Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

(LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc rừng làm cơ sở bảo vệ và phát triển rừng tại khu bảo tồn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.65 MB, 104 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo

Bộ Nông nghiệp và PTNT

Trường đại học lâm nghiệp

Nguyễn Duy Thịnh

Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc rừng
làm cơ sở bảo vệ và phát triển rừng tại khu
bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên
Văn bàn - lào cai

Luận văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp

Hà Tây, năm 2007

download by :


Bộ giáo dục và đào tạo

Bộ Nông nghiệp và PTNT

Trường đại học lâm nghiệp

Nguyễn Duy Thịnh

Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc rừng
làm cơ sở bảo vệ và phát triển rừng tại khu
bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên


Văn bàn - lào cai
Chuyờn ngnh: Lõm hc
Mó s: 60.62.60

Luận văn thạc sü khoa häc l©m nghiƯp

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Phạm Ngc Giao

Hà Tây, nm 2007
Hà Tây, năm 2007

download by :


1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Rừng là yếu tố của môi trường, giữ vai trị quan trọng khơng gì thay thế
được đối với việc phịng hộ, duy trì cân bằng sinh thái, bảo vệ tính đa dạng
sinh học, bảo tồn nguồn gen, bảo vệ môi trường sống, cung cấp nhiều loại lâm
sản... phục vụ các nhu cầu của con người.
Nước ta là một nước giàu tài nguyên rừng, thành phần động, thực vật
rừng cũng rất đa dạng, phong phú. Rừng tự nhiên nước ta đã thể hiện những
đặc trưng của rừng mưa nhiệt đới, phần lớn là rừng thường xanh, kín tán,
nhiều tầng, hỗn giao nhiều loài cây với các loài cây gỗ chiếm ưu thế, sinh
trưởng và tái sinh liên tục. Song do sức ép của sự tăng dân số, nhu cầu của
cuộc sống… nên sức ép vào rừng ngày càng tăng, Chính vì vậy, diện tích có
rừng của tồn cầu nói chung và của nước ta hiện nay càng bị suy giảm. Nếu

như trước năm 1945 độ che phủ rừng chiếm 43% diện tích đất đai, đến năm
2005 diện tích rừng cả nước hiện có là 12.616.700 ha, độ che phủ đạt 37%
(Quyết định số 1970/QĐ/BNN-KL, ngày 06/7/2006 của Bộ Nông nghiệp và
PTNT, Về việc cơng bố hiện trạng rừng tồn quốc năm 2005)
Trong hơn 60 năm qua, xu thế mất rừng đã diễn ra liên tục trên phạm vi
cả nước ta với mức độ khác nhau. Đặc biệt ở hai tỉnh Sơn La, Lai Châu độ
che phủ của rừng có lúc chỉ cịn 8-9% (Lâm nghiệp Việt Nam 1945-2000)
Diện tích rừng bị mất làm cho chất lượng rừng bị suy giảm cả về tổ
thành các lồi cây q hiếm có giá trị cũng như tổng trữ lượng gỗ của rừng.
Ngoài ra, nạn mất rừng diễn ra liên tục trong nhiều thập kỷ qua đã làm cho
nhiều khu rừng lớn bị chia cắt thành từng mảnh rừng nhỏ hoặc bị khai thác
quá mức làm mất cấu trúc rừng, hoặc cấu trúc của rừng đã biến đổi theo chiều
hướng xấu. Việc mất rừng khơng chỉ làm cho diện tích đất trống đồi núi trọc

download by :


2

tăng lên, làm suy giảm tính đa dạng sinh học, mà còn ảnh hưởng nghiêm
trọng đến cuộc sống của người dân trên mọi miền đất nước như: Thiếu nước
sản xuất, khí hậu biến đổi, hạn hán, lũ lụt thường xuyên xảy ra. Việc phá rừng
làm nương rẫy đã làm cho một số lồi thực vật, động vật có nguy cơ bị tuyệt
chủng. Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước ta đã và đang thực hiện một số
chủ trương, chính sách và biện pháp nhằm bảo vệ và phát triển rừng vì lợi ích
của cộng đồng. Ngày 03 tháng 12 năm 2004, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội nước
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI đã thông qua Luật bảo vệ và
phát triển rừng, với 8 chương, 88 điều. Trước đó, Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành Quyết định số 245/1998/QĐ-TTg, ngày 21/12/1998 về thực hiện
trách nhiệm quản lý Nhà nước của các cấp về rừng và đất lâm nghiệp; Quyết

định số 186/2006/QĐ-TTg, ngày 14 tháng 8 năm 2006 của Thủ tướng Chính
phủ về việc ban hành Quy chế quản lý rừng; Quyết định số 192/2003/QĐTTg ngày 17/9/2003 về việc phê duyệt chiến lược hệ thống quản lý Khu bảo
tồn thiên nhiên Việt Nam đến năm 2010, với mục tiêu bảo tồn đa dạng sinh
học và bảo tồn nguồn gen của các loài động vật, thực vật quý hiếm trước nguy
cơ bị tuyệt chủng. Một vấn đề đặt ra làm thế nào để quản lý được các khu bảo
tồn thiên nhiên đó một cách tốt nhất. Để có thể có biện pháp quản lý, bảo vệ
và tác động cho lâm phần phát triển theo hướng có lợi thì việc tìm hiểu các
đặc trưng cấu trúc của lâm phần là quan trọng nhất, nếu đã nắm được các quy
luật về cấu trúc lâm phần thì việc đề ra các biện pháp quản lý, bảo vệ và tác
động là có cơ sở và kịp thời, hợp lý, đảm bảo sự phát triển của lâm phần, phục
vụ cho con người và cho nghiên cứu khoa học một cách hiệu quả.
Việc định lượng các quy luật cấu trúc rừng để từ đó làm cơ sở xây dựng
cấu trúc tối ưu, đề xuất các biện pháp kỹ thuật tác động vào rừng là việc làm
quan trọng và cấp bách. “Tận dụng tối đa tiềm năng của điều kiện lập địa có
sự kết hợp hài hòa giữa các nhân tố cấu trúc để tạo ra một quần thể rừng có

download by :


3

sản lượng, tính ổn định, chức năng phịng hộ cao nhất nhằm đáp ứng được
mục tiêu kinh doanh” (Phùng Ngọc Lan, 1986).
Khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên thuộc huyện Văn Bàn tỉnh Lào Cai,
được thành lập theo Quyết định số 702/QĐ-UBND, ngày 27/3/2007 của UBND
tỉnh Lào Cai, với nhiệm vụ chính: Quản lý bảo vệ tài nguyên thiên nhiên trong
khu bảo tồn; khôi phục và bảo tồn nguyên vẹn các hệ sinh thái, bảo tồn tính đa
dạng sinh học, các mẫu chuẩn hệ sinh thái trên núi cao, nguồn gen động, thực vật
rừng đặc hữu và quý hiếm; Tổ chức nghiên cứu và phục vụ cho công tác nghiên
cứu khoa học khu hệ thực vật rừng, khu hệ động vật rừng… Khu bảo tồn thiên

nhiên Hoàng Liên - Văn Bàn có diện tích tự nhiên là 25.669 ha. Diện tích đất có
rừng: 23.476,89 ha, chiếm 91,5% diện tích Khu bảo tồn. Trong đó: diện tích
rừng tự nhiên là 23.321,99 ha, chiếm 90,9% diện tích Khu bảo tồn.
Nghiên cứu những đặc điểm của tài nguyên thực vật rừng để có cơ sở
khoa học xây dựng các chương trình, quản lý, bảo vệ, phát triển tài nguyên
rừng là công việc cần thiết phải tiến hành.
Xuất phát từ thực tế đó, kết hợp với kiến thức đã học tập ở nhà trường và
với sự giúp đỡ của các Thầy, Cô giáo, chúng tôi đã thực hiện đề tài “Nghiên
cứu một số đặc điểm cấu trúc lâm phần làm cơ sở bảo vệ và phát triển rừng tại
Khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên - Văn Bàn, tỉnh Lào Cai”. Kết quả
nghiên cứu sẽ là cơ sở đề xuất các biện pháp nhằm bảo vệ và phát triển bền
vững tài nguyên rừng tại Khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên, huyện Văn
Bàn, tỉnh Lào Cai.

download by :


4

Chương 1
TỔNG QUAN VẾN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Ở Việt Nam cũng như trên thế giới, ngay từ những năm đầu của thế kỷ
XX, các nhà khoa học đã cố gắng khắc phục những khó khăn để đi sâu nghiên
cứu, tìm hiểu cấu trúc rừng nhằm phục vụ cho sản xuất kinh doanh và đời
sống của con người. Đặc biệt trong những năm gần đây vấn đề này được các
nhà khoa học quan tâm, nhằm xây dựng cơ sở khoa học cho việc quản lý kinh
doanh rừng đạt hiệu quả về kinh tế lẫn môi trường. Những nghiên cứu về cấu
trúc rừng đã phát triển từ thấp đến cao, từ chỗ nghiên cứu chủ yếu là mơ tả,
định tính dần phát triển sang những nghiên cứu định lượng đã mở ra hướng

phát triển mới trong nghiên cứu lâm sinh học hiện đại. Nhiều cơng trình
nghiên cứu của nhiều tác giả với các mục đích khác nhau đã khái quát các quy
luật kết cấu rừng dưới dạng mơ hình đã cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa các
thành phần bên trong và bên ngoài hệ sinh thái. Tuy nhiên với sự phức tạp,
phong phú của hệ sinh thái rừng mưa nhiệt đới ẩm của Việt Nam, trong đó có
rừng thuộc khu bảo tồn thiên nhiên Hồng Liên - Văn Bàn, thì vấn đề nghiên
cứu cấu trúc vẫn cịn đang gặp nhiều khó khăn.
1.1. Trên thế giới
1.1.1. Về cơ sở sinh thái, hình thái của cấu trúc rừng mưa
1.1.1.1. Về cơ sở sinh thái cấu trúc rừng mưa
Rất nhiều nhà khoa học đã dày cơng nghiên cứu về sinh thái, hình thái cấu
trúc rừng và kết qủa đã mang lại nhiều cơng trình có giá trị, mà tiêu biểu là Baur
G.N (1964): Cơ sở sinh thái học của kinh doanh rừng mưa, đã nghiên cứu các
vấn đề kinh doanh rừng mưa, phục hồi và quản lý rừng mưa nhiệt đới. Baur G.N
và Odum E.P (1971): Cơ sở sinh thái học, đã nghiên cứu các vấn đề sinh thái nói

download by :


5

chung và sinh thái trong rừng mưa làm cơ sở khoa học cho nghiên cứu cấu trúc
rừng. Qua đó làm sáng tỏ khái niệm về hệ sinh thái rừng, đây là cơ sở để xem xét
các nhân tố cấu trúc đứng trên quan điểm sinh thái học.
2.1.1.2. Về hình thái cấu trúc rừng mưa
Rừng nhiệt đới rất phức tạp, phong phú và đa dạng. Catinot R.(1965),
Plaudy J. Các tác giả đã biểu diễn hình thái cấu trúc rừng bằng những phẫu đồ
ngang và đứng. Các nhân tố cấu trúc được mô tả theo các khái niệm: dạng
sống, tầng phiến... Richards P.W (1952) đã phân biệt tổ thành thực vật của hai
loại rừng mưa hỗn hợp có tổ thành lồi cây rất phức tạp và rừng mưa đơn ưu

có tổ thành loài cây đơn giản. Trong những lập địa đặc biệt thì rừng mưa đơn
ưu chỉ bao gồm một vài lồi cây. Những nghiên cứu về các lĩnh vực trên đã
đặt nền móng cho các nghiên cứu ứng dụng sau này, tuy nhiên các kết quả
trên vẫn nặng về mô tả định tính.
1.1.1.3. Về nghiên cứu đa dạng lồi thực vật
Về nghiên cứu thực vật thì ngay từ năm 1735, Coroius Linmaeus đã xuất
bản sách phân loại động thực vật, ông đã đưa ra trật tự phân loại theo giống,
họ, bộ, ngành và giới. Ngồi ra cịn có những cơng trình có giá trị khi nghiên
cứu về hệ thực vật như các cuốn Thực vật chí: HonKong (1861), Australia
(1866), ấn Độ (1872-1897), Hải Nam (1972-1977), Vân Nam (1977)
1.1.1.4. Về nghiên cứu định lượng cấu trúc rừng
Lịch sử nghiên cứu cấu trúc rừng và các hệ thực vật trên thế giới đã có từ
lâu. Những nghiên cứu về cấu trúc làm cơ sở hoàn thiện các giải pháp lâm
sinh, phục vụ cho yêu cầu kinh doanh rừng vào đầu thế kỷ 20 đã được chú ý
nhiều và phương pháp nghiên cứu từ mơ tả định tính chuyển dần sang định
lượng cùng với sự phát triển của thống kê toán học và tin học. Rollet (1971)
đã vẽ hàng loạt phẫu đồ mô tả cấu trúc hình thái rừng mưa, đồng thời nghiên
cứu tương quan giữa chiều cao (Hvn) và đường kính ngang ngực (D1,3), tương

download by :


6

quan giữa đường kính tán (Dt) và đường kính ngang ngực (D1,3) và mô tả
chúng bằng các hàm hồi quy. Việc nghiên cứu định lượng cấu trúc rừng được
nhiều tác giả nghiên cứu có kết quả. Trong đó việc mơ hình hóa cấu trúc
đường kính ngang ngực được nhiều người quan tâm nghiên cứu và biểu diễn
theo các dạng phân bố xác suất khác nhau. Có tác giả sử dụng hàm Weibull
để mơ hình hóa cấu trúc đường kính lồi thơng theo mơ hình của Schumacher

và Coile. Các dạng hàm khác như Pearson, Meyer, Hyperbol, hàm mũ,
Poisson, Logarit… cũng được nhiều tác giả sử dụng trong nghiên cứu định
lượng cấu trúc rừng. Vấn đề nghiên cứu định lượng quy luật phân bố số cây
theo đường kính D1,3, phân bố số cây theo chiều cao, phân chia tầng thứ được
nhiều tác giả thực hiện có hiệu quả. Ngồi việc phản ánh cấu trúc nội tại của
lâm phần làm căn cứ đề xuất các biện pháp kỹ thuật, còn làm cơ sở để xây
dựng các phương pháp điều tra và thống kê tài nguyên rừng
* Về cấu trúc tầng thứ
Nghiên cứu cấu trúc tầng thứ rừng tự nhiên có nhiều ý kiến khác nhau, có
tác giả cho rằng, ở kiểu rừng này chỉ có một tầng cây gỗ mà thơi. Ngược lại, có
nhiều tác giả lại cho rằng, rừng lá rộng thường xanh thường có từ 3 đến 5 tầng.
Richards (1939) phân rừng ở Nigeria thành 5-6 tầng. Tuy nhiên, hầu hết các tác
giả khi nghiên cứu tầng thứ rừng tự nhiên đều nhắc đến sự phân tầng nhưng
mới dừng lại ở mức nhận xét hoặc đưa ra những kết luận mang tính định tính;
việc phân chia các tầng theo chiều cao cũng mang tính chất cơ giới, chứ chưa
phản ánh được sự phân tầng phức tạp của rừng tự nhiên nhiệt đới.
* Về phân bố số cây theo cỡ đường kính (N-D1,3)
Phân bố số cây theo cỡ đường kính là quy luật kết cấu của lâm phần và
được các nhà lâm học, điều tra rừng quan tâm. Meyer (1934) đã mô tả phân
bố N-D1,3 bằng phương trình tốn học có dạng đường cong giảm liên tục và
được gọi là phương trình Meyer hay hàm Meyer. Tiếp đó, nhiều tác giả dùng

download by :


7

phương pháp giải tích để tìm phương trình của đường cong phân bố. Balley
(1973) sử dụng hàm Weibull, Schiffel biểu thị đường cong cộng dồn phần
trăm số cây bằng đa thức bậc ba. Prodan. M và Patatscase (1964), Bill và

Kem K.A (1964) đã tiếp cận phân bố này bằng phương trình logarit chính
thái. Diatchenko, Z.N sử dụng phân bố Gamma biểu thị phân bố số cây theo
đường kính lâm phần Thơng ơn đới. Đặc biệt để tăng tính mềm dẻo một số tác
giả hay dùng các hàm khác, như Loetsch (1973) dùng hàm Beta để nắn các
phân bố thực nghiệm, J.L.F. Batista và H.T.Z Docouto (1992) trong khi
nghiên cứu 19 ô tiêu chuẩn với 60 loài của rừng nhiệt đới ở Maranhoo Brazin
đã dùng hàm Weibull mô phỏng phân bố N-D. Nhiều tác giả khác dùng hàm
Hyperbol, hàm Poisson, hàm Logarit chuẩn, hàm Pearson, hàm Weibull...
* Về phân bố số cây theo chiều cao (N-Hvn):
Phần lớn các tác giả khi nghiên cứu cấu trúc lâm phần theo chiều thẳng
đứng đã dựa vào phân bố số cây theo chiều cao. Phương pháp kinh điển
nghiên cứu cấu trúc đứng rừng tự nhiên là vẽ các phẫu đồ đứng với các kích
thước khác nhau tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Các phẫu đồ đã mang lại hình
ảnh khái quát về cấu trúc tầng tán, phân bố số cây theo chiều thẳng đứng. Từ
đó rút ra các nhận xét và đề xuất ứng dụng thực tế. Phương pháp này được
nhiều nhà nghiên cứu rừng nhiệt đới áp dụng mà điển hình là các cơng trình
của các tác giả P.W.Richards (1952), Rollet (1979).
1.1.1.5. Nghiên cứu quy luật tương quan giữa chiều cao với đường kính thân cây
Qua nghiên cứu của nhiều tác giả cho thấy, chiều cao tương ứng với mỗi
cỡ đường kính cho trước ln tăng theo tuổi, đó là kết quả tự nhiên của sự
sinh trưởng. Trong mỗi cỡ kính xác định, ở các tuổi khác nhau, cây rừng
thuộc cấp sinh trưởng khác nhau, cấp sinh trưởng giảm khi tuổi lâm phần tăng
lên, dẫn đến tỷ lệ H/D tăng theo tuổi. Từ đó, đường cong quan hệ giữa H và D
có thể thay đổi dạng và ln dịch chuyển về phía trên khi tuổi lâm phần tăng

download by :


8


lên. Tiurin D.V (1927) đã phát hiện hiện tượng này khi ông xác lập đường
cong chiều cao cho các cấp tuổi khác nhau. Prodan (1965) và Dittmar.O cho
rằng độ dốc đường cong chiều cao có chiều hướng giảm dần khi tuổi tăng lên.
Curtis.R.O (1967) đã mô phỏng quan hệ chiều cao (H) với đường kính (D) và
tuổi (A) theo dạng phương trình:
Logh = d + b1 1 + b2 1 + b3 1
A

d

(1.1)

d. A

Sau đó tác giả đã nắn theo từng định kỳ 5 năm, tương ứng với định kỳ
kiểm tra tài nguyên rừng Linh sam.
Tại từng tuổi nhất định, phương trình có dạng:
Logh = b0 + b1 1

(1.2)

d

Petterson.H (1955) theo Nguyễn Trọng Bình (1996), đề xuất phương
trình tương quan:
3

1
b
a +

d
h  1,3

(1.3)

Krauter. G (1958) và Tiourin. A.V (1932) nghiên cứu tương quan giữa
chiều cao với đường kính ngang ngực dựa trên cơ sở cấp đất và cấp tuổi. Kết
quả cho thấy, khi dãy phân hoá thành các cấp chiều cao, thì mối quan hệ này
khơng cần xét đến cấp đất hay cấp tuổi, cũng như không cần xét đến tác động
của hồn cảnh và tuổi, vì những nhân tố này đã được phản ánh trong kích
thước của cây, nghĩa là đường kính và chiều cao trong quan hệ đã bao hàm tác
động của hoàn cảnh và tuổi.
Tiếp theo, nhiều tác giả dùng phương pháp giải tích tốn học tìm ra
những phương trình Naslund.M (1929); Assmann.E (1936); Hohenadl.W
(1936), Michailov.F (1934,1952); Prodan.M (1944); Krenn.K (1946);
Meyer.H.A (1952)... đã đề nghị sử dụng các dạng phương trình dưới đây để
mơ tả quan hệ H/D

download by :


9

h = a + b1d + b2d2

(1.4)

h = a + b1d + b2d2 + b3d3

(1.5)


h - 1,3 =

d2

(a  bd )

2

(1.6)

h = a + blogd

(1.7)

h = a + b1d + b2logd

(1.8)

h = k.db

(1.9)

h - 1,3 = a. e

 b
 
 d

(1.10)


Kennel. R (1971) cho rằng, để mô phỏng động thái đường cong chiều
cao lâm phần, trước hết tìm phương trình thích hợp mơ tả quan hệ Hvn với
D1,3, sau đó xác lập mối quan hệ của các tham số theo tuổi.
Như vậy, để biểu thị tương quan giữa chiều cao với đường kính thân cây
có thể sử dụng nhiều dạng phương trình, việc sử dụng phương trình nào thích
hợp nhất cho từng đối tượng, thì chưa được nghiên cứu đầy đủ. Nói chung, để
biểu thị đường cong chiều cao, phương trình parabol và phương trình logarit
được sử dụng nhiều hơn cả.
Khi đối tượng nghiên cứu là những lâm phần chưa được tạo lập và dẫn
dắt bằng một hệ thống kỹ thuật thống nhất, thì phương pháp tìm hàm tốn học
để mô phỏng sự phụ thuộc của chiều cao vào đường kính và tuổi sẽ khơng
thích hợp. Khi đó nên dùng phương pháp mà Kennel gợi ý, nghĩa là tìm một
dạng phương trình biểu thị mối quan hệ giữa chiều cao với đường kính, sau
đó nghiên cứu xác lập mối quan hệ của các tham số phương trình trực tiếp
hoặc gián tiếp theo tuổi lâm phần.

download by :


10

1.2. Ở Việt Nam
1.2.1. Về phân loại rừng phục vụ kinh doanh
Về phân loại rừng, trước hết phải kể đến Loeschau (1966) đã đưa ra hệ thống
phân chia trạng thái cho kinh doanh rừng hỗn giao thường xanh lá rộng nhiệt đới.
Đây là hệ thống phân loại được sử dụng trong thời gian dài và phổ biến ở nước ta.
Tiếp theo là Thái Văn Trừng (1978) trên quan điểm sinh thái phát sinh
đã phân chia rừng Việt Nam thành 14 kiểu thảm thực vật, nhưng các đơn vị
cấp thấp phục vụ cho kinh doanh lợi dụng rừng chưa được nghiên cứu đầy đủ.

Các tác giả khác như Nguyễn Hồng Quân, Trương Hồ Tố, Hồ Viết Sắc
(1981), Vũ Đình Huề (1980), Vũ Biệt Linh (1984) đã phân chia trạng thái
rừng phục vụ công tác kinh doanh và căn cứ vào trạng thái hiện tại như: mức
độ tác động, cấp năng suất, khả năng tái sinh, tình trạng đất đai.
Vũ Đình Phương (1985-1988) đã đưa ra phương pháp phân chia rừng nhằm
phục vụ công tác điều chế với đơn vị phân chia là lơ dựa trên 5 nhân tố: nhóm
sinh thái tự nhiên, giai đoạn phát triển và suy thoái của rừng, khả năng tái tạo
rừng bằng con đường tái sinh tự nhiên, đặc điểm địa hình, đặc điểm thổ nhưỡng.
Phùng Ngọc Lan (1986) đã nêu lên mơ hình cấu trúc mẫu là mơ hình có
khả năng tận dụng tối đa tiềm năng của điều kiện lập địa, có sự phối hợp hài
hòa giữa các nhân tố cấu trúc để tạo ra một quần thể rừng có sản lượng ổn
định và chức năng ổn định, nhằm đáp ứng các mục tiêu kinh doanh nhất định.
Bảo Huy (1993), Đào Công Khanh (1996), Trần Xuân Thiệp (1995), Lê Sáu
(1996) đã căn cứ vào tổ thành các lồi cây mục đích để phân loại rừng phục
vụ cho việc xác định các biện pháp lâm sinh.
1.2.2. Về nghiên cứu quy luật cấu trúc rừng
Bất kỳ một kiểu rừng nào cũng là tập hợp của các loài cây trong lâm phần.
Mặc dù hiện nay cịn có những cách hiểu khác nhau về khái niệm lâm phần
nhưng đều thống nhất coi bộ phận cây gỗ trong lâm phần là quan trọng hơn cả.

download by :


11

Tập hợp cây rừng sinh trưởng và phát triển trên một cấp đất, hình thành
một mật độ, một tàn che, tức là tạo nên một hoàn cảnh rừng, một đơn vị sinh
vật học hồn chỉnh. Trong q trình vận động phát triển giữa các cây gỗ với
nhau và giữa chúng với hồn cảnh ln có một mối quan hệ hữu cơ. Trong
điều kiện xác định nào đó, sự liện hệ này tạo nên những quy luật gọi là cấu

trúc rừng. Theo Bertram Husch cấu trúc rừng là sự sắp đặt các lồi cây và
kích thước của chúng trên một diện tích rừng nào đó. Nhìn nhận sự sắp xếp
cây rừng theo không gian thẳng đứng sẽ thấy cấu trúc tầng thứ của lâm phần,
nếu xét theo không gian nằm ngang sẽ được cấu trúc mật độ hay hình thái
phân bố cây rừng trong lâm phần.
Phân bố số cây theo đường kính, phân chia tầng thứ và phân bố số cây
theo chiều cao. Những đặc trưng này thường được mô tả theo đơn vị lâm phần
của Đồng Sĩ Hiền (1974). Theo tác giả, đó là “Tổng thể những cây hình thành
một khoảnh rừng thuần nhất nhiều hay ít. Vì thế trong thực tiễn, rừng tự nhiên
nhiệt đới nước ta, chỉ cần có những cây, dù khác lồi, khác tuổi, mọc thành
rừng, nghĩa là cùng nhau sinh trưởng trên một diện tích nào đó với một mật
độ nhất định, hình thành một tán che, thì có thể tạo thành hồn cảnh rừng và
khoảnh rừng ấy hình thành một đơn vị sinh vật học, một lâm phần có quy luật
xác định”. Luận điểm này đã được các nhà nghiên cứu cấu trúc rừng tự nhiên
nước ta vận dụng trong các cơng trình khoa học của mình.
1.2.2.1. Về cấu trúc tầng thứ
Ở Việt Nam, Thái Văn Trừng (1978) đã phân chia rừng nhiệt đới nước ta
thành 5 tầng: tầng vượt tán, tầng ưu thế sinh thái, tầng dưới tán, tầng cây bụi
thấp, trảng cỏ và có chỉ ra độ cao giới hạn cho các tầng nhưng cũng chỉ mang
tính chất định tính. Nguyễn Văn Trương (1973, 1983, 1984) khi nghiên cứu
cấu trúc rừng hỗn loài cũng xem xét sự phân tầng theo hướng định lượng. Tác
giả đã phân tầng theo cấp chiều cao một cách cơ giới...

download by :


12

1.2.2.2. Phân bố số cây theo cỡ đường kính (N-D1,3)
Với rừng tự nhiên hỗn giao khác tuổi, từ kết quả nghiên cứu của Đồng Sĩ

Hiền (1974) cho thấy, dạng tổng quát của phân bố N-D là phân bố giảm,
nhưng do q trình khai thác chọn thơ khơng theo quy tắc, nên đường thực
nghiệm thường có dạng hình răng cưa và ông đã chọn hàm Mayer để mô
phỏng quy luât cấu trúc đường kính cây rừng, Nguyễn Hải Tuất (1986) sử
dụng phân bố khoảng cách mô tả phân bố thực nghiệm dạng một đỉnh ở ngay
sát cỡ đường kính bắt đầu đo, Bảo Huy (1993) cho rằng phân bố khoảng cách
thích hợp hơn các dạng phân bố khác, Trần Văn Con (1991), Lê Minh Trung
(1991), Trần Xuân Thiệp (1995), Lê Sáu (1996), Trần Cẩm Tú (1999) lại cho
rằng hàm Weibull thích hợp hơn cả, Đào Cơng Khanh (1996) thì cho rằng
dạng tần số luỹ tích thích hợp, vì biến động của đường thực nghiệm này nhỏ
hơn rất nhiều so với biến động số cây hay % số cây ở các cỡ kính. Qua tham
khảo các tài liệu liên quan cho thấy, việc nghiên cứu phân bố N-D trong thời
gian gần đây khơng chỉ dừng lại ở mục đích phục vụ cơng tác điều tra như xác
định tổng diện ngang, trữ lượng mà còn xây dựng cơ sở khoa học cho các giải
pháp lâm sinh trong nuôi dưỡng rừng, làm giàu rừng.
1.2.2.3. Phân bố số cây theo cỡ chiều cao (N-Hvn)
Theo nghiên cứu của Đồng Sỹ Hiền (1974) cho thấy, phân bố số cây
theo chiều cao (N-Hvn) ở các lâm phần tự nhiên hay trong từng lồi cây
thường có nhiều đỉnh, phản ánh kết cấu phức tạp của rừng chặt chọn. Thái
Văn Trừng (1978) trong nghiên cứu của mình đã đưa ra các kết quả nghiên
cứu cấu trúc của tầng cây gỗ rừng loại IV. Vũ Đình Phương (1985) đã xác
định phân bố N-Hvn rừng lá rộng thường xanh Kon Hà Nừng về cơ bản (14/22
ô nghiên cứu) theo kiểu Ii & IV của họ đường cong Pearson, nghĩa là có dạng
đường cong một đỉnh hơi lệch. Tuy nhiên tác giả cũng cho rằng khó có thể
phân thành các tầng tách biệt rõ rệt. Nhìn chung tán cây thường lấp kín ở

download by :


13


khoảng độ cao từ 10 đến 18 m, từ 20 m trở lên tán cây thưa dần và rất hiếm
xuất hiện từ độ cao  30 m theo mặt cắt thẳng đứng của rừng. Bảo Huy
(1993), Đào Công Khanh (1996), Lê Sáu (1996), Trần Cẩm Tú (1999), đã
nghiên cứu phân bố N-Hvn để tìm tầng tích tụ tán cây. Các tác giả đều đi đến
nhận xét chung là, phân bố N-Hvn có dạng một đỉnh hoặc nhiều đỉnh phụ hình
răng cưa và mơ tả thích hợp bằng hàm Weibull.
1.2.2.4. Tương quan giữa chiều cao với đường kính (H/D1,3)
Giữa chiều cao với đường kính những cây trong lâm phần tồn tại mối
liên hệ chặt chẽ. Mối liên hệ này không chỉ giới hạn trong một lâm phần mà
tồn tại trong tập hợp nhiều lâm phần và khi nghiên cứu nó khơng cần xét đến
tác động của hoàn cảnh (cấp đất) và tuổi. Nếu sắp xếp các cây trong lâm phần
đồng thời vào các cỡ đường kính và chiều cao, sẽ được một bảng gọi là bảng
tương quan H/D. Nếu biểu thị tương quan này lên biểu đồ, trục hoành ghi các
cỡ kính, trục tung ghi chiều cao bình qn tương ứng, sẽ được một đường
dích dắc, đó là cơ sở để nắn đường cong chiều cao lâm phần.
Thực tiễn điều tra rừng cho thấy, có thể dựa vào quan hệ H/D xác định chiều
cao tương ứng cho từng cỡ kính, mà khơng cần thiết đo cao tồn bộ. Tuy nhiên, về
phương trình tốn học cụ thể biểu thị quan hệ này lại phong phú và đa dạng.
Đồng Sỹ Hiền (1974) đã sử dụng phương trình Logarit hai chiều hoặc
hàm mũ để mô tả quan hệ H/D đồng thời cho thấy khả năng sử dụng một
phương trình chung cho cả nhóm lồi cây có tương quan H/D thuần nhất với
nhau. Viện Điều tra quy hoạch rừng (1996) đã xác lập & công bố phương
trình tương quan dạng lnh = a + blnd cho hàng trăm loài cây rừng tự nhiên
thuộc nhiều vùng sinh thái trong cả nước.
Vũ Đình Phương (1975) cho rằng, có thể lập biểu cấp chiều cao lâm
phần Bồ đề tự nhiên từ phương trình Parabol bậc 2 mà khơng cần phân biệt
cấp đất và tuổi.

download by :



14

Vũ Nhâm (1988), Phạm Ngọc Giao (1995) dùng phương trình Logarit
một chiều xác lập quan hệ H/D cho các lâm phần Thông đuôi ngựa.
Bảo Huy (1993), khi nghiên cứu tương quan Hvn/D của một số loài cây
ưu thế: Bằng lăng, Cẩm xe, Kháo và Chiêu Liêu ở rừng rụng lá và nửa rụng lá
khu vực Tây Nguyên, đã thử nghiệm bốn phương trình:
h = a + bd1,3

(1.11)

h = a + blogd1,3

(1.12)

logh = a + blogd1,3

(1.13)

logh = a + bd1,3

(1.14)

Kết quả đã chọn được dạng phương trình thích hợp nhất, là phương
trình (1.13)
Bảo Huy (1993), Đào Cơng Khanh (1996), đã sử dụng phương trình
(1.13) để biểu diễn quan hệ H/D cho rừng ưu thế Bằng Lăng ở Đắc Lắc và
rừng tự nhiên hỗn loài ở Hương Sơn - Hà Tĩnh.

Với rừng phục hồi dùng dạng phương trình nào để nghiên cứu, xem xét
khả năng xác lập phương trình bình quân chung mô tả quan hệ H/D và nghiên
cứu sự biến đổi của mối quan hệ này theo thời gian thì chưa được đề cập tới
một cách cụ thể. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề này cần được đặt ra.
1.2.2.5. Tương quan giữa đường kính tán với đường kính ngang ngực (Dt/D1,3)
Vũ Đình Phương (1985) nghiên cứu quan hệ đường kính tán (Dt) với
đường kính ngang ngực (D1,3) cho rừng lá rộng thường xanh Kon Hà Nừng đã
kết luận: Phương trình đường thẳng bậc nhất đã mô phỏng tốt mối quan hệ
này với hệ số tương quan  0,7 và tác giả đã xác lập phương trình cụ thể cho 4
lồi cây: Ràng ràng, vạng, lim xanh, chò chỉ tương ứng với 3 cấp đất được
phân chia nhanh cho đối tượng nghiên cứu.

download by :


15

1.3. Thảo luận
Tất cả các cơng trình nghiên cứu về rừng tự nhiên trên thế giới và trong
nước rất đa dạng và phong phú. Tất cả các cơng trình nghiên cứu đều có giá
trị lý luận và thực tiễn ở những mức độ khác nhau và đều nhằm phục vụ cho
kinh doanh, lợi dụng rừng có hiệu quả và lâu bền. Trên đây mới chỉ nêu một
số nghiên cứu về phân chia trạng thái rừng, cấu trúc rừng có liên quan đến đề
tài. Những vấn đề này, đặc biệt là về cấu trúc được các tác giả trong nước
quan tâm nhiều hơn. Xu hướng nghiên cứu cũng ngày càng chuyển dần từ
định tính sang định lượng, thiên về lý thuyết sang ứng dụng thực tế. Cũng
chính từ việc đề cao ứng dụng thực tiễn mà những nghiên cứu đó đã đề cập
đến nhiều khía cạnh phong phú như cấu trúc tổ thành, cấu trúc theo đường
kính thân cây, cấu trúc theo chiều thẳng đứng, cấu trúc theo chiều nằm ngang.
Đối tượng nghiên cứu cấu trúc của các tác giả thường chọn là các lâm

phần ít bị tác động (trạng thái từ IIIb trở lên) do vậy việc định lượng hoá bằng
các hàm toán học tương đối thuận tiện, với kiểu rừng thứ sinh đã bị tác động
mạnh hoặc mới phục hồi (trạng thái từ IIa đến IIIa3) các quy luật dễ bị rối ren
và kết quả còn nhiều khác biệt nhau giữa các tác giả là điều khó tránh khỏi.
Trong trường hợp này cần thiết phải nghiên cứu đặc điểm cấu trúc cho mỗi
đơn vị cụ thể mới tạo khả năng ứng dụng trong thực tiễn cho một đối tượng
kinh doanh nào đó.
Phần lớn các tác giả đã chú ý đến việc lựa chọn mơ hình lý thuyết thích
hợp để mô tả các đặc điểm của cấu trúc rừng như đã nêu ở trên. Trong đó cấu
trúc N-D1,3 được quan tâm hàng đầu và sau đó đến cấu trúc N-Hvn. Từ mơ
hình lý thuyết thích hợp, các tác giả bằng cách này hay cách khác đã xây dựng
mơ hình cấu trúc mẫu làm cơ sở cho việc đề xuất biện pháp lâm sinh phù hợp
với từng điều kiện và mục tiêu kinh doanh cụ thể. Cấu trúc N-Hvn là một trong
những cơ sở xác định tầng tích tụ tán, từ đó có biện pháp điều tiết hợp lý.

download by :


16

Mặc dù đối tượng nghiên cứu phong phú và đa dạng, nhưng những cơng
trình đề cập ở trên sẽ là những định hướng quan trọng cho việc giải quyết các
nội dung nghiên cứu của đề tài. Qua đó, tác giả mong muốn có phần đóng góp
của mình về mặt cơ sở lý luận cũng như thực tiễn để giải quyết một số vấn đề
trong việc bảo vệ rừng mang tính bền vững, bảo tồn nguồn gen, bảo vệ môi
trường sinh thái.

Chương 2
ĐẶC ĐIỂM, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU


2.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên
2.1.1. Tọa độ địa lý:
Khu Bảo tồn thiên nhiên Hồng Liên, Văn Bàn có toạ độ địa lý:
Khoảng từ 210 25’ 00’’ đến 220 45’ 00’’ vĩ độ Bắc
Khoảng từ 103040’ 00’’ đến 1040 12’ 40’’ kinh độ Đơng
Ranh giới:
- Phía Đơng giáp các xã: Nậm Chày, Dần Thàng, Minh Lương, Dương
Quỳ thuộc huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai.
- Phía Tây giáp huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu và huyện Mù Căng Chải Yên Bái.
- Phía Nam giáp huyện Mù Căng Chải tỉnh Yên Bái.
- Phía Bắc giáp xã Bản Hồ, xã Nậm Cang huyện Sa Pa tỉnh Lào Cai.
Khu vực nghiên cứu nằm trong địa phận hai xã Nậm Xé, Nậm Xây và
một phần nhỏ của xã Liêm Phú Huyện Văn Bàn, (xem bản đồ 2-1).

download by :


17

Hình 2-1: Bản đồ quy hoạch khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên Văn Bàn

download by :


18

2.1.2. Địa hình
Tồn bộ khu điều tra tài ngun thực vật có địa hình núi cao, đại bộ
phận cao trên 700 m so với mặt biển. Đỉnh Lang Cung (2.913m) là đỉnh núi
cao nhất của khu vực nằm trên ranh giới xã Nậm Xây của huyện Văn Bàn với

xã Nậm Có của Huyện Mù Cang Chải.
Khu nghiên cứu là sườn Đơng của dãy núi Hồng Liên kéo dài, bắt đầu
từ đỉnh Nam Kang Ho Tao ở phía Bắc, chạy theo hướng Nam đến đỉnh Phu
Mang Pang rồi ngoặt về hướng Đơng qua đỉnh đỉnh Lang Cung. Địa hình bị
chia cắt mạnh bởi các dông núi phụ với các khe suối dốc, chạy từ trên các
đỉnh dơng cao phía Tây xuống. Trong khu nghiên cứu có xen kẽ một số đỉnh
núi cao đơn lẻ, khá hiểm trở có độ cao dưới 2000 m. Do độ chênh cao lớn nên
khu nghiên cứu có độ dốc trung bình 300-350, nhiều núi có độ đốc lớn hơn 350
rất khó đi lại. Nhìn chung địa hình khu nghiên cứu thuộc loại trung và đại địa
hình vùng núi cao, có độ chênh cao trên 1000 m. Độ cao, địa hình phức tạp và
bị chia cắt là yếu tố quan trọng tạo nên sự đa dạng về thực vật và hồn cảnh
cho thực vật cịn tồn tại đến ngày nay mà không bị người dân phá hết.
2.1.3. Địa chất, thổ nhưỡng
+ Nền địa chất khu nghiên cứu có lịch sử nguồn gốc kiến tạo cuối kỷ
Palacosoic, đầu kỷ Mesozoic và chịu ảnh hưởng nhiều của hoạt động tạo sản
Indexin ở kỷ thứ ba, có tuổi địa chất nhỏ nên dãy núi Hoàng Liên được xem là
dãy núi trẻ, đỉnh núi nhọn nhiều khe rãnh sâu vì quá trình bào mịn địa chất tự
nhiên cịn chưa lâu.
+ Đá mẹ: Trong khu nghiên cứu đá mẹ thuộc 2 nhóm chính: Đá macma
axit (Macma silic và đá biến chất với các loại chính như: Granit, Gnai,
Amphibolit, Filit, Đá vơi, Sa thạch, Đá Diệp Thạch. Sự đa dạng về đá mẹ đã
tạo ra nhiều loại đất với nhiều chủng loại khác nhau.
+ Các loại đất chính trong khu vực như:

download by :


19

Đất mùn thô màu xám trên núi cao, thành phần cơ giới nhẹ phân bố

thường ở độ cao trên 2.500m
Đất mùn Alit màu vàng nhạt, màu xám vàng trên núi cao, thành phần cơ
giới nhẹ thường có ở độ cao 1.700 m - 2.800 m.
Đất Feralit mùn vàng đỏ núi cao phát triển trên đá axít, đá biến chất, đá
Diệp Thạch, Đá phiến lẫn Sa thạch, thành phần cơ giới nhẹ hoặc trung bình
thường phân bố ở độ cao 700 m - 1.700 m.
Đất Feralit màu vàng đỏ phát triển trên đá Axit hoặc đá biến chất, thành
phần cơ giới trung bình ở độ cao 600 m - 700 m
Đất Feralit màu vàng đỏ phát triển trên đá phiến - Sa thạch, thành phần
cơ giới trung bình thường ở độ cao 600 m - 700 m.
Đất Feralit màu xám biến đổi do trồng lúa, có thành phần cơ giới trung
bình, phân bố quanh làng bản và trên các sườn núi có nguồn nước.
Nhìn chung đất trong khu vực là cát pha tới sét nhẹ, có thành phần cơ giới
từ nhẹ đến trung bình, kết cấu viên nhỏ và có độ mùn từ trung bình đến khá, tơi,
xốp, có độ ẩm cao cịn tính chất đất rừng, rất thuận lợi cho quá trình phát triển và
phục hồi rừng, xem bản đồ 2-2.

download by :


20

Hình 2-2: Bản đồ lập địa khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên Văn Bàn

download by :


21

2.1.4. Khí hậu

Khí hậu khu nghiên cứu thuộc kiểu khí hậu cận nhiệt đới gió mùa
(Nhiệt đới núi cao)
Mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10, mùa hè từ tháng 6-8, trời thường
nóng ẩm do chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam.
Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, mùa đông từ tháng 12 - 2.
+ Nhiệt độ
- Nhiệt độ bình quân năm 22,90C
- Nhiệt độ tối cao 330C, nhiệt độ tối thấp tuyệt đối 1- 20C.
- Nhiệt độ thấp từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau, trên các đỉnh cao nhiều
khi có tuyết rơi.
+ Độ ẩm
Độ ẩm tương đối bình quân năm 87%, Độ ẩm tương đối tối cao bình
quân năm 97%, Độ ẩm tương đối tối thấp bình quân năm 71%, Độ ẩm tương
đối tối thấp tuyệt đối 5%.
+ Lượng mưa
Lượng mưa bình quân năm 3.000 - 3.500 mm
+ Lượng bốc hơi nước trung bình năm 865,5 mm
+ Sương mù: bình qn có 160,8 ngày có sương mù trong năm.
+ Sương muối: bình qn 6 ngày có sương muối trong năm nhưng đơi
khi có đợt kéo dài 3 đến 5 ngày cao nhất tới 11 ngày.
+ Gió: Hướng gió thịnh hành của khu nghiên cứu là Đơng Bắc, Tây
Bắc đơi khi có gió mùa Tây Nam, gió nhẹ 2,7 m/s, Hàng năm vào các tháng 3,
4 đơi khi có gió Tây khơ nóng xuất hiện.
+ Tuyết, mưa đá: Những ngày rét đậm trong mùa đông, nhiệt độ xuống
thấp trên các đỉnh cao lớn hơn 2.500 m có tuyết phủ, đơi khi tuyết phủ xuống
tới độ cao 2.000m.

download by :



22

Trong các tháng 4,5 đơi khi có mưa đá, đường kính hạt đá trung bình
1cm và gây nhiều thiệt hại cho rau, màu, hoa cảnh.
Tóm lại: Khí hậu khu nghiên cứu là mát vào mùa hè, lạnh về mùa đông,
riêng mùa đơng có nhiệt độ thấp, lại có sương mù, sương muối nên ít nhiều
gây cản trở tới các hoạt động sản xuất lâm nghiệp đặc biệt là khâu gieo ươm
cây con. Từ độ cao 1.500 m trở lên khí hậu mát mẻ và thời tiết rất thích hợp
cho nhiều loài cây á nhiệt đới sinh trưởng và phát triển.
2.1.5. Thuỷ văn
Trong khu nghiên cứu khơng có sơng lớn. Đáng chú ý có 2 hệ thống các
suối đón nước từ dãy Hồng Liên kéo dài ở ranh giới phía Tây đổ về ngịi
Nậm Chan rồi chảy ra Sơng Hồng.
Hệ thống các suối Nậm Qua, Nậm Xi Tan, Nậm Mu đón nước từ địa
phận xã Nậm Xé chảy suôi theo hướng Đơng Nam hợp lại với suối Nậm Xây
đổ ra Ngịi Nậm Chan.
Suối Nậm Xây Noi đón nước vùng giáp ranh hai xã Nậm Xé và Nậm
Xây chảy theo hướng Đông, hợp với suối Nậm Xây
Suối Nậm Xây đón nước ở phía Nam xã Nậm Xây chảy ngược theo
hướng Tây Bắc chảy về Nậm Chan đổ ra sơng Hồng.
2.1.6. Tình hình chung về tài nguyên rừng
2.1.6.1. Hệ thực vật
Theo kết quả thống kê của Luận chứng kinh tế kỹ thuật (2006) cho
thấy: Tổng diện tích Khu bảo tồn thiên nhiên Hồng Liên - Văn Bàn:
25.669,09 ha. Trong đó: Diện tích đất có rừng: 23.476,89 ha chiếm 91,5%
diện tích khu bảo tồn, xem bản đồ 2-3.
+ Rừng tự nhiên: 23.321,99 ha chiếm 90,9% diện tích Khu bảo tồn
+ Rừng trồng:

154,90 ha


Trữ lượng các loại rừng: 2.469.348,28 m3 gỗ và 938.400 cây Vầu.

download by :


23

Khu hệ thực vật ở đây có 891 lồi thực vật bậc cao có mạch, thuộc 530
chi của 167 họ, trong 6 ngành thực vật: Khuyết lá thông (Psilotophyta);
Thông đất (Lycopodiophyta); Mộc tặc (Equisetophyta); Dương xỉ
(Polypodiophyta); Hạt trần (Pinophyta); Hạt kín (Magnoliophyta); Lớp hai lá
mầm (Magnoliopsida); Lớp một lá mầm (Liliopsida).
Có nhiều họ thực vật điển hình cho khu hệ thực vật nhiệt đới núi thấp
miền Bắc Việt Nam có nguồn gốc tại chỗ như: Họ Dầu (Dipterocarpaceae),
Dâu tằm (Moraceae), Họ Ba mảnh vỏ (Euphorbiaceae), Họ Cà phê
(Rubiaceae), Họ Đậu (Fabaceae), Họ Vang (Caesalpinơiaceae), Họ Cơm vàng
(Proteaceae), Họ Xoan (Meliaceae), Họ Ráy (Arecaceae), Họ Lan
(Orchidaceae)... các lồi điển hình cho thực vật nhiệt đới như: Chò nâu, Chò
chỉ, Đa, Sanh, Mít rừng, Sui, Dâu da, Mạ sa, Lim sẹt, Ráy dại, Củ nưa......
Nhiều họ thực vật điển hình có nguồn gốc từ hệ thực vật á nhiệt đới, từ
Hymalaya, Hoa Nam, Quý Châu di cư xuống, định cư ở Việt Nam như các
họ: Họ Re (Lauraceae), Trúc đào (Apocynaceae), Đỗ quyên (Ericaceae), Chè
(Theaceae), Họ ngọc lan (Magnoliaceae), Họ Hồ đào (Juglandaceae), Sồi Dẻ
(Fagaceae), Thích (Aceraceae), Cáng lị (Betulaceae)... các lồi điển hình
như: Dẻ gai Trung quốc, Dẻ lá rụng, Dẻ cau, Tơ hạp, Giổi găng, Giổi bà,
Thích lá xẻ, Tống quá sủ, Chắp tay, Đỗ quyên, Sặt gai, Chè rừng.....
Có nhiều họ thực vật có phân bố rộng ở nhiệt đới và á nhiệt đới như các
loài trong các họ Cỏ (Poaceae), Cúc (Asteraceae), Đậu, Vang, Trinh nữ
(Mimosaceae), Khoai lang (Covolvulaceae), Nhân sâm (Araliaceae), Cau dừa

(Arecaceae), Chè (Theaceae)... Nhiều họ thực vật lá kim có phân bố ở vùng á
nhiệt đới núi vừa và cao có trong khu vực mà đại diện là các lồi Pơ mu
(Fokienia hodginsii) (Cupresaceae), Thơng tre (Podocarpus neriifolius),
Thông

nàng

(Dacrycarpus

imbricatus)

(Podocaroaceae),

(Taxodiaceae), Chè, Súm (Theaceae), Dây gắm (Gretaceae)...

download by :

Cha

Câu


×