Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

(MN) một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng tuổi ham thích đến lớp học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.78 KB, 16 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng chấm sáng kiến năm học 2018 - 2019
Tôi ghi tên dưới đây:
Số
T
T

Họ và tên

1

..............

Ngày
tháng năm
sinh

Nơi công
tác

Chức
danh

Trường mầm
non ..............

Giáo
viên


Trình Tỷ lệ(%)
độ
đóng góp
chun và tạo ra
mơn
sáng kiến
Trung
cấp

100%

Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36
tháng tuổi ham thích đến lớp học”tại lớp nhà trẻ B, Trường Mầm non ...............
1. Chủ đầu tư sáng kiến: Khơng có
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
Lĩnh vực áp dụng: Phát triển tình cảm kỹ năng xã hội và thẩm mĩ.
Vấn đề sáng kiến giải quyết: “Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng tuổi ham
thích đến lớp học” tại lớp nhà trẻ B, Trường Mầm non ...............
3. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu:
- Từ ngày 10/09/2018 đến ngày 10/04/2019
4. Mơ tả bản chất của sáng kiến:
Vai trị giáo dục mầm non đối với trẻ nhà trẻ rất quan trọng, nó giúp trẻ phát
triển hài hịa về các mặt thể chất, nhận thức, ngơn ngữ, tình cảm kỹ năng xã hội và
thẩm mĩ. Trẻ lần đầu tiên trong cuộc đời, trẻ xa vòng tay của bố mẹ, của gia đình đến
với mơi trường mới, mọi thứ đối với trẻ cịn lạ lẫm, bỡ ngỡ, chưa có nề nếp trong mọi
hoạt động, trẻ nhút nhát, sợ sệt, có thái độ khơng ăn, khơng ngủ, hay thậm chí có
những trẻ q sợ hãi mà khóc lóc, chạy chốn khỏi lớp. Nhìn thấy trẻ như vậy, bản
thân tôi là giáo viên trực tiếp chăm sóc giáo dục trẻ, tơi đã băn khoăn suy nghĩ rất
nhiều làm sao để nhanh chóng tạo cho trẻ quen với hoạt động hàng ngày và cuộc
1



sống ở nhà trẻ, để từ đó trẻ cảm thấy vui vẻ, hứng thú, thích đi học, u cơ, u bạn,
yêu trường lớp.
Nhận thức được điều đó, để góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục
chăm sóc trẻ cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi tại lớp Nhà trẻ B trường mầm non ..............
- .............. - .............., nên tôi đã mạnh dạn lựa chọn sáng kiến “Một số biện pháp
giúp trẻ 24 - 36 tháng tuổi ham thích đếm lớp học” với mục đích giúp giáo viên rèn
nề nếp thói quen hàng ngày cho trẻ một cách hiệu quả. Giúp trẻ có thói quen hàng
ngày, ham thích đến lớp, đưa trẻ vào nề nếp một cách tự nhiên, thoải mái, hứng thú,
khơng gị bó, tham gia các hoạt động một cách tự nhiên, tích cực. Giúp giáo viên trở
thành người mẹ thứ 2, là người bạn chia sẻ mọi cảm xúc của trẻ. Tạo cơ hội cho trẻ
hứng thú tham gia vào các hoạt động hàng ngày ở lớp, học tập nề nếp thói quen ở mọi
lúc, mọi nơi. Giúp cô hiểu hơn về tâm sinh lý của trẻ, giáo viên có được lịng tin u
của phụ huynh.
4.1. Tính mới:
Các phương pháp mà tơi sử dụng trong sáng kiến đề cập đến là những vấn đề
giúp trẻ 24 - 36 tháng tuổi ham thích đến lớp học, đều là những biện pháp lần đầu tiên
được áp dụng đối với trẻ tại lớp Nhà trẻ B, trường Mầm non ..............,
huyện .............., tỉnh ...............
Các phương pháp trong sáng kiến “Một số biện pháp giúp trẻ 24 - 36 tháng tuổi
ham thích đến lớp học” đều là do tơi rút kinh nghiệm và tích lũy được qua những
năm tơi trực tiếp chăm sóc giáo dục trẻ tại lớp mình phụ trách. Từ đó, tơi đưa ra được
một số biện pháp giúp trẻ ham thích đến lớp học một cách nhẹ nhàng, gần gũi mà vẫn
đạt được kết quả nhất định, với các biện pháp cụ thể:
- Tích cực quan tâm tới tâm lý hàng ngày của trẻ và phụ huynh để tạo niềm vui
cho trẻ
- Cơ tích cực làm đồ dùng đồ chơi tự tạo hấp dẫn thu hút sự chú ý, hứng thú của
trẻ khi đến lớp.
- Xây dựng môi trường trong lớp, ngoài lớp học lấy trẻ làm trung tâm.

- Linh hoạt trong việc tập thói quen nề nếp cũ và mới cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi.
2


- Tạo sự gần gũi với trẻ và đặt lòng yêu quý trẻ lên hàng đầu.
- Làm tốt công tác tuyên truyền tới phụ huynh, để phối hợp trong việc giúp trẻ
24-36 tháng tuổi ham thích đến lớp học.
Các biện pháp sử dụng trong sáng kiến này đều được tôi đúc kết lại trong q
trình tơi giảng dạy, chăm sóc giáo dục trẻ những năm qua, các biện pháp giúp trẻ 24 36 tháng tuổi ham thích đến lớp học trong sáng kiến này chưa có ai nghiên cứu hay
được học trong trường chuyên nghiệp, mà những biện pháp này chỉ có được qua kinh
nghiệm qua q trình chăm sóc giáo dục trẻ.
4.2. Tính khoa học:
Sáng kiến của tơi được xây dựng trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn vững vàng,
chặt chẽ, dựa trên đặc điểm tâm sinh lý của trẻ Mầm non lứa tuổi 24- 36 tháng tuổi
trongChương trình GDMN mới được ban hành kèm theo Thông tư số 28/2016/TTBGDĐT ngày 30/12/2016 của Bộ trưởng BGDĐT.
Các biện pháp tôi đưa ra đều dễ hiểu, dễ làm, dễ thực hiện, phù hợp với việc tạo
ham thích đến lớp cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi ở lớp tôi phụ trách. Trẻ hứng thú, vui vẻ
tham gia các hoạt động, trẻ thích đến lớp, có tình cảm với cơ, u bạn, u lớp học
của mình.
Cấu trúc sáng kiến được trình bày đúng thể thức văn bản, nội dung văn bản ngắn
gọn, dễ hiểu.
4.3. Tính thực tiễn:
4.3.1. Thực trạng việc giúp trẻ 24 - 36 tháng tuổi ham thích đến lớp học.
Năm học 2018 - 2019, tôi được phân công nhiệm vụ chủ nhiệm lớp Nhà trẻ B lứa
tuổi 24- 36 tháng tuổi, với tổng số trẻ là 30, trong đó nữ: 16 trẻ, nam: 14 trẻ; lứa tuổi 18
-24 tháng: 9 trẻ, lứa tuổi 24 - 36 tháng: 21 trẻ và có 2 giáo viên phụ trách. Đa số trẻ là
con em nơng thơn, cha mẹ khơng có nhiều thời gian quan tâm đến con trẻ, nhận thức
về cơng tác chăm sóc ni dưỡng, giáo dục trẻ cịn hạn chế.
Trước khi thực hiện sáng kiến này tôi thấy do trẻ đến lớp chủ yếu là trẻ mới đến
trường, còn bé và lại là lần đầu xa bố mẹ, xa gia đình nên trẻ có tâm trạng lo lắng, sợ

sệt, chưa mạnh dạn, tự tin, có trẻ cịn khóc lóc, chạy chốn khỏi lớp, khơng muốn đi
học, trẻ hầu như chưa có bất kỳ hứng thú, ham thích nào tới lớp, tới trường. Mặt
3


khác, lứa tuổi và ham thích đến lớp học của trẻ khơng đồng đều nên việc tổ chức chăm
sóc, giáo dục cũng như tổ chức các hoạt động cho trẻ ở lớp cịn gặp rất nhiều khó khăn.
Với những khó khăn như thế tôi phải dần dần khắc phục, sửa đổi và tìm mọi cách tạo
hứng thú cho trẻ đến lớp.
* Thuận lợi:
Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Phịng Giáo dục và Đào tạo ..............,
Đảng ủy, chính quyền địa phương và Ban giám hiệu nhà trường. Bản thân tơi đã có
trình độ Đại học mầm non.
Bên cạnh đó, lớp tơi cịn nhận được sự quan tâm đầu tư từ cấp Sở, cấp Huyện,
nhà trường về trang thiết bị đồ dùng, đồ chơi theo quy định để thuận tiện cho công tác
dạy và học. Nhà trường đã đầu tư máy chiếu để phục vụ cho công tác dạy và học,
hiện tại các lớp đều có ti vi, đầu đĩa đọc thẻ nhớ, nên có nhiều thuận lợi trong công
tác dạy và học.
Bản thân tôi luôn nâng cao ý thức tự học hỏi từ các đồng chí, đồng nghiệp, bạn
bè, sách vở, báo trí, tích cực đi dự giờ thăm lớp và làm đồ dùng đồ chơi phục vụ mơn
học, qua đó tơi cũng tích lũy được kinh nghiệm trong giảng dạy.
* Khó khăn:
Đa số trẻ là con em nơng thơn, cha mẹ khơng có nhiều thời gian quan tâm đến con
trẻ, nhận thức về giáo dục chăm sóc cho trẻ còn hạn chế.
100% là trẻ mới đến trường, còn bé và lại là lần đầu xa bố mẹ, gia đình nên trẻ
có tâm trạng lo lắng, sợ sệt, chưa mạnh dạn, tự tin, có trẻ cịn khóc lóc, chạy chốn
khỏi lớp, không muốn đi học, trẻ hầu như chưa có bất kỳ hứng thú, ham thích nào tới
lớp, tới trường.
4.3.2. Biện pháp thực hiện:
* Biện pháp1: Tích cực quan tâm tới tâm lý hàng ngày của trẻ và phụ huynh

để tạo niềm vui cho trẻ.
- Trong những giờ đón và trả trẻ ở lớp:
Việc thường xuyên quan sát và điều tra thực tiễn cho giáo viên nhìn nhận chính
xác được về tình trạng thực tiễn của lớp mình, từ đó đưa ra các hoạt động điều chỉnh
đến từng cá nhân trẻ, bởi vì mỗi trẻ có một tính cách khác nhau. Trò chuyện với phụ
huynh về trẻ để biết bé thích ăn những gì? khơng ăn gì? và ngủ như thế nào? Những
4


ngày đầu tiên đến trường cô giáo phải là người bạn thân thiện, gần gũi với trẻ. Những
ngày đầu tiên trẻ được bố mẹ đưa đến lớp thường ôm chặt lấy bố mẹ, khơng muốn rời
xa và nhìn xung quanh một cách sợ hãi. Nếu lúc đó cơ giáo đến bế trẻ ngay và tách
rời ra khỏi tay bố mẹ thì tơi nghĩ trẻ sẽ rất sợ cơ và khóc, sợ đi học, tránh cho trẻ bị
hụt hẫng và có cảm giác khi trẻ bị bỏ rơi.
Chính vì thế khi tiếp xúc lần đầu tiên với trẻ tôi chỉ chào hỏi, cười và làm quen
bằng những câu hỏi đơn giản, thân mật như: “Con tên gì?”, “ Con mấy tuổi?”. Sau đó
tơi trị chuyện với phụ huynh và từ từ âu yếm trẻ, kế đến là nắm tay trẻ thật nhẹ
nhàng, đó là bước khởi đầu trẻ cảm thấy an lịng. Sau đó tơi lấy đồ chơi hoặc tổ chức
chơi trị chơi nào đó nhằm lơi cuốn trẻ, thu hút trẻ đến trị chơi đó để trẻ cảm thấy gần
gũi và không xa lạ trong những ngày đầu đến lớp.Tuy nhiên vẫn nhiều trẻ ngồi trong
lịng mẹ mà khơng chịu chơi cùng bạn. Tơi vẫn tiếp tục trị chuyện cùng phụ huynh
về thói quen, tập quán của trẻ để dễ dàng thích nghi với trẻ, cho đến khi trẻ cảm thấy
sự gần gũi giữa mẹ và cơ, từ đó trẻ sẽ chơi với cô và các bạn trong lớp.
Mặt khác, việc tuyên truyền với các bậc phụ huynh yên tâm khi gửi con cho các
cô để phụ huynh yên tâm để con ở lớp cho cơ giáo. Từ những tình trạng thực tế đã
giúp tơi tìm ra một số biện pháp tốt giúp trẻ thích nghi với lớp được tốt hơn. Đầu năm
trẻ của tơi khóc rất nhiều, khi đón trẻ tơi thường an ủi phụ huynh trước tiên, vì họ rất
thương con, lo lắng cho con, sợ con sẽ khóc nhiều làm ảnh hưởng khơng tốt đến sức
khỏe trẻ. Những lời động viên sẽ giúp họ an tâm hơn,và khi nhận trẻ từ tay ba mẹ tôi
luôn ấu yếm trẻ, tươi cười để tạo cho phụ huynh một tâm thế tốt nhất. Cũng như đối

với trẻ, sau một ngày của trẻ hoạt động ở lớp, khi phụ huynh đến đón, tơi trao đổi với
phụ huynh về tình hình sức khỏe cũng như tâm lí của trẻ buổi đầu đến lớp, để phụ
huynh thấy được sự quan tâm sát sao của giáo viên tới con em mình.

Hình ảnh cơ giáo trị chuyện với phụ huynh trong giờ đón, trả trẻ
* Biện pháp 2: Cơ tích cực làm đồ dùng đồ chơi tự tạo hấp dẫn thu hút sự
chú ý, hứng thú của trẻ đến lớp.
Với một số đồ dùng cô tạo ra như: Những con vật nghộ nghĩnh, hoa quả với bé.
cơ có thể tận dụng những con vật mà cô làm được để tổ chức cho cả lớp chơi một trị
chơi “Đốn tên các con vật” tạo hứng thú cho trẻ và quan sát biểu hiện của trẻ mới
vào lớp, để kích thích sự sáng tạo, ham học hỏi của trẻ. Với những trẻ hiếu động, tôi
5


giới thiệu cho trẻ tham gia chơi ở các góc xây dựng, tạo sự tò mò để cho trẻ tự trải
nghiệm và bản thân cô cũng luông là người đồng hành với trẻ. Khi đón trẻ vào lớp,
tơi cùng trẻ dạo quanh lớp, gợi hỏi những đồ vật, đồ chơi này tên gì để trẻ trả lời, nếu
trẻ trả lời khơng được hoặc khơng thích trả lời, tơi sẽ gợi ý và giúp trẻ trả lời, dần dần
trẻ ngoan lên, đi học khơng khóc nữa.
Bên cạnh việc trưng bày ở các góc chơi nhiều đồ chơi hấp dẫn do nhà trường
mua sắm phục vụ cho các cháu. Ngồi ra tơi cịn tận dụng thời gian rảnh của mình
làm ra nhiều đồ dùng đồ chơi từ những nguyên vật liệu từ phế thải như: hộp sữa chua
tạo ra những con vật ngộ nghĩnh, những chiếc đu quay như thường ngày bé chơi. Từ
những bìa cát tơng, những mảnh xốp vụn tạo nên những con vật xinh xắn, đáng yêu,
kích thích trẻ chú ý và thích chơi.

Hình ảnh đồ chơi tự tạo
Mặt khác tôi nhập vai chơi với trẻ để tạo sự thân thiện, gần gũi và để trả dễ
dàng thích ứng với vai chơi của mình.
Trong một lớp học có bao nhiêu trẻ thì có bấy nhiêu sự khác biệt về tính cách cá

nhân của từng trẻ. Những sự khác biệt này bao gồm cả về thể chất, năng lực, xu
hướng, hứng thú, và tất cả các trẻ đều có quyền đòi hỏi được quan tâm, đáp ứng nhu
cầu bản thân. Bên cạnh đó, nhà giáo dục cũng thấy rằng về bản chất, phạm vi năng
lực làm bộc lộ năng lực tiểm ẩn này, trẻ cần có mơi trường học tập cho phép chúng
được học tập mọi lúc mọi nơi theo nhiều khía cạnh khác nhau. Khi trẻ đến lớp, mỗi
trẻ là một cơ thể duy nhất, do đó trẻ sẽ hành động trong một mơi trường theo cách
của mình. Chính vì vậy cơ giáo cần tạo cho trẻ một tâm thế tốt khi ở lớp, một khơng
khí tình cảm u thương, tôn trọng trẻ. Điều này giúp trẻ biết nghe lời cô giáo và phát
triển khả năng bẩm sinh sẵn có của mình, hứng thú nhận thức càng cao trẻ càng thể
hiện rõ hơn năng lực của bản thân. Thậm chí hứng thú có thể làm biến đổi một cách
đáng kể hiệu quả hoạt động của trẻ. Đối với lớp nhà trẻ 24 – 36 tháng tuổi thì hoạt
động với đồ vật là hoạt động mang tính chủ đạo. Chính những hoạt động này tạo nên
sự biến đổi về chất trong tâm lý của trẻ làm cho các hoạt động khác nhau mang một
màu sắc riêng của nó. Trong trường mầm non, hoạt động với đồ vật ln có sự hướng
dẫn, tổ chức của cô giáo. Trẻ được học tập và tiếp thu tri thức dưới hình thức chơi mà
học - học bằng chơi. Trên hoạt động có chủ định, trẻ được học các kỹ năng còn trong
các giờ hoạt động khác trẻ được ứng dụng các kỹ năng đó.
6


* Biện pháp 3: Xây dựng môi trường trong lớp, ngoài lớp học lấy trẻ làm
trung tâm.
Hoạt động ở các góc là hoạt động cá nhân hoặc một nhóm trẻ, nên trẻ có cơ hội
lựa chọn hoạt động mà trẻ ưa thích, trẻ được tự do giao tiếp, tự do chọn đồ chơi, được
trải nghiệm cảm giác hứng thú qua các trị chơi giúp trẻ tự tin. Vì thế việc xây dựng
môi trường giáo dục cũng là điều quan trọng đối với trẻ mầm non, đặc biệt là đối với
trẻ ở lứa tuổi 24 - 36 tháng tuổi.
- Môi trường trong lớp học
Ngồi việc xây dựng mơi trường giáo dục ngồi trời thì việc xây dựng mơi
trường giáo dục trong lớp cần chú trọng hơn nhiều. Vì thế để trẻ thích được đến lớp

tơi cùng với giáo viên của lớp trang trí, xây dựng mơi trường giáo dục của mình thật
đẹp bằng những nguyên vật liệu sẵn có của địa phương như mo cau, hột hạt, rơm rạ,
tạo nên những bông hoa với sắc màu rực rỡ, xinh xắn của hộp váng sữa mà trẻ đã sử
dụng xong để lại vỏ cho cô làm đồ dùng phù hợp lứa tuổi trẻ lớp tôi, phù hợp với chủ
đề, tạo không gian mới lạ đẹp, đẹp mắt để các cháu quên đi cái nỗi nhớ bố mẹ, làm
quen mơi trường tốt hơn.

Hình ảnh xây dựng mơi trường lớp học

Ngồi việc trang trí xây dựng mơi trường giáo dục đẹp thì trường lớp phải
thống mát, sạch sẽ. Ngồi ra tơi cịn bố trí khơng gian các góc chơi phù hợp với trẻ
và chuẩn bị nhiều đồ dùng đồ chơi tự tạo, nguyên vật liệu thiên nhiên, hột hạt để cho
trẻ được vui chơi, được giao lưu giữa các nhóm chơi với nhau, để trẻ được học hỏi,
giao lưu và đoàn kết với bạn trong nhóm chơi và giúp cho trẻ hứng thú khi tham gia
vui học cùng cơ và các bạn.

Hình ảnh trẻ hoạt động ở các góc
Bên cạnh đó, việc xây dựng bố trí các góc chơi phù hợp khoảng cách giữa các
góc, xen kẽ giữa động và tĩnh, cùng những hình ảnh ngộ nghĩnh, đẹp mắt với trẻ. Cô
7


giáo cịn sáng tạo thêm nhiều góc chơi, góc thiên nhiên, góc tạo hình để hướng trẻ
vào các góc chơi, để bản thân trẻ tự khám phá xem những góc chơi đó có những gì?
Để trẻ tự đặt ra câu hỏi đơn giản như: Cái này là cái gì? đây là quả gì? đây là đồ chơi
gì?. Để đáp ứng được những câu hỏi trẻ đưa ra cô là người cùng chơi với trẻ, giao lưu
với trẻ, với tất cả các nhóm chơi. Bên cạnh với lời nói tơi đưa luôn vào việc thực
hành cho trẻ được trải nghiệm tạo cho trẻ sự thích thú.
- Mơi trường ngồi lớp học
Yếu tố trường lớp cũng là yếu tố cần thiết cho sự ham thích đi học của trẻ.

Trường mầm non xã .............. thống mát, khu vực chơi ngồi trời sạch sẽ, đồ chơi
phong phú,thu hút trẻ.
Hình ảnh mơi trường bên ngồi Trường mầm non ..............
Với mơi trường sạch sẽ, an tồn đó cũng là một lợi thế giúp tơi tổ chức những
hoạt động chơi ngồi trời cho trẻ vì hoạt động trẻ rất hào hứng khi tham gia. Vì khi ra
ngồi trời trẻ được tự do, thoải mái khám phá về mơi trường xung quanh, thiên nhiên.
Và khi trẻ ra ngồi trời cơ sẽ tổ chức nhiều trị chơi dân gian như: Lộn cầu vồng,
dung dăng dung dẻ. hoặc chơi trò chơi vận động đơn giản như: Nhảy lò cò, Gieo hạt,
bóng trịn to, hay chỉ cần trị chuyện hoặc cho trẻ xem cảnh vật xung quanh sân
trường, cho trẻ chơi đu quay, chơi bập bênh, kể chuyện cho bé nghe, việc này sẽ gây
hứng thú và chiếm được nhiều cảm tình của trẻ.

Hình ảnh cơ và trẻ dạo chơi

Hình ảnh chơi trị chơi dân gian

Hình ảnh trẻ chăm sóc hoa
- Các con đang làm gì? Muốn có chậu hoa đẹp chúng mình phải làm gì? Vì sao
chúng mình phải chăm sóc cho hoa?.
* Biện pháp 4: Linh hoạt trong việc tập thói quen nề nếp cho trẻ ở mọi lúc,
mọi nơi.
8


- Đối với giờ ăn
Có thể vài ngày đầu, tơi vẫn sẽ chiều theo nhiều thói quen khơng tốt của trẻ như:
Khơng ăn thịt, rau, đậu, ăn cơm rất ít, như những ngày đầu tơi bón cho trẻ ăn và những
ngày sau đó tơi khuyến khích trẻ động viên trẻ tự xúc ăn và ăn hết suất. Đối với trẻ ăn
kém ăn, ăn kén. Tôi sẽ tập dần cho trẻ ăn dần những món ăn đó, sau dần trẻ sẽ quen và
ăn các món ăn ở trường.Tơi sẽ từ từ tập dần thói quen cho trẻ đến khi trẻ quen dần và

tôi sẽ đưa trẻ vào nề nếp ăn, ngủ, vệ sinh. Không cho trẻ ăn quà vặt trước giờ ăn để tạo
sự thèm ăn, giới thiệu các món ăn để trẻ thích ăn những món ăn ở trường.

Hình ảnh giờ ăn của trẻ

- Đối với giờ ngủ
Ban đầu trẻ chưa quen với giấc ngủ ở trường, hay trẻ ở nhà không chịu ngủ trưa
tôi gần gũi dỗ trẻ, bế trẻ, hay kể câu chuyện cổ tích, những lời hát ru êm dịu để đưa
trẻ dần vào giấc ngủ dễ dàng hơn.

Hình ảnh giờ ngủ của trẻ
Là giáo viên của lớp tơi ln tạo khơng khí vui tươi, thoải mái cho trẻ, động viên
trẻ đi học đều, tạo điều kiện quan tâm đến những trẻ nhút nhát, giành thời gian gần
gũi, trò chuyện với trẻ để trẻ mạnh dạn hơn, tự tin tham gia các hoạt động tập thể
giúp trẻ được giao tiếp nhiều hơn.
* Biện pháp 5: Tạo sự gần gũi với trẻ và đặt lòng yêu quý trẻ lên hàng đầu.
Bản thân tôi luôn thể hiện sự quan tâm gần gũi với trẻ qua ánh mắt, cử chỉ, điệu
bộ, lời nói để trẻ thực sự cảm nhận được tơi chính là người bạn của trẻ mỗi khi trẻ
đến lớp. Ngồi ra tơi ln thu hút trẻ vào những trò chơi, hay vào những bài thơ, câu
chuyện, ca dao, đồng dao nhằm tạo sự quen thuộc như trẻ đang ở nhà với mẹ. Tôi sẽ
để trẻ tự do ngồi đâu trẻ thích, khi đó tơi sẽ đến nói với trẻ lại đây nằm chơi với cô,
con chỉ cần nằm chơi tí xíu khi nào các bạn ngủ dậy cơ sẽ cho về. Hoặc tôi sẽ ngồi
thuyết phục trẻ đến khi trẻ thấy buồn ngủ thì lúc đó tơi sẽ để trẻ vào gối nằm. Khi đón
trẻ tơi cũng thường dặn phụ huynh đón trẻ đúng giờ để trẻ tập quen dần với mơi
trường mới và sẽ khơng có cảm giác bị bố mẹ bỏ lại trường.
9


Hình ảnh bé đến lớp vui cùng cơ giáo
Ngồi những biện pháp giúp trẻ thích nghi sớm với trường lớp mầm non từ

những kinh nghiệm thực tiễn và qua kinh nghiệm học hỏi từ đồng nghiệp tôi đã áp
dụng trong những năm học học qua, tơi cịn đến với trẻ bằng chính tình thương của
mình bằng lịng u nghề, u trẻ như chính con đẻ của mình, ln hịa mình vào thế
giới của trẻ, luôn đáp ứng kịp thời những nhu cầu của trẻ nhưng không vượt qua giới
hạn, chăm sóc, u thương trị chuyện để mỗi ngày trẻ đến lớp càng có thêm nhiều
niềm vui, trẻ u thích đến lớp và ngày càng ngoan ngoãn, lễ phép hơn. Thậm chí có
những cháu bị ốm, bị sốt nhưng sáng ngủ dậy vẫn đòi bố mẹ bế cho con đi học với
cô giáo và các bạn chứ không chịu ở nhà.
Sau khi các trẻ mới đã quen trường lớp, quen bạn, tôi bắt đầu dạy trẻ cách chào
hỏi cô khi đến lớp, chào bố/mẹ, khi bố/mẹ đến đón và khi bố/mẹ ra về, biết xin khi cô
cho quà, sữa, bánh. Từ khi sử dụng các biện pháp trên vào đối với học sinh của lớp
mình tơi thấy các cháu có sự tiến bộ rõ rệt.
Từ đó dần đưa trẻ vào nề nếp học tập qua từng hoạt động học trong ngày tạo sự
hứng thú, thoải mái, không gây áp lực cho trẻ trong các hoạt động. Qua các giờ học
ngoài việc truyền tải kiến thức đến các cháu, thu hút các cháu vào bài dạy của mình
để các cháu khơng cịn khóc và khi về nhà địi bố mẹ ngày mai con lại đi học với cô
giáo. Tôi đã học tập nghiên cứu rất nhiều qua tài liệu, công nghệ thông tin để tích lũy,
học hỏi kinh nghiệm cho mình những kiến thức hay, cách lên lớp hay, tạo sự thoải
mái cho trẻ khi học tập, không tạo áp lực với trẻ.
( Ví dụ: Qua giờ âm nhạc, tùy vào từng chủ đề tôi áp dụng làm những chiếc mũ
xinh, hay những bộ quần áo ngộ nghĩnh để trẻ được đội mũ, được mặc những trang
phục đó trong giờ hoạt động âm nhạc, qua đó trẻ rất thích thú và hăng say hoạt động,
trẻ khơng cảm thấy bị áp lực).

Hình ảnh trang phục ngộ nghĩnh
Qua giờ văn học, cô giáo luôn là người bạn tin cậy của trẻ khi đến lớp, luôn thu
hút trẻ vào những bài thơ, câu chuyện, ca dao, đồng dao, hát ru nhằm tạo sự quen thuộc
như trẻ đang ở nhà với mẹ. Ngồi ra, tơi cịn sử dụng công nghệ thông tin sử dụng
10



powerpoint áp dụng vào những bài dạy khiến hình ảnh thêm sinh động, rõ nét.Thay đổi
nhiều hình thức trên bài dạy như các câu chuyện vừa sử dụng powerpoint vừa sử dụng
tranh, mơ hình, rối rẹt, kết hợp hài hịa để tạo sự tị mị đối với trẻ, từ đó mỗi khi lên
lớp tôi cảm thấy tự tin, phấn khởi hơn khi thấy các cháu chăm chú học tập.Với những
câu chuyện, tôi kể sáng tạo kết hợp với rối rẹt sinh động tạo cho trẻ sự thích thú lắng
nghe câu truyện, nhân vật gần gũi với trẻ. Từ đó mỗi khi trẻ đến lớp, trong tâm trí của
trẻ hứng thú với những điều mới, đặc biệt là các con vật được làm từ những ngun vật
liệu thiên nhiên.

Hình ảnh cơ và trẻ cùng kể chuyện
Đối với giờ học trầm như: Nhận biết phân biệt, hoạt động với đồ vật, tôi thường
tích hợp với hoạt động âm nhạc, hay các trị chơi vào cho tiết học sinh động hơn,
không tạo sự nhàm chán đối với trẻ. Hỏi trẻ những câu hỏi đơn giản khích thích trẻ
trả lời. Tạo cho trẻ sự hứng thú khi học bài, sử dụng những đồ dùng đồ chơi gây hứng
thú như về màu sắc, chất liệu dễ kiếm, dễ tìm, đồ chơi phải đảm bảo tính giáo dục an
tồn đối với trẻ.
Đối với giờ tạo hình: Từ hoạt động tạo hình mà trẻ biết được thế giới tự nhiên,
cuộc sống con người vô cùng phong phú và đa dạng, có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, từ đó trẻ sẽ tái tạo những cảnh vật bằng sự cảm nhận ban đầu đầy ngộ nghĩnh
hồn nhiên, đáng yêu của tâm hồn trẻ thơ thông qua các sản phẩm của trẻ. Hoạt động
tạo hình giúp trẻ hiểu một cách sâu sắc về các mối quan hệ về sự vật hiện tượng xung
quanh trẻ. Từ đó trẻ có thái độ tình cảm, các hành vi ứng xử tốt qua việc thể hiện các
sản phẩm tạo hình. Dạy trẻ vẽ còn giúp trẻ bước đầu làm quen với các phương tiện và
ngơn ngữ tạo hình như: Phát triển khả năng tri giác, làm đồ vật về hình dáng, đường
nét, bố cục, màu sắc, hình thành cho trẻ các thao tác tư duy, nhằm phát triển khả năng
sáng tạo. Với trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ hoạt động tạo hình bao gồm vẽ, di màu, nặn, xé
dán theo ý thích. Thơng qua các hoạt động này, giúp trẻ tìm hiểu khám phá tái tạo lại
những sự vật hiện tượng của thếgiới xung quanh, hình thành cho trẻ xúc cảm, tình
cảm, trẻ nhận thức được cái đẹp, biết trân trọng sản phẩm của mình làm ra, từ đó trẻ

biết u lao động, biết giữ gìn đồ dùng đồ chơi.

11


Hình ảnh hoạt động tạo hình
* Biện pháp 6: Thực hiện tốt công tác tuyên truyền tới phụ huynh, để phối
hợp trong việc giúp trẻ 24-36 tháng tuổi ham thích đến lớp học.
Để cùng cô giáo đưa các cháu vào nề nếp học tập, hứng thú đi học thì bên cạnh
đó khơng thể thiếu được sự giúp đỡ, quan tâm của các bậc phụ huynh. Với phụ
huynh lớp, tôi luôn kết hợp hài hòa cùng giáo viên chủ nhiệm cùng lớp đưa con đi
học đều để tập cho các cháu thói quen đi học đúng giờ. Trước hết nhà trường phải
giúp huynh nắm được quy định của nhà trường chế độ ăn, lịch sinh hoạt của trẻ. Sau
đó cha mẹ sẽ tập cho bé sinh hoạt ở nhà gần giống như ở trường như: Tập cho cháu
thói quen ăn sáng để đi học đúng giờ, tập cho bé một số thói quen như ăn, ngủ, vệ
sinh, khi ăn khơng làm rơi vãi cơm, ngủ trên sập. Nói chuyện với bé về những điều
thú vị ở trường mầm non không nên nói những câu như: “Con hư ba mẹ sẽ cho con
đi trường mầm non, đưa con cho cô giáo” tạo ấn tượng khơng tốt cho bé. Song bên
cạnh đó hàng ngày phụ huynh cũng nên đưa bé đến trường chơi vào giờ trả trẻ. Bé
sẽ chơi ngoài sân hoặc vào trong lớp học để làm quen với cô giáo, với đồ dùng, đồ
chơi.Cùng cơ động viên, khuyến khích trẻ để phối hợp kết hợp với cô giáo để biết
được những phản ứng của trẻ để có cách khắc phục tốt hơn. Ngồi ra tơi động viên
phụ huynh mỗi tuần cho cháu về nhà học thêm bài như vẽ tranh, di mầu tranh, nặn
tùy ý theo sở thích của mỗi cháu. Cháu thích vẽ gì nên để cháu vẽ, bố mẹ hướng dẫn
cháu di màu sao cho đẹp, hoặc dạy cho trẻ hát các bài hát đơn giản, cả nhà cùng
động viên khích lệ trẻ.(Ví dụ: Trẻ di màu bức tranh cầm bút chưa đúng cách bố mẹ
có thể trao đổi với cô giáo để hướng dẫn trẻ cầm bút đúng cách). Khuyến khích phụ
huynh mang những sản phẩm trẻ đã tạo ở nhà cho cơ để cơ trang trí lớp. Dùng chính
đồ dùng mà trẻ mang đến cho trẻ chơi. Cho phụ huynh xem những sản phẩm tạo
hình của trẻ mà được làm trong giờ học. Điều đó vừa tạo cho phụ huynh sự tin

tưởng ở cô giáo, vừa tạo cho trẻ sự thoải mái, thích thú và muốn được đi học.
Từ những biện pháp trên trẻ lớp tôi kể cả việc đến lớp cũng như trong học tập
đều đạt được kết quả rất tốt. Bên cạnh đó trẻ cịn được tham gia “Bé vui hội xuân”,
“Hội khỏe măng non” nhìn các cháu nhà trẻ đi thi ai cũng nghĩ rằng các cháu nhỏ như
thế thì thi sao được, nhưng khi tham gia các cháu lại rất tự tin. Điều đó cũng làm cho
phụ huynh yên tâm và phấn khởi khi gửi con cho cô giáo. Lớp tôi cũng dần thu hút
được đông các cháu đến lớp (hiện nay sĩ số lớp là 30 cháu), trẻ còn đi học rất đều.

12


Hình ảnh bé tham gia hội thi

4.4. Tính hiệu quả và khả năng áp dụng sáng kiến:
Sau khi lựa chọn sáng kiến giúp trẻ ham thích đến lớp. Bằng lịng say mê và sự
nhiệt tình của một giáo viên trẻ, tôi áp dụng trực tiếp các biện pháp của sáng kiến vào
giảng dạy tại lớp mình, qua thời gian kiên trì thực hiện sáng kiến trong năm học 2018
- 2019, tơi thấy trẻ hàng ngày ham thích đến lớp, khi đến lớp trẻ vui vẻ, tự tin, hứng
thú. Mỗi một biện pháp khi áp dụng vào thực tế, lớp tôi đều mang lại những hiệu quả
nhất định, cụ thể:
- Tích cực quan tâm tới tâm lý hàng ngày của trẻ và phụ huynh để tạo niềm vui
cho trẻ đã giúp cơ có những hiểu biết hơn về đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. Trẻ có
những hiệu quả rõ rệt, trẻ trầm, nhút nhát nay thì năng động, mạnh dạn, tự tin lên; trẻ
hiếu động thì ngoan hơn. Trẻ hứng thú tham gia các hoạt động của lớp, sự hứng thú,
ham thích đến lớp của trẻ hàng ngày càng tiến bộ rõ rệt.
- Cơ tích cực làm đồ dùng đồ chơi tự tạo hấp dẫn thu hút sự chú ý, hứng thú của
trẻ đến lớp. Những đồ dùng, đồ chơi tự tạo ngộ nghĩnh, đáng yêu, màu sắc đẹp, gần
gũi đó đã làm cho trẻ thích thú muốn được chơi, hoạt động với chúng, kích thích
được tính tị mị, khám phá của trẻ, làm trẻ chú ý, tham gia tích cực các hoạt động và
ham thích đến lớp để chơi với những đồ chơi đó.

- Xây dựng mơi trường trong lớp, ngồi lớp học lấy trẻ làm trung tâm. Mơi
trường trong lớp, ngồi lớp sạch sẽ thống mát đáp ứng nhu cầu, hứng thú chơi của
trẻ, tạo điều kiện cho tất cả trẻ có thể chơi “mà học, học bằng chơi”. Đó là mơi trường
thống mát, đảm bảo an tồn cho trẻ khi tham gia các hoạt động. Các góc hoạt động
trong lớp, ngồi lớp mang tính mở cho trẻ dễ dàng chọn đồ dùng đồ chơi để trẻ được
trải nghiệm, cảm giác hứng thú, qua các trò chơi giúp trẻ tự tin hơn, thoải mái hơn để
trẻ tích cực tham gia vào các hoạt động cùng cô.
- Linh hoạt trong việc tập thói quen nề nếp cũ và mới cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi.
Điều đó đã mang lại hiệu quả nhất định trong nề nếp thói quen hoạt động hàng ngày,
làm trẻ vơ cùng thích thú vì dược thực hành, trải nghiệm như: Trẻ đã biết chào người
lớn khi gặp, biết cất đồ dùng, đồ chơi gọn gàng đúng nơi quy định, xếp hàng khi rửa
tay, rửa mặt, giờ ăn khơng nói chuyện, khơng đùa nghịch khi ngủ, nghe lời cô giáo,
bố mẹ.
13


- Tạo sự gần gũi với trẻ và đặt lòng yêu quý trẻ lên hàng đầu đã mang lại hiệu
quả thiết thực cho cô và trẻ. Cô thực sự là bạn của trẻ, trẻ đến lớp thấy thích thú, có
tình cảm với cô với các bạn, mạnh dạn, tự tin tham gia vào các hoạt động ở lớp.
- Làm tốt công tác tuyên truyền tới phụ huynh để phối hợp trong việc giúp trẻ
24-36 tháng tuổi ham thích đến lớp học. Điều đó đã mang lại hiệu quả nhất định, trẻ
ham thích đến lớp, tự giác đi học, đến lớp biết chào hỏi người lớn, biết lắng nghe và
tiếp thu góp ý của cơ giáo, của bố mẹ. Có những thói quen tốt trong các hoạt động
hàng ngày, phụ huynh tin tưởng giáo viên.
4.5. Khả năng ứng dụng của sáng kiến
Với những nội dung, phương pháp của sáng kiến“Một số biện pháp giúp trẻ 24
– 36 tháng tuổi ham thích đến lớp học”. Sau thời gian thực hiện sáng kiến trong năm
học 2018 - 2019, bước đầu tôi đã thu được những kết quả nhất định trên trẻ, trong
thời gian tới tôi sẽ tiếp tục áp dụng những biện pháp trên cho trẻ với những biện pháp
có kết quả khả quan trên, tơi có thể áp dụng đối với lớp Nhà trẻ B trường Mầm

non .............. và có thể áp dụng trong khối Nhà trẻ lứa tuổi 24 - 36 tháng tuổi tại
Trường mầm non ...............
5. Những thông tin cần bảo mật: Khơng có
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Giúp cô hiểu hơn về tâm sinh lý của trẻ. Giúp trẻ ngày càng ham thích đến lớp
học một cách tự nhiên, thoải mái, vui vẻ.
Giúp giáo viên trở thành người mẹ thứ 2, người bạn chia sẻ mọi cảm xúc của trẻ.
Tạo cơ hội cho trẻ hứng thú tham gia vào các hoạt động hàng ngày ở lớp, trẻ
ham thích đến lớp hàng ngày.
Nhằm giúp trẻ có nề nếp thói quen trong các hoạt động ở lớp một cách tự nhiên,
thoải mái, hứng thú, khơng gị bó.
Giúp giáo viên có được lịng tin của phụ huynh
Bản thân mỗi giáo viên không ngừng học tập, trau dồi kiến thức để nâng cao
chun mơn nghiệp vụ và trình độ nhận thức. Biết vận dụng biện pháp lồng ghép tích
cực các mơn học một cách linh hoạt, khoa học, nhẹ nhàng, thoải mái để khai thác tối
đa hoạt động nhận thức cho trẻ. Biết kết hợp hoạt động trong tiết học và ngoài tiết

14


học một cách phù hợp và khoa học, nhằm phát huy tối đa tính tích cực hoạt động của
trẻ, cung cấp kiến thức cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi.
Cha mẹ trẻ cần có nhận thức đứng đắn về việc chăm sóc giáo dục trẻ tránh gị
bó với trẻ, quan tâm đến tâm lí của trẻ, tận dụng mọi lúc mọi nơi trò chuyện với trẻ để
trẻ hứng thú đến trường, đến lớp tự nguyện, vui vẻ nhất.
7. Đánh giá lợi ích thu được của sáng kiến:
Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm“Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36
tháng tuổi ham thích đến lớp học”góp phần vào việc rèn cho trẻ thói quen ham thích
đếnlớp, với trẻ lớp tôi, tôi nhận thấy trẻ đã đạt những kết quả nhất định.
+ Về kiến thức: Trẻ biết và hiểu được những kiến thức trong các hoạt động theo

chủ đề mà cô cung cấp hàng ngày.
+ Về kỹ năng: Trẻ thực hiện được các kĩ năng của từng hoạt động ở lớp ngày
một tiến bộ.
+ Về thái độ: Trẻ hứng thú, thích đến lớp, hứng thú tham gia các hoạt động hàng
ngày cùng cô một cách mạnh dạn, tự tin.
Bảng so sánh kết quả của đầu năm và sau thời gian thực hiện sáng kiến trong
năm học 2018 – 2019. Tôi áp dụng giải pháp giúp trẻ 24–36 tháng tuổi ham thích
đến lớp học.
Trước khi áp dụng
ST
T

Nội dung khảo sát

Sau khi áp dụng

Tổng số
trẻ đánh
giá

Đạt

Tỷ lệ(%)

Đạt

Tỷ lệ(%)

1


Trẻ thích đến lớp

30

5

16,7

25

83,3

2

Trẻ chưa ham thích đến lớp

30

10

33,3

3

10

30

15


50

2

6,7

Trẻ
3 k Trẻ khơng muốn đến lớp

Sau một thời gian áp dụng sáng kiến từ đầu năm học đến nay, tôi thấy trẻ lớp
nhà trẻ B đã có tiến bộ rõ rệt, các cháu đã có hứng thú, thích đến lớp, tích cực tham
gia các hoạt động hàng ngày với cô một cách chủ động hơn, có ý thức hơn và đã đạt
được kết quả tỷ lệ chuyên cần là: 85,7%

15


Trên đây là “Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng tuổi ham thích đến lớp
học” tại lớp Nhà trẻ B, Trường mầm non .............. - .............. - ............... Tơi rất
mong được sự đóng góp ý kiến của Hội đồng chấm sáng kiến kinh nghiệm cấp học
mầm Non huyện .............. bổ sung cho tơi, để giúp tơi có những kinh nghiệm tốt hơn
trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ của lớp tôi đạt kết quả cao.
8. Người tham gia tổ chức và áp dụng sáng kiến: Khơng có
Tơi cam đoan những điều khai trong đơn là đúng sự thật.

.............., ngày 10 tháng 4 năm 2019
NGƯỜI NỘP ĐƠN

..............


16



×