sách đầu tiên. Ông vui cái vui của những người anh, người bạn còn đang
khoác áo quân nhân, những nhà văn – chiến sĩ. Còn nhớ, năm 1987- năm Văn nghệ Quân đội kỷ
niệm 40 năm ra số đầu tiên và được thưởng Huân chương Quân công, các nhà văn Dũng Hà
(Phạm Điệng - Tổng Biên tập), Hồ Phương, Xuân Thiều (Phó Tổng Biên tập) từ Thượng tá vinh
thăng “một lèo” lên Đại tá, nhà thơ của Trường Sơn đã mang hoa đến chúc mừng đồng thời kèm
theo mấy câu thơ: Nay mừng tạp chí được huân chương / Anh Thiều, anh Điệng với anh Phương
/ Thượng tá bỗng dưng thành Đại tá /… Cũng như khu phố đổi ra phường.
Phải là gần gũi, phải là thân thiết lăm mới “dám” mừng nhau kiểu ấy! Phạm Tiến Duật chơi với
nhiều nhà văn ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội, nhưng thân hơn cả là Duy Khán, Lê Lựu và
Nguyễn Đức Mậu…Năm ấy, Duy Khán ra Trường Sa biền biệt mấy tháng không về, nhớ bạn lắm
nên tối hôm trước Duy Khán từ đảo về, sáng hôm sau Phạm Tiến Duật đã gõ của buồng. Hai ông
chén tạc, chén thù đến khi say khướt, Duật mới lia bút làm mấy vần thơ tặng Khán như sau: Một
nhà thơ đi bốn ngàn cây số biển / Về ở căn buồng sáu mét vuông / Ngày ngày đôi chén rượu
suông / Văn chương đầy áp căn bồng con con. Câu thơ ấy được viết hẳn lên bức tường căn
buồng xép trên lầu 2 “nhà số 4”. Tiếc thay căn buồng Duy Khán ở ấy nay chẳng còn, nó và mấy
vần thơ vui kia cũng giống như bản thảo tập bút ký viết về Trường Sa mang tên Biển thức chỉ
còn trong kỷ niệm của bè bạn một thời! Hơn một năm sau ngày Duy Khán mất (1994), Phạm
Tiến Duật có lần đến thăm Nguyễn Đức Mậu. Ông đứng ngẩn ngơ bên gốc hai cây đại già mắt
4
đỏ hoe bảo bạn: “Hay hôm nay chúng mình làm giỗ cho Khán! ”, nói rồi lại nức nở… Phạm Tiến
Duật là vậy! Đa tài: làm thơ (là nhà thơ hàng đầu của thơ chống Mỹ), viết lý luận - phê bình (tác

giả tập Vừa làm vừa nghĩ – Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam), làm báo (Tổng Biên tập Diễn
đàn Văn nghệ Việt Nam ), làm đối ngoại ( Phó Trưởng ban đối ngoại Hội Nhà Văn Việt Nam), làm
MC (dẫn chương trình Người cao tuổi của VTV cùng MC Ngọc Bích), nói chuyện Thơ…, nhưng
rất dễ gần và hay mủi lòng như vậy.
5

×